Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 26 tháng 6, 2014

Giúp đánh Pháp, Nhật, đuổi Mỹ để rồi xâm lấn Việt Nam - Chả hóa ra Cốc mò cò xơi, chỉ có các "đồng chí" là có lợi hay sao? Người Việt Nam không ai nghe như vậy đâu! CTN đã nói trúng nguyện vọng của toàn dân - Riêng điều này thôi, nhiệt liệt hoan hô và ủng hộ ông!

Đừng vì những khẩu súng mà bắt chúng ta phải nhớ ơn!

(Dân trí) - Trước việc Trung Quốc lấy cớ từng giúp Việt Nam trong quá khứ để gây hấn ở biển Đông, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định, đừng vì những khẩu súng giúp nhau trong thời chiến tranh mà bắt ta phải nhớ ơn. Việt Nam mang ơn thì có cách trả ơn, chứ Trung Quốc không được áp đặt.
Sáng 26/6, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dẫn đầu Đoàn Đại biểu Quốc hội TPHCM (đơn vị số 1) khoá XIII đã có buổi tiếp xúc với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố.
Tại buổi tiếp xúc, đông đảo các ý kiến đều bày tỏ sự quan tâm đến vấn đề chủ quyền quốc gia, hành động Trung Quốc gây hấn, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và chủ quyền trên biển Đông của Việt Nam. Các nhân sĩ, trí thức cũng bày tỏ tâm tư, tình cảm, đánh giá về kết quả của kỳ họp Quốc hội cũng như kiến nghị đối với các hệ thống luật để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội.   
            
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nói chuyện với nhân sĩ, trí thức sáng 26/6 tại TPHCM
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nói chuyện với nhân sĩ, trí thức sáng 26/6 tại TPHCM

Ủng hộ khởi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế
Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm đã nói rất nhiều về mối quan hệ thân tình giữa Việt Nam - Trung Quốc và hành xử của “láng giềng” trong suốt thời gian qua. Ông Lâm cho rằng, nên thẳng thắn nhìn nhận, đánh giá lại tình đồng chí, tình láng giềng, tình bạn bè với Trung Quốc.
“Trung Quốc luôn tìm cách đưa lửa gần đến chúng ta với suy nghĩ lửa xa không cứu được lửa gần. Họ ép chúng ta không nên quan hệ với Nhật, Mỹ và Châu Âu. Họ nói chúng ta quan hệ như vậy là đi từ sai lầm này đến sai lầm khác rồi đến đại sai lầm”, ông Lâm nói.
Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm cho rằng, ông cũng như bao người dân khác cảm thấy buồn khi rất nhiều dự án, hàng hóa… trên thị trường hiện nay đều có yếu tố Trung Quốc. Ông thắc mắc tại sao thương lái Trung Quốc về đến tận các vùng quê để làm lũng đoạn nền nông nghiệp mà không có biện pháp ngăn chặn. “Một tấc đất, một tấc sông của Tổ quốc là không thể bán. Ai bán, sẽ lãnh hậu quả rất lớn. Thế kỷ 21 này chúng ta có nhiều hướng. Chúng ta phải làm sao thoát ra lệ thuộc. Dẫu có đau đớn nhưng rồi cũng vượt qua”, ông Lâm nói.
Ông Huỳnh Tấn Mẫm cho rằng, tình hình gây rối ở Bình Dương vừa qua cho thấy công an, chính quyền yếu quá. Công ty bị đốt thì không thấy xe chữa cháy đến, bị đập phá thì không thấy công an can thiệp. Ông Mẫm đề nghị phải kỷ luật Đảng Ủy tỉnh này qua sự vụ nêu trên.
Ông Mẫm cũng đánh giá cao đối với các ý kiến phát biểu của TPHCM tại kỳ họp Quốc hội. Tuy nhiên, ông cảm thấy tiếc nuối khi kỳ họp này không ra được nghị quyết liên quan đến việc khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
“Rõ ràng, hữu nghị là không còn. Nói là anh em khắng khít như môi với răng thì không thể cư xử như vậy. Chúng ta chơi bình đẳng. Tôi đề nghị kiện Trung Quốc ra tòa án”, ông Mẫm nói. 
Nhìn nhận lại vụ gây rối ở Bình Dương, ông Trần Ngọc Hổ đồng tình với ý kiến của ông Huỳnh Tấn Mẫm khi cho rằng, lãnh đạo các cấp không chỉ có lời xin lỗi là xong mà đáng bị cách chức. Ông Hổ cho rằng, kỳ họp Quốc hội thành công nhưng sẽ tốt đẹp hơn nếu có các chất vấn dành cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an.
Ông Hổ bức xúc phản ánh việc xây sân golf trong sân bay Tân Sơn Nhất. Một số người người khoác áo quân đội, công an, đeo quân hàm cho oai để… chia đất. “Sân bay Long Thành (Đồng Nai), trước đây Mỹ không dám xây, Việt Nam xây là liều mạng. Đằng sau dự án này là gì mà sao bất chấp vậy?”, ông Hổ bức xúc.
Ông Đặng Văn Khoa (Ủy viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TPHCM) mong muốn cần có Luật Biểu tình để người dân có cơ hội biểu lộ tình cảm của mình với đất nước, thể hiện dân chủ lên tầm mới chứ không phải dân chủ bao cấp. 
Ông Nguyễn Văn Bé, Chủ tịch Hiệp hội các doanh nghiệp TPHCM cho rằng, hiện nay luật vẫn bất cập đối với hoạt động kinh doanh, sản xuất, xuất khẩu. “Chúng tôi không sợ luật vì luật ngày càng tiến bộ nhưng sợ các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật. Luật mong sao càng ngày càng cụ thể, chi tiết để tinh giảm các hướng dẫn thi hành”, ông Bé nói.
Nhân sĩ, trí thức TPHCM ủng hộ việc khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế
Nhân sĩ, trí thức TPHCM ủng hộ việc khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế
Không áp đặt mang ơn
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã chia sẻ rất thẳng thắn, cởi mở các vấn đề mà không chỉ nhân sĩ, trí thức mà cả dân tộc đều quan tâm. Chủ tịch nước khẳng định, Việt Nam không lệ thuộc bất cứ vào nước nào khác. Quan điểm này xưa nay vẫn vậy, là nhất quán. Có chăng, là chỉ làm sâu sắc hơn, hiện thực hóa hơn đường lối này.
Với Trung Quốc hay bất cứ quốc gia nào, Việt Nam luôn thể hiện là quốc gia yêu chuộng hòa bình, hữu nghị trên cơ sở bình đẳng. Hòa bình, hữu nghị vốn là truyền thống tốt đẹp của 2 dân tộc có tự muôn đời. Việt Nam luôn quý trọng những gì Trung Quốc giúp đỡ trong thời gian qua. Nhưng, anh giúp tôi, tôi giúp anh. Chúng ta bình đẳng, tôn trọng.
Chủ tịch nước cho rằng, Việt Nam là nước nhỏ nhưng có trí tuệ và kiên định đường lối độc lập tự chủ chứ không ai chỉ dẫn. Nhờ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ nên kinh tế Việt Nam thay da đổi thịt từng ngày.  
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cho biết, ông đọc rất kỹ công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên, không có câu chữ nào cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc.
Về biển Đông, Chủ tịch nước khẳng định, cái gì của chúng ta, có lịch sử, có luật pháp quốc tế công nhận thì đó là của chúng ta. Đời chúng ta đòi không xong thì đời con cháu chúng ta cũng đòi cho bằng được. Chủ tịch khuyên mọi người phải hết sức bình tĩnh, đừng để bị ai khiêu khích.
Về việc Trung Quốc nói từng giúp đỡ Việt Nam trong các giai đoạn khó khăn, trong quá trình giành độc lập, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định Đảng và nhân dân Việt Nam không quên sự giúp đỡ nghĩa tình đó. Tuy nhiên, không vì sự giúp đỡ này mà áp đặt.
“Ta không quên ơn bội nghĩa nhưng đừng vì những khẩu súng giúp nhau trong thời chiến tranh mà bắt ta phải nhớ ơn. Họ cũng phải cảm ơn ta, nếu ta không chống xâm lược thì giặc cũng tràn vào họ. Không nên hành xử mang tính chất áp đặt. Mang ơn thì có cách trả ơn chứ không áp đặt”, Chủ tịch Trương Tấn Sang nhấn mạnh.
Công Quang


