Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 12 tháng 3, 2014

Nguyễn Công Hoan và cuốn hồi ký "Đời viết văn của tôi"

Với khối lượng chữ nghĩa đã viết, trong văn học VN hiện đại, tác giả Bước đường cùng phải được xem như  một trong số những người viết hoạt động có hiệu quả bậc nhất.
     Trong khi không sống hẳn giữa giới cầm bút mà lấy dạy học làm nghề chính, Nguyễn Công Hoan vẫn biết giữ cho mình một nếp làm việc đều đặn. Giữa dự định và công việc, thường khi có sự ăn khớp. Đã viết là in được.
      Ông lại luôn biết chăm lo tới tay nghề. Dễ không ai say sưa nói về kỹ thuật viết truyện như ông, nào là dàn quân nào là bài binh bố trận, và cuối cùng còn là bẫy  độc giả là đưa suy nghĩ của họ vào đúng cái luồng lạch mình đã bố trí sẵn khiến họ như cá vào lờ không sao thoát ra nổi.... 
      Từng cách thức được ông kể lại tỉ mỉ với niềm tin không thể lay chuyển: viết văn phải có mẹo có mực chứ không lơ mơ tùy tiện được.
      Sự xuất hiện của một cuốn sách hồi ký như Đời viết văn của tôi (1971) nằm trong cái mạch liên tục ấy. Nó là một bằng chứng nữa đánh dấu tính cách chuyên nghiệp của ngòi bút tác giả. 
      Một cách tự nhiên, đúng hơn một cách bản năng không cần tính toán gì nhiều, thật ra ông đã tiếp nhận quan niệm về một nhà văn chuyên nghiệp thường thấy ở phương Tây: sau những năm tháng cặm cụi làm việc  một người làm nghề thực thụ thể nào cũng  phải để ra một ít thời gian tính đếm lại đời mình. Hồi ký nên được coi là cái dấu chấm hết đẹp đẽ nhất cho một đời viết sung mãn.

   Hoàn cảnh ra đời
     Cuộc hành nghề của Nguyễn Công Hoan trước 1945 có thể gọi là khá thành đạt. Thế nhưng từ sau 1945, quá trình sáng tác của ông so với các đồng nghiệp trẻ hơn như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyên Hồng... có nhiều chỗ khác, nếu không muốn nói là xỉn hơn, kém hơn rõ rệt.
     Tám năm kháng chiến, trong khi nhiều nhà văn đấu đầu lo liệu cho Hội văn nghệ thì  ông làm việc ở một trường bổ túc văn hoá của quân đội, và chỉ sau hoà bình lập lại 1954  mới trở về nhận biên chế ở Hội nhà văn.
     Sự nhập cuộc trở lại này không mấy hiệu quả.
     Trong khi những Sông Đà, Truyện Tây Bắc  hoặc  Riêng chung, Anh sáng và phù sa...viết thẳng về cuộc sống mới và được dư luận đón đợi, được đủ các loại giải thưởng  to nhỏ thì Nguyễn Công Hoan chủ yếu viết lại cuộc sống trước 1945 như  Tranh tối tranh sáng(1956),  Hỗn canh hỗn cư (1961), Đống rác cũ (1963), và mặc dù các sáng tác ấy đã được tác giả đặt nhiều công sức, song có vẻ như chúng không tương xứng với tầm vóc và tiếng tăm của ông. 
      Khi ra đời chúng chỉ được  chào đón một cách dè dặt. 
      Có cuốn chỉ in được tập một rồi dừng lại hơn hai chục năm sau mới  ra nốt  được tập hai (Đống rác cũ).
    Có cuốn viết xong đành xếp tạm đấy mãi khi nhà văn qua đời mới được in Anh con trai người bạn đọc ấy).
    Một người  ưa hoạt động coi việc viết ngang với cơm ăn nước uống hàng ngày như  Nguyễn Công Hoan trước cảnh bí bách không chịu bó tay. Ông xoay ra làm một số việc khác như đi phỏng vấn các đồng nghiệp (Hỏi chuyện các nhà văn) hoặc đính chính thơ văn của Nguyễn Khuyến,Tú Xương...
    Dẫu sao có thể dự đoán, càng ngày ông càng cảm thấy vốn liếng mình là ở như những hiểu biết về xã hội cũ và chỉ  trong khi viết về xã hội cũ mình mới  trở nên có ích hơn cho con người đương thời. Cái định hướng này có thể ngẫu nhiên song đúng là đã trở thành nhất quán ở Nguyễn Công Hoan.
      Ông sớm tính chuyện viết hồi ký.
     Qua bảng niên biểu của một nhà nghiên cứu làm về Nguyễn Công Hoan, tôi được biết ngay từ cuối năm 1957,  Đời viết văn của tôi đã có bản sơ thảo.
     Tới năm 1969 thì hoàn thành, và hai năm sau thì được in ra ở nhà xuất bản chuyên về văn chương duy nhất bấy giờ là nhà Văn học.
     Tô Hoài, trong một bài viết về Nguyễn Công Hoan, từng ghi lại đoạn đối thoại sau:
     (... ) Lại đến năm trước anh kể :
 --Tôi mới nghĩ ra cái truyện dài,cái truyện dài này thì dài vô tận.
--Truyện gì  ạ ?
--Truyện nhớ gì  ghi nấy.
 Tôi vẫn chưa hiểu. Anh cắt nghĩa: ở tuổi  anh bây giờ, những từng trải những mắt thấy tai nghe, từ lúc mất nước đến khi độc lập,biết bao phong phú, phải ghi lại cho lớp người sau biết. Thế là anh đóng từng tập giấy hàng trăm trang, mỗi khi nhớ việc gì,suy nghĩ thấy nên ghi lại, anh ghi. Ghi hết giấy anh đóng tập khác.
   Những ý tưởng này chủ yếu liên quan đến tập Nhớ gì ghi nấy, song cũng đã hé ra cho thấy một phần cái tâm sự của nhà văn khi đến vớiĐời viết văn của tôi. Đặt vào thời điểm mà cuốn sách được viết, phải nói sự xuất hiện của nó là táo bạo bởi lẽ khoảng những năm năm mươi sáu mươi thế kỷ XX, số nhà văn ở ta tính chuyện nhìn lại đời mình một cách rành mạch, số đó còn rất ít. 
 
Một kiểu viết  hồi ký, một kiểu tự phân tích    
    Thể hồi ký vốn mang trong nó một sự đa dạng nhất định. Ở đây có những nguyên tắc chung, nhưng lại có chỗ  rộng rãi cho sự sáng tạo. Lấy ngay thí dụ trong văn học VN hiện đại. Có hồi ký gần với tự truyện, tức là một thứ tiểu thuyết, như Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng. Có hồi ký có tính cách một sự suy nghĩ lại về đời mình và do đó giàu chất chính luận như Tự phán của Phan Bội Châu.
     Về mặt nhân vật mà xét, có khi tác giả  bám sát quá trình cầm bút của bản thân  như Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, lại có khi  người viết như tránh sang một bên, để nói về một ai đó hoặc nói chung về những người tác giả đã gặp và có vẻ chỉ nhân tiện mà nói thêm về mình nhưCát bụi chân ai của Tô Hoài.
     Còn  Đời viết văn của tôi thì sao ?
     Như tên gọi của nó đã chỉ rõ, cuốn sách nhằm tới cái đích chung là phác hoạ sự hình thành tính cách của tác giả và con đường tác giả đến với văn học. Ông không chủ ý kể về đời mình một cách chi tiết, theo kiểu bám sát từng năm hoặc từng thời kỳ một. Mà ông khái quát lại thành các phần Ảnh hưởng …Hoạt động… Sáng tác...
     Trong khi hàng ngày, nhà văn thường vẫn tuyên bố là mình viết một cách hồn nhiên không đắn đo cân nhắc gì nhiều thì lúc bắt tay vào viết hồi ký, trên đại thể ông lại sử dụng một bút pháp mang ý nghĩa tổng kết, tức là đi từ xa tới gần, từ tổng thể đến trường hợp riêng,  từ nguyên nhân tới kết quả lớp lang đâu vào đấy. 
     Cái việc mang mình ra phân tích được  làm một cách khá bài bản. Ông hiểu ông là sản phẩm của một hoàn cảnh, cũng giống như tờ giấy thấm, con người ông đã thấm đẫm những ảnh hưởng của môi trường xã hội chung quanh.
   
    Người ghi chép phong tục
    Khi bàn về thể tài của Bước đường cùng, nhiều người thích xác định đấy là  tiểu thuyết xã hội, tiểu thuyết tố cáo. Song Nguyễn Công Hoan nói đơn giản hơn đấy là tiểu thuyết phong tục, chẳng qua thạo nhiều chuỵện sinh hoạt ở nông thôn từ chuyện đẻ đái cãi nhau vì mất gà tới cảnh vay nợ, cảnh ăn khao rồi bỏ ruợu lậu vào ruộng của nhau… nên ông đưa cả vào trong sách.
    Cách hiểu về chi tiết phong tục như thế này cũng chi phối tác giả khi viết hồi ký Đời viết văn của tôi.
    Sinh năm 1903, Nguyễn Công Hoan có thể tự nhận là người cùng tuổi với thế kỷ XX. Trong lịch sử dân tộc, thế kỷ này là một bước rẽ ngoặt. Từ đây xã hội rời bỏ mẫu hình phát triển trung đại của phương Đông để sải bước  trên con đường Âu hoá.
    Bởi vậy những kỷ niệm của tác giả trong tuổi niên thiếu có thể coi như những chứng tích về sự xâm nhập của văn hoá phương Tây thông qua mọi yếu tố của môi trường xã hội cũng như con đường các gia đình nền nếp giáo dục các thành viên của mình để đứng vững trước mọi ảnh hưởng mạnh mẽ đó.  
     Những trang kể lại thời đi học ở trường Bưởi không hề mang tính cách  thơ mộng như thường thấy ở hồi ký các nhà văn khác. Mà cũng vẫn là những trang tự bộc lộ chân thành đến mức như là thách thức sự đời, lại còn pha chút trắng trợn bất cần.
     Nào là việc làm giấy khai sinh với ít nhiều man trá.
    Nào là  học trò chia phe phái trọc ghẹo nhau và đánh nhau với bọn trẻ con Tây.
     Nào là vào hùa chạy theo phong trào “đế chế bắc hoá “, tức tẩy chay hàng Tàu....
    Còn có hàng loạt những chi tiết có liên quan đến mọi mặt đời sống được Nguyễn Công Hoan nhân tiện ghi lại  làm nên da thịt của cuốn hồi ký văn học.
 
