Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2014

Đừng bận tâm TQ nói gì, hãy cảnh giác với việc họ đã, đang và sẽ làm!

Hoàn Cầu "đổi giọng" anh em, Nhân Dân nhật báo tiếp tục dọa Việt Nam


(GDVN) - Theo tờ báo này, giới chức Trung Quốc cần dùng tư tưởng làm vũ khí để cột chặt Việt Nam phụ thuộc vào họ để dễ bề thao túng láng giềng, bành trướng lãnh thổ.
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh tiếp ông Dương Khiết Trì tại Hà Nội.
Thời báo Hoàn Cầu ngày 19/6 đăng bài xã luận của Vương Cường về quan hệ Trung - Việt, nhưng khác với văn phong ngỗ ngược và hiếu chiến thường thấy, lần này Thời báo Hoàn Cầu lại xoáy vào cái gọi là "Việt - Trung vừa là đồng chí, vừa là anh em" để dụ dỗ, lừa phỉnh Việt Nam "quay đầu" để khỏi đánh mất cái gọi là "tình cảm tốt đẹp giữa 2 nước".
Mặc dù "đổi giọng" sang tông "anh em đồng chí", nhưng ngay từ đầu bài báo, Hoàn Cầu đã đổ mọi trách nhiệm của căng thẳng trên Biển Đông trong vụ Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam lên đầu Việt Nam với cái cớ gọi là "Hà Nội đã có thái độ sai lầm trong vấn đề Biển Đông, lời lẽ quá khích và hành động nguy hiểm"?!

Tại sao Đa Chiều nói ông Dương Khiết Trì "tự chui đầu vào rọ"?

(GDVN) - Đa Chiều lại sử dụng 1 thủ đoạn mới để đánh lạc hướng dư luận về vụ giàn khoan 981, đó là biến mình thành nạn nhân, hay nói cách khác là ăn vạ.
Thay vì Trung Quốc phải thay đổi quan điểm sai trái, bành trướng lãnh thổ, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông, Thời báo Hoàn Cầu rêu rao rằng, "mấu chốt hóa giải nan đề quan hệ Trung - Việt nằm ở chỗ Việt Nam phải từ bỏ lập trường sai lầm" của mình.
Thời báo Hoàn Cầu tiếp tục luận điệu mị dân rằng, "trên cơ sở bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích hàng hải, Trung Quốc có thể vận dụng nhiều biện pháp (thủ đoạn) theo mô hình vừa là đồng chí, vừa là anh em để cải thiện quan hệ với Việt Nam".
Để lập luận lôi kéo Việt Nam, Thời báo Hoàn Cầu tiếp tục câu chuyện ý thức hệ bằng việc đưa ra những nhận xét phiến diện, sai lệch về tình hình Việt Nam khi cho rằng, "nếu Việt Nam không thể phân biệt rõ ràng âm mưu của các thế lực thù địch, không thể nhận rõ hiện thực nguy hiểm về (cái gọi là) đấu tranh nội bộ, không thể giải quyết vấn đề tư tưởng và để mặc cho chủ nghĩa dân tộc lan tràn" sẽ tạo ra mối uy hiếp và nguy cơ biến động rất lớn đối với xã hội và an ninh quốc gia.
Ở đây, cần phải nhấn mạnh rằng nguy cơ gây bất ổn lớn nhất trong khu vực hiện nay chính là hành động bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc trên Biển Đông, trong đó đe dọa và ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam chứ chẳng có thế lực thù địch nào có thể chia rẽ đoàn kết nội bộ của dân tộc Việt, kể cả những thế lực truyền thông như Thời báo Hoàn Cầu. Mọi vấn đề về nội bộ, Thời báo Hoàn Cầu hãy tự lo cho Trung Quốc thay vì huyên thuyên giao rảng cho các nước láng giềng - PV.

Tuần báo Bắc Kinh: Phải buộc Việt Nam lệ thuộc về kinh tế, văn hóa?!

(GDVN) - Đúng! Lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, quan trọng hơn rất nhiều một thứ "quan hệ hữu nghị viển vông" giả cầy nào đó.
Theo tờ báo này, giới chức Trung Quốc cần dùng tư tưởng làm vũ khí để cột chặt Việt Nam phụ thuộc vào họ để dễ bề thao túng láng giềng, bành trướng lãnh thổ trên Biển Đông. Nhưng Thời báo Hoàn Cầu hãy nhớ rằng, chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam trên Biển Đông là không thay đổi và không thể thay đổi. Việt Nam sẽ áp dụng mọi biện pháp hòa bình để giữ vững chủ quyền lãnh thổ, quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Không thâm hiểm như bài báo này của Thời báo Hoàn Cầu, tờ Nhân Dân nhật báo bản hải ngoại ngày 19/6 tiếp tục đăng bài với luận điệu bôi nhọ, vu cáo và đe dọa Việt Nam khi cho rằng chuyến đi của ông Dương Khiết Trì "là cơ hội để Việt Nam ghìm cương trước vực, quay đầu từ bỏ dã tâm"?!
Bất chấp thực tế thái độ ngang ngược không có gì thay đổi của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông khi Dương Khiết Trì đi Việt Nam, Nhân Dân nhật báo gọi chuyến đi này là "thiện chí", nhắc lại quan điểm ngang ngược của Bắc Kinh muốn ép Việt Nam "không quốc tế hóa" vấn đề Biển Đông.
Không những vậy, Nhân Dân nhật báo còn cố tình bôi nhọ, vu cáo lãnh đạo Việt Nam khi cho rằng phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về việc doanh nghiệp Việt Nam cần đa dạng hóa thị trường, tránh lệ thuộc vào 1 nền kinh tế bất kỳ nào, bao gồm Trung Quốc đã khiến Bắc Kinh "hết sức lo ngại"?!
Tờ báo này kêu gọi Việt Nam không đưa vấn đề Biển Đông ra cơ quan tài phán quốc tế, mặc dù Bắc Kinh vẫn không chịu xuống thang. Kết thúc vấn đề, Nhân Dân nhật báo cho rằng quan hệ Việt - Trung có được cải thiện sau chuyến đi của ông Dương Khiết Trì hay không vẫn còn phải chờ xem, đặc biệt là hành động của Việt Nam, mà không phải là sự xuống thang, ngừng gây hấn từ phía Trung Quốc - PV.












































































































Phần nhận xét hiển thị trên trang

Liệu kịch bản có lặp lại đối với ông Phạm Bình Minh...