van hoa
(6/26/2014 6:48:00 PM)
Nếu anh giúp tôi, cớ sao anh giúp xong lại đi xâm chiếm tôi? Chẳng qua đó chỉ là toan tính ích kỷ tham lam của anh mà thôi
Anh dũng
(6/26/2014 6:47:00 PM)
Tôi cho rằng, lệ thuộc kinh tế Trung quốc cũng có nghĩa ta bị xâm lược về kinh tế. Cần phải làm rõ là tại sao Trung quốc với công nghệ lạc hậu lại trúng thầu nhiều dự án từ to đến nhỏ của Việt nam
nguyen tho
(6/26/2014 6:46:00 PM)
TQ giúp VN một nhưng họ đã chiếm của VN hàng trăm ngàn lần rồi, đó là biên giới 1979, hoàng sa, gac ma 1988.......
Lai
(6/26/2014 6:45:00 PM)
Khổng tử nói làm ơn không bao giờ kể ơn và không bao giờ mong người trả ơn. Đã chịu ơn thì chúng ta không bao giờ quên ơn, nhưng TQ xấu chơi thành ra ơn đó đã tự họ đánh mất, gây ai oán lòng người Việt Nam Đừng vin vào chút công lao đó mà toan tính lợi dụng lòng tốt của nhau Trung Quốc nước lớn mà hành xử rất tiểu nhân
dang tran tu
(6/26/2014 6:43:00 PM)
Người Việt Nam hầu hết đều biết rõ về lịch sử Trung Hoa. Từ thời cổ đại đến nay Các thời Kiệt, Trụ, Châu đều chiếm đoạt và thống trị các nước chư hầu. Thời Đông Châu Liệt quốc, Xuân Thu đều xảy ra cá lớn nuốt cá bé, nước lớn dùng mọi mưu chước xâm lấn nước yếu, mục đích chiếm đoạt ngôi thống trị. Tần Thủy Hoàng mưu đồ bá chủ gồm thâu lục quốc, thống trị Trung Hoa Trãi dài theo các triều đại Hán Tống Nguyên Minh Thanh đều mưu đồ bá chủ thiên hạ, xâm chiếm lân bang. Người Việt Nam ai cũng biết qua những cơn bão xâm lăng của Đại Hán, Đại Tống, Đại Nguyên, Đại Minh, Đại Thanh đều Đại bại ở Việt Nam Người dân Trung Hoa từ thời cổ đại, không chịu nỗi sự hà khắc của giai cấp thống trị, bỏ xứ lưu vong khắp nơi trên thế giới, họ cũng đến Việt Nam, sống hòa nhập với người địa phương. Người Việt Nam đều biết bản chất các vương triều Trung Hoa và biết cách đối phó Đại Tướng Võ Nguyên Giáp nói “Từ lo sợ không có trong tư duy quân sự Việt Nam”
Nguyễn Duy Ngọc
(6/26/2014 6:40:00 PM)
Trong mấy nghìn năm họ đã nợ dân tộc ta quá nhiều, chưa trả được thì họ lại tiếp tục mắc nợ .
Ngo chi Minh
(6/26/2014 6:37:00 PM)
Lấy cớ giúp đỡ rồi đòi nộp đất ?
Nguyễn Nguyên
(6/26/2014 6:36:00 PM)
Hoàn toàn ủng hộ thông điệp trước đây của Thủ tướng và nay là tuyên bố của Chủ tịch Nước.
thienbinh55
(6/26/2014 6:30:00 PM)
Giúp VN đánh Mỹ ư? chẳng qua cũng vì lợi ích của họ mà thôi, họ sợ Mỹ nếu chiếm được VN thì thực khó khăn cho họ. Từ xưa tới nay TQ luôn có dã tâm xâm lược VN. vụ chiến tranh biên giới 1979 là ví dụ điển hình.

Tấn Hiệp
(6/26/2014 6:21:00 PM)
Cho thấy: TQ ngày xưa ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ là không thực bụng mà có sự tính toán của họ. Nếu Việt Nam rơi vào tay Mỹ, họ sẽ mất cơ hội để thôn tính VN, việc mà cả ngàn năm lịch sử họ vẫn chưa đạt được. Thứ 2 là việc có Mỹ bên cạnh thực sự là mối đe dọa. Như vậy vừa mượn tay Việt Nam đánh Mỹ vừa lấy đó làm ơn nghĩa để dễ bề thôn tính chúng ta về sau. Bây giờ họ quyết chơi bài ngữa là dùng vũ lực. Giấc mơ Trung Hoa có lẽ chỉ là chiếm biển đông và Việt Nam.
































































































Phần nhận xét hiển thị trên trang

"Từ tổ Đại Bàng sang chuyện tổ Chim Chích", có phải là câu chuyện buồn??

Bách Việt khởi nguồn của dân tộc Việt hiện đại
( Sưu tầm )

1/ Bách Việt là gì ? 
Bách Việt là tiếng của người Hán dùng để chỉ tập hợp các sắc dân chủng Việt (phần lớn cư ngụ tại miền nam sông Dương Tử hay sông Trường Giang tức một trong 2 sông lớn của Trung quốc và nằm về phía nam so với Hoàng Hà nằm ở phía Bắc) mà người Hoa Hán gặp gỡ và tranh đấu khi họ bành trướng từ Hoa Bắc (nửa phía bắc của Trung quốc) xuống Hoa Nam (nửa phía nam). Lãnh thổ của bộ tộc Bách Việt, theo huyền sử, là nước Xích Quỷ dưới quyền vua Kinh Dương, bắc giáp Hồ Nam, nam giáp Chiêm Thành, tây giáp Tứ Xuyên, đông giáp biển Đông. Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc khoảng thế kỷ thứ ba trước Công nguyên (TCN), sử sách ghi nhận các nước Hồ Việt (ở Hồ Nam), U Việt (ở Triết Giang), Mân Việt (ở Phúc Kiến), Đông Việt (ở Giang Tây), Nam Việt (ở Quảng Đông), Âu Việt (ở Quý Châu & Quảng Tây), Điền Việt (ở Vân Nam), Lạc Việt (bắc Việt Nam), Chiêm Việt (đảo Hải Nam), v.v... Các nước này nằm kế tiếp nhau từ miền nam sông Dương Tử, qua lưu vực sông Hồng, xuống tận bình nguyên sông Mã.
Sau khi nhà Tần thống nhất được miền bắc Trung Quốc và một số lãnh thổ miền nam sông Dương Tử, các nước Việt nhỏ dần dần bị suy sụp, chỉ có Mân Việt, Đông Việt và Nam Việt nhà Triệu (bao gồm Nam Việt, Âu Việt, Lạc Việt ) là còn tự trị. Sang đến thế kỷ thứ nhất TTL, các nước này cũng bị nhà Hán thôn tính nốt, tuy rằng các tổ hợp Bách Việt vẫn sống rải rác khắp miền nam Trung Quốc. Trải qua thăng trầm của hai ngàn năm lịch sử, phần lớn lãnh thổ Bách Việt đã bị sát nhập vào bản đồ Trung Quốc và rất nhiều văn minh Bách Việt dần dần bị đồng hóa vào văn minh Trung Quốc.