  Tiếng nói của người trong cuộc
      Nguyễn Công Hoan đã liên tục có mặt trong những giai đoạn nối tiếp nhau của lịch sử văn học: ông vừa là người của thời kỳ dò dẫm tìm đường (những năm hai mươi ), vừa là nhà văn hàng đầu khi đời sống sáng tác  đạt tới một sự chín đẹp (từ sau 1932 tới khoảng 44-45).
    Mấy chục năm đầu thế kỷ XX là thời đặt nền móng của nền quốc văn mới mà cũng là thời của báo chí văn học. Đây cũng là môi trường tốt để ngòi bút Nguyễn Công Hoan tập dượt.
      Với tờ báo này, ông là bạn của người sáng lập, nhân nể bạn thì viết giúp.
      Với tờ tạp chí kia, ông là một trong những cây bút chủ trò,người ta bàn với ông cả từ thể tài đến cách bán hàng.
     Những năm hai mươi khi mở mục Việt Nam nhị thập thế kỷ ba đào ký trên An Nam tạp chí, Tản Đà chỉ viết những bài đầu còn thực chất về sau là do Nguyễn Công Hoan  gánh vác. Những quyển sách đầu tiên của ông được in ra khi các nhà xuất bản còn chưa thành hình và chỉ có các nhà in hoặc các hiệu sách đứng tên sau các xuất bản phẩm.
      Đến khi Tiểu thuyết thứ bảy  Phổ thông bán nguyệt san của Vũ Đình Long ra đời, ông lại trở thành một trong những tác giả  góp truyện đều đặn.
      Dường như có thể soi vào đời viết của ông để thấy bước đi của một mùa màng văn học từ  lúc thịnh trị tới  lúc lụi dần để chuyển giai đoạn. 
      Nếu như Vũ Trọng Phụng trẻ hơn ông viết sau ông nhưng lại qua đời trước ông ( họ Vũ mất 1939 ) thì Nguyễn Công Hoan còn lải rải viết thêm mãi về sau, cả khi những ngày đẹp nhất của văn học  đã qua.
    Có thể xem đây là một trong những yếu tố chủ đạo  tạo nên giá trị của  cuốn hồi ký. Qua Nguyễn Công Hoan chúng ta được biết nhiều chi tiết có liên quan đến  những sự kiện văn hoá mà không sách vở nào ghi lại.
     Chẳng hạn chung quanh  Đông dương tạp chí  Nam phong, tác giả Đời viết văn của tôi không chỉ nói rõ mục tiêu khuynh hướng mỗi tờ báo đó, mà còn biết họ được nhà nước bảo hộ trợ cấp bao nhiêu tiền hàng năm.
    Hoặc chẳng hạn chung quanh tờ Hữu thanh của Bắc kỳ công thương đồng nghiệp ái hữu hội. Lâu nay giới nghiên cứu chỉ nghe nói Tản Đà làm với báo này vài tháng rồi thôi. Giờ đây cũng qua Nguyễn Công Hoan, chúng ta được  biết thực chất cái hội đó ra sao và ông chủ báo có cái thói kỳ cục thế nào ( Nguyễn Công Hoan, kể Nguyễn Huy Hợi, chủ báo Hữu Thanh là một kẻ rất hiếu danh. Bài viết ra để đăng báo, toà soạn họp để bàn thì bao giờ Nguyễn Huy Hợi cũng có mặt. Có mặt không để góp ý kiến mà để thấy bài nào hay cũng thò vào một câu “Hay là ký tên tôi “).
   Có những chi tiết thoạt nhìn có vẻ bâng quơ không đâu vào đâu nhưng nghĩ kỹ thấy có ý nghĩa, giá Nguyễn Công Hoan không kể thì ít người biết.
    Ở phần  Hoạt động Nguyễn Công Hoan bảo rằng một  điều khiến ông tự hào là cuốn sách đầu tay của ông mang tên Kiếp hồng nhan chỉ toàn sáng tác.
    Mới nghe người đọc thời nay hẳn lấy làm lạ. Tập truyện ngắn nào mà chẳng toàn sáng tác? Nhưng đọc thêm đoạn dưới của cuốn hồi ký mới biết hồi ấy, khoảng trước 1930,  sách in thường  tạp pí lù  mỗi thứ một tí, truyện lẫn với thơ, truyện mới sáng tác chen lẫn truyện dịch.
     Và như vậy tình trạng ấu trĩ của văn học lúc ấy còn len vào cả trong quan niệm về sách, còn Nguyễn Công Hoan thì có quyền tự hào là mình thuộc loại đi đầu trên con đường thay đổi để đi tới một sự thuần chủng.

  Một vài cải chính có ý nghĩa"sòng phẳng với lịch sử"
   Chẳng những biết sách vở khi nó đã được in ra, ông còn biết nhiều cuốn sách ngay từ khi nó được thai nghén.
      Đây là ví dụ :
     Khi thuật lại nguyên cớ thúc đẩy  Ngô Tất Tố viết Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan nói rõ hồi ấy Ngô Tất Tố cũng chưa hề có ý thức tố cáo,  chẳng qua thấy Vũ Trọng Phụng viết truyện Vỡ đê thì ông nói ”Vũ Trọng Phụng viết thế nào được truyện nhà quê. Để tôi viết cho“.
     Ý Nguyễn Công Hoan muốn nhấn mạnh điểm xuất phát ban đầu tiểu thuyết của Ngô Tất Tố khá giản dị, tính chất tố cáo của sáng tác chỉ đến về sau (đây là điều không chỉ đúng với Ngô Tất Tố mà còn đúng với nhiều nhà văn cùng thời ).

    Cũng nên biết thêm là  trong một bài viết mang tên Mấy ý kiến về cuốn Văn học Việt Nam 1930 --1945 in trên Tạp chí Văn học 1962 (sau đổi là Cần hiểu đúng Ngô Tất Tố  in  vào tập sách Ngô Tất Tố với chúng ta, NXB Hội nhà văn 1993), Nguyễn Công Hoan từng  đả động tới một sự việc mà nhiều nhà văn học sử  thích nhắc lại coi như một niềm tự hào của ngòi bút nhà nho Ngô Tất Tố, ấy là việc quyển Tắt đèn bị cấm.
     Sau khi hạ một câu chắc chắn như đinh đóng cột “Sự thực, thì tôi không nghe ai nói điều này“, Nguyễn Công Hoan để công giảng giải khá kỹ về cách cấm sách thời trước, để khẳng định thêm chuyện này không xảy ra với đồng nghiệp của mình.

     Tinh thần này được Nguyễn Công Hoan tiếp tục trong hồi ký Đời viết văn của tôi.
    Không phải ngẫu nhiên mà khi trích đoạn Nguyễn Công Hoan viết về Vũ Trọng Phụng ở đây vào sách Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta, một giáo sư đặt cho đoạn trích cái tên Chiêu tuyết cho người đã khuất
     Để hiểu điều này cần biết là trước 1975 ở Hà Nội Vũ Trọng Phụng được liệt vào loại nhà văn "có vấn đề" và nói như ở đây là một cách nói ngược, nếu không phải ở miệng Nguyễn Công Hoan chắc là không được in. 
  
     Còn một nhân vật nữa lâu nay ít được nói cho minh bạch, ấy là Phạm Quỳnh. 
     Ngay từ đầu Nguyễn Công Hoan đã  nói rõ ai đã đứng tên trong việc tổ chức ra báo Nam Phong. Song sau 1934, Phạm Quỳnh không làm báo nữa mà đi nhận chân thượng thư --  một việc thường được người đương thời và hậu thế giải thích một cách như ta hay gọi là tiêu cực. Nguyễn Công Hoan không cần rào đón nhiều. Ông đưa ra cách hiểu riêng.
    Theo ông, Phạm Quỳnh là người yêu nước, cùng với những người lương thiện khác chịu chung cảnh ngộ người dân mất nước “ai không đau đớn ai không khóc thầm“, và việc người chủ bút Nam Phong  bỏ báo để đi làm quan chẳng phải do hám lợi  như người ta vẫn nói, mà chỉ muốn có một dịp thuận lợi nói rõ ý mình, thế thôi.
    Giá kể vào tay người khác thì khi viết những chuyện này hẳn là phải ra cái điều quan trọng lắm coi như mình dám đi ngược lại ý kiến của giới quyền uy và nhờ thế khôi phục lai bộ mặt của lich sử.  Và trước khi nói ra tiếng nói cuối cùng, hẳn tác giả hồi ký phải rào trước đón sau đủ chuyện. Nguyễn Công Hoan thì khác. Cách viết của ông ở chỗ này tự nhiên rành rẽ, dường như ông muốn nói sự thực rất đơn giản chẳng qua những người đa sự chỉ nói tầm phơ mà  chẳng có ích cho ai !  