FB Nhánh Lan Rừng
Mình tin tấm lòng đối với đất nước của ông Bình Minh là thật. Mình cũng hiểu tâm trạng của ông ấy khi phải kìm nén nỗi đau đớn và tức giân trước bộ mặt nhơn nhơn giả nhân nghĩa của kẻ thù xâm lược. Trong ông ý không chỉ có nỗi đau đớn, căm hờn bọn TQ xâm lược như cả 90 triệu dân VN mà còn là nỗi đau đớn, căm thù lớn hơn từ người cha thân yêu của ông ý: Ông Nguyễn Cơ Thạch bộ trưởng (cả thứ trưởng) bộ ngoại giao VN gần 20 năm.

 Ông Nguyễn Cơ Thạch là một trong những người đi đầu phản đối và chống TQ quyết liệt, lâu dài và không nhân nhượng. Bọn TQ đã căm hờn ông NCT và đã tìm mọi cách ly gián, hành xử vô văn hóa, kỳ thị với ông ấy trong suốt thời gian dài. Cụ thể nhất trong vụ "phục hồi quan hệ với TQ" sau năm 79 chính ông Nguyễn Cơ Thạch đã phản đối kịch liệt. Để trả thù ông ý bọn Cẩu trong và ngoài nước đã làm những việc bẩn thỉu: Trong hai kỳ đại hội 6-7 đảng CS VN... ông Nguyễn Cơ Thạch đã không vào được Bộ chính trị. Nhưng cay cú nhất là trong hội nghị ký hiệp ước Thành đô năm 1991, ông Nguyễn Cơ Thạch đã không được đi tham gia dự bên Tàu...

Rõ ràng ông Nguyễn Cơ Thạch hơn ai hết là một lãnh đạo có tấm lòng với dân với nước. Ông cũng là người thấy rõ nhất một nước VN phụ thuộc TQ trong tương lai ko xa và cũng là người chống TQ công khai và quyết liệt nhất.

Tôi tin ông Phạm Bình Minh hơn tất cả những con người có bộ mặt đểu giả đang cười kia dù là nụ cười ngoại giao cũng chỉ là một lũ hình nhân không tim óc.

Liệu kịch bản có lặp lại đối với ông Phạm Bình Minh như ..đã từng làm đối với ông bố của ông ý?

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc sắp rút giàn khoan Hải Dương 981?

Giờ đây, vấn đề khiến chúng ta quan tâm thật sự là giàn khoan Nam Hải 09. Lần này, giàn khoan Nam Hải 09 không chỉ làm nhiệm vụ chính trị đâu mà còn làm nhiệm vụ kinh tế. Họ sẽ khoan thật, khai thác dầu thật và tại nơi có trữ lượng dầu thật chứ không phải như Hải Dương 981.
Giàn khoan Nam Hải 09 của Trung Quốc
Chẳng có gì khó hiểu khi cho rằng Trung Quốc sắp rút giàn khoan Hải Dương 981 bởi 3 yếu tố sau: Về mặt kỹ thuật, khi các chân của giàn khoan đã thu lên hết thì đương nhiên, giàn khoan sẽ di chuyển. Bất luận dù rút hay không thì Trung Quốc không bao giờ dừng lại trong việc thôn tính Biển Đông của Việt Nam. 

Về mặt quân sự, đã xuất hiện 2 tàu rà quét mìn hiện đại quanh giàn khoan. Đây là nguyên tắc hoạt động của lực lượng Hải quân nói chung trước khi di chuyển, tuy nhiên, khi giàn khoan được bảo vệ 24/24 bởi một vành đai nhỏ nhất là 4 hải lý bởi hơn trăm chiếc tàu và thực tế là không có một chiếc tàu chấp pháp của Việt Nam nào tiếp cận được giàn khoan gần hơn 4 hải lý thì khu vực đó sẽ không có quả mìn hải quân (thủy lôi) nào. Nhưng sự xuất hiện của nó, tàu quét mìn, có thể đã có một thách thức nào đó đến an toàn của giàn khoan mà không phải từ lực lượng tàu chấp pháp của Việt Nam, và do vậy hướng di chuyển của tàu rà quét mìn chính là hướng di chuyển của giàn khoan Hải Dương 981.

Về mặt ngoại giao, sự xuất hiện của giàn khoan Nam Hải 09. Khả năng là giàn khoan này sẽ hạ đặt tại cửa vịnh Bắc Bộ, nơi mà Trung Quốc và Việt Nam thực sự có tranh chấp, nơi mà vùng biển nông có trữ lượng dầu lớn.

Rõ ràng là giàn khoan Hải Dương 981 đã thu được kết quả về chính trị không cao như Trung Quốc tưởng, tuy thế, kết quả không đến nỗi tệ khi Trung Quốc đã ngộ ra bao nhiêu vấn đề về Việt Nam, khu vực…
Có thể nói nhiệm vụ chính trị của giàn khoan Hải Dương 981 đã kết thúc, nhưng nếu chờ đến 15/8 mới rút như tuyên bố thì Trung Quốc sẽ trả giá hơi đắt cho việc duy trì kỹ thuật, hậu cần, bảo vệ…để cho nó tồn tại và ném tiền xuống biển. Giàu có như Mỹ mà cũng phải tính toán thiệt hơn huống chi là Trung Quốc! Chính vì lẽ đó, giàn khoan Nam Hải 09 là lối thoát danh dự cho Hải Dương 981 hung hãn và ngạo mạn rút lui trước thời hạn.

