Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 20 tháng 10, 2014

Vì một thế giới không người lái

Vào lúc sáng sớm tôi đã nghe thấy những tiếng hô hét của bọn họ.
Chúng ta hãy cùng tiến lên.
Bao giờ cũng là chúng ta, đấy là thứ lý luận nền tảng cho cuộc tiến công của bọn họ.
Những nhà nghiên cứu xã hội nói về cuộc tiến công của những người mù như thế.
Không còn kịp nữa rồi.
Tôi kêu lên với cha mẹ tôi khi nhìn thấy có rất nhiều người mù trên con đường làng.
Một buổi sáng tệ hại. Cha tôi thức dậy chưa kịp súc miệng đánh răng đã đi đan chiếc giỏ bịt mõm bò cho xong, nói chi tới chuyện ăn sáng. Còn mẹ tôi thì vẫn còn loay hoay với lũ heo con mới đẻ trong chuồng. Nghe tiếng kêu có vẻ bất thường của tôi, bà hoảng quá, ẵm cùng lúc ba con heo con chạy vào nhà.
Về chuyện những người mù đang tiến công khắp nơi trên thế giới thì cả nhà tôi rất nhiều lần đã nghe nói đến. Còn như việc họ tiến đến làng tôi thì thú thật là chúng tôi chưa bao giờ nghĩ tới.
Tiến công vào cái làng nghèo xơ xác lúc nào cũng thấy nỗi buồn lẩn quất trên những con đường làng để làm gì nhỉ? Cha tôi nói, thản nhiên, như thể chẳng có chuyện gì đang xảy ra.
Giờ thì làm sao hở ông? Mẹ tôi nói
Trước nay sao thì nay làm vậy. Cha tôi đáp.
Không có người mù nào vào nhà. Điều này cũng khiến cho không khí yên ổn trở lại với mọi người trong nhà tôi. Không thả bò ra đồng. Không ra chuồng heo với lũ heo con mới đẻ. Không nấu cơm để cho người ta khỏi trông thấy khói bốc lên nơi mái nhà. Nhưng tối đến thì không ai dám ở nhà.
Tất cả đều phải ra đình làng.
Đây là lệnh. Thứ lệnh chỉ được nói ra từ cửa miệng của một người. Nhưng tựa như sấm thần. Chỉ trong tức khắc lệnh đã lan đi khắp làng. Sự lan truyền nhanh chóng là do người ta đã nghe nói đến những cái chết lạnh lùng trong các cuộc tiến công của người mù.
Chúng ta chỉ có mỗi mục tiêu là tiến đến một thế giới không người lái. (Đơn giản, và cô đọng).
Người chỉ huy những người mù nói. Và toàn thể người làng lắng nghe.
Chúng ta hãy cùng tiến lên.
Người chỉ huy những người mù nói thêm.
Bao giờ cũng là chúng ta, đây là thứ lý luận nền tảng cho cuộc tiến công của bọn họ.
Những nhà nghiên cứu xã hội nói về cuộc tiến công của những người mù như thế.
Đêm.
Chúng tôi đóng kín cửa, nằm im trong nhà. Từ cuộc mít-ting trở về, trong mỗi chúng tôi có một hình ảnh khác nhau về những người mù. Cha mẹ tôi nghĩ về bọn họ thế nào tôi không biết. Nhưng tôi thì thấy bọn họ có vẻ giống với những kẻ giang hồ trong những câu chuyện mạo hiểm thời trung cổ. Mạo hiểm. Và lãng mạn.
Lại xảy chuyện nữa rồi.
Tôi lo lắng nói khi nghe có rất nhiều tiếng chân chạy ở ngoài đường làng.
Chỉ là chuyện con mèo rừng đuổi bắt con mèo nhà, không sao đâu.
Cha tôi nói.
Chính là tính hiếu kỳ trước những lời khó hiểu trong đêm của cha tôi đã giúp tôi có đủ can đảm ra đường vào lúc sáng sớm. Tôi ra đường, và thấy chỗ này là xác ông trưởng làng, chỗ kia là xác những tuỳ tùng của ông trưởng làng.
Tất cả bọn họ như đã bị ai đó bóp cổ chết.
Tôi nói với cha tôi.
Không sao đâu, trong cuộc đời của cha, cũng thường thấy những chuyện như thế.
Cha tôi nói.
Không thấy có tiếng súng nào. Nhưng có vẻ những người mù đã chinh phục toàn thể dân làng tôi. Này, hãy hô to lên, hoan hô thế giới không người lái. Này, hãy cầm súng cùng chúng tôi tiến lên.
Có vẻ như mọi người trong làng đều đang chờ đợi những mệnh lệnh như thế.
Chúng ta hãy tiến lên, bao giờ cũng là chúng ta, bọn họ chẳng nhìn thấy, hay chẳng cần nhìn thấy, hay chẳng thể nhìn thấy, thế giới đang tiến lên thế nào, giống như những người mù, hay cũng có thể nói bọn họ là một thể loại của những người mù.
Những nhà nghiên cứu xã hội nói về những người mù với những lời thận trọng như thế.
Và sáng hôm ấy bọn họ tiến về khu rừng phía tây làng tôi.
Cả làng kéo nhau đi xem. Mẹ tôi sợ, nằm nhà. Chỉ mỗi cha con tôi đi.
Có sự cản trở.
Người chỉ huy những người mù được cấp báo.
Hãy lập tức tiêu huỷ nó.
Lập tức những người mù xông vào đập phá bảng cáo thị về những điều nên biết trước khi vào rừng. Bằng đầu súng. Bằng búa. Và cả bằng tay. Cái bảng cáo thị bằng xi-măng cốt thép vẫn sừng sững đứng bên con đường vào rừng.
Tôi có ý kiến.
Tôi thấy cha tôi bước lên phía trước những người làng.
Mục tiêu tiến công của các ngài thì đã cũ như những chiếc áo cũ, nhưng những lời ghi trên bảng cáo thị là những nghĩ ngợi của những con người đang sống trong một thế giới mới mẻ.
Cha tôi nói. Điềm tĩnh. Và lắng đọng như hòn sỏi dưới đáy một con suối rừng.
Những người mù đã dẫn cha tôi đi. Hình như đó là mật lệnh.
Tôi khóc.
Không sao đâu, trong cuộc đời của cha, cha vẫn thường thấy những chuyện như thế.
Cha tôi nói.
Tôi cũng không biết những người mù dẫn cha tôi đi đâu. Và bọn họ sẽ tiến công tới đâu.

Nguyễn. Thanh. Hiện  giã, 25/9/2014


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hơi thở vũ trụ của rồng

 Hơi thở vũ trụ của rồng
Khí là năng lượng và là sinh lực luôn hiện hữu cùng với sự tồn tại của con người.
Khí được tạo ra khi một nhà sư thiền định và điều hòa hơi thở đúng cách, khi một bậc thầy về võ thuật tung một cú đấm chuẩn xác và khi một họa sĩ bậc thầy hoặc một nhà thư pháp phóng bút.
Trong thiên nhiên khí được tạo ra do sự chuyển động nhẹ nhàng của một dòng nước chảy, uốn khúc, bởi một hình dạng của một ngọn núi, hoặc bởi sự đối xứng và cân bằng của Ngũ Hành trong môi trường.
Trong thuật ngữ biểu tượng, khí đươc mô tả là hơi thở vũ trụ của rồng. Đây đơn giản chỉ là một cách nói rằng một số thế đất trông giống hình ảnh của rồng chính là nơi loại khí quý báo này được tạo ra và tích lũy và là nơi có thể thu hút vận may.
Khí vũ trụ là khởi nguồn của sự thịnh vượng, bình an và giàu có, danh tiếng và sức khỏe tốt. Nhà cửa xây dựng ở nơi có sinh khí dồi dào sẽ mang lại lợi ích cho những người sống trong nhà suốt nhiều thế hệ. Việc kinh doanh sẽ thêm mở rộng và phát đạt.
Khí không được phân tán và tan biến. Nếu điều này xảy ra, vận may có thể sẽ mất theo. Những nơi gió lộng và không được che chắn bảo vệ thường bị xem là không tốt vì khí ở đó sẽ bị phân tán.
Khi bị nước vây quanh, khí thường dừng lại hoặc tích tụ. Vì vậy, những nơi có nước thường được xem là nơi vượng khí, nhiều may mắn.
Tuy nhiên, nước phải dẫn khí và làm cho khí tích lũy. Những dòng sông thẳng, chảy xiết thường mang khí đi mất ngay khi nó vừa được tạo ra. Vân may do đó sẽ tan biến.
Nhưng cũng không được để khí bị ứ đọng. Nếu khí không còn tinh khiết, tất của vận may sẽ bị tiêu tan.
Phân tích ảnh hưởng của cảnh quan trên mức độ và hướng của dòng khí, đồng thời khảo sát xem khí có tích lũy, tù hãm, hoặc tiêu tán tại bất cứ địa điểm nào hay không là một thách thức của phong thủy cảnh quan.
ĐỊA ĐIỂM MAY MẮN
Một địa điểm được xem là may mắn khi nó gần một dòng khí hoặc một nguồn khí mạnh và tươi tốt. Nơi này không nhất thiết phải nằm trên long mạch.
Điều cốt yếu của phong thủy là tìm một nơi có thể thu hút năng lượng khí, tích lũy khí và không cho khí bị ứ đọng. Những nơi có hơi thở của rồng hoặc có nguồn khí dồi dào sẽ mang lại thịnh vượng và hành phúc.
 tập trung vào những phương pháp có thể khai thác hơi thở của rồng. Khí không thể phát sinh ở những đồi dốc thẳng đứng.
Sông suối phải chảy chậm, uốn khúc và vị trí được chọn phải được bảo vệ khỏi những cơn gió mạnh mới có thể mang lại vượng khí.
TẠO DỰNG VÀ HỦY DIỆT KHÍ
Đối với nơi không có sinh khí, bạn có thể tạo ra những gò đất cao hoặc những cấu trúc mô phỏng rồng, hổ, rùa để thu hút khí đến đó. Điều này là vì khí được xem như năng lượng vô hình và con người có thể tạo ra khí.
Tương tự như thế, thế đất xấu có thể tàn phá cảnh quan và khí cũng có thể bị hủy diệt. Một con đường thẳng tấp sẽ mang sát khí đến khu đất, trong khi một con đường uốn khúc sẽ mang đến sinh khí.
Vì thế, cần coi trọng thế đất và cảnh quan, tránh “làm rồng bị thương” do hoạt động khai hoang, cải tạo đất.
BlogPhongThuy.com

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Có nên biết không, hay chỉ là chuyện nhỏ?