Sự suồng sã cần thiết  
    Cái chết của nhiều nhà viết hồi ký là hay quan trọng hoá những hoàn cảnh những sự kiện mình đã từng sống. Nguyễn Công Hoan thì khác. Ông thích làm giảm tầm quan trọng của sự kiện đã nêu.
    Trong nhiều trường hợp, ông lưu ý một việc người đời sau coi là tày đình xảy ra chẳng qua chỉ có lý do rất ngẫu nhiên. 
     Đây cũng là một cách để phản ứng lại lối vào hùa hoặc thói cơ hội mà ông khinh bỉ.
  
      Như trên đã nói, mặc dù viết đều viết khỏe bậc nhất trong giới, song suốt trong thời tiền chiến, Nguyễn Công Hoan vẫn không bỏ nghề dạy học. Không bao giờ người ta thấy ông kêu than là phải làm gấp bản thảo để mang bán trong khi vợ đau con yếu kiểu như Vũ Trọng Phụng Nam Cao. Mà ông cũng không ham chơi đến mức luôn luôn cần tiền như Nguyễn Tuân hoặc Lưu Trọng Lư.
    Như vậy là đối với nghề văn,  ông không bị ràng buộc đến bị động. Luôn luôn ông đứng cách nó một khoảng cách. Điều này chẳng những mang lại cho nhà văn  một cuộc sống độc lập mà còn giúp ông thế đứng bên  ngoài vốn  rất cần thiết cho việc đưa ra một cái nhìn bao quát về nghề nghiệp.
    Chúng ta biết rằng suốt thời trung đại, văn học VN  không có hồi ký. Mà  ngay trong thế kỷ XX, cả các nhà chính trị nhà hoạt động xã hội lẫn các nhà văn các hoạ sĩ nhạc sĩ  và nói chung là những người lẽ ra nên viết hồi ký cũng không mấy ai tính chuyện động bút trong thể tài này. Tại sao như vậy ?
    Hình như ở đây có vấn đề của tư duy:  người Việt tuy luôn  luôn lưu luyến quá khứ song lại không  thích chuyện tính sổ quá khứ một cách rành mạch.
     Xu thế tâm lý nói chung là tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại.
    Lại có tình trạng nhiều người trong thâm tâm thừa biết rằng mình sống dở, sống chẳng ra sao,  song khi kể chuyện cũ  lại  tìm cách  tô điểm cho cái quá khứ ấy một vẻ dễ coi. Với  những bộ sử những tài liệu nghiên cứu có liên quan đến mình, họ thường  săn đón và tìm mọi cách chăm sóc sao cho khuôn mặt mình được tô vẽ cho dễ coi một chút. Còn hồi ký ghi đích danh tên mình ấy ư -- họ ngại!
    Thế Nguyễn Công Hoan thì sao?
   Những người thích đọc ông đều biết nhà văn này có một cách nghĩ riêng về đời và đã phát biểu cách hiểu đời này ngay trong một số truyện ngắn viết trước 1945.  
   Đoạn văn sau đây là một tuyên ngôn :
    Điều tôi lấy làm bực mình nhất  là thế nào chẳng có một độc giả đa nghi,xem xong câu chuyện này  bảo một bạn rằng
 --Hắn bịa.
 Tôi hãy cãi trước rằng :
--Thưa không bịa tí nào.
 Rồi không để ông độc giả ấy nói thêm, tôi phải tiếp luôn :
--Ngài cho là vô lý ? Ngài nên hiểu nghe chuyện gì mà ngài cứ lấy cái óc cổ điển  ra mà xét thì cũng cho là vô lý cả. Vì thế sự đã xoay thành ngược mà đời ngày nay  chẳng phải là một bà hiền mẫu thưởng phạt công minh.  Đời đã hoá ra  một con mụ chửa hoang  đẻ bậy sinh non ra toàn những hạng hoặc mất dạy hoặc đói cơm.
   Không. Ngài cho phép tôi nói nốt đã. Hạng đói cơm thì ngài thấy nhan nhản khắp mọi nơi. Thường họ gõ cửa nhà ngài xưng là  thất nghiệp. Họ bị ngài đuổi đi sau khi đã bố thí  cho một bài học về siêng năng không hợp thời. Còn hạng mất dạy cũng chẳng ít. Họ rất no đủ sang trọng,song,chuyên môn đeo mặt nạ để  lừa dối bóc lột lẫn nhau.
    Được cái, trong khi giữ một cách nhìn bi quan về xã hội, đồng thời  ông không biệt đãi bản thân, tính chuyện tô vẽ bản thân.  Trong hồi ký ông tự trình bày bản thân với đủ thứ thói tật. Nhìn quá rõ những mặt xấu trong con người, hoài nghi đối với nhân tâm thế đạo, rồi khinh thế ngạo vật rồi lười biếng ẩu không coi việc gì là quan trọng...   xưa nay thật khó có ai tự nói về mình như vậy.
      Và cũng vì thế nên trong Đời viết văn của tôi có những nhận xét về nghề cầm bút rất khắc nghiệt  đại loại :
-   Làng văn từ xưa đến giờ, quả là cái chợ
-   Một dạo người ta sợ những người cầm bút như …sợ hủi
-   Rất nhiều người viết chỉ láng tráng đến với nghề một chốc rồi chuồn thẳng đến mức phải gọi cái cách tồn tại của họ là nửa đời nửa đoạn.

    Trong những trường hợp có thể, Nguyễn Công Hoan đã  sòng phẳng.
       
Cách tồn tại riêng  trong nghề
 Một kiểu  người Việt
     Tìm hiểu về Nguyễn Công Hoan, người ta không khỏi nhận ra một sự éo le rõ rệt. Một mặt, đây là một trong những cây bút hàng đầu của nền văn học dân tộc trong  thế kỷ XX, một  đô vật lực lưỡng trong trường văn trận bút. Mặt khác, đó hình như  lại là  cây bút đặt rất ít sự nghiêm chỉnh vào sáng tác.
     Như ông đã  kể, có lần ông mang truyện của mình tặng cho người khác để người đó bán cho các báo lấy tiền.
     Lại như cái cảnh ông vừa chơi bài vừa viết truyện, hoặc viết tiểu thuyết đăng báo  mà không thuộc hết tên nhân vật, phải để trống rồi nhờ toà soạn điền hộ.
    Người đời vốn ranh mãnh. Có làm như vậy đi chăng nữa thì họ cũng giấu biệt đi không muốn cho ai biết. Trong khi đó, Nguyễn Công Hoan  lại bô bô kể hết cả ra trong sách.
     Qua những phát biểu trực tiếp cũng như qua cách làm việc của ông, thấy toát lên cái ý chẳng qua do lọc lõi thạo đời  thì viết cho mọi người cùng đọc chứ trong bụng chả  buồn để tâm gì đến nghĩa lý với lại vai trò rắc rối mà người ta thường gán cho nghề nghiệp này.
    Đại khái  ông không phải trăn trở nhiều khi ngồi trước trang giấy, thảng hoặc đôi lần có  để ý đến ý nghĩa xã hội của công việc ( như khi viết  Bước đường cùng ) thì cũng là làm vội làm vàng, chứ chưa phải đã dồn hết vào đấy tất cả tâm sức vốn có.
    Nguồn cảm hứng nào đã thúc đẩy Nguyễn Công Hoan kể chuyện mình theo kiểu như vậy ?
   Chúng tôi có cảm tưởng  điều đầu tiên ông muốn truyền đạt tới mọi người, ấy là viết văn phải có năng khiếu và sự thành công không thể do ý chí  hay day tay mắm miệng mà có  được.
    Vốn thích đề cao những gì gọi là tự nhiên ông chúa ghét những nhà văn nào quan trọng hoá nghề nghiệp của mình và lấy sự viết lách ra để lừa bịp.
     Sự dông dài tuỳ tiện mà ông hay nói, đúng hơn sự đùa bỡn  mà ông cố ý phô ra, là một cái gì quán xuyến trong ông, nó buộc người ta  sau đó  phải hiểu dần ra những điều đơn giản mà ông muốn nói:  việc viết văn cũng là một việc thường như mọi việc khác trên đời  hoặc  gán cho văn chương có lắm ý nghĩa đâu đâu  tức là chẳng hiểu gì về nó cả. 
    Ở chỗ này có thể nói cách làm của Nguyễn Công Hoan trùng khít với một xu thế của tư duy hiện đại ấy là nhìn đời sống ở một khoảng cách gần gũi, phi huyền thoại hoá nó, làm cho  mất đi cái vẻ thiêng liêng giả tạo mà con người trung đại thích dùng để tự tô vẽ.   
    Đây cũng là cái cách mà nhà văn lõi đời phản ứng lại trước thói ấu trĩ của thời đại cách mạng, khi mà người ta quá đề cao ý nghĩa mục đích của việc cầm bút để rồi hướng nó vào việc phục vụ chính trị một cách xoàng xĩnh.
    Đồng thời sự phi huyền thoại hoá này, tác giả còn đi gần tới một quan niệm khác cũng chỉ thấy ở con người hiện đại, ấy là nhấn mạnh tính chất trò chơi của cuộc đời, và cho rằng trong trò chơi, cả ý nghĩa nghiêm chỉnh lẫn cái vẻ hư vô của kiếp nhân sinh có dịp bộc lộ. Chơi để sống cho nhẹ nhàng và nếu có phải chết cũng là chết một cách thoải mái.
     Trong tiếng Việt chữ chơi hay gợi ra cái ý ham vui, gặp chăng hay chớ, chả cần để  tâm vào việc gì mà tha hồ làm  nhanh làm ẩu làm hàng giả bịp bợm. 
      Có thể nói  Nguyễn Công Hoan chơi với nghĩa khác. Chơi ở đây thuộc về một cái gì  nằm  trong cách nhìn đời trong ý thức của con người nó giúp cho một cây bút như tác giả Bước đường cùng thêm hào hứng trong sự sáng tạo, khi viết tìm thêm được những trò hóm nghịch lôi cuốn bạn đọc.
   Truy nguyên về tận nguồn gốc, có thể bảo cái sự nhởn nhơ ở Nguyễn Công Hoan còn thuộc về hồn cốt dân tộc mà ông thấm nhuần trong dòng máu mình.