Vậy giàn khoan Hải Dương 981 sẽ rút đi đâu? 

Chúng di chuyển về phía Nam? Chắc chắn là không, ít nhất trong thời gian này khi mùa bão sắp đến và quả thật Trung Quốc dù có hung hăng, bất chấp đến mấy cũng chưa đến mức liều lĩnh kéo đến Trường Sa khi chưa đủ điều kiện.

Giờ đây, vấn đề khiến chúng ta quan tâm thật sự là giàn khoan Nam Hải 09. Lần này, giàn khoan Nam Hải 09 không chỉ làm nhiệm vụ chính trị đâu mà còn làm nhiệm vụ kinh tế. Họ sẽ khoan thật, khai thác dầu thật và tại nơi có trữ lượng dầu thật chứ không phải như Hải Dương 981.

Do đó Việt Nam phải dự đoán trước là chúng sẽ hạ đặt tại đâu để có cách đối phó. Không chỉ đối phó với việc hạ đặt giàn khoan mà còn đối phó với việc khi họ khoan được dầu, vận chuyển ra sao…Tất nhiên không loại trừ xảy ra đàm phán song phương.

Bất luận dù rút hay không thì Trung Quốc không bao giờ dừng lại trong việc thôn tính Biển Đông của Việt Nam. Vì thế, bằng mọi biện pháp, tăng cường sức mạnh chính trị, ngoại giao, quân sự, để đối phó với Trung Quốc là không ngừng, không lơ là mất cảnh giác với một ý chí quyết tâm cao nhất.

Lê Ngọc Thống

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TQ LỢI DỤNG TẬP TRẬN VỚI NGA ĐỂ LO ĐỐI PHÓ VỚI NGƯỜI NHÁI VIỆT NAM

“Người nhái Việt Nam thường tác chiến với tinh thần sẵn sàng hy sinh. Họ một khi rời khỏi tàu vũ trang hoặc tàu ngầm thì không dự định quay trở lại…”
Cùng với bài viết đánh giá lực lượng đặc công người nhái của Hải quân Việt Nam, tờ “Thời báo Hoàn Cầu” gần đây cũng vừa có bài viết cho rằng, Trung Quốc đã tiến hành diễn tập mọi khoa mục phải “xuất phát từ chiến đấu thực tế”, trong cuộc diễn tập “Liên hợp trên biển 2014″ giữa Trung-Nga trong tháng 5 vừa qua, hai bên không chỉ tập tấn công-phòng thủ trên biển, trên không liên hợp truyền thống, ứng phó với những tình huống đặc biệt như phòng thủ bãi thả neo, mà còn tập riêng cách thức ứng phó với các cuộc tập kích của người nhái.
Đặc công nước Việt Nam (ảnh tư liệu)
Theo bài báo, “40% tổn thất chiến tranh trên biển trên thế giới xảy ra ở bãi thả neo”. Trong diễn tập Trung-Nga, chính ủy tàu hộ vệ tên lửa Liễu Châu số hiệu 573 Type 054A là Trương Lập Tùng cho biết: “Sự kiện Trân Châu Cảng là trường hợp thất bại phòng thủ bãi thả neo điển hình”.
Theo lời Trương Lập Tùng, một bình luận viên quân sự của TQ: “Bãi thả neo sở dĩ quan trọng có ít nhất 4 nguyên nhân: Trước hết, bãi thả neo gần đất liền, hạm đội lúc này thường đi đường thẳng, tính cơ động khá kém, dễ bị phục kích. Thứ hai, tàu từ khi nhổ neo đến khi cơ động thường mất ít nhất 20 phút, trong thời gian này tàu chiến tương đối đứng im, hầu như trở thành bia ngắm.
Đặc công nước Việt Nam (ảnh tư liệu)
Thứ ba, khi đối phương dùng tàu nhỏ hoặc người nhái để tấn công thì đây là những mục tiêu quá nhỏ, không dễ sử dụng biện pháp kỹ thuật để phát hiện. Thứ tư, sau khi tàu chiến vào bãi thả neo, độ cảnh giác của binh sĩ kém nhất, điều này giống với đạo lý lực lượng lỏng lẻo nhất khi ra lệnh thu binh thời cổ đại”.
Báo của TQ cho biết: “Tối ngày 22 tháng 5/2014, sau khi hạ đạt mệnh lệnh diễn tập phòng thủ bãi thả neo, vài nhóm nhỏ tác chiến đặc biệt trên tàu hộ vệ Liễu Châu đã chạy đến các vị trí chiến đấu.
Từ khi có tiếng cảnh báo chiến đấu đến khi vào vị trí chiến đấu, thời gian không hơn 1 phút. Các nhóm nhỏ tác chiến đặc biệt được trang bị súng ngắm, thiết bị nhìn đêm hồng ngoại và dụng cụ truyền tin bảo mật, nắm bắt cẩn thận bất cứ dấu hiệu áp sát nào của người nhái và bảo đảm “bắn chết” trong thời gian đầu tiên.
Trương Lập Tùng cho rằng: “Nhóm nhỏ tác chiến đặc biệt chỉ là một trong nhiều thủ đoạn để phòng thủ bãi thả neo”. “Toàn bộ phòng thủ là lập thể, toàn phương vị, chẳng hạn nói cấp cảnh giới hạm đội ở trạng thái phòng thủ bãi thả neo thậm chí cao hơn quá trình hành quân; các biện pháp phòng thủ trên bờ biển và trên không sẽ tìm kiếm tàu ngầm tầm xa để cảnh giác phóng thích người nhái; xung quanh bãi thả neo sẽ vẽ ra ranh giới đỏ, không cho phép bất cứ tàu thuyền bên ngoài nào đến gần, bởi vì tàu cá vũ trang một số nước rất giỏi dựa vào đó để tập kích hoặc đến gần thả người nhái”.
Đặc công nước Việt Nam (ảnh tư liệu)
Bài báo dẫn lời một chuyên gia hải quân giấu tên cho rằng, trang bị kỹ thuật của người nhái Mỹ tốt nhất, còn người nhái Việt Nam lại là nhân viên vũ trang có cường độ huấn luyện lớn nhất, ý chí kiên định nhất trong các nước Đông Nam Á:
“Người nhái Việt Nam thường tác chiến với tinh thần sẵn sàng hy sinh. Họ một khi rời khỏi tàu vũ trang hoặc tàu ngầm thì không dự định quay trở lại những phương tiện này, hoặc là hy sinh hoặc luồn sâu tác chiến độc lập sau lưng địch”.
Vì vậy, đối phó với các cuộc tập kích, tấn công của người nhái không thể chỉ dựa vào nhóm nhỏ bắn tác chiến đặc biệt trên tàu, “quyết không cho phép tàu cá vũ trang vượt qua ranh giới đỏ của bãi thả neo, phải tiêu diệt trước khi vượt qua. Ngoài ra, dùng bom gây chấn động đối phó với người nhái sẽ có hiệu quả hơn”.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