Một thoáng Phương Đông
Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thế nên tôi chẳng có lý do gì đòi hỏi nhân quyền hay dân chủ theo kiểu áp đặt, chèn ép như cách mà nước Mỹ trói buộc các nước xã hội chủ nghĩa, các nước khác thực thi theo. Việc làm đó có nhân quyền, có dân chủ đi chăng nữa thì cũng là nhân quyền, dân chủ kiểu Mỹ. Kết quả của hình thức nhân quyền, dân chủ đó là việc đưa đến tình trạng khủng hoảng nợ công trầm trọng, việc sụp đổ có hệ thống chuỗi ngân hàng, các tập đoàn tài chính khổng lồ, bất động sản đóng băng, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng,…
Thế nên, tôi sẽ không đòi hỏi nhân quyền hay dân chủ. Nhân quyền hay dân chủ vốn dĩ nằm trong lòng của mỗi người. Với anh khác, với tôi khác, có lẽ sẽ không ai giống ai. Định mức của nhân quyền, dân chủ được đánh giá trong lòng người dân ở mỗi nước. Khi người dân chưa lên tiếng thì điều đó đồng nghĩa với việc nhân quyền, dân chủ ở quốc gia đó còn đảm bảo cho đời sống người dân tồn tại và phát triển.
Hôm nay, tôi sẽ đề cập về những vấn đề có lẽ người dân cần biết, có thể là họ cần biết ngay hiện tại hoặc có thể là ở một tương lai gần nào đó.
Trên thực tế là bộ máy nhà nước muốn hoạt động thì cần phải có giá trị thặng dư hay nói đúng hơn là tiền làm vật bôi trơn. Nguồn tiền này có từ đâu? Đó có phải là các khoản thuế, lệ phí và cả tiền nộp phạt của người dân khi người dân vi phạm những quy định, những chế tài pháp lý của nhà nước và cả các nguồn vốn vay nước ngoài. Cho dù nguồn gốc các khoản tiền đó xuất phát từ đâu thì chính người dân phải trực tiếp tạo ra chúng hoặc gián tiếp đóng góp trả các khoản nợ đã vay. Vì lẽ đó người dân dường như cần phải biết tổng số tiền, cách thức mà nhà nước có được các khoản tiền và việc vận hành sử dụng các khoản tiền của đảng và nhà nước.
Hôm nay, tôi sẽ đặt vấn đề về các khoản nộp phạt khi người tham gia giao thông vi phạm giao thông. Những câu hỏi đúng sai sẽ được đặt ra nhưng tôi không cần đến câu trả lời. Nếu có dịp thì bạn hãy xét lại và làm sao cho hợp với lòng mình là được.