    Rải rác trong các đoạn trên chúng ta đã nhắc qua một số đặc điểm làm nên cách nhìn đời sống của Nguyễn Công Hoan bộc lộ qua các truyện ngắn truyện dài đã in: 
     Thích sự tự nhiên và luôn luôn tự nhắc nhở mình là phải giữ bản sắc. 
      Không tin lắm ở sách vở mà thích đề cao một sự khôn ngoan trời cho. 
     Trong khi gắng gỏi học theo mọi người thì bề ngoài lại tỏ ra không coi cái gì là quan trọng và  xem thường mọi chuyện. 
     Lấy sự cười đùa làm vui tự nhiên, bài bác những sự quan trọng hoá giả tạo song lại sẵn sàng để tâm và tỏ ra rất thích thú với những sự sắp đặt tinh xảo v...v.... 
     Đến Đời viết văn của tôi  thì chúng ta lại gặp cái tinh thần đó trong chính con người tác giả. 
    Trong khi nhìn lại đời mình, nhà văn hiện ra như một cá tính cụ thể, mà trong đó đồng thời  thấy bao hàm những con người khác những cuộc đời khác. Xét theo nghĩa này, Đời viết văn của tôi là một bộ phận hợp thành không thể thiếu trong sự nghiệp của tác giả./.

1997.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dũng cảm nhìn vào sự thật

Pierre Darriulat

 Bùi Thu Trang dịch

Trong lớp trẻ ngày nay không có nhiều người theo đuổi các ngành KH&CN mà chỉ chạy theo sự hào nhoáng của tên gọi các ngành học, các trường đại học đua nhau mở các khóa kinh tế học, quản trị, marketing, nhưng sự thật là đa phần họ chỉ đào tạo ra những giao dịch viên ngân hàng, những nhân viên bàn giấy, những đốc công, và những người bán hàng.

Do ảnh hưởng từ những giá trị chuẩn mực của khoa học phương Tây, chúng ta vẫn thường tôn vinh những phẩm chất như sự nghiêm túc trong tư tưởng và đạo đức khoa học, hay tự do học thuật; chúng ta đấu tranh chống lại những luận điệu áp đặt mang tính phi khoa học, khuyến khích lối tư duy phê phán; hướng tới sự kết hợp hài hòa giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, giữa lý thuyết và thí nghiệm hay quan sát thực tế, giữa nghiên cứu và giảng dạy; chúng ta cũng mong muốn những lời phát biểu của Giáo sư Hồ Đắc Di tại rừng Việt Bắc những năm 1947 – 1949 sẽ trở thành nền tảng để xây dựng hệ thống đại học Việt Nam hiện đại. Đó là những lý tưởng tốt đẹp mà nhiều người trong chúng ta đã dành cả cuộc đời mình để theo đuổi.

Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật.
Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc VI, 1986
Tuy vậy, mối nguy hiểm ở đây là đôi khi chúng ta vì mải mê đắm chìm vào lý tưởng mà quên nhìn vào thực trạng của nền giáo dục đại học và khoa học của đất nước, vốn còn xa mới đạt tới những gì ông Hồ Đắc Di mong mỏi.

Khi bàn về giáo dục đại học ở Việt Nam, người ta thường nhắc đến ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn hóa Việt; họ cũng luôn nói rằng Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng còn sớm hơn cả trường đại học lâu đời nhất ở châu Âu, rằng người Việt luôn luôn đề cao vai trò của sự học. Nhưng sự thật, là cách đây gần một thế kỷ, hơn 90% dân số Việt Nam không biết đọc, và 30 năm chiến tranh đã gây nhiều tác động tiêu cực tới sự nghiệp giáo dục và đào tạo của cả một thế hệ.

Ngày nay, tình hình đã thay đổi: hơn 90% dân số biết đọc biết viết; các bậc cha mẹ đều tìm cách hướng con em mình theo học đại học, nơi được coi là cánh cửa dẫn tới tiền tài, địa vị xã hội, hạnh phúc, tức là tất cả những gì họ từng mong ước nhưng chưa có được trong những năm tháng gian truân vất vả khi xưa. Họ không quản ngại hy sinh để cho con theo học đại học, những gia đình khá giả hơn thậm chí còn dành dụm tiền để gửi con đi du học nước ngoài. Trong suy nghĩ của họ, họ đánh đồng hạnh phúc với tiền tài, văn hóa với sự giàu có; và sự thật là con em họ trưởng thành với tư tưởng coi trọng tiền bạc hơn kiến thức.

Lãng phí các nguồn lực

Sự thật là trong lớp trẻ ngày nay không có nhiều người theo đuổi các ngành KH&CN, một phần do các tổ chức học thuật trong nước vô cùng thụ động trong các hoạt động quảng bá cho khoa học và hỗ trợ sự phát triển của thế hệ trẻ. Trong khi đó, chạy theo sự hào nhoáng của tên gọi các ngành học, các trường đại học đua nhau mở các khóa kinh tế học, quản trị, marketing, nhưng sự thật là đa phần họ chỉ đào tạo ra những giao dịch viên ngân hàng, những nhân viên bàn giấy, những đốc công, và những người bán hàng. Tại các trường đại học ở Hà Nội mà tôi có dịp tham gia giảng dạy, tôi thấy rất nhiều sinh viên uổng phí bốn năm học chỉ để làm một việc là quên lãng dần những kiến thức phổ thông bởi các trường đại học không nghiêm túc kiểm soát chất lượng kiến thức của người học nhưng vẫn cấp bằng, điểm số được chấm một cách dễ dãi, năng lực và tài năng của sinh viên không được đánh giá một cách đúng mực. Vì vậy, những người có hiểu biết đều thiếu niềm tin vào chất lượng cũng như năng lực của các trường đại học trong nước tới nỗi họ tìm mọi cách gửi con cái mình đi du học.