4 LÝ DO NGA KHÔNG “RA MẶT” ỦNG HỘ TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG

Theo ĐỜI SỐNG
Nga sẽ cung cấp cho Việt Nam 4 máy bay chiến đấu Su-30MK2 mà có khả năng trở thành vũ khí đối phó với Trung Quốc trong tương lai.
Ông Tập Cận Bình đón ông Putin trong một chuyến công du Trung Quốc.
The Diplomat ngày 21/6 đăng bài phân tích của tác giả Mu Chunshan bình luận, căng thẳng trên Biển Đông gần đây dường như đã vượt qua cả khủng hoảng Senkaku/Điếu Ngư, Trung Quốc và Việt Nam đã bị kéo vào cuộc xung đột chính trị tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan (trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam – PV) gần quần đảo Hoàng Sa.
Philippines bắt giữ 11 ngư dân Trung Quốc săn bắt rùa trái phép ở bãi Trăng Khuyết (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam). Với những vụ việc xảy ra cùng lúc, tình hình BIển Đông đã bất ngờ trở nên rất nghiêm trọng.
Trong bối cảnh này, thế giới đã thấy Mỹ công khai chỉ trích Trung Quốc, thể hiện sự hỗ trợ quan điểm của Việt Nam và bảo vệ Philippines. Nhưng không ai thấy Nga, “đối tác chiến lược” của Trung Quốc có lập trường rõ ràng về căng thẳng trên Biển Đông hay công khai ủng hộ lập trường của Trung Quốc.
Điều này làm đảo lộn suy nghĩ của một số người ở Trung Quốc khi họ đang cho rằng quan hệ Trung – Nga không tốt như tưởng tượng trước đó. Thậm chí ngay cả trong tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư giữa Bắc Kinh và Tokyo, Moscow vẫn có thái độ mơ hồ.
Tuy nhiên theo Mu Chunshan, điều này không có nghĩa là Nga “ăn ở 2 lòng” trong mối quan hệ với Trung Quốc, mà chỉ đơn giản có những yếu tố chính trị và chiến lược phức tạp tựu trung trong 4 lý do giữ Nga không lên tiếng ủng hộ Trung Quốc.
Đầu tiên, mối quan hệ Trung – Nga khác với quan hệ Mỹ – Philippines. Trung Quốc và Nga không phải là đồng minh như Mỹ – Philippines hay Mỹ – Nhật có hiệp ước an ninh ràng buộc.
Trong một mối quan hệ đồng minh, mỗi bên có nghĩa vụ điều ước quốc tế hỗ trợ chính trị và thậm chí cả quân sự cho đối tác của mình. Trong quan hệ quốc tế, đây là loại quan hệ song phương cao nhất.
Trong khi quan hệ Trung – Nga có một số đặc điểm của quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, nhưng 2 bên không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ hiệp ước để phấn đấu cho không gian quốc tế và lợi ích quốc gia của nhau.
Trong một thời gian dài truyền thông nhà nước Trung Quốc đã nhấn mạnh nhân tố tích cực trong quan hệ Trung – Nga, trong khi truyền thông quốc tế thường quá lời khi khen ngợi mối quan hệ này. Đôi khi người ta còn thừa nhận rằng Trung Quốc và Nga là “đồng minh không hiệp ước”.
Điều này đã khiến nhiều người tin rằng sự hợp tác chính trị Trung – Nga là vô biên, giúp tạo ra một sự thay đổi tuyệt vời về tình hình an ninh của Trung Quốc.
Nhưng sự thật của quan hệ quốc tế cho thấy, quan hệ Trung – Nga về cơ bản là dựa trên lợi ích chung. Biển Đông lại không phải nơi mà Nga mở rộng lợi ích của mình, Nga cũng không cần thiết can thiệp vào khu vực này. Người Trung Quốc không nên hiểu sai tính chất của mối quan hệ Trung – Nga và mong đợi quá nhiều từ Moscow.
Thứ 2, Nga thích có mối quan hệ tốt với các nước ven Biển Đông và không cần phải xúc phạm Đông Nam Á vì lợi ích của Trung Quốc. Nga không nhiệt tình công khai ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, một trong những lý do quan trọng nhất cho điều này là Nga thích duy trì quan hệ tốt với nhiều nước Đông Nam Á.
Ví dụ, Nga có quan hệ tốt với Việt Nam và quan hệ hữu nghị này thừa hưởng từ thời Liên Xô. Không có trở ngại lớn nào cho sự phát triển của mối quan hệ Việt – Nga, không có tranh chấp nghiêm trọng hay xung đột lợi ích nào kể cả trong lịch sử lẫn thực tế giữa 2 nước.
Quan hệ Trung – Nga chủ yếu dựa trên lợi ích, không phải đồng minh.
Thậm chí 2 nước Nga và Việt Nam có một số lĩnh vực hợp tác cụ thể xuyên suốt, kéo dài từ Thế Chiến II đến nay, đó là quốc phòng. Nhiều vũ khí của Việt Nam đến từ Nga như tàu ngầm diesel lớp Kilo, ngoài ra trong nửa cuối năm nay Nga sẽ cung cấp cho Việt Nam 4 máy bay chiến đấu Su-30MK2 mà có khả năng trở thành vũ khí đối phó với Trung Quốc trong tương lai.
Nga cũng rất thích mối quan hệ tốt với Philippines. Cách đây 2 năm, 3 tàu hải quân Nga bao gồm cả khu trục hạm chống ngầm Đô đốc Panteleyev đã đến Manila  trong 1 chuyến thăm 3 ngày. Theo Nga, chuyến thăm này đã giúp cải thiện quan hệ giữa Moscow với Manila.
Thứ 3, không cần thiết đối với Nga để tìm kiếm một cuộc đối đầu trực tiếp với Mỹ trên Biển Đông. Hiện nay Nga đang tập trung vào châu Âu, đặc biệt là cuộc khủng hoảng Ukraine đã củng cố cuộc đối đầu giữa Nga và phương Tây. Một vấn đề như vậy sẽ rất khó giải quyết trong ngắn hạn. Vì điều này, Nga không mong muốn cũng như không có khả năng đối đầu Mỹ ở Biển Đông.
Bên cạnh đó căng thẳng trên Biển Đông thực chất không phải là xung đột giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ. Các tranh chấp xuất phát từ những bất đồng giữa các nước ven Biển Đông với Trung Quốc (thực tế là Trung Quốc nhảy vào tranh chấp, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven Biển Đông, tham vọng độc chiếm Biển Đông thành ao nhà – PV).
Mỹ chỉ là một yếu tố ảnh hưởng, không phải nhân tố quyết định, xác định tương lai của Biển Đông. Trong bối cảnh này, như 2 kẻ bên lề, Nga thậm chí còn ít động cơ hơn để hỗ trợ Trung Quốc và chỉ trích Mỹ.
Thứ 4, sự phát triển của Trung Quốc đã thực sự gây ra một số lo lắng cho Nga. Sự bất hòa giữa Trung Quốc với các nước ven Biển Đông có thể giúp hạn chế sự bành trướng của Bắc Kinh sang các khu vực khác. Với Nga, luôn có một số lo ngại rằng sự bành trướng của Trung Quốc có thể lan sang cả khu vực Viễn Đông của Nga hoặc biến nguồn lực dồi dào của khu vực này thành “thức ăn” cho sự phát triển của Trung Quốc.
Mặc dù các quan chức Nga rất lạc quan về tiềm năng hợp tác xa hơn về phía Đông, nhưng họ chưa bao giờ buông lỏng cảnh giác trước tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc.
Vì vậy theo Mu Chunshan, người Trung Quốc không cần thiết phải nghi ngờ hay thất vọng về lập trường của Nga ở Biển Đông. Hàng chục năm 2 nước nghe lẫn nhau và đã hình thành nền tảng cho những thỏa thuận ngầm và hiểu biết lẫn nhau.
Ví dụ, trong khủng hoảng Crimea, Trung Quốc tự kiềm chế không công khai ủng hộ Nga, tuy nhiên điều này không có nghĩa là Trung Quốc phản đối lập trường của Nga.
Cùng một logic, lập trường trung lập của Nga ở Biển Đông không có nghĩa là Nga không hỗ trợ Trung Quốc. Nga có cách riêng của mình để hỗ trợ Trung Quốc, chẳng hạn như cuộc tập trận hải quân chung gần đây trên biển Hoa Đông gây ra phản ứng “nghi ngờ và ghen tị” từ phương Tây.
Bằng những thỏa thuận ngầm, chính sách không rõ ràng này đã giúp cả Trung Quốc và Nga có không gian cần thiết để tối đa hóa lợi ích quốc gia của họ.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lào đang vi phạm nghiêm trọng Hiệp định Mekong