- Toét.
Một hồi còi quyết đoán cất lên, một chiếc xe máy hiệu Wave RS bị cảnh sát giao thông (CSGT) chặn lại. Chú CSGT giơ tay ngang đỉnh đầu đỉnh đạt chào người tham gia giao thông và yêu cầu người đó xuất trình giấy tờ và biên bản vi phạm giao thông lỗi chạy quá tốc độ. Người tham gia giao thông buộc phải ký vào biên bản với lỗi chạy xe 52 km/h. Người đó khẩn khoản xin đóng phạt để không phải bị giữ giấy tờ và số tiền đóng phạt là 750.000 đ (Bảy trăm năm chục ngàn đồng). Người tham gia giao thông nhanh chóng đi nộp phạt mà trong lòng không khỏi hậm hực. Nguyên do là quả thật anh ta có chạy quá tốc độ quy định nhưng việc bị bắn tốc độ mới làm anh ta uất ức. Anh ta bị bắn tỉa, bị bắn lén mới đau chứ. Sở dĩ anh cho rằng anh bị bắn tỉa là vì người bắn anh “ngã ngựa” anh nào đâu có biết mặt và anh chẳng biết bị bắn hạ khi nào nữa. 750.000 đồng rời túi anh đi trong khi anh lại vừa đưa bà mẹ nhập viện và bây giờ trên đường về nhà lấy quần áo và gom thêm tiền lo viện phí cho mẹ. Lòng anh ta buồn lắm nhưng anh biết rằng “Anh không thể đôi co được với những cái đầu lạnh”. Anh ta tự hỏi “Tại sao những người quản lý lại có cách hành xử ám muội như thế, cứ như là gài bẫy nhau ấy?”. Tháng 4/2012 anh có người em đi lên Đà Lạt cũng bị bắn tốc độ nhưng bị bắn trực diện, cũng 52 km/h và bị phạt 300.000 đ(ba trăm ngàn đồng). Đúng là vật đổi sao dời, tình hình lạm phát, trượt giá quá nhanh chỉ vừa mới 5, 6 tháng mà mức phạt đã lũy tiến hơn gấp đôi.
Lấy được xe về lo tiền viện phí cho bà mẹ. Anh thanh niên cũng không quên kể chuyện “hữu sự” trên đường về nhà cho mọi người cảm thông. Quả thật có không ít người có sự đồng cảm sâu sắc. Thậm chí có người còn mạnh miệng nói “Bây giờ đi đường sợ CSGT hơn sợ cướp”, hở một tí là phải nộp phạt mà chẳng biết số tiền nộp phạt đi về đâu mà đường xá cứ đầy bụi vào mùa nắng, đầy nước vào mùa mưa và triều cường, ổ voi, ổ gà thì nhiều không kể siết,…
Bẵng đi một thời gian, chàng thanh niên đó lại thấy một tốp CSGT gồm 4 người làm nhiệm vụ. Rãnh rỗi, anh ta nán lại xem. Chỉ vài chục phút thôi mà số người bị bắn tốc độ có lên đến 20, 30 người. Anh ta tìm hiểu thêm thì được biết phần lớn số người bị thổi phạt phải đóng phạt từ 500.000 - 2.500.000 đồng. Vậy ra chỉ cần 1 giờ thì các chú CSGT đã thu về cho ngân sách khoảng 30.000.000 đ(Ba chục triệu đồng)(Đặt giả dụ là trung bình một người buộc phải nộp phạt 1.000.000 đồng). Anh ta lại tính tiếp cứ xem như người CSGT làm việc hành chính, trừ các khoảng thời gian sắp xếp công việc thì thời gian đứng chốt là 6 giờ. Tính ra số tiền thu vào của mỗi chốt bắn tốc độ giao thông/ ngày là 180.000.000 đồng (Một trăm tám chục triệu đồng). Anh ta lại tiếp tục làm toán. Ở Việt Nam có đến 700 đơn vị hành chính cấp huyện, nếu mỗi huyện chỉ đặt một chốt chặn bắn tốc độ thì số tiền thu được từ những người tham gia giao thông là 180.000.000*700 = 126.000.000.000 đ(Một trăm hai mươi sáu tỷ đồng). Con số này không phải là con số thực thu vì ngoài việc CSGT huyện lập chốt bắn tốc độ thì CSGT đơn vị tỉnh cũng có tổ chức đặt chốt riêng. Thêm nữa, không hẳn là mỗi huyện chỉ lập 1 chốt chặn. Vậy thì số tiền thực thu của những người vi phạm giao thông là bao nhiêu tiền/ngày. Đây chỉ là con số thống kê ảo dành cho người tham gia giao thông đi mô tô, xe máy. Vậy còn số tiền thu được từ các phương tiện xe ô tô là bao nhiêu? Số tiền ăn chặn, lót tay của các bác tài cho CSGT là bao nhiêu nữa? Có lẽ sẽ không có bất kỳ ai biết được số tiền mà CSGT thu vào trong ngày. Cho dù người đó là người quản lý tối cao của lực lượng CSGT.
Nếu theo cách tính ước lượng như thế thì mỗi ngày nhà nước thu vào từ khoản thu tiền phạt vi phạm giao thông là trên dưới 500 tỷ đồng. Số tiền đó đã đi về đâu có ai là người rõ biết? Một ngày đã là 500 tỷ đồng vậy phải chăng 1 tháng 30 ngày là 15.000 tỷ đồng. Thêm nữa, tỷ lệ chia phần giữa nhà nước và CSGT đứng chốt theo tỷ lệ là bao nhiêu? 7/3, 8/2 hay 6/4? Có lẽ vì mối lợi từ nguồn thu tiền nộp phạt vi phạm giao thông mà hiện tại người Việt Nam đang có xu hướng cho các con cháu gia nhập vào lực lượng CSGT ngày càng nhiều để có cơ hội ra “đứng đường”(Theo ý của một đại biểu quốc hội). Từ đó, đã tạo ra việc “chạy chọt” để được vào ngành và số người tham gia trong lực lượng CSGT tăng nhanh vượt mức, khoản lương dành cho lực lượng CSGT cũng theo số lượng tăng lên. Việc này tạo ra sức ép về thuế lên người dân. Người dân đóng thuế nuôi hệ thống quản lý hành chính, để rồi hệ thống hành chính tạo ra một lượng CSGT chuyên trực bắt, rình bắt người dân vi phạm để thu thêm tiền phạt.
Theo thống kê thì ngành giao thông là ngành tham nhũng nhất hiện nay. Khoản tiền tham nhũng là bao nhiêu và cùng với khoản tiền thu từ người vi phạm giao thông, những khoản tiền có giá trị khổng lồ đó người dân cần phải biết. Vì họ cần phải biết số tiền họ đã đóng góp tích cực lẫn tiêu cực đã đi về đâu? Tại sao lượng tiền của người dân nộp cho ngân sách nhà nước cứ như thể đi vào vực sâu không đáy. Trên thực tế là chúng ta không ai nợ ai nếu như các khoản chi tiêu sử dụng tiền của, giá trị thặng dư của người dân đúng mục đích và hiệu quả. Nhưng nếu nhà quản lý, nhà lãnh đạo sử dụng nguồn tiền của người dân sai mục đích, không hiệu quả thì chính thật là nhà nước đã nợ người dân nhiều nhiều lắm.
(Bạn có thể xem thêm bài viết Tôi và Chúng Ta, Ai Nợ Ai? 21/12/2012 Ngày Tận Thế Cuối Cùng Của Nhân Loại về vấn đề “Ai Nợ Ai?”)
Số tiền của người dân lao động cần mẫn tạo ra, đóng góp cho nhà nước cần phải sử dụng đúng mực.
Có thể không? Một ngày nào đó nhóm CSGT đứng chốt than phiền cùng nhau là hôm nay nhóm mình làm việc kém hiệu quả. Tổng kết số tiền thu được ở những người vi phạm giao thông kém hơn nhóm CSGT làm nhiệm vụ ngày hôm qua với số tiền 20 triệu đồng.
Có lẽ sẽ có điều đó xảy ra vì nguồn thu từ tiền nộp phạt của người tham gia giao thông cũng là một phần tiền không nhỏ được lãnh của các chú CSGT. Thế nên, việc thất thu và việc than vãn sẽ có sự gắn kết với nhau.
Định hướng của các nhà quản lý xã hội hiện nay là tăng cường số lượng CSGT, tăng cường các tuyến tuần tra,… nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông hay vì việc tăng khoản tiền nộp phạt ở người dân. Thật không hợp lý khi lực lượng CSGT dùng hành vi ám muội, núp lùm, bắn tỉa người tham gia giao thông. Việc làm đó khiến người dân có hiểu biết khó lòng suy xét “Đó là việc làm tà hay chính?” Không có lý nào người làm công tác công quyền lại tà chính bất phân như vậy?
Có lẽ từ ngày khoa học phát triển ra máy bắn tốc độ thì số lượng người tham gia trong lực lượng CSGT tăng lên rõ rệt. Nếu nói là “đục nước béo cò” thì là câu nói không ổn, rồi thì sẽ có lúc người dân sẽ tìm câu nói thích hợp hơn để lý giải hiện tượng trên.
Lẽ ra, các nhà quản lý phải gia tăng việc giáo dục ý thức người dân. Trong trường hợp này là ý thức tự giác an toàn khi tham gia giao thông chứ không phải trói con người vào vô số chế tài, án phạt, số tiền phạt,… Đây là giới hạn tầm nhìn của nhà quản lý xã hội hay là việc “Thấy lợi quên nghĩa”? Việc giáo dục ý thức con người khi tham gia ở nhà trường thì quên bỏ. Nếu có cũng chỉ là hình thức qua loa, tượng trưng. Còn ở gia đình thì có lẽ không bao giờ ai chỉ dẫn ai tham gia giao thông như thế nào là đúng. Vậy nên ý thức tham gia giao thông nói riêng hay ý thức con người đã bị “quên bỏ” từ lâu và chưa từng có dấu hiệu sửa sai ở các nhà quản lý. Vậy định hướng xây dựng và phát triển xã hội con người thực sự là gì? Chắc rằng sẽ không có một câu trả lời đúng mực từ các nhà quản lý, các nhà lãnh đạo đất nước. Có lẽ cũng không có một nhà quản lý, nhà lãnh đạo nào dám đứng ra nhận trả lời câu hỏi dường như rất cần thiết đó? Nếu có chăng cũng chỉ là những câu nói chung chung, vô thưởng vô phạt, không dựa trên thực tế, không đứng ở góc nhìn tổng thể, khách quan. Đại loại là “Phát triển, phát triển, phát triển” mà chẳng biết sự phát triển đó đi về đâu. Việc làm này có khác gì câu “Đưa mối quan hệ phát triển của hai nước lên tầm cao mới” nhưng tầm cao mới đó là gì? Không một ai biết, không một ai có thể trả lời.
Có ai muốn chết không? Câu trả lời cho số đông là không. Vì thế khi tham gia giao thông ít nhiều gì mỗi người cũng tự ý thức hành vi của tự thân. Chỉ có những người uống rượu bia, hoặc dùng chất kích thích, kẻ cướp,… mới có việc phóng nhanh vượt ẩu, chạy liều mạng. Việc định mức tốc độ cho các phương tiện xe có thực sự chuẩn mực. Đối với xe máy 50 km/h cho phép chạy trên đường ngoại thành và 40 km/h trên đường nội thành. Đối với ô tô thì ngoại thành 70, 80 km/h, nội thành 40, 50 km/h có phải là những thông số hợp lý. Việc chạy trên đường cao tốc thì được áp định mức có khi 80 km/h có lúc 100 km/h. Vậy tốc độ như thế nào là chuẩn mực. Có vẻ như các nhà quản lý muốn cho bao nhiêu thì cho bấy nhiêu tùy thích. Có lẽ các nhà quản lý không lạ gì tình trạng từng đoàn xe ì ạch nối đuôi nhau bò qua khu vực có chốt chặn bắn tốc độ, để rồi khi ra vùng ngoài kiểm soát thì thi nhau đua tốc độ. Họ phải đua tốc độ mới có thể đảm bảo lịch trình công việc và lộ trình mà các công ty giao thông vận tải buộc họ phải đảm bảo thời gian. Có lẽ đây mới là nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông nhiều nhất. Mà nguyên nhân gây ra hiện tượng này lại có nguồn gốc gián tiếp từ các chốt chặn bắn tốc độ. Xem chừng việc tổ chức bắn tốc độ để hạn chế tai nạn giao thông là việc làm lợi bất cập hại. Nếu có lợi thì là từ nguồn lợi thu từ tiền nộp phạt và thêm một cái hại khác là người dân ngày càng thêm mất lòng tin về khả năng quản lý, lãnh đạo đất nước ở giới lãnh đạo. Quả thật, câu nói “Đi đường sợ CSGT hơn sợ cướp” là câu nói cần đến tai các nhà lãnh đạo để họ có dịp suy nghĩ, tự vấn lại việc làm của chính mình.
Sau cùng, tôi sẽ đặt lại vấn đề “Những việc liên quan đến số tiền nộp phạt, cách sử dụng, tỷ lệ chia số tiền thu được từ việc nộp phạt, số lượng người trong lực lượng CSGT là bao nhiêu? Tiền lương thưởng hàng năm của họ là con số nào? Số tiền tham nhũng của ngành giao thông là bao nhiêu, thâm hụt ngân sách hàng năm đã đi về đâu? Cách thức khắc phục, cách thu hồi các khoản tiền thất thoát là như thế nào? Định mức cho số người trong lực lượng CSGT sẽ là bao nhiêu? Khi nào các nhà quản lý xã hội mà trong trường hợp này là các nhà quản lý giao thông mới dựa vào ý thức người tham gia giao thông mà không dựa vào các chế tài án phạt.
Thêm nữa, những bài viết sau tôi sẽ đề cập về số lượng người trong lực lượng an ninh của đất nước, số người trong hệ thống công quyền là bao nhiêu và hàng năm ngân sách nhà nước phải chi ra bao nhiêu tiền thuế của người dân nhằm đảm bảo cho bộ máy đó vận hành, tính hiệu quả hay không hiệu quả của hệ thống hành chính, việc sử dụng các nguồn vốn vay, nguồn thuế,…
Được biết lực lượng an ninh hiện nay đang được tăng nhanh về số lượng. Có phải đây là định hướng phát triển của các nhà quản lý? Một câu hỏi tại sao sẽ được đặt ra. Hơn nữa, vai trò của lực lượng an ninh tăng cường là gì? Đây là thời bình, tại sao phải xây dựng lực lượng an ninh đông đúc như vậy? Số tiền đảm bảo cho lực lượng an ninh trên tồn tại là bao nhiêu? Tại sao người dân cứ phải gia tăng đóng các khoản thuế để nuôi quá nhiều tổ chức, lực lượng trực thuộc nhà nước mà không được biết rõ về những thông tin, tính cần thiết, tính khả thi của các tổ chức đó. Nếu bảo rằng lực lượng an ninh đó ra đời nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, chống lại các thế lực thù địch thì tại sao ngày trước các thế lực thù địch, chia rẽ ít bây giờ lại nhiều đến vậy? Nên chăng xem lại cách thức quản lý, lãnh đạo của những nhà cầm quyền đương thời? Bởi lẽ nếu những lực lượng đối lập, gây chia rẽ đó làm việc dựa trên tiêu chí “do dân và vì dân” thì các khoản thu mà nhất là thuế sẽ được người dân có hiểu biết “neo lại” vì họ không thể ủng hộ lực lượng dùng tiền của họ chống lại cuộc sống của chính họ. Tôi vì sự khó khăn, gian khổ của Bác Hồ, của Đảng Cộng Sản và người dân Việt Nam qua hai cuộc trường kỳ kháng chiến mà nói lời thật. Việc xây dựng đất nước Việt Nam đã mất rất nhiều máu xương, mồ hôi, nước mắt và tâm huyết của những người đi trước. Thế hệ hiện tại hãy nên trân trọng, gìn giữ đừng vì sự kém hiểu biết, tính độc tài,… mà con người lại thêm một lần “đạp đổ”, phá tan những công trình đã nhọc nhằn tạo dựng nên.
Có lẽ người dân, những người có hiểu biết cần lên tiếng đúng lúc, cùng chung tay với các nhà quản lý, các nhà lãnh đạo định hướng xây dựng, phát triển xã hội, đất nước đúng mực, hợp lý, hợp với lòng người.
Có thể những điều này người dân chưa cần biết ngay nhưng các nhà quản lý xã hội nên biết rằng “Sẽ có lúc người dân sẽ cần biết những điều đó, chỉ số niềm tin của người dân đang tụt giảm nghiêm trọng và họ cần biết nhiều hơn về những vấn đề liên quan mật thiết đến đời sống của họ”,…
Mấy hôm nay, tôi bận ít việc nên không tập trung tốt cho việc viết bài nên đành lỗi hẹn với mọi người. Bài viết này xem như là lời chuộc lỗi gửi đến mọi người.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn

Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn

Nguyễn Huy Thiệp
Giăng lưới bắt chim, NXB Hội nhà văn
05:06' PM - Thứ sáu, 18/04/2014
Khi gặp nhiều nhà văn ở ta, tôi thường ngạc nhiên trước thái độ khinh bạc của họ với lý luận phê bình văn học. Tôi không thích thái độ khinh bạc ấy, mặc dầu thái độ ấy của họ có thể giải thích được.
Đã có nhiều người hỏi tôi: "Có đúng anh sáng tác từ trực giác phải không?". Thường khi ấy tôi chỉ ầm ừ cho qua chuyện. Người đối thoại với tôi không hiểu rằng chỉ có chó, mèo, chuột cống, chuột chù, chuột bạch, bọ chó, gà, chó sói... tóm lại là các con vật, súc vật, thú vật... họa chăng mới được quyền tự do tuyệt vời là muốn làm gì thì làm, chứ đã là con người xã hội, sống trong một đơn vị thể chế nào đó thì chớ có hòng! Chúng ta đang sống trong một môi trường cay đắng đầy những thành kiến ràng buộc. Mọi hành động của chúng ta đều bị trực tiếp kiểm soát, gián tiếp kiểm soát và tự kiểm soát. Không nên ảo tưởng và tôi thành thực khuyên những ai cả gan cầm bút phải luôn giữ được sự tỉnh trí lạnh lẽo trong óc, còn trái tim nóng bỏng, đấy lại là chuyện khác.
Một nhà văn, một người sáng tác phải coi lý luận phê bình như sự tự ý thức của anh ta. Tính chất khoa học trong công việc của nhà văn là ở chỗ này. Chỉ có những "nhà văn - nhà khoa học - nhà bác học" mới hòng xây dựng được những tác phẩm thiên tài. A.Puskin đã từng như thế một cách xuất sắc H.Banzắc đã từng như thế một cách khổ sở. L.Tônxtôi đã từng như thế một cách trắng trợn và có phương pháp. Ở phương Đông: Vương Nguyên Mỹ, Thi Nại Am, La Quán Trung, Ngô Thừa Ân... đã từng như thế một cách có phần thản nhiên.
Tôi nhớ có một đệ tử hỏi Khổng Tử rằng, ông sẽ làm gì trước hết, nếu ông được dự vào việc chính trị. Khổng Tử nhăn trán lại càu nhàu: "ắt phải chính danh trước". Tôi cho rằng đó là một tư tưởng đích đáng.
Ở đây hình như ý nghĩa "chính danh" của một nhà văn là toàn bộ thần thái tạo nên hình ảnh tác phẩm của anh ta. Thực ra, tôi cũng bị rối trí khi diễn dạt ý này. Tôi muốn nói là nhà văn cũng cần khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn phải viết trên cơ sở một lý luận, một quan niệm nhất định, Lê nin từng nói: "Không có lý luận cách mạng thì không có hành động cách mạng". Tư tưởng đó đúng với cả nhà văn.
Về khía cạnh nào đó, cũng có thể coi nhà văn như một nhà cách mạng. A.Puskin đã từng như thế, N.G.Tsécnưsépxki đã từng như thế, Lỗ Tấn đã từng như thế, V.Huygô đã từng như thế...
Xây dựng hệ thống lý luận cho công việc sáng tạo ở nhà văn có ba, bảy đường: Lý luận gì? Lý luận thế nào? Tất cả những điều này là thước đo giá trị thực sự của nhà văn.
Đối tượng của văn học là con người. Văn học là khoa học về con người. Tôi không tin những nhà văn không có những lý lẽ xác đáng về con người có thể viết hay được. Song "những lý lẽ xác đáng" ấy ở ngay những nhà văn vĩ đại nhất cũng vụn vặt, đầy thành kiến và bị giới hạn.
Các nhà tư tưởng phương Đông coi tính bản thiện là hạt nhân cơ bản tạo nên con người. Điều ấy sâu sắc không chỉ bởi tính chất nhân văn đơn thuần. Khi con người sinh ra, họ tự yên tâm về mình. Điều ấy có sức nâng đỡ cho cả cuộc đời. Có lẽ, điều kiện giúp cho mọi người đạt tới chính danh chỉ đơn giản có vậy thôi, chẳng thừa mà cũng không thiếu. Tất cả truyền thống phong nhã trong giáo dục phương Đông đều cùng lưu tâm đến việc dạy cho trẻ nhỏ ý thức thương người và biết cách phân biệt giữa nghĩa và lợi. Làm việc nghĩa, đấy là vô thượng mệnh lệnh, làm mà không vì gì cả, biết chẳng được mà cứ làm, biết thất bại mà cứ làm, kết quả ở mệnh chứ không phải ở tiền bạc hoặc sự lừng danh. Thực ra, sự lừng danh nào cũng tê buốt. Trí tuệ dân gian - vẫn thực tế - đã đo danh bằng đơn vị vật chất: "Mua danh ba vạn". Lão Tử nói về điều này uyên bác và hiểm hóc hơn: "Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả đanh phi thường danh".
Tìm hiểu về các nhà văn và giới trí thức ở ta, tôi hết sức khâm phục trí thông minh, sự hiểu biết, vẻ duyên dáng cũng như óc hài' hước ở một số người. Nhưng khi xem xét tiểu sử cuộc đời và trước tác của họ, tôi ngờ ngợ nhận ra đa số đều không vượt qua được tình trạng người xưa đặt tên cho họ là "kẻ sĩ giỏi văn". Khổng Tử nghiêm khắc hơn gọi họ là "cuồng giản" (có chí lớn nhưng sơ sài với công việc). Sự giới hạn của các cá nhân siêu việt đọng trong bốn chữ "bác văn ước lễ” tức là "học rộng nhưng tóm tắt lại bằng lễ". "Lễ" ở đây nên hiểu là toàn bộ chuẩn mực trong nhân cách ứng xử giữa phạm vi nhân quyền, cách thức tất nhất phải được cụ thể hóa dưới dạng vật chất. Đối với nhà văn, đấy là tác phẩm xuất chúng, còn hơn cả hình thức sách gối đầu, nhân dân gọi nó là kinh.
Ngay từ cổ đại, Arixtốt ở Hy Lạp đến Mạnh Tử ở Trung Hoa đều có chung quan niệm: "Người - đấy là con vật chính trị". Mà nói đến chính trị, làm sao không nói đến "lễ" được? Trong khái niệm "con vật chính trị" bao hàm cả ý nghĩa con người tự nhiên lẫn con người xã hội. Tìm hiểu hai con người đó, lý giải quan hệ giữa chúng là nhiệm vụ hàng đầu của văn học.
Khi chúng ta đồng ý với Arixtốt và Mạnh Tử rằng chúng ta chỉ là một con vật chính trị thì thực chất lý luận sống, lý luận về lẽ tồn tại ở con người nghĩa là lý luận chính trị. Việc chẻ sợi tóc ra làm tư, làm tám, việc phân chia lý luận thơ, lý luận văn, lý luận hợp tác xã mua bán, lý luận kịch, lý luận gì đó... tất cả chỉ là hình bóng và các dạng biến hóa khôn lường của lý luận chính trị mà thôi. Ở đây, chúng ta cần xem xét hết sức tế nhị về một quan niệm chính trị không có trong thành kiến. Cách thức tốt nhất là tìm hiểu tư tưởng người xưa, như thế hợp "lễ" hơn, mặc dầu không nên coi những tư tưởng chính trị đĩ vãng là chuẩn mực.
Phần lớn các nhà tư tưởng phương Đông đều coi trọng sự phân biệt vương, bá trong các thể chế chính trị. Họ quan niệm vương đạo lấy đạo lý, giáo dục làm nền tảng, bá đạo xây dựng trên sức mạnh và áp lực Mạnh Tử đã từng nói: "Kẻ lấy sức mạnh để giả nhân đấy là Bá, kẻ lấy đức thi hành nhân đấy là Vương". Ở thời đại chúng ta, dân chủ tức là vương chính, khủng bố tức là bá chính. Vương đạo là văn minh, bá đạo là phản động. Tiêu chuẩn đầu tiên của văn minh là tính khoan dung và sự phi bạo lực.
Để thi hành vương chính thì cơ sở một nền kinh tế lành mạnh phải là yếu tố hàng đầu. Về việc này, cách đây hơn trăm năm Nguyễn Trường Tộ đã nói: "Tôi nghĩ rằng trong ngũ phúc, phú đứng đầu... Cách làm cho nước mạnh là ở chỗ tạo được nhiều của...". Dân gian diễn đạt điều này thực tế và duyên dáng hơn: "Có tiền mua tiên cũng được, không tiền mua lược cũng không".
Như thế, không khí dân chủ cộng với chỗ dựa kinh tế lành mạnh là những cơ sở để tiến tới một thể chế chính trị vương đạo. Chỉ có một thể chế chính trị vương đạo mới làm cho bản tính con người phát triển hết. Mà khi bản tính con người phát triển hết tức là phát triển hết lòng chẳng nỡ và tính vị tha chứ không phải phát triển hết tính cuồng dâm hoặc vô chính phủ. Cũng không nên lo ngại rằng bản tính con người phát triển hết xã hội sẽ dẫn đến đâu. Nó chỉ dẫn đến những kết quả tốt đẹp mà thôi.