2/ Người Bách Việt hiện nay đang sống ở đâu ?
Cũng từng có thời kì trước, nhiều người cho rằng lãnh thổ sinh hoạt của bộ tộc Bách Việt giới hạn vào miền nam sông Dương Tử. Thật ra, các công trình nghiên cứu khảo cổ và nhân chủng học gần đây cho thấy người Bách Việt đã vượt sông Dương Tử rất lâu trước khi văn minh Trung Quốc bắt đầu thành hình. Gần hơn nữa, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, người Bách Việt sống rải rác trong các vùng Hoa Bắc, điển hình là nước Sở (ban đầu, gồm Hồ Bắc ngày nay),nước Tề (Sơn Đông), nước Tấn (Sơn Tây-Hà Bắc), v.v...

Thứ hai, vì chỉ có nước Việt Nam vẫn còn dùng chữ Việt trong quốc hiệu, có người ngộ nhận cho rằng người Bách Việt đã bị đồng hóa vào văn minh Trung Quốc, ngoại trừ người Việt Nam. Thật ra, tất cả các quốc gia ĐNÁ như Myanmar, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Cam pu chia, Malaysia, Indonesia, Philipin, v.v..., đều do hậu duệ của đại chủng Bách Việt thành lập tại những thời điểm khác nhau.

3/ Bách Việt xuất phát từ đâu và khi nào ?
Các công trình nghiên cứu khảo cổ, nhân chủng, hình thái, ngôn ngữ và di truyền học từ thập niên 1960 đến nay có xu hướng cho rằng người Bắc Á chuyển hóa từ người Nam Á ra. Cụ thể hơn, tổ tiên người Bách Việt đã đi từ nam lên bắc và đóng góp rất nhiều cho nhân chủng người Hoa Hán ngày nay. Đi xa hơn hết là giả thuyết của bác sĩ Oppenheimer. Ông cho rằng ĐNÁ là cái nôi của nền văn minh nhân loại. Trận đại hồng thủy cách đây khoảng 8000 năm làm chìm đắm thềm lục địa Sunda, khiến các cư dân ĐNÁ phải di tản đi các vùng đất khác. Họ chính là những người gây dựng lên nền văn minh đồ đá mới tại Trung Quốc, Ấn Độ, Lưỡng Hà Châu, Ai Cập, và phía đông Địa Trung Hải.
Hiện nay các nhà khoa học thế giới trên thế giới chứng minh rằng nguồn gốc loài người đến từ Châu Phi. Gần đây, tác giả Nguyễn Quang Trọng nhấn mạnh trở lại yếu tố nam thiên trong nguồn gốc bộ tộc Bách Việt. Ông cho rằng người hiện đại thiên di từ châu Phi về phía ĐNÁ, tất cả thuộc chủng Nam Cổ (Australoid) (da đen, tóc quăn, mũi to). Khi gặp biển Đông, một nhóm tràn lên miền bắc Đông Á, đến tận Mông Cổ. Họ thay đổi dần nhân dạng vì lý do môi trường, và lai giống với chủng Altaic thiên di từ Tây Á cách đây khoảng 15000 năm, trở thành dân Bắc Mông (da trắng vàng, tóc thẳng, mắt nhỏ). Dân Bắc Mông ngày càng bành trướng về phía Nam, hợp chủng với giống Nam Cổ tại giữa Trung Quốc ngày nay và tạo thành dân Nam Mông (da ngăm đen, tóc dợn sóng). Chủng Nam Mông này chính là tổ tiên của dân Bách Việt, và cả những người tại các hải đảo Thái Bình Dương.

Ngược với giả thuyết tân nam thiên là giả thuyết tân bắc tiến của tác giả Cung Đình Thanh. Thuyết này nhấn mạnh vào hiện tượng biển tiến để giải thích phương hướng thiên di của người Bách Việt. Theo ông, người hiện đại di cư từ châu Phi đến Ðông Nam Á, tiếp cận biển Đông, một phần đi thẳng ra các hải đảo Thái Bình Dương và châu Úc, phần còn lại trụ tại ĐNÁ. Phần ở lại ĐNÁ, có thể là lưu vực sông Hồng, vì hội đủ điều kiện nên đột biến di truyền, đổi từ giống hắc chủng (da ngăm đen, tóc dợn sóng) ra giống hoàng chủng (da vàng, tóc thẳng). Đây là tổ tiên dân Bách Việt, chủ nhân của nền văn minh Hòa Bình. Những người này đã dần dần tiến lên miền bắc, tức là Trung Quốc ngày nay, theo hai ngã (đông và tây) khi nước biển dâng lên lần cuối từ khoảng 18000 đến 7000 năm trước đây. Giả thuyết tân bắc tiến tức giả thiết thứ hai tương đối phù hợp với các nghiên cứu đa ngành gần đây/
Như vậy có thể thấy người Bách Việt có tổ tiên xa xôi di cư từ Châu Phi đến định cư ở Đông Nam Á khoảng từ 18000 - 15000 năm TCN.

4/ Những thành tựu văn hóa và đặc trưng cơ bản của văn minh Bách Việt là gì ?
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học quốc tế, chúng ta có thể kết luận rằng người Bách Việt:

- là hậu duệ của người hiện đại đầu tiên trong vùng Đông Á (với di chỉ xương hóa thạch kiếm thấy tại Quảng Tây, ước lượng 60000–70000 tuổi).
- sử dụng tiếng nói Austric, một trong bảy ngành tiếng nói cũ nhất của thế giới. Đây là loại tiếng nói đã thành hình và được sử dụng trong quá trình định cư đầu tiên của người hiện đại, trước khi văn minh nông nghiệp ra đời.
- tràn lên miền bắc, hợp chủng với người hiện đại đến từ ngã Bắc và Trung Á và tạo thành người Bắc Á (tiêu biểu là Hán tộc).
- khai sinh kỹ thuật cấy lúa gạo ruộng nước (di chỉ tìm thấy tại Hemudu, nam Trung Quốc, Ban Kao, bắc Thái Lan, Sakai, bán đảo Mã Lai), mở đầu cho nếp sống định canh định cư và văn minh Hòa Bình vào khoảng 10000 đến 15000 năm trước đây.
- phát minh kỹ thuật đồ đồng (tìm thấy tại Ban Chiang, Non Nok Tha, bắc Thái Lan và Phùng Nguyên Việt Nam), tương ứng với sự thành hình của các nhóm Bách Việt cách đây trên dưới 4000, 5000 năm.
Theo các nhà khảo cổ và sử học, một số đặc trưng của văn minh Bách Việt gồm có:
• trồng lúa nước;
• dùng trai, sò và các động vật lưỡng tính làm thực phẩm;
• cắt tóc ngắn và xăm mình;
• mặc quần ngắn, váy ngắn và đội khăn;
• cất nhà sàn;
• văn hóa biển và sông nước (đóng tàu dài, đua thuyền, giỏi dùng thuyền bè và hải chiến);
• đúc trống đồng;
• sản xuất đồ gốm và sứ theo dạng hình học;
• làm đồ sơn mài;
• thờ cúng ông bà;
• tín ngưỡng vật tổ, đặc biệt đối với chim, rắn;
• hội mùa xuân và thu cho trai gái vui chơi để tự do lựa vợ kén chồng.
• mai táng theo thế bó gối.

5/ Mối quan hệ giữa dân tộc Việt và dân tộc Hán như thế nào ?