Lào đang vi phạm nghiêm trọng Hiệp định Mekong
Như báo điện tử Một Thế Giới đã thông tin, Lào đang đơn phương triển khai công trình đập Don Sahong, bất chấp sự phản đối của chính phủ các nước hạ lưu Campuchia, Thái Lan, Việt Nam với yêu cầu phải tiến hành tham vấn khu vực.
Theo Mạng lưới sông ngòi Việt Nam (VRN), điều này cho thấy Lào đang vi phạm nghiêm trọng Hiệp định Mekong 1995.
Các tài liệu trước đây đã thể hiện rằng: dự án thủy điện Don Sahong là một công trình nằm trên dòng chính sông Mekong. Vì vậy, theo Hiệp định Mekong 1995, dự án này bắt buộc phải tuân thủ quy trình thông báo, tham vấn và thỏa thuận trước (PNPCA) với các quốc gia Ủy hội Mekong. 
Tuy nhiên, các viên chức phía Lào liên tiếp cho rằng con đập này không nằm trên dòng chính của sông Mekong và muốn bỏ qua quy trình PNPCA này.
Việc Lào đơn phương tiến hành dự án Don Sahong mà không thông qua quy trình PNPCA sẽ là một bước đi sai lầm thứ hai sau dự án đập Xayaburi, sẽ đặt dấu chấm hết cho hiệu lực của Hiệp định Mekong năm 1995. 
Điều này thách thức hợp tác trong Ủy hội sông Mekong, đồng thời nó đưa an ninh sinh kế của hàng chục triệu người dân trong lưu vực sông Mekong đến nguy cơ bất ổn.
Trước diễn biến trên, VRN yêu cầu chính phủ Lào cần dừng ngay lập tức tất cả các hoạt động xây dựng liên quan tới công trình Don Sahong và Xayaburi, cho tới khi kết quả nghiên cứu về tác động hạ lưu của hệ thống bậc thang thủy điện dòng chính sông Mekong được khẳng định. Đồng thời, tất cả các dự án trên dòng chính sông Mekong cần phải tuân thủ nghiêm túc các quy định và thủ tục trong Hiệp định Mekong 1995 và các quy định khác của luật pháp quốc tế.
“Mekong là dòng sông quốc tế, tài sản chung của tất cả các quốc gia và người dân trong lưu vực. Mọi quyết định liên quan tới việc sử dụng nguồn tài sản chung này không thể do một phía đơn phương thực hiện, mà cần phải tôn trọng quyền và đạt được sự đồng thuận của tất cả các quốc gia liên quan”, bà Ngụy Thị Khanh, giám đốc trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID), điều phối vận động chính sách VRN nhấn mạnh.
Lê Quỳnh