Khi bản tính con người phát triển hết, lòng tất thậm chí còn có khả năng khiến con người hòa hợp được với vũ trụ. Nhân dân khẳng định: "Tâm động đến thần linh". A.Anhstanh cũng đã phát biểu điều này dưới một dạng khác khi trình bày về thuyết tương đối. Thế giới bên ngoài thực ra là một vũ trụ tâm linh và khái niệm "con người là vũ trụ nhỏ" trong triết học phương Tây hay tư tưởng "muôn vật đều có đủ ở ta" trong triết học phương Đông đều bao hàm ý nghĩa này. Tất cả các cá nhân siêu việt đều có một quan niệm vững chắc về vũ trụ, xã hội và con người. Từ những suy luận về chính trị họ tự xây lấy cho mình lý luận về lối sống và công việc phù hợp với tạng của họ. Khi các nhà văn coi sáng tác văn học nằm trong mệnh của họ thì dù tự giác hay không tự giác, sâu trong lòng họ phải tự hình thành một quan niệm văn học nào đấy cho phù hợp. Dĩ nhiên đấy là tôi nói đến những nhà văn chính danh, chứ với người "cuồng giản" không nói làm gì.
Tôi nghĩ rằng có thứ lý luận văn học vương đạo và thứ lý luận văn học bá đạo. Thứ lý luận văn học của các thiên tài, của các nhà văn chính danh là vương đạo. Tôi có thể kể tên đôi ba người làm ví dụ, trong đó dĩ nhiên có tên của Nitsơ và Giăng Pôn Sactrơ. Ở ta, những ý tưởng văn chương của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Tú Xương... là vương đạo. Ai là bá đạo, xin bạn đọc tự đi tìm lấy. Cách đây 200 năm, Điđơrô chỉ rõ: "Cái thật, cái tôi và cái đẹp khăng khít với nhau”. Tư tưởng đó đúng với mọi giá trị hàng hóa, trong đó có văn chương. Khi Đốtxtôiépxki nói: "Cái đẹp sẽ cứu thế giới" đấy là ông nói dỗi một cách xa xôi với thể chế chính trị mà thôi. Một người như Đất không ảo tưởng với cái Đẹp mơ hồ, ông kỳ vọng là kỳ vọng ở cái Đẹp chính trị, cái Đẹp của một thể chế chính trị cụ thể. Tôi đã thấy nhiều nhà văn, nhiều nghệ sĩ ở ta hiểu sai tư tưởng đó của Đất thảm hại ra sao và họ đã săn đuổi phụ nữ ráo riết như thế nào. Đất chưa bao giờ nói: "Cái dẹp là phụ nữ”. Nếu Đất nói như thế, ông sẽ kèm theo một nụ cười kèm cái nháy mắt.
Trong câu nói của Điđơrô có lẽ chẳng cần giải thích thêm về "cái Thật và cái Đẹp". Có quá nhiều trước tác bàn về nó. Nhưng còn "cái tất", thế nào là cái tất? Điều ấy thật khó. Ở đây, hình như "cái tất" liên quan đến "cái hài hòa" tức là liên quan đến tự nhiên.
Khi nói đến "con người tự nhiên" và "con người xã hội", tìm hiểu nó, lý giải nó, nhà văn bị đẩy vào thế hiểm nghèo giữa hai thế lực: một là Tạo hóa khôn cùng và hai là những thành kiến ràng buộc trong lịch sử và luật lệ của thể chế chính trị đương thời. Những kẻ đểu cáng nhất trong số các nhà văn đương thời thường bất chấp tạo hóa, bất chấp tự nhiên, giày xéo lên bản tính người để tìm kiếm danh lợi ở cơ chế chính trị trước mắt. Những nhà văn trẻ, chất phác hơn khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn nhưng do đó ngu ngốc hơn, cả tin nồng nhiệt ở tạo hóa và tự nhiên, chĩa ngòi bút của mình vào xã hội. Tôi thấy kẻ bị thương bởi những ngòi bút ấy thường chẳng ai khác mà đa số là vợ con và những người thân của họ. Hình như chỗ giỏi của các nhà văn thiên tài là bằng lòng tất và ngòi bút bất lực của mình, anh ta kéo được sức mạnh của tạo hóa tự nhiên cùng với sức mạnh của thể chế chính trị xã hội đương thời xích lại gần nhau. Làm dược điều này, nhà văn không được khoan nhượng với cả hai thế lực ấy, anh ta phải tự lớn lên để trở thành thế lực thứ ba. Tạo hóa vô tâm, cũng như cơ chế chính trị xã hội đương thời cũng vô tâm nết, không cần đến trai điếm, gái điếm, nô lệ, một mặt vì nó quá nhiều điếm và nô lệ, một mặt điếm và nô lệ không sử dụng phương tiện tư tưởng mà sẽ sử dụng các dụng cụ khác đơn giản hơn nhiều.
Xét đến tận cùng, đa số các nhà văn thuộc loại người thất bại chủ nghĩa. Tinh thần bi quan phản ánh tâm trạng bất lực của anh ta khi nguyện vọng và những hoài bão lớn lao không thực hiện được. Chẳng sao cả. Vẻ buồn man mác trong các tác phẩm văn học lừng danh sống lâu hơn năm tháng đời người. Tôi rất ngạc nhiên đã có thời lý luận phê bình văn học ở ta phản ứng gay gắt vời nỗi buồn trong các tác phẩm văn chương. Sự hớn hở của nhà văn thường chỉ chứng tỏ việc nhà văn bỗng dưng biến hóa thành nhân vật chính trị tầm thường dung tục mà thôi. Quả thật, những nụ cười hớn hở ấy đôi khi trông cũng dễ thương, ngắm kỹ ai tinh ý sẽ nhận ra vẻ tội nghiệp trong đó. Cơ chế chính trị xã hội đương thời mạnh đến nỗi có thể mạo danh tạo hóa biến đổi con người mà chính người đó chẳng hề hay biết, họ đành đổ bừa cho "số phận"(!).
Tôi không cực đoan như một số người cho rằng nhà văn thuộc loại có tư tưởng cấp tiến hoặc nhân đạo nhất trong xã hội. ở đoạn dưới, khi bàn về vị trí vai trò nhà văn tôi sẽ nói sau. Song, phải thừa nhận rằng ở những nhà văn vĩ đại, họ đều có những phẩm chất khiến chúng ta đều phải ngước mắt trông lên.
Những nhà văn thiên tài hầu hết đều phải trải qua những tình huống hết sức oái oăm trong số phận mình. Những khát khao đều phải trả giá. Những khát khao của cá nhân nhà văn phù hợp với những khát khao của nhân loại thì nhà văn sẽ làm lễ đăng quang cùng nhân loại. Ngược lại những khát khao của cá nhân nhà văn bệnh hoạn thì bệnh hoạn sẽ làm ma hậu hĩ cho anh. Đấy là có lúc tôi đã nghĩ thế.
Ở nhà văn, sức mạnh không phải ở bản thân nhà văn mà ở độc giả của họ. Chịu khó quan sát, chúng ta sẽ thấy những cô gái mới lớn, hết sức đức hạnh và trong trắng lại lén lút đọc những truyện nhảm nhí. Người anh hùng của các thiếu nữ hoa niên không phải là những tấm gương sáng đạo đức mà lại là một gã Đông Juăng nào đó. Ở những người đàn ông bán giời không văn tự, cuộc đời đầy những sóng gió bất hảo thì thần tượng văn học của họ lại là những gương sáng đạo đức. Nghịch lý ở chỗ ấy. Điều này buộc nhà văn phải lý giải nếu anh ta thực sự muốn anh trở thành một nhà văn đáng giá của thời dại anh đang sống.
Công việc của nhà văn bắt đầu từ đâu? Tôi nghĩ rằng phải bắt đầu từ việc nghiên cứu bạn đọc, đúng hơn là phải nghiên cứu tâm lý dân tộc trong cả một khoảng thời gian dài. Trên cơ sở đó nhà văn dọn ra món ăn tinh thần cho cả thời đại mình. Lúc ấy tác phẩm của anh ta mới là một tác phẩm xứng đáng. Tính chất hợp thời của một nhà văn đáng kể là ở chỗ này.
Đến đây, nhiều người sẽ phì cười với ý nghĩ ngông cuồng của tôi vì ý tưởng đó quá công phu đến nỗi một cá nhân khó đủ phương tiện làm nổi. Thật vậy! Nhưng quả nhiên tôi không có ý khuyên ai. Rất ít nhà văn làm được điều này. Làm được điều này, thường chỉ có các nhà tư tưởng hoặc tệ hơn các nhà tư tưởng, đấy là một tập hợp của cả khối tham vọng chính trị có trí thức văn hóa sắc sảo.
Cũng cần xem xét vai trò, vị trí của nhà văn trong xã hội để hiểu rõ công việc của họ.
Không hiểu sao, tôi cứ hình dung các dân tộc, các quốc gia cứ như các đoàn người hành hương trên đường đi tìm chân lý. Có những đoàn người tổ chức kỷ luật, có những đoàn người vừa đi vừa chen huých nhau. Cảm giác trong câu hát của Phạm Duy sau đây là cảm giác tài tình: "Kìa đoàn người đi miên man, trên đường gian nan in hình mây núi”. Trong đoàn người đi miên man ấy, các nhà chính trị có nhiệm vụ tổ chức dẫn dắt cả đoàn. Nếu được chọn vị trí trong đoàn người đi miên man ấy, với bản tính nhút nhát của mình, dĩ nhiên tôi sẽ đi ở cuối cùng, cách đoàn người ấy một quăng dao. Việc dẫn dắt đất nước đi tới con đường ý thức, phát triển và tiến bộ đã diễn ra thế nào, đầy sai lầm và đắng cay ra sao trong 4.000 năm nay chỉ cần giở sách lịch sử Việt Nam ra là thấy rõ.
Khác với phương Tây, truyền thống chính trị phương Đông chưa hề bao giờ có sự tôn trọng đúng mức các nhà văn, các nhà tư tưởng. Các bậc đế vương trước kia thường chỉ sử dụng các nhà văn, các nhà tư tưởng như những mưu sĩ. Truyền thống ấy được bảo toàn cho đến bây giờ và chúng ta luôn nghe thấy các nhà văn hiện đại hỏi nhau: "Này, dạo này bác có mưu gì?". Điều ấy thật sự buồn cười.