Tôi cũng đã thấy nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp lại khăn gói lên đường tầm sư học đạo xứ người, chắc mẩm rằng cứ đi du học là tự khắc sẽ giỏi, nhưng khi đối diện với thực tế đã vỡ mộng ra sao. 
Những người thành công thì hoặc là định cư hẳn ở nước ngoài, hoặc là về nước để rồi không tìm thấy cơ hội phát triển sự nghiệp xứng đáng với những gì họ đã bỏ ra để học hỏi những kỹ năng mới, kiến thức mới. Sự thật, là tình trạng chảy máu chất xám đang diễn ra gay gắt. Tất cả những công sức đầu tư của các gia đình và cả Nhà nước gửi người đi đào tạo ở nước ngoài rốt cuộc trở thành lãng phí vì chúng ta không khai thác sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực đó.
Người thầy giáo nào càng đào tạo được nhiều học trò giỏi hơn mình thì càng hạnh phúc. – Giảng dạy và nghiên cứu là hai anh em sinh đôi, và nhiều khi giảng đường trang nghiêm chỉ là sảnh chờ trước khi bước vào phòng thí nghiệm. – Trường đại học không chỉ là nơi giảng dạy khoa học đã hình thành, mà còn là nơi đang hình thành khoa học. – Nghiên cứu là làm việc theo nhóm. Nó đòi hỏi sự chăm chỉ và nhẫn nại. Nó bao gồm những kỹ năng, đặc biệt đối với những người trẻ tuổi, luôn không ngừng tìm kiếm phát minh để có thể nắm bắt cơ hội. Cùng với công việc, trí tưởng tượng và  phương pháp, cơ hội và sự quan tâm sẽ đến trong tầm tay. – Nhà khoa học phải có một phông văn hóa rộng để không chỉ như những người thợ thủ công lành nghề được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp. Đào tạo các nhà khoa học phải chú trọng phát triển cả về trí tuệ và đạo đức, bao gồm cả khoa học và nghệ thuật. – Tinh thần học thuật là một đặc trưng của đào tạo giáo dục bậc cao so với bậc trung học và trung học chuyên nghiệp; đó là sự thỏa hiệp giữa sinh viên và giảng viên mà không có chỗ cho việc lạm dụng quyền hạn. Chỉ khi đó, thông qua mối quan hệ không áp đặt, năng lực phán xét mới có thể nở rộ hoàn toàn tự do-đó là bông hoa đẹp nhất trong vườn hoa trí tuệ nhân loại, một yếu tố vô cùng quan trọng đối với khoa học. – Khi học thì phải nghi ngờ và khi làm thì phải có niềm tin. – Có thể điều khiển được các nhà khoa học, nhưng không thể điều khiển được Khoa học. – Thật quý giá cho nhà khoa học nào có một công việc kết hợp được cả Khoa học và Lương tâm. Có tài là chưa đủ; mà phải có đạo đức trong sáng.  – Trường đại học phải tự hào vì đã quyết tâm gìn giữ di sản trí tuệ của những người đang đấu tranh vì tự do.
Người thầy giáo nào càng đào tạo được nhiều học trò giỏi hơn mình thì càng hạnh phúc. – Giảng dạy và nghiên cứu là hai anh em sinh đôi, và nhiều khi giảng đường trang nghiêm chỉ là sảnh chờ trước khi bước vào phòng thí nghiệm. – Trường đại học không chỉ là nơi giảng dạy khoa học đã hình thành, mà còn là nơi đang hình thành khoa học. – Nghiên cứu là làm việc theo nhóm. Nó đòi hỏi sự chăm chỉ và nhẫn nại. Nó bao gồm những kỹ năng, đặc biệt đối với những người trẻ tuổi, luôn không ngừng tìm kiếm phát minh để có thể nắm bắt cơ hội. Cùng với công việc, trí tưởng tượng và  phương pháp, cơ hội và sự quan tâm sẽ đến trong tầm tay. – Nhà khoa học phải có một phông văn hóa rộng để không chỉ như những người thợ thủ công lành nghề được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp. Đào tạo các nhà khoa học phải chú trọng phát triển cả về trí tuệ và đạo đức, bao gồm cả khoa học và nghệ thuật. – Tinh thần học thuật là một đặc trưng của đào tạo giáo dục bậc cao so với bậc trung học và trung học chuyên nghiệp; đó là sự thỏa hiệp giữa sinh viên và giảng viên mà không có chỗ cho việc lạm dụng quyền hạn. Chỉ khi đó, thông qua mối quan hệ không áp đặt, năng lực phán xét mới có thể nở rộ hoàn toàn tự do-đó là bông hoa đẹp nhất trong vườn hoa trí tuệ nhân loại, một yếu tố vô cùng quan trọng đối với khoa học. – Khi học thì phải nghi ngờ và khi làm thì phải có niềm tin. – Có thể điều khiển được các nhà khoa học, nhưng không thể điều khiển được Khoa học. – Thật quý giá cho nhà khoa học nào có một công việc kết hợp được cả Khoa học và Lương tâm. Có tài là chưa đủ; mà phải có đạo đức trong sáng.  – Trường đại học phải tự hào vì đã quyết tâm gìn giữ di sản trí tuệ của những người đang đấu tranh vì tự do.
GS Hồ Đắc Di
Một trong những ví dụ điển hình là trong hơn một thập kỷ nay, người ta đã bàn bạc nhiều về chương trình phát triển điện hạt nhân của Việt Nam, nhưng rút cục trên cả nước vẫn chưa có một trung tâm đào tạo các nhà khoa học, các kỹ sư giúp vận hành nhà máy điện hạt nhân tương lai; nơi có thể gửi người đi tập huấn rồi trở về truyền đạt lại kiến thức cho sinh viên, hoặc mời chuyên gia nước ngoài tới giảng những khóa ngắn hạn theo từng chủ đề cụ thể; nơi có thể tận dụng các kinh nghiệm nghiên cứu tích lũy được trong nhiều năm qua tại lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Trong khi đó, chúng ta vẫn cứ tiếp tục gửi người đi du học nước ngoài mà không hề giám sát tiến độ học tập của họ, và cũng chẳng hề chuẩn bị để có thể tiếp nhận và sử dụng hiệu quả họ sau khi tốt nghiệp về nước. 

Kết quả là, tới nay chúng ta vẫn hoàn toàn thiếu sự chuẩn bị nguồn nhân lực cho dự án điện hạt nhân, và đây là lí do khiến một số chuyên gia am hiểu về lĩnh vực này có ý kiến cho rằng Việt Nam nên từ bỏ tham vọng xây dựng nhà máy điện hạt nhân trong tương lai trước mắt. Đây cũng là một sự thật đáng tiếc.

Cách đây mấy năm, Quỹ Phát triển Khoa học & Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) ra đời. Đó là một sáng kiến rất đáng khen, nhằm tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, giúp đánh giá các đề tài nghiên cứu một cách khách quan hơn. Nhưng sự thật, là số tiền tài trợ cho các dự án mới kể từ ngày 01/01/2013 cho tới hơn một năm sau mới được Bộ Tài chính duyệt cho giải ngân. Điều này gây ra nhiều xáo trộn nghiêm trọng, ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện các đề tài. Mặt khác, là quỹ NAFOSTED đến nay vẫn chưa có động thái nỗ lực nào để khuyến khích tinh thần làm việc nhóm và tự do sáng tạo cá nhân. Trái lại, họ yêu cầu mỗi thuyết minh đề tài phải giải trình thật chi tiết nội dung đóng góp của từng cá nhân thay vì cho phép chủ nhiệm đề tài tự quản lý một cách linh hoạt công việc của các thành viên tham gia thực hiện đề tài. 

Người ta vẫn thường kêu ca rằng sở dĩ nền nghiên cứu của Việt Nam khó cất cánh được là vì thiếu thiết bị nghiên cứu. Nhưng sự thật như tôi được biết có những thiết bị quan trọng do các cơ quan nghiên cứu mua, hoặc do nước ngoài tài trợ, nhưng rồi bị đắp chiếu vì trong nước không có người đủ năng lực khai thác, sử dụng. 

Một Việt kiều từng tặng cho Việt Nam một giao thoa kế vô tuyến, để rồi nó bị chôn vùi trong tủ để đồ ở một trường đại học tại Hà Nội trong suốt 15 năm. Sau khi được chúng tôi phát hiện và mang về, nó đã được một sinh viên của tôi sử dụng phục vụ nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ. Nhưng rồi một vị công chức bàn giấy trong trường phát hiện ra rằng danh sách hàng tồn kho của anh ta thiếu mất thiết bị ấy nên đã gọi chúng tôi đòi lại. Vậy là nó lại quay về nằm im trong tủ và nhiều khả năng sẽ ở lại đó vĩnh viễn. 

Khoa vật lý hạt nhân của một trường đại học từng bỏ ra vài triệu đô la để mua một chiếc máy gia tốc mà họ cũng không biết phải dùng để làm gì. Thực ra, loại máy gia tốc này chỉ hữu ích cho giới vật lý hạt nhân khoảng 60 năm về trước, còn hiện nay nó chỉ có thể được sử dụng trong lĩnh vực nghiên cứu vật liệu mà thôi. Tuy vậy, người ta vẫn quyết định mua, nhưng lại không cho các nhà khoa học vật liệu cơ hội sử dụng nó. 

Sự thật là tôi đã thấy có những cá nhân xin mua những thiết bị lớn đắt tiền, giá cả có khi lên tới hàng trăm triệu đô la hoặc hơn, mà không hề tham khảo ý kiến của đồng nghiệp và cũng không lưu tâm tới thực tế là trong nước không có người đủ kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để vận hành và bảo dưỡng thiết bị đó một cách hợp lý. Tôi còn được biết rằng bạn bè quốc tế đã tặng cho Việt Nam những công cụ máy móc cơ khí hiện đại nhưng rồi tất cả đều bị đắp chiếu trong xưởng tới hàng thập kỷ đơn giản vì không có người vận hành. 

Bằng cấp và đạo đức 

Những người sở hữu bằng đại học lẽ ra phải được coi là người có năng lực, và tấm bằng đại học lẽ ra phải là bàn đạp phát triển cho giới trẻ hòa nhập vào giới tinh hoa của nước nhà, là nền tảng xây dựng tương lai đất nước. Sự thật, là tiền lương công nhân viên chức không đủ để họ nuôi gia đình, nên họ phải bươn chải làm ngoài để sinh tồn. Trong khi đó, không có sự khác biệt về tiền lương nào giữa những người làm việc chăm chỉ và những người thậm chí còn không thèm bước chân vào cửa cơ quan, ngoại trừ những dịp như dịp lễ tết để thu phong bì. Sự thật thì chiếc bằng đó chẳng mấy hữu dụng, và cách tốt nhất để kiếm được một vị trí như ý nhiều khi là đưa những chiếc phong bì cộm tiền cho những vị thủ trưởng, hoặc có người thân làm to. Đó là những câu chuyện đáng buồn mà tôi đã từng chứng kiến. 

Mấy năm trước, ngài Phó Thủ tướng chia sẻ tham vọng được thấy 20.000 tiến sĩ tốt nghiệp vào năm 2020. Sự thật, là ba cựu nghiên cứu sinh của tôi từng theo học tiến sĩ trong dự án hợp tác giữa Việt Nam và các trường đại học danh tiếng của Pháp, nhưng cho tới giờ họ vẫn chưa nhận được bằng của phía Việt Nam cấp, bất chấp sự tồn tại của cái thỏa thuận chính thức giữa hai nước rằng sau khi nghiên cứu sinh bảo vệ khóa luận, trường đại học của cả hai bên đều phải cấp bằng. Một sinh viên của tôi đang làm tiến sĩ tại Việt Nam đã viết xong luận án từ cách đây vài tháng, nhưng giờ lại phải vượt qua một chặng đường dài gồm một loạt những thủ tục hành chính đặt ra chỉ để đánh đố nhau: tám buổi thuyết trình; một bản nhận xét của hai thầy phản biện - một trong hai người đó đã đưa ra những nhận xét lộ rõ sự yếu kém năng lực chuyên môn của mình; thu thập đủ 15 đánh giá tốt từ 50 tiến sĩ tại Việt Nam – thực tế là phần lớn những người này không hiểu gì về luận văn đó dù đã được gửi bản thuyết minh tóm tắt. 