1. Về nhân chủng học
Trong bài này, Việt tộc có nghĩa là hậu duệ của người Bách Việt. Như vậy, Việt tộc ngày nay bao gồm một số lớn người Hoa Nam và gần như toàn thể dân ĐNÁ. Trong khi đó, Hán tộc là một danh từ không có nghĩa rõ ràng. Tổ tiên người Hán là dân du mục (như dân Mông Cổ ngày nay), với văn hóa chăn nuôi, hỏa canh. Họ di cư đến miền tây bắc Trung Quốc từ phía Trung Á. Lúc ban đầu, họ sống trên những cánh đồng cỏ Cam Túc, Thiểm Tây, v.v..., và lập ra nền văn minh Hoa Hạ dẫn đến các triều đại Thương và Châu. Đến thời nhà Tần và Hán, người Hán dần dần thôn tính các nước người Việt chung quanh, mở đầu cho nền văn minh đa sắc tộc Trung Quốc. Trong thời kỳ phong kiến, người Hán thường dùng các danh từ có ý miệt thị như Đông Di và Nam Man để chỉ người Bách Việt. Nhưng đột nhiên đến đầu thế kỷ 20, khi Tôn Trung Sơn khai sinh ý niệm Trung Hoa Dân Quốc với năm chủng tộc Hán, Mãn, Mông, Tạng, Hồi, thì Việt tộc chính thức biến mất trong bản đồ sắc tộc Trung Quốc.
Ý nghĩa của chủ thuyết Trung Quốc ngũ chủng là gì? Vì Việt tộc tại Trung Quốc không thể nào tuyệt chủng, cách suy diễn hợp lý duy nhất là người Hán và Việt đã hợp nhất thành một chủng tộc, do đó người Hoa gốc Việt tại Hoa Nam ngày nay được hoàn toàn xem như người Hán. Lối suy luận này cũng hàm ý lịch sử là giống người Bách Việt man di mọi rợ ghi trong cổ sử đã được người Hán khai hóa, và đến đầu thế kỷ 20, quá trình Hán hóa coi như hoàn toàn. Tóm lại, thuyết ngũ chủng chẳng qua chỉ là một cách tiếp tục che dấu khéo léo những đóng góp to lớn của người Bách Việt vào huyết thống và văn hóa Trung Quốc.
Những đóng góp đó là gì? Như trình bày ở phần trên, người Bách Việt đã mang văn minh trồng trọt, làm đồ gốm và thuyền bè lên miền bắc, do đó góp phần rất đáng kể cho sự bành trướng dân số, lãnh thổ và văn minh của Hán tộc. Về kim loại, rất có thể người Bách Việt đã truyền kỹ thuật đúc sắt cho người Hán. Theo các nhà nghiên cứu trong ngành luyện kim và khảo cổ, kỹ thuật luyện sắt tại Trung Quốc bắt nguồn từ hai ngã độc lập nhau:
• từ nước Ngô (Bách Việt) vào đầu thế kỷ thứ năm hay cuối thế kỷ thứ sáu TCN.
• từ dân du mục Scythian (miền nam nước Nga) qua vào khoảng thế kỷ thứ tám TCN.

Các nhà kim loại học đề xuất rằng sự phát triển dụng cụ và vũ khí bằng sắt tại Trung Quốc bắt nguồn từ miền nam là chính yếu. Từ nước Ngô, đồ sắt truyền qua nước Sở trong vòng một thế kỷ và các nước chư hầu nhà Châu một thế kỷ sau đó. Lí do tại sao kỹ thuật sắt của người du mục miền tây bắc không nhanh chóng truyền xuống đồng bằng Trung thổ vẫn còn là một nghi vấn của lịch sử.
Như vậy có thể nói rằng người Hoa tại vùng Hoa Nam (nửa phía nam TQ ngày nay gồm cả Quảng Đông, Quảng Tây, Đảo Hải Nam,…) vốn là dân Bách Việt. Sau này do sự bành trướng lãnh thổ của người Hán xuống phương Nam, khu vực này bị nhập vào Trung Quốc thời Tần Thủy Hoàng (200 năm TCN) và dưới sự đồng hóa ráo riết của Hán tộc những cư dân này dần dần bị đồng hóa với người Hoa đến nỗi sau này họ quên đi nguồn gốc Bách Việt của mình. Còn người Hoa Bắc - tổ tiên của người Trung quốc hiện đại vốn có gốc từ dân du mục.

2. Về văn hóa
Nói tóm lại, Trung Quốc có thể xem là một thí dụ của Hiệp Chủng Quốc lâu đời nhất, là kết quả lai tạp giữa rất nhiều bộ tộc, dân tộc trong suốt quá trình lịch sử. Là một nền văn minh đa văn hóa, Trung Quốc có khả năng tiếp thu và phát triển các kỹ thuật đến từ mọi hướng. Người Hán rất tài tình trong việc thu lượm, vay mượn, cưỡng chiếm, chế biến và tổng hợp các thành tựu văn hóa và kỹ thuật của các sắc dân chung quanh, đặc biệt là dân Bách Việt. Vì là kẻ thống trị, người Hán có động cơ coi thường, che dấu, xóa bỏ văn minh của các giống dân bị trị với mục đích đề cao vai trò khai hóa của mình. Dùng chữ viết thống nhất như là một vũ khí vô địch, người Hán đã rất thành công trong việc thi hành các chính sách này. Trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc, người Hoa Hán đã cố tình tìm cách tiêu hủy văn minh Lạc Việt, nghiêm trọng nhất là trong thời kỳ nhà Hán và nhà Minh.
Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy cổ sử Trung Quốc viết về người Bách Việt với giọng điệu miệt thị và đầy rẫy những sai lạc. Những sai lầm này một phần do lối suy nghĩ tự tôn Hoa Hán bá chủ, một phần do thiếu hiểu biết tìm tòi, và một phần lớn là cố tình bóp méo sự thật. Tác phẩm xuyên tạc người Bách Việt nhất có lẽ là Hậu Hán thư (HHT) của Phạm Việp. Dựa trên HHT, sử gia Trần Trọng Kim của Việt Nam viết rằng người Việt học nghề trồng lúa từ Thái thú Nhâm Diên thời Đông Hán (đầu thế kỷ thứ nhất), trong khi thật ra người Việt đã sản xuất và tiêu thụ gạo nhiều ngàn năm trước. HHT cũng cho rằng nguời Bách Việt chưa biết mặc quần áo, trong khi một khai quật khảo cổ tại Bắc Giang cho thấy cách đây 3400 năm, người Việt đã biết dệt vải làm áo.
Cho đến tương đối gần đây, người Hán vẫn tự mãn, vẫn cho mình là trung tâm văn hóa loài người. Khi tìm ra xương người đứng thẳng (homo erectus) hóa thạch tại Chu Khẩu Điếm Bắc Kinh, trong thập niên 1920, các nhà nhân chủng học Trung Quốc vội vàng lập thuyết cho rằng người Hán là thủy tổ các sắc dân vùng ĐNÁ. Niềm tin chủ quan sai lầm đó vẫn còn tồn tại trong một số nhà khoa học Trung Quốc cho đến đầu thập niên 1990. Năm 1986, các nhà khảo cổ tìm thấy di tích đồ đồng kỹ thuật cao Sanxingdui của nền văn minh Shu (Thục) tại Tứ Xuyên. Trung Quốc đã gán cho đồ đồng này niên đại 1200 năm TCN mà nhiều nhà khảo cổ Phương Tây cho rằng trẻ hơn tuổi thật rất nhiều. Lý do là vì người Trung Quốc rất hãnh diện về đồ đồng nhà Thương, mà đồ đồng nhà Thương mới chỉ có độ 1300 năm TCN. Mặt khác, một số học giả Trung Quốc lại tranh chấp chủ quyền trống đồng với các học giả Việt Nam, mặc dù cả thế giới cũng công nhận Trống Đồng là sản phẩm văn hóa và kỹ thuật độc đáo của người Bách Việt cụ thể hơn là người Lạc Việt - mà con cháu là những người Việt Nam hiện nay.
Về tiếng nói, có nhiều bằng chứng cho thấy, cùng với sự tiếp thu nền văn minh nông nghiệp lúa nước của người Bách Việt, người Hán đã thu nhập tiếng Việt vào trong vốn từ vựng của mình. Điều này không phải ai cũng biết vì khi học Tiếng Việt ai trong chúng ta cũng ít nhất một lần được nghe đến khái niệm từ Hán Việt (tức những từ trong Tiếng Việt mượn từ Tiếng Hán) Không phải ai cũng biết rằng trước đó ngược lại có từ Việt Hán. Ngày nay, chúng ta vẫn có thể tìm thấy trong Hán ngữ những từ gốc Việt như Nữ Oa, Thần Nông, Ðế Nghiêu, Ðế Thuấn, v.v... Ngay cả trong Kinh Thi, một bộ sách quan trọng vào bậc nhất đối với người Hán, cũng có khá nhiều thí dụ ảnh hưởng cách nói của người Việt. Theo một số tác giả, trước thời Hoàng Đế - người được coi là vị tổ của dân tộc Hán, người Bách Việt đã sử dụng chữ Hỏa tự và chữ Khoa đẩu. Khi phát minh ra chữ vuông, người Hán đã dùng chữ vuông ký tự những chữ Việt đó, rồi đương nhiên coi là tiếng Hán, chữ Hán. Về văn chương, người Hán đã tiếp thu Sở Từ, một lối thơ gieo vần của dân Sở, mà người Hán cho là loại thi ca cổ đại hay nhất. Về tư tưởng thì không những Đạo Lão có nguồn gốc Bách Việt, mà một vài nhà nghiên cứu, thí dụ như triết gia Kim Định, còn đòi lại Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Thư, v.v..., cho người Việt. Gần đây, ngày càng có nhiều người hiểu và chứng minh được Kinh Dịch là của người Việt.
Sau một ngàn năm Bắc thuộc, hấp thụ không biết bao nhiêu tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật dán nhãn hiệu Hoa Hán (mặc dù một phần rất lớn có nguồn gốc Bách Việt), người Việt khó tránh khỏi ít nhiều mặc cảm tự ti dân tộc đối với người Hán. Mặc cảm tự ti đó dẫn đến tinh thần vọng ngoại, cái gì của Tàu cũng lâu đời, cũng thật, cũng tốt, còn cái gì của ta cũng bắt chước, cũng giả, cũng xấu, thậm chí có người còn nghĩ rằng người Việt có gốc Tàu…