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Xin hãy mở to mắt


  Nguyễn Trung
Tiếp theo những sự kiện gây hấn liên tục từ mấy năm nay ở Hoa Đông và khu vực bãi san hô Scarbourough, sự kiện giàn khoan HD 981 và việc Trung Quốc đang ráo riết xây dựng các căn cứ nổi tại các bãi đá Gạc Ma, Chữ Thập thuộc nhóm các đảo Trường Sa của Việt Nam (Trung Quốc đánh chiếm năm 1988) đánh đi một tín hiệu báo động với các nước trong khu vực và cả thế giới: Trung Quốc đang bước vào thời kỳ thực hiện quyết liệt khát vọng bá chiếm Biển Đông, với mục tiêu trước mắt trở thành đế chế đại dương. 

Toàn bộ bước đi nói trên của Trung Quốc mở đầu một giai đoạn mới của quá trình thực hiện khát vọng trở thành siêu cường vào khoảng giữa thế kỷ này. Với những tính toán dựa trên thực tế là cục diện quốc tế sau chiến tranh Iraq (2003 -2010) đã chuyển sang thế giới đa cực với nhiều diễn biến mới phức tạp, Trung Quốc trong nhiệm kỳ Hồ Cẩm Đào (khóa 17 của ĐCSTQ 2007 – 2012) đã chủ trương kết thúc thời kỳ giấu mình chờ thời , để chuyển sang thời kỳ thể hiện sức mạnh thực hiện “giấc mơ Trung Hoa”, với những bước đi cứng rắn được xác định tại đại hội 18 của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thời Tập Cận Bình.
Trên thế giới sau chiến tranh Iraq (2003 – 2010), nước Mỹ thời Obama từ nhiệm kỳ I đã chuyển mạnh sang quan điểm chiến lược san sẻ trách nhiệm giữa các đồng minh trong những vấn đề quốc tế và đề ra chiến lược trục xoay về Châu Á – Thái Bình Dương để đối phó với sự lấn át ngày càng leo thang của Trung Quốc đang uy hiếp các nước láng giềng trong khu vực. Trong bối cảnh tình hình rất phức tạp ở Ukraina, việc Nga sáp nhập Crimea (04-2014) là bước mở đường đưa đế chế Nga trở lại chính trường quốc tế. Đồng thời với sự kiện Crimea, hợp tác Nga – Trung qua chuyến đi Trung Quốc của Putin tháng 05-2014 đã tạo ra một dạng tập hợp lực lượng mới đối phó lẫn nhau giữa các “cực” lớn trên thế giới. Động thái này mang lại nhiều lợi thế mới cho Trung Quốc để (a) khai thác những cơ hội mới đang đến, và (b) để phát huy lợi thế tương đối do sức mạnh áp đảo tại chỗ trong khu vực Đông Nam Á.
Cũng khoảng một thập kỷ nay các nước phương Tây nói chung đang phải trải qua một thời kỳ thay đổi quyết liệt cấu trúc kinh tế, phải xử lý nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế nói chung và trong những biến động mới của địa kinh tế và địa chính trị của cục diện quốc tế hôm nay nói riêng. Nói một cách đơn giản, Mỹ và các nước phương Tây đang ở trong thời kỳ rất bận rộn với chính bản thân mình. Trong khi đó sự phụ thuốc lẫn nhau ở phạm vi toàn cầu ngày càng phức tạp hơn, xử lý vấn đề nào cũng vướng phải tình trạng rút dây động rừng (dẫn chứng rõ nét nhất là Mỹ và phương Tây có nhiều lợi ích đối kháng với lợi ích của Nga và Trung Quốc, nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau – nhất là trong kinh tế – giữa tất cả các đối thủ này vẫn ngày càng lớn). Trung Quốc bất chấp đạo lý và luật pháp quốc tế, cũng không quan tâm đến trách nhiêm là nước lớn, luôn luôn theo đuổi cách hành xử “mục tiêu biện minh cho biện pháp”, do đó đang khai thác tốt nhất những rối ren trên thế giới.
Mấy tháng gần đây lại nổi lên thánh chiến của lực lượng Nhà nước Hồi giáo và Cận Ðông (ISIL) có mối liên hệ mật thiết với mạng lưới al-Qaeda và Taliban. Diễn biến mới này chẳng những có nguy cơ nhấn chìm Iraq trong nội chiến, mà đang cùng với những biến động phức tạp ở Ai-cập và Syrie có thể đảo ngược tình hình toàn khu vực Trung Đông với những hệ quả khó đoán trước. Mỹ và phương Tây đang rất lúng túng. Tình hình nghiêm trọng đến mức Iran – vốn là “kẻ thù nguy hiểm” của Mỹ và Iraq – đã tuyên bố sẵn sàng hợp tác với Mỹ và Iraq trong việc đẩy lùi phiến quân thánh chiến ISIL, kể cả việc đưa quân vào Iraq. Đương nhiên, những diễn biến mới này đang tạo ra tình hình “đục nước béo cò” cho các đối thủ ngoài cuộc.
“Con cò ngoài cuộc” lớn nhất hiện nay đang là Trung Quốc.
Nhờ vào tận dụng các lợi thế riêng và triệt để khai thác quá trình toàn cầu hóa, kinh tế Trung Quốc dù nhiều khuyết tật thế nào đi nữa vẫn đang có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong số tất cả các cường quốc, có khả năng trở thành nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất hành tinh vào giữa thế kỷ 21, vô luận cái giá nhân dân Trung Quốc và các nền kinh tế khác phải trả như thế nào cho sự phát triển này. Với dự trữ ngoại tệ hiện nay khoảng 4000 – 4500 USD (lớn nhất thế giới, gấp khoảng 20 lần của Mỹ, khoảng gấp 3 Nhật, gấp 4 khối EU…), với ngân sách quốc phòng từ hơn một thập kỷ nay tăng 2 con số, Trung Quốc đang tạo ra cho mình một lực lượng quân sự có thế mạnh áp đảo tại chỗ so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Cục diện quốc tế nói trên, bối cảnh cụ thể của khu vực Đông Nam Á hiện nay, và đòi hỏi bên trong cùng với tiềm lực Trung Quốc đã tích tục được, đấy là ba nguyên nhân chủ yếu dẫn tới kết thúc thủ đoạn giấu mình chờ thời , để từ những năm gần đây chuyển hẳn sang giai đoạn mới của chiến lược bá chiếm Biển Đông.