Chúng ta phải có can đảm để đối diện với sự thật. Vấn đề không phải là đổ lỗi cho ai đó, bởi có quá nhiều tác nhân lịch sử dẫn tới tình trạng như hiện nay. Người duy nhất có lỗi ở đây là người chối bỏ sự thật.
Hiện nay, các nghiên cứu sinh cứ ba tháng một lần phải gửi báo cáo cho phòng phụ trách nghiên cứu sinh của trường để báo cáo tiến độ, như thể người ta cho rằng vị quản lý nghiên cứu sinh là kẻ bất tài, thiếu trách nhiệm, hay gian dối, không đáng tin cậy để thực hiện công việc đó. Chúng ta sẽ dễ nghĩ rằng cách giám sát kỹ càng như vậy có thể hạn chế những gian lận trong việc cấp bằng, nhưng trên thực tế, chúng ta lại thường xuyên phải nghe đến những vụ mua bán bằng cấp hay thuê người viết luận văn, hay khá khẩm hơn là được cắt dán xào xáo bởi những người chuyên sống bằng nghề này.  
Người ta ưa dùng những danh xưng nghe thật “kêu”. Đi dọc hành lang các viện nghiên cứu hay các trường đại học, ta sẽ bắt gặp không ít những cánh cửa gắn biển giám đốc phòng này, giám đốc ban nọ, nhưng sự thật, là phòng này ban nọ mà vị giám đốc đó lãnh đạo thường chỉ gồm có một người – tức là chính vị giám đốc đó – còn văn phòng của ông ta thì hầu như lúc nào đóng cửa bỏ không. Tôi có những sinh viên làm khóa luận tốt nghiệp của một khoa được coi là chất lượng cao tại một trường đại học Hà Nội, có tên gọi Năng lượng cao và Vũ trụ học. Nhưng thực tế là những sinh viên của khoa này chẳng hề biết thuyết tương đối hay vũ trụ học là gì, thậm chí thiếu cả những kiến thức rất sơ đẳng về vật lý.

Cách đây mấy năm dư luận xôn xao về một vụ đạo văn. Nguyên là một nhóm các nhà vật lý, trong đó có hai giáo sư, một người giữ chức vụ cao, từng đại diện Việt Nam trong một sự kiện quốc tế, đã “xào nấu” một công trình nghiên cứu bằng cách cắt dán lại từ những tài liệu đã được công bố, sau đó thêm thắt vào một vài câu vô nghĩa rồi gửi tới nhiều tạp chí quốc tế khác nhau. Một số báo đã nhận đăng – điều này phản ánh chất lượng thẩm định của các báo đó tệ hại như thế nào – nhưng có một số báo đã phát hiện ra được sự gian dối. Nhưng sự thật là đến nay các nhà quản lý của chúng ta vẫn chưa có biện pháp nào ngăn cản, hạn chế những sự việc như vậy tái diễn.

Đối diện với sự thật như thế nào?
 
Nền giáo dục sẽ chẳng đi tới đâu khi mà cách tốt nhất để người ta kiếm được một công việc tốt là có tiền, mối quan hệ, hay có người thân làm quan chức. Tham nhũng là kẻ thù tồi tệ nhất của giáo dục.
Sự thật, là chúng ta phải xây dựng lại từ đầu một hệ thống trường đại học Việt Nam đáp ứng nhu cầu của tương lai, và việc che giấu những khuyết điểm như chúng ta vẫn làm trong suốt những thập kỷ qua sẽ không đi tới đâu cả. Chúng ta phải có can đảm để đối diện với sự thật. Vấn đề không phải là đổ lỗi cho ai đó, bởi có quá nhiều tác nhân lịch sử dẫn tới tình trạng như hiện nay. Người duy nhất có lỗi ở đây là người chối bỏ sự thật.
Sự thật là việc xây dựng một hệ thống trường đại học như vậy sẽ phải trải qua nhiều thế hệ. 2/3 người Việt Nam sinh ra sau thời kỳ Đổi mới. Chúng ta cần phải suy nghĩ lại xem mình cần – và có thể - đem lại cho họ loại hình giáo dục, đào tạo nào. Chúng ta phải ngừng ngay việc so sánh các trường đại học Việt Nam với các trường đại học trên thế giới, bởi đây không chỉ là một việc làm vô nghĩa mà, tai hại hơn, còn gây ra những ngộ nhận về đường hướng. 

Chúng ta phải đặt ra các ưu tiên, và điều chỉnh cân đối tỉ lệ các trường hướng nghiệp, trường chuyên nghiệp, trường kinh doanh, và trường đại học. Chúng ta phải tìm hiểu rõ hơn đất nước mình cần bao nhiêu bác sĩ, bao nhiêu kỹ sư, hay giáo viên, những dự đoán sát thực tế hơn về số lượng nhà kinh tế, nhà quản lý, và doanh nhân cần thiết. Chúng ta cũng cần biết rõ về tỉ trọng nhân lực giữa hai khu vực nhà nước và tư nhân. 

Ngoài những vấn đề ưu tiên nói trên, chúng ta cũng cần phải ưu tiên khôi phục lại đạo đức và sự trung thực trong các hoạt động. Nền giáo dục sẽ chẳng đi tới đâu khi mà cách tốt nhất để người ta kiếm được một công việc tốt là có tiền, mối quan hệ, hay có người thân làm quan chức. Tham nhũng là kẻ thù tồi tệ nhất của giáo dục. 

Tôi vừa đọc xong cuốn hồi ký của bà Nguyễn Thị Bình (Gia đình, Bạn bè, và Đất nước), trong đó có một chương thú vị nói về những vấn đề xảy ra trên dưới 30 năm trước mà bà phải đối mặt trong giai đoạn 10 năm bà làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Đó là: hợp nhất hai nền giáo dục Nam Bắc, xóa nạn mù chữ trong công nhân, xây trường mới (ở cả các vùng sâu vùng xa) và mở trường sư phạm để đào tạo giáo viên, duy trì hoạt động giáo dục trong giai đoạn khó khăn những năm 1979 – 1980, trồng cây vải ở Hải Dương giúp cải thiện đồng lương giáo viên, hướng dẫn thực hiện các hoạt động như “Phủ xanh đất trống đồi núi trọc”, “Góp giấy làm kế hoạch nhỏ”, “Thu gom chai lọ”, hay “Góp lông gà lông vịt”. Qua cuốn hồi ký, có thể thấy  rằng vào cuối thập niên 1980, các trường đại học hiện đại Việt Nam đều được xây dựng lên từ rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. 
Ngày nay, chúng ta cũng cần đối diện với một sự thật, rằng ở nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như hai lĩnh vực mà tôi quen biết là vật lý hạt nhân và vật lý học thiên văn, thì mọi việc hầu như phải bắt đầu từ con số 0.
Vậy đến bao giờ chúng ta mới giải quyết được những vấn đề này, và tới khi nào trường đại học mà Giáo sư Hồ Đắc Di từng mơ ước mới trở thành hiện thực? 
Dĩ nhiên, chưa thể mong sẽ trông thấy nó trong tương lai gần. Chúng ta phải xây dựng nó từ đầu nên quá trình hoàn thiện có thể phải kéo dài hàng nhiều thế hệ chứ không chỉ vài năm. Tuy nhiên, tôi cũng muốn nói rằng ngay từ bây giờ chúng ta vẫn có thể gieo trồng hạt giống của khoa học cơ bản với những nghiên cứu khai phá ở tận biên giới tri thức khoa học của nhân loại. Tất nhiên những nghiên cứu như vậy chỉ có thể thực hiện ở quy mô khiêm tốn, và phải ưu tiên chất lượng hơn số lượng. Muốn vậy ta phải làm gì? 

Trước tiên, cần chọn ra một số lĩnh vực mà Việt Nam sẵn sàng – và có đủ khả năng – hậu thuẫn. Khi lựa chọn cần lưu ý đến tiềm năng phát triển một số lĩnh vực vẫn còn để ngỏ nhiều cơ hội nghiên cứu và chúng ta dễ đạt được thành tựu hơn trong một vài thập kỷ tới.
Cũng cần phải cân nhắc tới vấn đề tài chính, không nên bỏ tiền xây dựng, chế tạo những thiết bị, cơ sở vật chất tốn kém trong khi có thể tận dụng những thiết bị ở nước ngoài với mức chi phí phải chăng; trước khi đầu tư xây dựng thiết bị khoa học mới trong nước, cần bàn bạc với nhiều bên, kể cả các chuyên gia nước ngoài. Cần phải tìm hiểu cụ thể về tài năng và năng lực của những người làm nghiên cứu trong nước; một ngành nghiên cứu nào đó chỉ có thể được tài trợ một cách hữu hiệu khi đã có sẵn một đội ngũ nghiên cứu năng động trong nước, đã từng chứng tỏ khả năng hoạt động hiệu quả của mình trong lĩnh vực đó. Và, mặc dù đây không phải là ưu tiên, nhưng cũng cần quan tâm tới mối liên hệ giữa lĩnh vực đó với các nghiên cứu ứng dụng và các địa chỉ ứng dụng khác. Tuy nhiên, trước khi đầu tư vào trang thiết bị, chúng ta cần đầu tư vào con người, chúng ta cần đầu tư vào trí tuệ, chúng ta phải xây dựng được những đội ngũ có đủ năng lực để sử dụng, vận hành, và bảo dưỡng những trang thiết bị đó. 