Rất may là các công trình nghiên cứu khách quan, nghiêm túc của các nhà khoa học quốc tế thời nay đã giúp soi sáng phần nào các đóng góp to lớn của bộ tộc Bách Việt. Ngày trước, các bậc học giả Việt Nam tiền bối có thể viết sai vì thiếu dữ kiện, không có điều kiện nghiên cứu hay ỷ lại vào các tài liệu chủ quan, thiếu chính xác của Trung Quốc. Nhưng với các phát kiến ngày nay, các lỗi lầm đó không thể tha thứ được. Đã đến lúc chúng ta phải mạnh dạn sửa đổi các sách vở cũ cho phù hợp với bước tiến của khoa học, và phải biết đến và tuyên dương các thành quả của các bậc tiền nhân Bách Việt.

-----------------------------------------

Phần nhận xét hiển thị trên trang

LẠI RÚT NỮA RÙI!

100 triệu view và vài lời kính cáo

Nguyễn Quang Lập
100 triệu lượt người truy câp



100 triệu view đến từ hôm qua, ngày 25/6, sau 3 năm bọ Lập vào Sài Gòn. Khi vào Sài Gòn Quê Choa chỉ có 7 triệu view, bọ Lập tính đến 10 triệu view thì cho Quê choa đóng cửa vì quá mệt mỏi và mất thời gian. Mệt mỏi và mất thời gian cũng  không đáng sợ, đáng sợ nhất là phải sống trong sợ hãi. Nhưng rồi chẳng những bọ Lập không đóng cửa Quê Choa mà còn mở rộng đề tài và nội dung khiến số view tăng vọt, chỉ trong ba năm nó đã đạt con số 100 triệu view.
Bọ Lập không còn trẻ nữa để chơi trò câu view, bọ cũng thừa nổi tiếng ( trong nước) để không cần phải nổi tiếng hơn nữa, chỉ vì bọ nghe theo cụ Phan Châu Trinh: "Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh". Đó là lời kêu gọi luôn đúng cho mọi thời, thời này càng đúng đắn và khẩn thiết. 
100 trước của cụ Phan Chu Trinh và ngày hôm nay của chúng ta 10 nỗi nhục sau đây không có gì thay đổi:
 1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước; thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày.
2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề; thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.
3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc; thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.
4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau; thì ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau vì chữ lợi.
5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có; thì ta quen thói bất nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng.
6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết; thì ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đình bán hết ruộng hết trâu.
7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo; thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp.
8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lý, thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.
9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân; thì ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu trời khấn Phật.
10.Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là “đầy tớ” của dân, được dân tín nhiệm; thì ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v...
189 nước có người truy cập Quê Choa
Muốn không còn 10 nỗi đắng cay và nhục nhã đó cần phải khai dân trí, chấn dân khí. Muốn khai dân trí, chấn dân khí trước tiên và trên hết phải cho dân biết SỰ THẬT. Chỉ có cách đó, không có cách nào khác.
Bọ Lập không có khả năng và trình độ để khai dân trí, chấn dân khí  nhưng lại có khả năng dùng blog Quê Choa  làm con thuyền chuyên chở SỰ THẬT đến với dân.

 Làm anh nhà văn luôn mồm nói về nhân nghĩa, về cái tâm, về sống vì dân viết vì dân vân vân và vân vân... vô lẽ lại đắp tai cài trốc trước lời kêu gọi khẩn thiết của tiền nhân? Thế thì hèn quá! Thế thì thà vứt bút đi về nhà ôm đít vợ còn hơn suốt ngày ngửa mặt ngóng chờ giải thưởng nọ danh hiệu kia,  không thèm biết đến dân tình khốn nạn thế nào, đất nước điêu đứng ra sao. Sống thế khác gì an phận làm con chó giữ nhà cho chủ, mong chờ chủ xón ra giải thưởng nọ danh hiệu kia để vui sướng vẫy đuôi liếm láp?


 Bọ Lập từ trước đến nay không theo ai không chống ai, và sẽ không theo ai không chống ai, vì đó không phải việc của nhà văn. Trước sau bọ Lập xin làm một người lái đò nhỏ chở con thuyền SỰ THẬT  đến với dân, chỉ vậy thôi, không có gì khác.

 Nhân đây cũng xin báo: Bọ Lập xin rút tên mọi hội hè đoàn thể mà bọ đã có tên trước đến nay, từ Hội nhà văn đến Văn đoàn độc lập, từ Hội sân khấu đến Hội điện ảnh v.v. Bọ Lập không thích và chả phục Cao Hạnh Kiện nhưng rất mê câu nói này của ông: Sáng tạo văn học là một hoạt động đơn độc mà không một phong trào nào, một phe nhóm nào có thể giúp được, ngược lại nó rất dễ bị những thứ đó giết chết. Chỉ khi nhà văn là một cá nhân biệt lập, không thuộc về một phe nhóm, trào lưu chính trị nào thì hắn mới có được tự do hoàn toàn.

  Bọ Lập suy nghĩ rất nhiều về điều này và quyết định nghe theo ông, dù biết mình đã già, tài cán chẳng bao nhiêu, viết lách sẽ không còn được nhiều nữa.
Vài lời kính cáo.
Nguyễn Quang Lập

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Việc làm bất hạnh nhất

Nguyễn  Hùng


    Cuộc sống con người, loài động vật cấp cao nhất trên trái đất, đã trải qua nhiều ngàn năm tồn tại đến nay không ngoài hai nhu cầu: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.

Với nhu cầu vật chất: Đơn giản nhất là làm sao có cái gì ăn để sống qua ngày rồi đến việc tìm kiếm, chế biến những cái ăn ngày càng ngon, bổ hơn.

Cơ thể con người có nhu cầu cần che chở để có thể sống được, nên cần những vật dụng như quần áo, nhà cửa…; từng bước từ thô sơ, đơn giản, đến phức tạp; ngày càng thẩm mỹ hơn.

Để giúp con người đi lại vui chơi hay buôn bán, các phương tiện đã được phát triển và hoàn thiện không ngừng.

Với nhu cầu tinh thần: các bộ lạc, làng xã, quốc gia đã hình thành, tôn trọng những chuẩn mực mà con người lấy đó làm thước đo tốt xấu; được xã hội tôn vinh hay nguyền rủa với mức độ khác nhau.