Cái nền làm cơ sở cho quyết định của Trung Quốc trên Biển Đông cho thấy:
(a) sự kiện giàn khoan HD 981 là một bước đi có tính toán kỹ lưỡng trong toàn bộ chiến lược lớn của Trung Quốc, cố khai thác tối đa những diễn biến mới trong cục diện đa cực rất phức tạp của bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay;
(b) sự kiện giàn khoan HD 981 cùng với việc ráo riết xúc tiến xây dựng các căn cứ quân sự nổi ở Gạc Ma và Chữ Thập nằm trong tổng thể ý đồ chiến lược mở ra thời kỳ mới quyết liệt giành bá quyền trên Biển Đông;
(c) các lý do (a) và (b) nêu trên cho thấy sự kiện giàn khoan HD 981 không phải là một hành động đơn lẻ của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền và lãnh hải chống Việt Nam, mà là một hành động mang tính chất xâm lược, nằm trong tổng thế chiến lược bá chiếm Biển Đông;
(d) việc Trung Quốc khăng khăng cự tuyệt đối thoại với Việt Nam để giải quyết hòa bình sự kiện giàn khoan HD 981, xuyên tạc trắng trợn sự thật để chủ động tố cáo Việt Nam về sự kiện này tại Liên Hiệp Quốc, ráo riết thực hiện những thủ đoạn ngoại giao hung hăng khác trên các diễn đàn quốc tế (gần đây nhất là diễn đàn Shangri La 13) cho thấy Trung Quốc đã chủ động vứt bỏ 4 tốt và 16 chữ trong quan hệ với Việt Nam – vì đã sử dụng xong rồi
Đến đây có thể rút ra nhận định: Cùng với việc mở đầu thời kỳ quyết liệt thực hiện khát vọng bá chiếm Biển Đông, Trung Quốc còn chủ động tạo ra những yếu tố đối kháng mới trong quan hệ với Việt Nam. Liên quan đến sự kiện giàn khoan HD 981, có thể xem việc kích động bạo loạn trong những ngày 13 và 14-05-2014 cướp phá khoảng 800 xí nghiệp của Việt Nam có FDI tại 22 địa phương, gây cho phía Việt Nam nhiều thiệt hại rất lớn về kinh tế và chính trị là dẫn chứng mới nhất của những yếu tố đối kháng này trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Việt Nam. Hiển nhiên Trung Quốc đã chuyển quan hệ song phương giữa hai nước sang một thời kỳ quyết liệt mới
Trong khi đó nước ta như thế nào và đang đứng ở đâu?
Bước vào năm độc lập thống nhất đất nước thứ 40, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của Việt Nam đã tạo ra những bước phát triển ban đầu, với kết quả trở thành nước có thu nhập trung bình – đúng ra phải nói là nước có thu nhập trung bình thấp. Nhưng tình hình cho thấy mặc dù sự nghiệp công nghiệp hóa của Việt Nam trong 3 thập kỷ vừa qua đã huy động được một nguồn lực có mọi nguồn gốc khác nhau lớn khoảng gấp đôi của Hàn Quốc cho thời kỳ này (cũng khoảng 3 thập kỷ: 1960 – 1990), nhưng Việt Nam không thể hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020. Hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nghèo, năng suất lao động thấp nhất trong khu vực, từ năm 2007 bước vào cuộc khủng hoảng cơ cấu kinh tế rất trầm trọng, nợ nần lớn, hiện nay vẫn đang tìm đường ra.
Trong khi đó chế độ chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa do ĐCSVN xây dựng lên cho đất nước độc lập thống nhất hiện nay đã bị tha hóa của quyền lực biến thành chế độ toàn trị: Đảng đứng trên nhà nước và pháp quyền, ngăn cấm tự do tư duy, tước đoạt nhiều quyền của công dân đã ghi trong hiến pháp, quan liêu và tham nhũng nặng nề… Thể chế chính trị hiện nay có nhiều bất công xã hội gay gắt, trấn áp dân tùy tiện, nền giáo dục bị khủng hoảng trầm trọng, tệ nạn xã hội tràn lan. Một chế độ chính trị như vậy cùng với thực trạng kinh tế – văn hóa – xã hội của đất nước hiện nay có nhiều mặt xuống cấp nguy hiểm, phải nói về thực chất đã và đang hình thành lên ở nước ta một ách nô dịch mới, kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Có thể nhận định: Thực hiện đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước theo ý thức hệ định hướng xã hội chủ nghĩa của ĐCSVN, Việt Nam đã kết thúc một giai đoạn phát triển thất bại (1975 – 2014). Nét nổi bật nhất của thất bại này là các thành tựu đạt được rất thấp so với (a) vốn, công sức và thời gian đã bỏ ra, (b) so với tài nguyên thiên nhiên và môi trường tự nhiên đã bị lấy đi, (c) so với cơ hội đất nước có được trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế thế giới, (d) so với mức sống, hạnh phúc và các phúc lợi xã hội cũng như so với các quyền tự do dân chủ người dân lẽ ra phải được hưởng.