Người ta vẫn thường kêu ca rằng sở dĩ nền nghiên cứu của Việt Nam khó cất cánh được là vì thiếu thiết bị nghiên cứu. Nhưng sự thật như tôi được biết có những thiết bị quan trọng do các cơ quan nghiên cứu mua, hoặc do nước ngoài tài trợ, nhưng rồi bị đắp chiếu vì trong nước không có người đủ năng lực khai thác, sử dụng.
Một vấn đề khác cần quan tâm là việc trọng đãi nhân tài. Ở đây, chúng ta cũng cần phải dũng cảm đối diện với sự thật. Sự thật là ở Việt Nam nhiều giảng viên đại học chỉ biết đọc bài giảng sẵn có trong sách giáo khoa và không đủ năng lực thực hiện công việc nghiên cứu. Vì vậy chúng ta phải khen thưởng cho những người có thể tự thiết kế chương trình, tự soạn bài giảng, và có tham gia nghiên cứu; những người này cần có những mức lương xứng đáng để họ có thể toàn tâm toàn ý tập trung vào hoạt động giảng dạy và nghiên cứu, đồng thời được xã hội tôn trọng. Hiện nay, thu nhập của một nhà nghiên cứu trẻ còn thấp hơn rất nhiều so với thu nhập của một nhân viên bàn giấy tại ngân hàng hay doanh nghiệp tư nhân, khiến họ không được gia đình, bạn bè coi trọng và buộc phải làm thêm, dạy thêm quá sức để có thể sinh tồn. Với thực tế như vậy, chúng ta sẽ không bao giờ có thể xây dựng được ngôi trường đại học như mong muốn.
 
Tuy nhiên, việc cần làm gấp hiện nay là trang bị cho giới trẻ những gì là cần thiết để họ có đủ dũng cảm đối diện với sự thật, nhìn thẳng vào sự thật, hình thành lối tư duy phê phán, và theo đó mà hành động. Tức là, chúng ta cần đào tạo được những người trưởng thành có trách nhiệm.
P. D.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Giữ gìn "nỏ thần" đất Việt


Từ câu chuyện Mỵ Châu - Trọng Thủy và chiếc nỏ thần trong lịch sử, để nhìn về sự phát triển và dựng xây Việt Nam hôm nay, gìn giữ nỏ thần, mài sắc mũi tên và cảnh giác với những Trọng Thuỷ hiện đại.
Bài học lịch sử
Lịch sử là một phương thuốc tuyệt vời khi nó cho ta những bài học thấm thía về những thất bại trong quá khứ nhưng đồng thời nó cũng an ủi, khích lệ động viên và củng cố hy vọng cho ta bước tiếp. Mỗi lúc bối rối khi phải đối mặt với hiện tại khắc nghiệt và tương lai đầy bất định thì có lẽ một phương pháp hiệu quả đến không ngờ là đắm mình vào quá khứ sâu thẳm của giống nòi để nhận được từ đấy những ngọn nguồn năng lượng và ý chí bất khuất, dẻo dai của một dân tộc có sau lưng mấy ngàn năm lịch sử rất oai hùng nhưng cũng lắm đau thương.
Hình ảnh An Dương Vương và Mỵ Châu được tái hiện trong kịch. Ảnh: Tuổi trẻ
Khi dư luận xôn xao căm phẫn trước hành động của công ty Vedan âm thầm cho lắp đặt một hệ thống ống xả bí mật ngay từ khi được cấp phép đầu tư để thải chất độc hại suốt mười mấy năm qua, bức tử dòng sông Thị vải trong xanh và là nguồn sống của hàng vạn dân chài thì có lẽ nhiều người trong chúng ta đã liên tưởng ngay tới câu truyện lịch sử bi ai về Mỵ Châu - Trọng Thủy và chiếc nỏ mà thần Kim Quy đã ban tặng.
Truyện kể lại rằng Thục Phán An Dương Vương được thần Kim Quy giúp đỡ, sau rất nhiều cố gắng đã xây nên thành Cổ loa kiên cố vòng trong, vòng ngoài với quân đội hùng mạnh được trang bị nỏ thần, trong một thời gian dài đã đẩy lui hàng vạn quân ngoại xâm tinh nhuệ của cả nhà Tần lẫn Triệu Đà, nhưng sau đó lại bị nhiễm thói chủ quan, khinh địch, suốt ngày tiệc tùng say sưa. Triệu Đà bèn dùng kế thông gia, xin cầu hòa và phái con trai là Trọng Thủy sang cầu hôn với Mỵ Châu là con gái An Dương Vương với gian kế là vô hiệu hóa vũ khí nỏ thần.
An Dương Vương đã trúng kế Triệu Đà mặc dù các lương thần như Cao Lỗ đã hết lời can ngăn. Trọng Thủy lợi dụng tình yêu chân thành và hồn nhiên của Mỵ Châu nên đã nắm được bí mật của nỏ thần Kim Quy nằm ở cái lẫy nỏ - một kết cấu cơ khí thông minh cho phép bắn một phát đồng thời hàng trăm mũi tên.
Khi đã có nội ứng, bên ngoài Triệu Đà trở mặt mang quân vây đánh Cổ Loa, bên trong Trọng Thủy phá hỏng lẫy nỏ thần, đội quân của An Dương Vương đại bại và kết cục lịch sử bi thương sau đó chắc ai trong chúng ta cũng đã thuộc lòng…
Bài học lòng tin
Thế giới ngày nay không thiếu những Triệu Đà, Trọng Thủy, nhưng ở hình thức tinh vi, thâm độc và có tri thức hơn. Điều đó buộc Việt Nam phải cảnh giác, tinh tường hơn và ý thức sâu sắc hơn về việc gìn giữ vũ khí nỏ thần - lòng yêu nước của mình.

Nếu so sánh và liên tưởng tới cuộc sống hiện đại của thế kỷ XXI thì vũ khí nỏ thần chính là lòng yêu nước của dân tộc Việt.
Cái lẫy làm từ móng thần Kim Quy đó là Lòng Tin của quần chúng vào những người lãnh đạo, có vai trò như là ngọn nguồn cho mọi sự đồng thuận trong xã hội theo tinh thần của những “hội nghị Diên Hồng”, tướng sĩ trên dưới một lòng “hòa nước sông chén rượu ngọt ngào…” giúp nhà Trần lãnh đạo toàn dân 3 lần đánh thắng quân Nguyên - Mông lúc đó đang cực thịnh, bá chủ lục địa Á - Âu, hay “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công“ của hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc gần đây.
Những mũi tên sắc bén vun vút bay đi trúng mục tiêu chính là những lĩnh vực mà chúng ta đang phấn đấu nhằm nâng cao tính cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa như: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục, bảo vệ tài nguyên, môi trường, y tế v.v…
Điều đáng lo ngại là thanh niên Việt Nam bây giờ thuộc sử nước ngoài hơn lịch sử Việt Nam, với những con người như Hai Bà Trưng... Ảnh: wordpress
Trong một thế giới “phẳng” vừa cạnh tranh khốc liệt vừa hợp tác sâu rộng và toàn diện như hiện nay thì rõ ràng không thiếu những Triệu Đà và Trọng Thủy, có điều là không dễ nhận diện vì lẽ chúng đã trở nên tinh vi, có tri thức hơn truyền thuyết lịch sử nhiều lần. Điều đó buộc chúng ta phải cảnh giác hơn, tinh tường hơn và ý thức sâu sắc hơn về việc gìn giữ vũ khí nỏ thần của mình.
Quả là đáng lo ngại khi thanh thiếu niên ta thuộc sử nước ngoài hơn sử Việt, sùng bái các “sao” ngoại tới mức cuồng tín và tỉ lệ phạm tội đang có chiều hướng gia tăng.
Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ phỏng Việt Nam đang sở hữu được bao nhiêu công nghệ nguồn hay chủ yếu là đi theo đuôi, cóp nhặt những giải pháp không còn là bí mật có sức cạnh tranh của thiên hạ?
Nhìn sang lĩnh vực tài nguyên - môi trường một thực trạng đáng buồn là chúng ta đang trở thành bãi rác chứa đựng những công nghệ khai thác, chế biến gây ô nhiễm với mức tiêu hao cao.
Hơn thế nữa, chúng ta đang chủ yếu xuất tài nguyên dưới dạng thô để rồi sau đó lại phải nhập khẩu các thành phẩm bao gồm giá trị gia tăng cao. Đó là thực trạng của các nước châu Phi chậm tiến nhưng đang diễn ra với Việt Nam - đất nước tự hào có ngàn năm văn hiến và đang ra sức phấn đấu để không bị thua kém trong một nền kinh tế tri thức toàn cầu!
Các lĩnh vực vừa nêu trên ví như các mũi tên của nỏ thần đang có xu hướng bị làm cùn đi hay bị bẻ cong, mất sức chiến đấu. Nhưng điều đáng được quan tâm hơn cả đó chính là cái lẫy nỏ - bộ phận chủ chốt giúp tạo nên sự đồng thuận “một phát bắn đi vạn mũi tên” hay chính là Lòng Tin.
Không thể ngây thơ mãi
Qua những dự án có vốn đầu tư nước ngoài chẳng hạn như Vedan, khách sạn Novotel on the park trên nền đất của công viên Thống Nhất hay hàng loạt các sân golf chiếm ruộng mầu của dân và còn nữa là việc xuất khẩu lậu khoáng sản, gỗ quý và nhập thiết bị, công nghệ lạc hậu với giá “trên trời” để về đắp chiếu v.v… thì lòng tin của người dân vào các cơ quan công quyền có nguy cơ ngày một suy giảm.
Những vụ việc như khách sạn Novotel on the park, sân golf chiếm đất công viên... khiến lòng tin của người dân vào cơ quan công quyền có nguy cơ suy giảm.
Rõ ràng các Triệu Đà và Trọng Thủy ngày nay đang sử dụng cơ chế thị trường còn non yếu ở Việt Nam để đặt cược vào những “nhóm lợi ích cục bộ” mới hình thành nhằm đạt ít nhất là hai mục đích: trước hết là quyền lợi kinh tế của các tập đoàn ngoại quốc và sau đó là sự suy giảm lòng tin của nhân dân vào lãnh đạo, dẫn tới sự suy yếu của chế độ xã hội.
Thời khắc lịch sử mà bên ngoài Triệu Đà mang quân bao vây phối hợp với Trọng Thủy bên trong phá hỏng lẫy nỏ thần Kim Quy có xảy ra hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào bản lĩnh của những người lãnh đạo và sự đoàn kết một lòng của toàn dân. Mà để xây đắp nên khối thống nhất đó không có cách nào khác là phải luôn luôn tỉnh táo nâng cao cảnh giác và củng cố lòng tin trong nhân dân bằng những hành động và việc làm thiết thực, chân thành và cụ thể.
Mỗi người chúng ta hãy nhớ lấy bài học lịch sử về nỏ thần Kim Quy của đất Việt!