Ngày nay, đã có những chuẩn mực về đạo đức, cống hiến nền tảng được mọi người thừa nhận.

Chẳng hạn về chuẩn mực đạo đức làm người; ai ai cũng đều thừa nhận rằng: ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây.

Về chuẩn mực tinh thần đóng góp cho xã hội: một người sẽ có công trạng càng lớn nếu đóng góp của họ càng lớn.

Đây là bài học vỡ lòng mà phàm là con người thì ai ai cũng phải biết!

Con người sẽ cảm thấy càng hạnh phúc nếu việc làm của mình không trái với đạo đức và sự cống hiến của mình càng lớn.

Có những việc làm của con người có thể được xem như bất hạnh nhất.

Ví dụ: Việc mình làm có hại cho tổ quốc, dân tộc!

Tại sao việc mình làm có hại cho tổ quốc dân tộc được xem như việc làm bất hạnh nhất?

Mọi người chúng ta đều thừa nhận rằng: đất nước có được là do sự hy sinh, đóng góp của biết bao thế hệ ông cha mới có được như ngày hôm nay; do đó, nếu ai đó không thấy được điều này thì rõ ràng họ không có trí tuệ. Nếu họ có trí tuệ mà vi phạm điều này thì ắt là họ vi phạm điều đạo đức căn bản được mọi người thừa nhận là: “ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây”.

Một khi điều đạo đức căn bản này bị vi phạm thì không ai còn dám nhận mình là bạn bè với họ; và lại càng không dám nhận mình là người thân với họ!

Lịch sử dân tộc Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới đã chỉ ra điều đó.

Ai là người dân Việt Nam dám nhận mình là hậu duệ của Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc?!

Có những quân mãi quốc cầu vinh hiện nay tuy chưa được sử sách chính thống ghi chép, vì nhiều lý do, nhưng đừng lấy đó làm mừng! Lưới trời lồng lộng! Lịch sử sẽ rất công bằng và các vị không thể trốn thoát được đâu, đừng có ảo tưởng.

Quả thật không có gì bất hạnh hơn, khi những người thân của mình không dám nhận mình là thân nhân của họ và mình bị đất nước đời đời nguyền rủa!

Hãy nhìn gương của Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc thì biết đấy!


Phần nhận xét hiển thị trên trang

CÓ NHIỀU CÁCH ĐỂ ĐƯỢC NỔI TIẾNG MÀ NHIỀU NGƯỜI CÓ THỂ LÀM!

Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương

Dù trên mạng xã hội, Lệ Rơi đang là một cái tên rất hot nhưng ngoài đời anh chàng vẫn ngày ngày đạp xe đi làm vườn.

Sáng nay (26/6), chúng tôi đã có cuộc đột kích về tận trang trại của chàng ca sĩ Lệ Rơi (tên thật làNguyễn Đức Hậu) tại xã Liên Mạc - Thanh Hà - Hải Dương. Khác hẳn với việc đang nổi tiếng ầm ầm trên mạng xã hội và được rất nhiều người chú ý thì ngoài đời Lệ Rơi vẫn ngày ngày cặm cụi với công việc làm vườn bình thường như một người nông dân thực thụ của mình.
Sau khi hoàn thành công việc, Lệ Rơi bắt tay vào thực hiện cover các bài hát. Mỗi ngày Lệ Rơi có thể cover đến 4, 5 thậm chí là chục bài hát đủ các thể loại, từ nhạc vàng đến nhạc trẻ, từ tiếng Việt đến tiếng Anh. Chỉ trong vòng 1 tháng xuất hiện trên mạng xã hội với những bản cover đình đám, Lệ Rơi đang là một trong những từ khóa hot nhất trong giới trẻ hiện nay.
Mỗi clip của anh chàng xuất hiện đều thu hút sự chú ý của rất nhiều người với những lời bàn tán xôn xao. Bên cạnh những lời châm chọc, chế giễu, cười cợt vì giọng hát dở tệ thì cũng có không ít người tỏ ra thích thú khi được xem những clip của Lệ Rơi và coi đó như một sự giải trí cực kì hữu hiệu.
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Chàng trai Nguyễn Đức Hậu đang chăm sóc vườn ổi tươi tốt của gia đình
Trước đó, anh chàng Nguyễn Đức Hậu từng trả lời phỏng vấn rằng mình sở hữu 1 bằng ĐH Kinh tế Kĩ thuật Công nghiệp Hà Nội và 1 văn bằng hai của ĐH Kinh tế Quốc dân. Thế nhưng, theo tìm hiểu từ địa phương, thì anh chàng này thực chất chỉ mới có 1 bằng Cao đẳng. Ngoài ra, việc Lệ Rơi nói đến mô hình vườn ao chuồng với hơn 2 mẫu ổi cũng là một sự "nói quá" khi gia đình chàng ca sĩ này chỉ có khoảng gần 6 sào ổi.
Cùng khám phá một ngày của chàng "ca sĩ" đang nổi đình, nổi đám này:
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Vườn ổi rộng chừng 6 sào của nhà "ca sĩ" Lệ Rơi, mỗi năm giúp gia đình anh chàng thu về cả trăm triệu
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Lối vào vườn ổi tươi tốt
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Căn nhà nhỏ nằm giữa vườn ổi
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Chiếc xe đạp cà tàng của Lệ Rơi và bố mẹ dùng để đi làm đồng
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Bố của "ca sĩ" Lệ Rơi
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Chàng "ca sĩ" nổi tiếng cộng đồng mạng đang chăm chỉ làm vườn
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Anh chàng đạp xe về nhà sau khi hoàn thành công việc buổi sáng
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Căn nhà đơn sơ
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Trong ngôi nhà của chàng "ca sĩ online" này có khá nhiều bức ảnh cũ
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Đồ đạc trong nhà của "ca sĩ" Lệ Rơi
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Sau buổi trưa đi làm đồng về, Lệ Rơi nghỉ ngơi và bắt tay vào thực hiện những clip theo yêu cầu của bạn bè và các fan. Lệ Rơi chia sẻ: "Những ngày gần đây mình bị rất nhiều người khủng bố nhắn tin gọi điện suốt ngày để yêu cầu co - ve (cover - PV) bài này, bài kia, thậm chí có cả những người dọa đánh mình nếu mình còn tiếp tục hát nữa. Mình rất mệt mỏi nên đã tắt điện thoại không liên lạc với ai cả".
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Phòng thu với chiếc máy tính và bộ loa đã giúp "ca sĩ" Lệ Rơi nổi đình, nổi đám
Cận cảnh trang trại ổi và cuộc sống của Lệ Rơi tại Hải Dương
Lệ Rơi bắt đầu thực hiện việc thu âm trên chiếc giường của mình
Một bản thu của Lệ Rơi ở quán cà phê

Bài hát chế về "ca sĩ" Lệ Rơi của một chàng trai (Nguồn Youtube)



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thôi, làm nghề khác cho nó lành!

Tác nghiệp sau cổng trại giam số 3 và những sự thật chấn động dư luận

Sáu tháng điều tra, gặp gỡ các nhân chứng, thu thập chứng cứ, hành trình của phóng viên mãi mãi sẽ là bí mật nếu bài báo không được đăng tải và những bức ảnh không được sử dụng trong một phiên tòa chấn động dư luận. 
 >> Kinh hoàng hình ảnh phạm nhân “đâm” heroin trong trại giam

Từ TP.Vinh phải đi tiếp quãng đường hơn 100 km lên thị trấn Tân Kỳ (tỉnh Nghệ An), chúng tôi mới tìm gặp được tác giả của bài điều tra không được công bố về tình trạng sử dụng ma túy trong trại giam từ hơn hai năm trước. Bất ngờ là phóng viên năm xưa đã chia tay nghề báo, chuyển sang kinh doanh tại thị trấn quê nhà.
Phải khó khăn lắm chúng tôi mới thuyết phục được anh chia sẻ quá trình điều tra nguy hiểm và số phận hẩm hiu của bài viết một thời. Ở số báo trước (ra ngày 24/6/2014), Báo PLVN đã giới thiệu bài viết trên đến bạn đọc. Hôm nay, chúng tôi xin ghi lại hành trình tác nghiệp của anh.
 