Sau 40 năm phát triển đầu tiên thời độc lập thống nhất, đến hôm nay Việt Nam chỉ có được một nền kinh tế với cơ cấu lạc hậu, kết cấu hạ tầng kém phát triển, chất lượng nguồn nhân lực thấp, năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế vốn đã thấp lại đang giảm sút. Trong khi đó thể chế chính trị quá yếu kém và có nhiều bất cập. Việt Nam đang đứng trước đòi hỏi sống còn phải chuyển sang một thời kỳ phát triển kinh tế bền vững và phải có một thể chế chính trị pháp quyền dân chủ bảo đảm tạo ra bước phát triển mới này của đất nước.
Yếu kém về kinh tế và yếu kém của thể chế chính trị 40 năm qua không những lấy đi nhiều cơ hội phát triển của Việt Nam, mà còn khiến cho Việt Nam chỉ giành được vị trí quốc tế thấp và không phát huy được vai trò cần phải có của mình trong quan hệ quốc tế. Thực tế này giảm thiểu đáng kể khả năng phát triển, khả năng hội nhập và khả năng bảo vệ lợi ích của đất nước.
Đặc biệt đường lối gìn giữ quan hệ đại cục với Trung Quốc trên cơ sở ý thức hệ mang lại cho đất nước sự lệ thuộc toàn diện rất nghiêm trọng, tạo ra sự can thiệp nguy hiểm của quyền lực mềm Trung Quốc vào đời sống mọi mặt của đất nước, kìm hãm sự phát triển của đất nước như một chư hầu kiểu mới của Trung Quốc. Thực tế cho thấy Việt Nam càng kiên trì giữ “đại cục”, Trung Quốc càng lấn tới, 4 tốt và 16 chữ chỉ là chuyện lừa bịp. Việc Trung Quốc tự tay vứt bỏ 4 tốt và 16 chữ chứng minh sự phá sản của các mối quan hệ giữa hai đảng (ĐCSVN & ĐCSTQ) và hai nước (VN & TQ) dựa trên ý thức hệ. Thực ra đó chỉ là sự phá sản ý thức hệ của ĐCSVN, sự phá sản của những ảo tưởng của ĐCSVN về Trung Quốc. Bởi vì trên thực tế từ hơn nửa thế kỷ nay ĐCSTQ chỉ có ý thức hệ siêu cường Đại Hán dưới cái tên gọi là CNXH đặc sắc Trung Quốc. Hiện nay tự tay Trung Quốc còn đang gây ra những yếu tố đối kháng mới trong quan hệ với Việt Nam.
Toàn bộ những vấn đề trình bầy trên cho thấy:
1) Từ một thập kỷ nay thế giới đã chuyển sang cục diện đa cực với nhiều diễn biến rất phức tạp tác động đến mọi quốc gia, đòi hỏi mọi quốc gia phải thay đổi để đối phó; Trung Quốc đang ra sức khai thác tình hình này.
2) Từ những năm gần đây Trung Quốc đã thực sự bước vào thời kỳ quyết liệt thực hiện khát vọng bá chiếm Biển Đông, thách thức trực tiếp độc lập và chủ quyền của Việt Nam, tích tụ những yếu tố đối kháng mới trong quan hệ với Việt Nam, tiếp tục siết chặt hơn nữa sự lệ thuộc của Việt Nam để lũng đoạn.
3) Đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước 40 năm qua theo định hướng xã hội chủ nghĩa của ĐCSVN cơ bản là thất bại, đòi hỏi Việt Nam bắt buộc phải chuyển sang một thời kỳ phát triển bền vững và phải có một thể chế chính trị phát huy được quyền làm chủ của nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ này.
4) Cục diện mới hiện nay của thế giới và trong khu vực đang đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức mới – nhất là trong mối quan hệ song phương Việt – Trung. Thực tế khách quan này càng đòi hỏi: Để thành công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của mình, Việt Nam nhất thiết phải tạo ra cho mình sự phát triển bền vững với một thể chế chính trị phải có cho một quốc gia độc lập do nhân dân làm chủ.
Đấy là bốn vấn đề sống còn đặt ra cho đất nước ta hôm nay.
Tựu trung lại (a) đất nước ta đang sống trong một thế giới có những thay đổi và thách thức rất gay gắt của cục diện đa cực, (b) phải đối phó với một Trung Quốc bước vào thời kỳ mới quyết liệt bá chiếm Biển Đông, (c) bản thân nước ta cũng đang đòi hỏi phải có sự thay đổi triệt để để phát triển. Do đó có thể kết luận:
Đất nước ta dứt khoát phải thoát ra khỏi sự kìm kẹp của ý thức hệ, vươn lên tự do dân chủ, để tìm đường đi vào một thời kỳ phát triển mới trong một thế giới đã chuyển giai đoạn và trong tình hình Trung Quốc đang đặt nước ta trước những thách thức mới.
Cho phép tôi kêu gọi: Hễ là người Việt Nam, xin mỗi chúng ta hãy mở to mắt nhìn thẳng vào bốn vấn đề sống còn như vậy đang đặt ra cho đất nước hôm nay, đòi hỏi đất nước ta phải thay đổi toàn diện để giải quyết thành công.
Nhìn thẳng vào những đòi hỏi khách quan và tất yếu như thế đang đặt ra cho đất nước, hy vọng mỗi chúng ta sẽ quyết định được hành động của mình: Việt Nam nhất thiết phải thay đổi, sống hay là chết!
 
( Nguồn : trannhuong.com)

Phần nhận xét hiển thị trên trang