Gạt sang bên sự nhếch nhác của hiện thực, nhặt ra những mảnh vụn sang trọng trong tư tưởng nhà văn, cưu mang nó, đấy chính là tiến bộ. Loài người đã nhích từng tí một đến chân lý nhờ những hạt vàng tư tưởng ấy.
Trong khu vực văn chương ở ta, trừ đôi ba người thực sự xuất chúng, còn nhìn chung văn thơ của các cụ ta ngày xưa và những nhà văn hiện đại ngày nay so với nhiều dân tộc khác, phải thừa nhận là kém cỏi. Song, danh hiệu nhà văn được nhân dân hết sức tôn trọng, thậm chí còn làm mờ cả nhiều chân dung chính trị, làm mờ cả quân hiệu quân hàm trên trang phục quân nhân lòe loẹt mọi thời. Vậy thì trong đoàn người đi miên man trên dường kia nhà văn phải là một kẻ ra sao mới được mọi người tôn trọng chứ? Tôi dã suy nghĩ nhiều và ngỡ rằng điều ấy chỉ có thể giả thích bởi lòng yêu chuộng chân lý của nhân dân mà thôi. Nói đến chân lý thì ngay cả các nhà văn thiên tài cũng nói sai nhưng thật ra nhiệm vụ của các nhà văn không phải là nói ra chân lý mà là thức tỉnh ý thức hướng về chân lý hoặc chí ít cũng là thức tỉnh tình cảm về phẩm giá con người trong họ. Một bộ phận nhân dân thậm chí còn đặt kỳ vọng được nhà văn dẫn dắt và bênh vực khi họ bị đầy vào các tình huống trớ trêu nào đấy, lúc họ bị các cơ chế chính trị dương thời bỏ rơi hoặc đánh đập. Thường trong trường hợp này, các nhà văn khôn ngoan hoặc bất tài đều cùng chỉ tay vu vơ lên trời.
Một trong những thiếu sót lớn của các nhà văn hiện đại ở ta là họ chỉ hiểu biết sâu sắc dân tộc Việt, hiểu biết sâu sắc nước Việt theo lối một nghệ sĩ chứ không phải theo lối một nhà tư tưởng. Hơn nữa, nếu có chịu trách nhiệm gì đó thì họ cũng chỉ ầm ừ đánh trống lảng chứ không phải đứng ra chịu trách nhiệm với nhân dân, với cả đoàn người đi miên man trên đường kia. Tất cả những điều trên đưa đến những bi kịch thảm thiết trong số phận các tác phẩm của các nhà văn bị mất thanh danh.Thực ra nói bi kịch là nói cho sang thôi chứ gọi đúng tình trạng thực thì tởm lợm hơn nhiều.
Việc hiểu biết dân tộc theo lối một nghệ sĩ không phải là không hay và không đáng tôn trọng. Song điều đó sẽ hạn chế sức nặng trong các tác phẩm văn chương. Tôi đã từng thú vị chứng kiến cảnh mấy tay say rượu đi trên đường phố, khi tôi hỏi bất kỳ một người qua đường rằng đấy là ai thì họ thản nhiên trả lời: "Chắc là mấy tay nghệ sĩ đó mà"? Tôi thấy trong câu nói đó một sự thương xót nồng nàn. Nhân dân hiểu rằng nghệ sĩ là những kẻ vô hại, tấm lòng đôn hậu, họ bê tha chẳng qua vì họ đau xót "nội tâm" quá mà thôi(!)
Sự hiểu biết dân tộc theo lối một nhà tư tưởng đòi hỏi nhà văn một sức làm việc phi thường, một lòng dũng cảm phi thường, một nghị lực phi thường, một sức chịu đựng phi thường. Sự cám dỗ của Thượng đế ở thiên đường và sự cám dỗ của quỷ sứ ở địa ngục đều rất hấp dẫn. Đến ngay ở những nhà văn tài năng nhất, đôi khi họ cũng vừa tìm cách lấy lòng Thượng đế vừa tìm cách lấy lòng quỷ sứ. Nguy cơ lừa mị trong văn chương nằm ở chỗ này. Hình như đây chính là chỗ mà các nhà phê bình văn học sáng suất phải lưu tâm cảnh giới. Trong lịch sử văn học nước ta, cả dân tộc đã vài lần bị một hai con ranh con hoặc vài ba chú mục đồng thôi miên bởi thứ văn chương ỡm ờ nửa thiên thần nửa quỷ sứ. Biết làm sao được? Hình như trong việc này có sự đóng góp của một số nhà lý luận phê bình văn học nào đó. Số này nếu không đểu cáng thì chắc chắn phải là thiển cận.
Có lẽ chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại cần đến những nhà văn có tư tưởng sáng suất như trong thời điểm hiện nay. Chỉ vài năm nữa đến năm 2000. Chúng ta cần phải tỉnh táo nhận ra rằng tình trạng hiện nay của dân tộc ta là thê thảm. Tôi không muốn nói đến tình trạng thiếu thốn vật chất mà muốn nói đến thế giới tinh thần của họ. Những ràng buộc nặng nề của các tư tưởng lạc hậu cũ kỹ khiến cho hàng triệu số phận con người đau khổ. Họ mê man trong các công sở và trong các tổ quỷ gia đình, trong các luỹ tre xanh và các khu tập thể đông hộ. Tôi đã thấy sự nghèo đói nhưng tôi không sợ. Tôi đã thấy những sai lầm trong những công việc ở nhiều nơi nhưng tôi không sợ. Tôi chỉ sợ khi con người không còn sự tôn trọng lẫn nhau, không còn lòng dũng cảm, không còn đức tính trung thực và như thế sẽ không đào đâu ra được tình yêu với những giá trị tuyệt đối. Dân tộc Việt sẽ khó mà khá lên được.
Với lòng mong muốn của mình, tôi tin là những năm tới sẽ xuất hiện hàng loạt các nhà văn xuất sắc. Nhân dân đã chán ngấy những cuốn sách thuyết giảng thứ đạo đức giả. Họ cũng chán ngấy các sách mua vui rẻ tiền và những sách gợi cảm giác mạnh. Thậm chí đến cả những sách ca ngợi tinh thần dân tộc trong các cuộc chiến tranh vệ quốc nữa, bây giờ cũng trỏ nên lạc lõng. Nhân dân đang cần những cuốn sách tự vấn, những cuốn sách giúp họ tự nhận thức lại mình. Làm được điều đó là một công lao to lớn của nhà văn hiện đại. Nhân dân chẳng cần nhà văn phải chỉ bảo "hướng tiến lên" cho họ thế nào, tự họ sẽ đi tìm lấy. Hơn nữa chúng ta cũng phải có lòng tin ở các nhà chính trị sáng suất thời nào cũng có.
Từ sâu trong thâm tâm, bản chất của nhân dân là vô thần. Việc nhấn mạnh tính chất vô thần ấy trên các trang sách nghĩa là tưới dầu vào lửa. Ý thức tín ngưỡng hướng thượng khác với mê tín dị đoan. Tôi đã thấy những thành kiến tôn giáo làm khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn cho các tư tưởng các nhà văn ở ta thấp kém đi như thế nào. Những nhà văn tiến bộ không ủng hộ thần quyền nhưng cũng không giữ thành kiến tôn giáo. Ý thức tín ngưỡng, hướng thượng, vươn lên sự cao cả, chân lý, cái đẹp, sự tuyệt đối phải là những hòn than ủ đỏ trong tác phẩm nhà văn.
Cuối cùng, vì là một bộ môn nghệ thuật, văn học không thể xem nhẹ giá trị thẩm mỹ. Điều này, những bậc thầy cổ điển đã nói rất hay. H.Banzắc nói: "Luôn luôn hướng về cái tuyệt mỹ". L.Tônxtôi nói: "Sự giản dị là điều kiện thiết yếu của cái đẹp". Ở ta, tôi nghĩ rằng phải hết sức chú ý yếu tố chính xác trong các giá trị thẩm mỹ văn chương. Chính xác ở ngôn từ thể hiện. Chính xác ở bản thân sự kiện. Chính xác ở tư tưởng. Thậm chí chính xác ở thể loại. Chính xác ở chức năng văn học.
Văn học ở ta mới hình thành chưa được 100 năm. Đã đến lúc văn học phải bước những bước chính xác trong cuộc hành trình gian khổ của nó. Chính xác cũng là một điều kiện thiết yếu của cái Đẹp.
Trở lên trên, tôi đã trình bày những hiểu biết nông cạn vội vàng của mình về văn học. Những khoảng trống đầy rẫy trong đó. Còn bao nhiêu những khoảng trống đầy rẫy trong tư tưởng tôi, ai lấp được? Nhà văn nào mà chẳng bất lực trước trang giấy trắng? Giá trị văn học đến như Truyện Kiều mà Nguyễn Du thiên tài cũng chỉ mơ ước "mua vui được vài trống canh". Giá trị văn học thường chỉ được người ta nhắc đến khi người viết ra nó không còn nữa, khi nó lơ lửng, vô hình như một làn khói vô định: Ai lấp đầy những khoảng trống trong tư tưởng nhà văn? Ai? Người nào? May ra chỉ có thiên nhiên. Thiên nhiên sẽ lấp bằng đất, như đã từng lấp mộ các bậc đế vương hoặc bất kỳ một kẻ vô danh không tuổi, không tên, không quê hương, không sự nghiệp...
Còn người đời? Người đời bao giờ mà chẳng bạc bẽo? Họ quá ích kỷ. Những nhà văn dũng cảm sẽ chẳng bao giờ trông chờ ở lòng hào hiệp của người đời Tôi chỉ tiếc số kiếp nhà văn hữu hạn, lại còn biết bao sóng gió, ước mơ thì dài...
Tôi viết bài này với đức tin văn học có ích thật sự và mang lại niềm vui thật sự cho con người. Tôi cũng giữ đức tin văn học là một sự nghiệp cao cả.
Giăng lưới bắt chim, NXB Hội nhà văn