Bán ma túy trong buồng giam
Bán ma túy trong buồng giam
Chuyện của người mẹ đi nhờ xe
Thông tin về việc sử dụng ma túy trong trại giam bắt đầu từ cuộc gặp gỡ tình cờ giữa tác giả bài viết với một người nhà phạm nhân. “Qua Tết Nguyên đán năm 2011, hôm đó trên đường đi từ Tân Kỳ về Vinh công tác, tôi gặp một người phụ nữ với dáng vẻ lam lũ đứng bên đường xin đi nhờ xe. Và câu chuyện chị ta kể đã đưa tôi đến với phóng sự này” – anh kể.
Qua câu chuyện được biết, người phụ nữ ở TP.Vinh đi thăm gặp con trai đang thi hành án ở Trại giam số 3 trở về. Khi những e ngại ban đầu nhường chỗ cho sự cảm thông hoàn cảnh, người phụ nữ có vẻ cởi mở hơn, tâm sự: “Khổ lắm chú ạ, không biết trong tù nó làm gì mà tiêu tiền ác lắm. Điện thoại về nhà réo xin tiền liên tục. Nghe mấy người cũng đi thăm tù nói, xin tiền kiểu đó chỉ có để mua heroin thôi. Tôi lo cho nó lắm...”.
Chị này còn kể nhiều việc liên quan đến cải tạo con người ở Trại giam số 3 nữa. Câu chuyện và ánh mắt của người phụ nữ đi nhờ xe cứ ám ảnh tâm trí phóng viên. Nó thôi thúc anh phải bằng mọi giá điều tra tìm hiểu, đưa sự việc ra công luận, với mong muốn các cơ quan chức năng vào cuộc, trả lại sự trong sạch theo đúng nghĩa cải tạo con người cho nơi đặc biệt này.
Qua cổng trại giam
Mấy ngày sau, anh đã đến Trại giam số 3, tìm cách tiếp cận nhà thăm gặp của trại giam với hy vọng tiếp xúc được với gia đình phạm nhân để nắm thêm tình hình và tính xác thực của câu chuyện. Nhưng nhà thăm gặp nằm trong hàng rào cao gần 5m, phía trên có mấy vòng thép gai, duy nhất có một cửa ra vào được canh gác suốt 24h.
Muốn qua cổng gác bắt buộc phải xuất trình Sổ thăm gặp và có đơn xác nhận của chính quyền địa phương. Phóng viên đã phải vận dụng tất cả các mối quan hệ, tìm và làm quen các thân nhân có con, em đang cải tạo tại Trại giam nhờ giúp đỡ để có cơ hội vào trại.
Tìm được người có con em đang cải tạo nơi đây đã rất khó, còn phải trình bày như thế nào để họ giúp mà không bị lộ thông tin, kế hoạch điều tra vụ việc ra ngoài còn khó hơn. Bởi khi con em của mình đang còn thụ án, việc giúp nhà báo tìm hiểu các bí mật phía bên trong bốn bức tường cao đó là điều ai cũng phải cân nhắc, suy nghĩ kỹ.
Sau nhiều ngày chuẩn bị, anh đã được một người tên M đồng ý cho đi cùng để thăm người nhà tên B, đang cải tạo ở trại giam này. Khi ngồi chờ B được đưa ra, anh đã chú ý lắng nghe hết các cuộc trao đổi giữa người nhà với phạm nhân. Hầu hết các phạm nhân đều xin tiền, và người nhà đều chất vấn con em họ rằng: “Tiêu gì trong đó mà nhiều tiền thế...?”.
Lân la ở nhà thăm gặp, tranh thủ tiếp cận và hỏi chuyện một số phạm nhân tự giác (phạm nhân đi làm việc không bị canh gác) đang làm công việc phục vụ nơi đây, phóng viên nắm thêm nhiều thông tin khác. Vậy là đã rõ, có đủ cơ sở ban đầu để khẳng định rằng: Tình trạng phạm nhân sử dụng ma túy trong trại giam này là có thật.
Nhưng làm thế nào để có bằng chứng về hành vi vi phạm pháp luật này? Mọi hoạt động của Trại giam đều nằm trong những bức tường cách biệt với xã hội. Việc ra vào của bất kỳ ai đều bị kiểm soát rất gắt gao. Người còn không vào được thì làm sao để có được các chứng cứ?!
Để có những bức ảnh này, phóng viên đã phải mất nửa năm điều tra
Để có những bức ảnh này, phóng viên đã phải mất nửa năm điều tra
Lọt vào “tầm ngắm” của công an
Trong những ngày bế tắc đó, phóng viên nhiều lần xuất hiện xung quanh khu vực Trại giam để tìm kiếm thêm thông tin. Tình cờ cũng thời gian này, Công an huyện Tân Kỳ đang theo dõi, điều tra một vụ mua bán ma túy ở xã Nghĩa Dũng (Trại giam số 3 đóng ở xã này).
Anh nhớ lại, có lần đang đi xe máy trên đường làng thì bất ngờ xuất hiện tổ Công an chặn xe lại kiểm tra giấy tờ và khám xét. Một lần khác đang ngồi uống nước, anh bị một thanh niên vô cớ đến gây sự, dẫn đến cả hai bị công an đưa về trụ sở giải quyết. Sau này khá lâu anh mới biết tất cả những lần tình cờ đó hoàn toàn không phải là... vô cớ. Chính vì sự xuất hiện liên tục tại đây đã khiến phóng viên bị lọt vào “tầm ngắm” của Công an huyện.
Trong quá trình điều tra tình trạng ma túy trong trại giam này, anh biết mình đang đối đầu với ai, và hậu quả sẽ ra sao nếu việc điều tra bị phát giác. Những phạm nhân mua bán ma túy trong trại giam hiểu rất rõ: Nếu hành vi phạm pháp bị lộ sẽ chịu thêm một bản án mới với mức án không “rẻ” cộng thêm vào án cũ. Trong khi đó, những đối tượng này có đủ điều kiện sai khiến các thế lực bên ngoài xã hội, cũng như đủ độ tàn bạo để tiến hành trả thù và thậm chí “thanh toán” gã phóng viên đã “nhúng mũi” vào việc của mình.
Hơn nữa, việc thu thập chứng cứ quá khó và có thể là không tưởng. Anh không thể có điều kiện để tiếp xúc được với các đối tượng sau song sắt, không thể thực hiện được các biện pháp tác nghiệp thông thường. Chính vì những điều trên đã làm cho phóng viên nản lòng và có lúc run sợ. Nhưng tiếng thở dài thõng thượt của người phụ nữ đi nhờ xe, những ánh mắt lo lắng của các bà mẹ đối với ngày trở về của con mình mà anh đã bắt gặp ở nhà thăm gặp làm cho anh không thể không cố gắng để vượt qua.
Đi tìm nhân chứng
Anh tìm xuống TP.Vinh và các vùng phụ cận, làm mọi cách để có thể làm quen, tiếp cận với những người đã có thời gian cải tạo ở Trại giam số 3 đã hết án trở về. Sau gần một tháng lang thang, anh đã gặp được một “cựu tù Trại 3” có tên là L.T.
Khổ nỗi, nhân vật này lúc đó đang nghiện nặng. Sau nhiều lần tiếp cận làm quen, L.T đã kể hết cho anh nghe tình trạng buôn bán, sử dụng heroin trong Trại giam số 3. Không những thế, chính anh ta là người từng buôn bán “hàng” trong thời gian cải tạo ở đó. Các mánh khóe giấu, vận chuyển “hàng” và thanh toán tiền như thế nào được anh ta kể ra hết... trong tình trạng đang ... “phê” thuốc.
Chắp nối các câu chuyện mà L.T đã kể kết hợp với những thông tin thu thập được, phóng viên đã cơ bản dựng lên được tên tuổi các trùm mua bán heroin trong trại, đại lý bán lẻ và “ngân hàng đen” đảm trách việc chuyển tiền trong Trại giam số 3.
Anh tiếp tục liên lạc với một phạm nhân khác tên H đang cải tạo ở K1, Trại giam số 3. Người này nguyên là lái xe khách, bị xử phạt 4 năm tù giam với tội danh “Vi phạm các quy định về an toàn giao thông”. H không hề nghiện heroin và chỉ còn mấy tháng nữa là mãn hạn án phạt tù trở về xã hội.
Phóng viên lại phải thực hiện một chuyến thăm gặp người nhà nữa trong Trại giam. Qua buổi gặp gỡ, phạm nhân H đã đồng ý giúp đỡ phóng viên thu thập các chứng cứ. Do trong trại giam có nhiều buồng nên phóng viên đã nhờ H tìm kiếm thêm ba phạm nhân khác ở các buồng giam khác nhau nữa.
Tại sao các phạm nhân lại đồng ý giúp phóng viên khi bản thân họ có thể bị nguy hiểm bởi việc thu thập chứng cứ? Anh nói: “Khi tiếp xúc với môi trường này, tôi mới biết vẫn còn những phạm nhân có lương tâm, ví dụ như H. Tuy nhiên với ba phạm nhân kia thì tôi phải mất một số tiền không nhỏ để “mua” được những bức ảnh đắt giá đó”.
Theo Phương Thành
Pháp luật Việt Nam

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Tư, 25 tháng 6, 2014

Tại sao HQ, Singapore tránh được "lệ thuộc" TQ?




Biến cố lịch sử Trung Quốc đe dọa biển đảo Việt Nam đã thúc đẩy chúng ta nhìn lại sự phụ thuộc của thị trường Việt Nam vào thị trường Trung Quốc. Cùng là châu Á, cùng chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa TQ như chúng ta nhưng tại sao Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore hay thậm chí là Đài Loan đã tránh được?

Đất nước Singapore 
Khi mối quan hệ giữa hai láng giềng Việt Nam - Trung Quốc đang đối mặt với nhiều thách thức, vấn đề giảm bớt sự phụ thuộc kinh tế lại được đặt ra. Tuần Việt Nam xin giới thiệu ý kiến của PGS. Ts Nguyễn Hoàng Ánh, Trường Đại học Ngoại thương.

Làm sao tránh khỏi ... Lọa?

Nhưng mặc dù chê bai hàng Trung Quốc, mà giờ đây dân gian gọi là hàng Tàu nhưng thực tế rất ít ai tránh được nó vì đã tràn ngập khắp hang cùng ngõ hẻm trong đời sống của người Việt.

Như trong truyện ngắn "Trời hỡi làm sao cho khỏi... Lọa???" của Nguyễn Ngọc Tư, chú Tư cấm vợ con dùng hàng Tàu nên không được mở TV (vì hễ mở là có phim Tàu), không dùng điện thoại, không ăn hoa quả, thay hết quần áo, đập chén dĩa, phích nước, đồ điện tử trong nhà.... 

Vợ con chịu hết xiết, một ngày thằng con đi học về bảo chú đồ VN chú bắt mua dùng linh kiện cũng của Tàu, tên mình cũng có gốc Tàu luôn. Muốn đi đổi tên phải làm đơn mà "mấy cái đơn xin không biết viết sao cho nó Việt hết cỡ, thí dụ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" thì mình viết là "một mình sung sướng thoải mái" được không?" Chú Tư ngã vật ra chết giấc. Cũng may nhà còn sót lại chai dầu cù là nhập bên.. Tàu mới đánh gió lay tỉnh chú được.

Truyện ngắn rất thực tế mà cũng rất hài hước ấy cho thấy, tẩy chay hàng hóa của Tàu nói riêng và của các quốc gia khác nói chung trong thời buổi toàn cầu hóa này là bất khả. Trong những dịp đi công tác ở châu Âu, Mỹ... tôi thấy họ dùng hàng TQ rất phổ biến và hàng Made in China cũng có rất nhiều loại, từ cao cấp đến bình dân.

Mặc dù hàng TQ mang tiếng xấu nhưng do sức hút của giá cả, mẫu mã nên vẫn bán khá chạy. Một học giả nước ngoài đã viết: "Bạn khó có thể từ chối dùng hàng Trung Quốc vì quyết định ấy sẽ làm đời sống của bạn sẽ tốn kém hơn nhiều".

Nhưng khó có nước nào mà việc lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc lại "đậm đặc" như Việt Nam, từ hàng tiêu dùng đến những thiết bị viễn thông cao cấp, các công trình thầu EPC... Vì vậy, việc tẩy chay hàng TQ ở VN có vẻ không khả thi, chưa kể nó còn đi ngược nguyên tắc Tự do hóa thương mại của WTO. Và ta cũng phải nghĩ ngược lại, sẽ ra sao nếu Trung Quốc cũng từ chối dùng hàng Việt nam? Quyết định như vậy không chỉ gây tổn hại đến bang giao giữa hai dân tộc mà còn gây thiệt hại cho kinh tế của hai nước.

Vì vậy, thay vì chê bai hàng Trung Quốc sao chúng ta không nghĩ đến việc học hỏi Trung Quốc để làm tốt hơn họ? Ông Nguyễn Thành Nam, nguyên Tổng Giám đốc FPT đã viết trong lá thư gửi con nhân ngày sinh nhật Bác là "ba muốn nói với các con rằng, đừng phê phán kỳ thị, hãy sang Trung quốc để chiêm ngưỡng những thành tựu của họ, tìm lấy 1 sản phẩm, 1 vấn đề mình quan tâm và tự đặt câu hỏi: tại sao họ làm được mà ta lại không làm được? Hàng ngàn, hàng vạn người đặt câu hỏi, sẽ có người tìm được câu trả lời".

Và thực tế là năm 2007 FPT đã thành công trong việc huấn luyên một nhóm lập trình viên, trong đó có cả những người chưa tốt nghiệp ĐH, chỉ trong vòng 6 tháng đạt được năng suất lao động cao hơn các công ty Trung Quốc đã có kinh nghiệm nhiều năm để thắng thầu cung cấp phần mềm cho công ty Nhật Bản. Như một giám đốc người Nhật đã nói "người Việt Nam giỏi lắm, thông minh lắm, kiên cường lắm vì người Nhật đã thua người Mỹ, còn người Việt Nam thì lại thắng nước Mỹ, làm cả nước Nhật thấy sỉ nhục. Nhưng 20 năm qua đi, Nhật Bạn có Toyota, có Honda, có Mitsubishi, Việt Nam có gì? Người Hàn Quốc chịu sỉ nhục trước người Nhật, họ có Hyundai, có Samsung, có LG, Việt Nam có gì?"

Biến cố lịch sử Trung Quốc đe dọa biển đảo Việt Nam đã thúc đẩy chúng ta nhìn lại sự lệ thuộc của thị trường Việt Nam vào thị trường Trung Quốc. Cùng là châu Á, cùng chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa TQ như chúng ta như sao Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore hay thậm chí là Đài Loan đã tránh được sự lệ thuộc kinh tế vào nước khác?

Vì sao một hòn đảo nhỏ như Đài Loan, địa vị chính trị còn khó khăn hơn chúng ta nhiều lại có thể thoát được sự lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc mà chúng ta thì chưa? Đã đến lúc chúng ta phải nhìn lại mình để mở rộng bang giao, đa phương hóa hơn nữa quan hệ kinh tế và nâng cao khả năng tự cường đề chúng ta khỏi chết ngất khi muốn bài trừ hàng nước Lọa như chú Tư trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

Nguyễn Hoàng Ánh
(VNN)
Phần nhận xét hiển thị trên trang