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Einstein là nhà văn ?

Theo báo Tiền Phong

Einstein là nhà văn ?
Ai cũng biết Albert Einstein là nhà bác học vĩ đại, cha đẻ của thuyết tương đối, nhưng nhiều người không biết rằng ông còn là một nhà văn đa tài.
Mặc dầu Einstein viết khỏe, nhưng chính ông lại không nghĩ mình là nhà văn. “Hồi trước tôi đâu có biết là người ta sẽ đón từng lời bình thường nhất của tôi và ghi chép chúng lại. Nếu biết thế tôi đã thụt sâu vào trong cái vỏ mai của tôi rồi” - ông tâm sự với người viết tiểu sử của ông là Carl Seelig năm 1953.
Vào thời điểm đó, hai năm trước khi mất, kho lưu trữ riêng của ông đã gồm 20.000 tài liệu khác nhau, trong đó hàng nghìn tài liệu do ông viết. Đến hôm nay kho lưu trữ đã tăng gấp đôi.
Nhà bác học, triết gia, nhà nhân văn, người theo chủ nghĩa hoà bình, Einstein còn là một nhà văn tài năng và được trích dẫn khá nhiều. Do ông viết chủ yếu bằng tiếng Đức, nên khi dịch ra hàng chục thứ tiếng khác, ý tưởng của ông đã bị rơi vãi ít nhiều.
Các dịch giả khá khó khăn khi muốn dịch văn ông một cách trung thực, vì họ phải đưa ngôn từ của ông đi đường vòng, mà điều đó lại khiến câu văn mất nhịp điệu. Hơn thế, nhiều từ của Einstein bị dịch sai khiến người đọc không còn nhận ra bản gốc nữa. Giống như nhiều nhà văn khác, tốt nhất là nên đọc Einstein bằng tiếng mẹ đẻ của ông.
Các nhà nghiên cứu Einstein cho rằng, bí mật về việc viết lách của ông có thể giải mã trong câu trả lời phỏng vấn của ông: “Tôi quen nghe và nói rồi. Viết đối với tôi là cái gì đó khó khăn lắm”.
Thế nhưng, như Giáo sư John Stachel, nguyên là giám đốc Dự án về các tác phẩm của Einstein (Einstein Papers Project) nói: “Ngôn từ của ông vẫn tuôn ra một cách dễ dàng. Ông viết giống như ông nói, không cần phải gắng gượng tí nào. Tôi nghĩ, ông nghe được ngôn từ trước khi ông viết, và chỉ khi chúng đã vang lên trong ông, ông mới đưa chúng ra trang giấy. Nhiều nhà thơ sáng tác theo kiểu này, nhưng tôi không nghĩ các nhà khoa học cũng làm như thế”. Có lẽ kiểu viết này bắt nguồn từ thói quen hồi nhỏ, khi cậu bé Albert thoạt đầu nói thầm trong đầu, sau đó mới nhắc lại thành lời các từ cần nói.
Einstein chưa bao giờ sử dụng tiếng Anh lưu loát, cả khi nói lẫn khi viết. Vào thời của ông, tiếng Đức là ngôn ngữ của khoa học, nên ông không có nhu cầu với tiếng Anh cho đến khi sang định cư ở Mỹ lúc đã 54 tuổi.
Nếu phải viết một bài báo khoa học hoặc bức thư trao đổi, thoạt đầu Einstein nháp bằng tiếng Đức, sau đó thư ký hoặc đồng nghiệp mới dịch sang tiếng Anh. Đôi khi họ viết sẵn thư, còn ông chỉ cần ký vào là xong.
Ví dụ nổi tiếng nhất là bức thư của Einstein gửi Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt cảnh báo khả năng Đức Quốc xã sẽ sản xuất bom nguyên tử là do nhà vật lý Leo Szilard viết.
Sản phẩm tinh thần của Einstein được chia thành mấy dạng sau: Dạng thứ nhất, tất nhiên là các bài viết khoa học đưa ông lên đỉnh vinh quang. Những bài viết này được giới khoa học thừa nhận là có văn phong rất đơn giản, rõ ràng.
Dạng thứ hai, là các bài tiểu luận chính trị và nhân văn cho ta thấy phạm vi quan tâm rất rộng của ông. Những dẫn chứng rõ nhất về dạng này có thể tìm thấy trong cuốn sách “Các tư tưởng và quan điểm” đã được xuất bản từ 50 năm trước.
Dạng thứ ba, là các bức thư đánh máy và viết tay của ông, trong đó dài nhất có lẽ là bức gửi nhà vật lý học người Hà Lan H.A. Lorenz, một người mà Einstein rất ngưỡng mộ.
Các nhà nghiên cứu nhiều năm qua đã dựa trên những bức thư này để tìm hiểu con người, tính cách, hành động của Einstein, trao đổi về con đường dẫn đến các ý tưởng khoa học của ông. Qua những bức thư này, chúng ta thấy cảm giác hài hước, nhân văn, những nỗi bức xúc, đam mê của ông. Ông viết về hòa bình, về phụ nữ, âm nhạc, hút tẩu, du thuyền, sự cấm đoán, chiến tranh, động vật...
Hai trường hợp sau đây điển hình cho tính hài hước của ông. Một lần thuỷ thủ đoàn của một con tàu đặt tên cho chú mèo do họ nuôi là Einstein. Ông viết thư gửi thuyền trưởng, trong đó có đoạn mô tả phản ứng của chú mèo nhà ông như sau: “Chú mèo chỗ chúng tôi rất lấy làm quan tâm đến chuyện này, thậm chí chú còn hơi ghen một chút nữa. Nguyên do là tên của chú ta là Tiger (hổ), mà cái tên này, không như chú mèo chỗ các ông, chả nói lên điều gì về mối quan hệ họ hàng với nhà Einstein cả”.
Hoặc một lần khác, nhóm phụ nữ bảo thủ “Những người con gái cách mạng Mỹ” (the Daughters of the American Revolution) phản đối chuyến thăm Mỹ của Einstein năm 1932, và ông đã trả lời: “Chưa bao giờ tôi bị phái đẹp phản đối một cách kịch liệt như vậy, mà nếu có thì cũng chưa bao giờ từ nhiều người một lúc như vậy”.
Chuyện riêng tư của Einstein cũng có thể tìm hiểu qua các bức thư của ông. Năm 1900, chàng trai trẻ Einstein viết cho người yêu là Mileva: “Khi em không bên anh, anh thấy thiếu cái gì đó. Anh đứng ngồi không yên. Khi đi xa, anh lại muốn về nhà. Khi nói chuyện với mọi người, anh lại muốn suy ngẫm”.
Sau đó một đoạn, Einstein viết tiếp: “Làm sao mà anh sống thiếu em được cơ chứ, em bé bỏng, nhưng là tất cả đối với anh. Thiếu em anh không còn thấy tự tin, không đam mê với công việc, không vui thú với đời”.
Đến năm 1919 thì quan hệ giữa hai người bắt đầu gặp trục trặc, và Einstein viết thư gửi cô em họ Elsa và là cô vợ tương lai: “Vợ anh là một sinh linh thiếu thân thiện, không có tính hài hước, một người không rút ra được cái gì vui vẻ từ đời cả, một người mà chỉ với sự hiện diện nhỏ nhoi của mình đã tước mất của người khác niềm vui sống...”.
Ông viết cho Marie Curie: “Tôi buộc phải thừa nhận với bà rằng tôi rất khâm phục trí tuệ của bà, sức sáng tạo của bà, sự trung thực của bà”. Trong khi đó, sau lưng bà ông lại nói trộm: “Madame Curie là một người rất thông minh, nhưng cũng lạnh như đá vậy”.
Năm 1919, khi Einstein đã nổi tiếng trên toàn thế giới nhờ một nhóm các nhà bác học Anh chứng minh sự đúng đắn trong thuyết tương đối của ông, ông viết cho một người bạn: “Cùng với sự nổi tiếng, tôi càng thấy mình ngu đi, mà dĩ nhiên đó lại là hiện tượng phổ biến”.
Dạng tác phẩm thứ tư, ít ai biết rằng Einstein còn học viết châm ngôn và cả làm thơ nữa. Đây là một số câu châm ngôn trong hàng trăm câu tìm thấy trong kho tư liệu của ông: “Trí tưởng tượng còn quan trọng hơn tri thức. Tri thức là hữu hạn, còn trí tưởng tượng thì có mặt khắp nơi” (1929); “Ai mà muốn phán xét Sự thật và Tri thức thì chỉ bị thánh thần cười nhạo mà thôi ” (1948); “Ý định kết hợp cả sự minh triết và quyền lực rất hiếm khi thành công, mà nếu thành công thì cũng chỉ được lúc mà thôi” (1948); “Lòng chung thủy bị ép buộc chỉ là thứ quả đắng mà thôi” (trả lời một phụ nữ có chồng hay lăng nhăng năm 1953); “Chỉ có một con đường đưa con người đến sự vĩ đại, đó là sự khổ ải” (năm 1947, bình luận về hoàn cảnh khốn khổ của người da đen ở Mỹ).
Thơ của Einstein khó dịch hơn nhiều. Ông thường sáng tác những đoạn thơ ngắn, hài hước và đầy trìu mến gửi các bạn gái của ông. Thơ ông có giọng vô tư, và có lẽ nên xếp vào hạng thơ dở. Đó là những dòng thơ cặp đôi hai câu có vần xen vào những bức thư, hoặc đề vội vào những tấm bưu thiếp hay sau ảnh của ông.
Cuối cùng, Einstein là người hay ghi chép, ít nhất trong thời kỳ ông hay du ngoạn từ năm 1922 đến 1932 đến các nước Nhật Bản, Palestine, Tây Ban Nha, Nam Phi và Mỹ, kể lại những ấn tượng và quan sát về từng nước và người dân ở đó.
Đó chỉ là những dòng ghi chép ngắn, nhưng cũng cho thấy một con người rất hay để tâm đến chuyện xung quanh và biết tận hưởng niềm vui được chứng kiến tận mắt những nền văn hoá khác.
Theo báo Tiền Phong

Sự nghèo hèn tự nguyện

Người Việt không xấu…

Alan Phan
Góc nhìn Alan
10:42' AM - Chủ nhật, 19/10/2014
Gần đây tự phát một phong trào đánh hội đồng về người Việt xấu xí, từ dân đen trong nước đến Việt Kiều hải ngoại, từ các mạng lề trái đến báo lề phải. Bị nhiều phóng viên và BCA quay hỏi về đề tài này, ông già Alan xin xác định rõ ràng: chúng ta không xấu.
Trước hết, xấu xí là một tĩnh từ chung chung, nhất là khi nói về con người. Người này có ngoại hình xấu, cô này nhiều tật xấu, anh này thích chơi xấu, thằng bé này xấu ăn, bà lão kia đang “làm” xấu…và tất cả điều đó cũng không bầy tỏ điều gì rõ ràng lắm.
Ngay cả ngoại hình. Cô người mẫu có khuôn mặt hơi xấu (theo định giá chủ quan) nhưng với một bầu sữa tốt thì cũng có thể nổi tiếng với rất nhiều giới trẻ đang dư thừa hormone. Tôi quen biết một phụ nữ giàu đẹp quý phái học thức ở Mexico. Khi cô lấy chồng, cả gia đình bạn bè đều chê là mắt mũi cô để đâu mà ôm phải một ông “xấu đau xấu đớn”; nhưng họ đã sống hạnh phúc với nhau hơn 15 năm. Theo định nghĩa về ngoại hình xấu xí của tôi, người đàn bà chỉ thực là xấu xí nếu sáng tôi ngủ dậy cùng nàng, nhìn nàng qua ánh sáng đầu ngày và chỉ muốn lấy một khẩu súng bắn vào đầu mình cho đỡ ngu và bớt hổ thẹn.
Trong đời, tôi đã có vài lần muốn tự tử kiểu đó, nhưng chưa lần nào ở Việt Nam. Như vậy, tôi tin chắc rằng ít nhất phụ nữ Việt không “xấu”.
Còn về tính xấu nói chung của người Việt? Những từ ngữ thông dụng nhất là lưu manh vặt, tham lam, ăn cắp, chật hẹp, dối trá, thích xin xỏ, ỷ lại, lười biếng, tự ti và tự tôn lẫn lộn. Cụ Tản Đà (1927) thì chê là quan bất nghĩa vô lương, còn dân thì ngu hơn lợn nên bị hút máu. Cụ Phan Khôi (1929) thì nói các sĩ phu ảo tưởng thoái hóa cho mình là Thượng Đế. Còn cụ Lương Thiệp (1944) thì kết luận là Nho sĩ do Trung Quốc đào tạo thì trì trệ, bất lực, hèn kém.
Ngày hôm nay, trên mạng lề phải, không thiếu những câu chuyện và lý do để “tự hào dân tộc” từ bóng đá đến siêu mẫu bị lộ hàng; còn mạng lề trái thì đủ chuyện để làm chúng ta xấu hổ: ăn cắp ở Nhật Bản, ăn tham ở Thái Lan; lưởng gạt ở Mỹ…và ăn rồi chạy ở Việt Nam (hay hạ cánh ở ẩn trong an toàn với biệt thự giá rẻ nhất là vài chục tỷ).
Thực ra, suy cho cùng, những cái gọi là “xấu xí” đều phát xuất từ một nguyên nhân quan trọng nhất: người Việt ta rất nghèo.
Nghèo tiền bạc là một chuyện thấy rõ qua lịch sử. “Bần cùng sinh đạo tặc” nên cả dân tộc và quốc gia loay hoay hoài 80 năm qua với vụ đi xin đi vay. Không được thì cướp giật rồi đổ thừa cho cái “nghèo tiền” của mình.
Nghèo đến độ phải dựng tượng thánh cho những tay bịp bợm quốc tế hay dùng một cuốn sách từ thế kỷ 18 làm kim chỉ nam cho thời đại Internet. Phải ôm chân khóc lóc xin xỏ đủ chuyện từ những ông chồng vũ phu, bần tiện, chuyên lợi dụng…vì bỏ ông thì mất sổ hưu?
Rồi đến những cái nghèo về văn hóa, đạo đức. Hoặc cái nghèo về kiến thức, tư duy. Nghèo về quan hệ gia đình và xã hội. Nghèo khi hành xử theo các thói quen xấu của thế kỷ 19 ở thế kỷ 21. Luôn luôn có những lý giải, biện luận, bào chữa; nhưng tất cả chỉ chứng minh thêm cho một cái nghèo khác cũng khủng khiếp: nghèo về tinh thần, về sự tha hóa dối trá không phương cứu chữa.
Một ông du học sinh (ông khoe vậy) chê là đời sống ở Mỹ như “tù khổ sai”, làm việc quần quật suốt ngày. Ông kết luận là ông và người Việt, dân chủ, à quên, “hạnh phúc” gấp trăm lần bọn tư bản giẫy chết. Dĩ nhiên, một bà già bán vé số ở Việt Nam sẽ hạnh phúc vô cùng, nếu bà có một người con “làm tù khổ sai” gởi tiền về tiếp tế mỗi tháng. Và chắc ông này cũng không biết các lao động Việt trong những khu công nghiệp phải “khổ sai” như thế nào mỗi ngày? Tù khổ sai Mỹ dường như là lựa chọn của phần lớn nhân loại.
Một vài bạn phản biện cho rằng vào thời bao cấp ngoài Bắc, chúng ta đâu có văn hóa chụp giựt như ngày nay? Suy cho kỹ, trong một xã hội chỉ đi xe đạp và ăn bo bo thì cũng không có nhiều thứ để chụp giựt. Tuy tôi không sống qua môi trường này (thank God), tôi vẫn đọc rất nhiều hồi ức từ các nhà văn, các học giả…về một xã hội dối trá, trên lạy dưới đạp, tham nhũng tem phiếu thực phẩm…chỉ đáng vài xu. Chắc họ hoang tưởng hết?
Nhưng đó là chuyện ngày xưa. Điều khó hiểu nhất với tôi là chúng ta không sống trong hang động thời đồ đá mà tại một thế giới nơi kiến thức toàn cầu tụ tập gần như miễn phí với dấu bấm Google. Các nguyên tắc và hành xử văn minh văn hóa được nhắc nhở liên tục qua những kênh thông tin tự do. Ngoài tiền bạc, tại sao chúng ta phải chứng kiến cái nghèo tàn mạt về kiến thức, văn minh, nhân cách và tinh thần?
Sự nghèo hèn tự nguyện của người Việt là điều chua xót nhiều hơn các quan điểm về xấu xí.
Nhìn ra một bối cảnh xa hơn, khi xã hội “chấp nhận” nghèo hèn để yên ổn thì chúng ta phải suy nghĩ điều gì? Khi một người vợ cam phận sống đời đời kiếp kiếp …vì vài lợi ích cá nhân của ông gia trưởng đã khô xác…thì chúng ta có nên quay mặt đi và thở dài?
Có xấu xí không khi đã nghèo mà còn ngu?
Góc nhìn Alan
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Giới tướng lĩnh cấp cao Trung Quốc sẽ có biến động lớn?

NLĐ

20-10-2014
Chính ủy Lưu Nguyên là ứng cử viên hàng đầu cho chức Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương (CMC). Ảnh: CFP
Chính ủy Lưu Nguyên là ứng cử viên hàng đầu cho chức Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương (CMC). Ảnh: CFP
(NLĐO) – Hội nghị ban chấp hành trung ương lần 4 của Đảng cộng sản Trung Quốc – dự kiến diễn ra từ ngày 20-10 đến 23-10 – sẽ có những quyết định gây biến động lớn trong giới tướng lĩnh cấp cao.
Tại hội nghị, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Bí thư Quân ủy Trung ương (CMC), sẽ báo cáo vấn đề thúc đẩy toàn diện pháp trị, sau đó các thành viên sẽ thông qua nghị quyết “Quyết định quan trọng về việc thúc đẩy toàn diện pháp trị trong cả nước”, bàn về vấn đề điều chỉnh nhân sự quân ủy trung ương.
Trong khi đó, tờ Liên hợp Buổi sáng của Singapore cho rằng vấn đề cải cách tư pháp, chống tham nhũng sẽ là các chủ đề nổi bật của hội nghị. Còn Trung Quốc Thời báo của Đài Loan dự báo hội nghị toàn thể lần thứ 4 này sẽ tác động đáng kể đến nền kinh tế, trong đó có việc làm quen với trạng thái bình thường mới.
Theo tạp chí Ngoại giao tham khảo – Hồng Kông, 2 vị trí Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng tham mưu trưởng có thể thay đổi về nhân sự. Tờ Đa Chiều cho rằng 5 tướng gồm chính ủy Tổng cục Hậu cần quân đội Trung Quốc Lưu Nguyên (con trai cố Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ), Chủ nhiệm Tổng cục Trang bị Trương Hựu Hiệp, Tổng tham mưu trưởng Phòng Phong Huy, Tư lệnh Quân khu Nam Kinh Sái Anh Đĩnh, Chính ủy Bộ tư lệnh Pháo binh 2 Trương Hải Dương sẽ được Tập Cận Bình lựa chọn giúp mình cải cách toàn diện quân đội.
Báo Văn Hối – Hồng Kông cho biết cuộc cải tổ nhân sự ở thượng tầng lãnh đạo của CMC xuất hiện sau khi cựu Phó Chủ tịch Từ Tài Hậu bị bắt vì tham nhũng vào cuối tháng 6. Ông Từ Tài Hậu trở thành “con hổ” lớn nhất trong chiến dịch “đả hổ đập ruồi” của ông Tập Cận Bình. Mặc dù Từ Tài Hậu đã về hưu nhưng người ta tin rằng ông vẫn có kết nối và có sự ủng hộ mạnh mẽ từ bên trong CMC mà Chủ tịch Trung Quốc muốn loại bỏ điều đó. Theo giới phân tích, Chính ủy Lưu Nguyên là ứng cử viên hàng đầu cho chức Phó Chủ tịch CMC.
Cũng tại Hội nghị ban chấp hành trung ương lần 4, sẽ có ít nhất 5 ủy viên, ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc bị cách chức, khai trừ đảng tịch,bao gồm Tưởng Khiết Mẫn – cựu Chủ nhiệm Ủy ban quản lý và giám sát tài sản nhà nước (SASAC) thuộc Quốc vụ viện, Lý Đông Sinh – cựu Thứ trưởng Bộ Công an Trung Quốc, Lý Xuân Thành – cựu Phó Bí thư tỉnh ủy tỉnh Tứ Xuyên, Vương Vĩnh Xuân – cựu Phó chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Quốc gia và Vạn Khánh Lương – cựu Bí thư Thành ủy Quảng Châu (tỉnh Quảng Đông).
H.Bình (Theo Want China Times, Ifeng, Đa chiều)
——
Hồng Thủy
20-10-2014
Trung Quốc khai mạc hội nghị trung ương 4 tại Bắc Kinh ngày hôm nay.
Trung Quốc khai mạc hội nghị trung ương 4 tại Bắc Kinh ngày hôm nay.
(GDVN) – Trung Quốc tìm cách hạn chế ảnh hưởng của các quan chức đầu ngành, đầu tỉnh thành các địa phương, Bắc Kinh vẫn không xây dựng một nền tư pháp độc lập.
Đa Chiều ngày 20/10 đưa tin, hôm nay đảng Cộng sản Trung Quốc khai mạc hội nghị trung ương 4 kéo dài 4 ngày tại Bắc Kinh với mục tiêu cải cách tư pháp, điều chỉnh nhân sự cấp cao nên được dư luận đặc biệt quan tâm.
Đáng chú ý, hội nghị trung ương 4 lần này Bắc Kinh công khai quyết định thông qua báo cáo kỷ luật khai trừ 5 quan chức cấp cao khỏi Ban chấp hành trung ương, gồm Tưởng Khiết Mẫn – cựu Chủ nhiệm Ủy ban quản lý tài sản nhà nước, Lý Đông Sinh – cựu Thứ trưởng Bộ Công an, Lý Xuân Thành – Phó Bí thư tỉnh Tứ Xuyên, Vương Vĩnh Xuân – Phó Tổng giám đốc tập đoàn Dầu khí Trung Quốc và Vạn Khánh Lương – Bí thư thành ủy Quảng Châu.
Theo điều lệ của đảng Cộng sản Trung Quốc, việc khai trừ ủy viên trung ương chính thức/dự khuyết phải được 2/3 số ủy viên trung ương biểu quyết thông qua mới có giá trị. 5 quan chức này bị điều tra vài tháng trước đó, nhưng phải đợi tới hội nghị trung ương 4 họ mới chính thức mất tư cách ủy viên trung ương chính thức/dự khuyết. Kỳ họp này Bắc Kinh sẽ bầu bổ sung 5 ủy viên trung ương mới.
Ngoài ra còn 2 vị ủy viên trung ương dự khuyết đang bị điều tra nhưng chưa có quyết định kỷ luật, đó là Trần Xuyên Bình, Bí thư thành ủy Thái Nguyên thủ phủ tỉnh Sơn Tây và Phan Dật Dương, Phó Chủ tịch thường trực khu tự trị Nội Mông.
Theo Reuters, cộng đồng doanh nghiệp Trung Quốc rất chờ đợi kỳ họp trung ương 4 này sẽ đẩy mạnh cải cách tư pháp như tuyên bố của ông Tập Cận Bình phải “quản lý nhà nước bằng pháp luật”.
Trước kỳ họp này, truyền thông Trung Quốc đã lưu ý rằng mục tiêu chính của hội nghị là làm dịu ảnh hưởng của chính quyền địa phương đối với hoạt động của các tòa án và xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp hơn chứ không phải công cụ của tổ chức đảng ở địa phương.
Các doanh nghiệp tư nhân và các nhà đầu tư nước ngoài lâu nay đã phàn nàn về những khó khăn họ gặp phải với bộ máy chính quyền địa phương, đặc biệt là trong các phiên tòa xử lý tranh chấp với các doanh nghiệp nhà nước, họ thường bị thiệt thòi do phán quyết của tòa chịu ảnh hưởng từ các quan chức đứng đầu địa phương đó.
Nguồn tin thân cận với các quan chức cấp cao Trung Quốc cho biết, cải cách hệ thống tư pháp và ngăn chặn các quan chức địa phương can thiệp vào phán quyết của tòa án là một trong những nội dung chính của hội nghị lần này.
Tuy nhiên trong khi đảng Cộng sản Trung Quốc tìm cách hạn chế ảnh hưởng của các quan chức đầu ngành, đầu tỉnh thành các địa phương, Bắc Kinh vẫn không xây dựng một nền tư pháp độc lập vì coi đây là vấn đề “nhạy cảm”.
Chính sách cải cách kinh tế của Tập Cận Bình sẽ khó có thể thành công nếu nền tư pháp Trung Quốc không có gì thay đổi.
Chính sách cải cách kinh tế của Tập Cận Bình sẽ khó có thể thành công nếu nền tư pháp Trung Quốc không có gì thay đổi.
Trong hội nghị trung ương 3, Tập Cận Bình đã công bố kế hoạch cải cách kinh tế đầy tham vọng, báo hiệu một sự thay đổi trong chính sách kinh tế của Bắc Kinh theo hướng cân bằng và bền vững. Tuy nhiên các nhà quan sát cho rằng, nếu không có cải cách tư pháp thì chiến dịch cải cách kinh tế của Tập Cận Bình không thể thành công.
Bưu điện Hoa Nam ngày 20/10 bình luận, truyền thông nhà nước Trung Quốc đang chào đón một động thái cải cách tư pháp lớn, hội nghị trung ương 4 dự kiến sẽ tìm cách thay đổi để mang lại một mức độ công bằng hơn ở địa phương, nơi tình trạng bất ổn đã nảy sinh và bùng phát thành bạo lực, mà nguyên do xuất phát từ sự thiếu công bằng.
Oliver Meng Rui, một giáo sư chuyên nghiên cứu các vấn đề Trung Quốc nói với Bưu điện Hoa Nam, một trong những thách thức lớn nhất đối với Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường là làm thế nào để chính sách cải cách của họ có hiệu lực bên ngoài Trung Nam Hải khi các quan chức địa phương vẫn còn nghe ngóng và chờ đợi.
Phân nhận xét hiển thị trên trang