TS. Phạm Gia Minh
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Truyện thứ năm:

Mềnh đồ rằng mấy pác hàng đầu coi gốc đa, gốc đề không bằng lòng một trong mấy truyện như này?
ĐƠN GIẢN..
      Truyện ngắn của Hồng Giang
                               
Tôi bị mắc kẹt giữa hai ông, “Đơn Giản” và “Phức Tạp”. Nhiều khi rất khó xử. Được lòng đất, mất lòng đò. Được lòng ông này thì mất lòng ông kia. Muốn tránh mà không được, vì hai ông đều là hàng xóm, lại là sếp của tôi.
Một ông ăn thế nào cũng được, mặc thế nào cũng xong. Công việc cơ quan miễn là đừng sai nguyên tắc, vi phạm chính sách, kết quả thế nào cũng không gây khó khăn. Với ông mọi thứ trên đời đều là vật “ngoài thân” chả nên tích góp nhiều, “soi” kỹ quá.
Thiên hạ xây nhà năm bảy tầng, ông chỉ xây hai tầng, cửa rõ rộng, lại thêm nhiều cửa sổ. Cốt có nhiều ánh sáng lọt vào, mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Bản thiết kế tự mình, cứ nghiền ngẫm thiên hạ, về vẽ lấy, thuê thợ làm. Vậy mà nom khá đẹp!
Một ông cầu kỳ đón kiến trúc sư tận Hà Nội lên thiết kế. Mẫu nhà vẽ xong rồi, sửa đi sửa lại, ông vẫn chưa yên tâm. Ông đón thêm một nhà kiến trúc nữa, vẽ thêm một bản. Có hai bản rồi vẫn thấy sao sao.. Tay trợ lý mách nước:
- Theo em, anh nên cho hội thảo, lấy ý kiến đa số, sau đấy hãy làm. Khi đã làm xong rồi mới tìm thấy thiếu sót, sửa lại rất khó!
Ông bảo:
- Chú xem, như thế có lạm dụng tín nhiệm, sợ thiên hạ đánh giá mình thế nọ thế kia không? Dù gì cũng là việc riêng của nhà mình?
- Có gì mà phải ngại hả anh? Mình làm bằng tiền của mình. Có phải tiền nhà nước, tiền nhân dân đâu? Có hội thảo quanh năm cũng chả chết thằng tây, thằng tàu nào! Chả sợ ảnh hưởng gì, anh việc gì phải ngại?
Vợ ông Phức Tạp cũng chen vào:
- Chú ấy nói phải. Gian cửa gian nhà là việc hệ trọng cả đời. Có bàn một tý cũng là việc nên làm..
Thế là hội thảo. Không tổ chức ở cơ quan vì là việc nhà, chỉ làm tại tư gia.
Trợ lý lập tức, ngay hôm đó thông báo cho các bộ phận, những “nhân” chủ chốt.. Tất cả chừng hai chục mạng. Mỗi ông một ý tốt. Lời hay lẽ phải như mưa móc trên trời, thật là “quá mĩ mãn” thể hiện đường lối sáng tạo tập thể.
Xong. Cả bọn được mời ra nhà hàng. Năm người một mâm. Tất nhiên là ông Phức Tạp mở hầu bao vì là việc riêng của nhà mình. Nhưng bù lại tiền “lì xì”, “phong bao” của khách đến dự trả nhà hàng rồi, vẫn còn dư ra quá nửa.
Thời buổi lịch sự, kinh tế “thị trường định hướng”, chả ai dại gì vác mồm đến ăn không để bị mang tiếng là người mất lịch sự, thiếu “nhân văn, văn hóa tính”và nhất là sợ bị hiểu nhầm là không tôn trọng lãnh đạo.
 Nhà làm xong. Vẫn là có ý khiêm tốn, chỉ năm tầng. Nhưng là kiểu nhà độc đáo có một không hai ở thành phố này.
Về quy mô, về hình thức, bề ngoài, về cả nội thất bên trong, chưa từng có ngôi nhà hay tòa biệt thự nào trong thành phố sánh kịp.
Về thiết kế kiểu dáng đã đành, chất liệu để xây dựng cũng không đơn giản. Gỗ thì mua mãi ở bên In Đô. Gạch  Y ta Ly, nói chung toàn loại quý và hiếm cả.
Biệt thự mặt tiền kiểu Thái, hậu kiểu Pháp. Hội đủ “tinh hoa kiến thức” của Đông Tây kết hợp.
Riêng bên trong nội thất vẫn “giữ vững truyền thống bảo tồn văn hóa dân tộc”. Đồ đạc toàn gỗ tứ thiết nội địa. Đặc biệt  khác là gian phòng trung tâm ốp gỗ Pơmu, kê bộ sa lông Tàu, gỗ Thạch Am. Một loại gỗ quý, ngay ông Đơn Giản là người hay đi đó đi đây cũng chưa thấy bao giờ. Đó là một loại gỗ mọc trên núi đá cao có từ hàng trăm năm trước. Gỗ này trong một biến thiên không rõ động đất, hay núi lửa gì đấy, bị vùi dưới bùn sâu, hay nó mọc, phát trển ngầm dưới lòng đất đến giờ vẫn chưa ai dám chắc. Người ta phải trục vớt nó lên, gian nan như trục vớt một con tàu đắm.. Đặc điểm của loại gỗ này là nó vô cùng bền vững, ngàn năm sau chưa chắc đã hỏng. Hơn nữa lại có hương thơm rất đặc biệt từ thớ sâu trong lòng gỗ tỏa ra hăng hắc nhẹ nhàng. Nhà có bộ ghế này đảm bảo không bao giờ muỗi dãn dám bén mảng. Chuột bọ các loại không dám lại gần. Đặc biệt hơn nữa, ngồi lên đấy cảm giác cứ lâng lâng như đang được mát xa không cần đến máy móc thời hiện đại vậy. Thỉnh thoảng có công việc, tôi đến cũng được mời ngồi. Về nhà tự nhiên bệnh đau lưng viêm khớp của tôi đỡ hẳn cả tuần. Thật không đơn giản chút nào!
Tôi chả có lý do gì để ngó vào buồng nhà sếp để ngắm cái giường của ông. Như thế là không được phép. Một là thiếu tôn trọng sếp, hai là không đúng với sự “tôn trọng riêng tư”, một trong mấy cái quyền sinh ra ở đời của người khác. Điều này tuyệt đối không.
Họa lớn có thể xảy ra bắt đầu từ những chuyện cỏn con như thế này!
Nhưng thấy anh em trong cơ quan bảo cái giường của sếp nằm còn đặc biệt hơn thế nữa. Nó bằng loại gỗ còn quý hơn Thạch am. Nằm trên đó chả bao giờ gặp ác mộng. Toàn những giấc mơ đẹp “trên cả tuyệt vời”, khi thức dậy nảy ra nhiều ý tưởng sáng tạo hoàn toàn mới mẻ, kẻ khác có được lọc sóng ý thức như cha Thọ điên cũng không nghĩ ra được.
Chả thế sếp luôn có những ý kiến rất hay, rất chi xác đáng, người thường không bao giờ có. Thật không đơn giản chút nào!

Hai sếp của tôi cứ như bắc và nam cực, tuy vẫn “đồng tâm phục vụ cách mạng” theo một “trục địa cầu”, nhưng tính cách khác hẳn nhau như bắc và nam vĩ tuyến.
Ông Đơn giản chả giống ông Phức Tạp tý nào.
Bà vợ ông Đơn Giản nghe bên nhà ông Phức Tạp có cái giường như thế, thì thầm với chồng:
- “Đêm nằm năm ở”, nhà mình cố lấy một cái cho nó bõ ngày gian khổ năm xưa?
Phụ nữ vốn vậy, chả chịu thua chị kém em. Ông chỉ cười:
- Ồi dào, cũng chỉ nằm qua đêm. Bà có thấy ai nằm cả ngày không? Chỉ có bệnh nặng mới nằm liệt một chỗ như thế. Vậy cầu kì làm gì? Có là giường bằng vàng, đêm cũng chỉ ngủ trên một cái. Có họa điên mới đêm nằm hai, ba cái giường!
Đến bàn ghế trong nhà cũng vậy. Các con ông bảo:
- Phòng khách là bộ mặt, nên sắm bộ ghế tôn tốt bố ạ!
Ông lại cười:
- Vẽ. Một đời ta muôn vàn đời nó. Hỏng cái này thay cái khác. Miễn là vững chãi, sạch sẽ là được. Người ta trọng là ở cái ăn ở, cư xử với mọi người. Đâu phải trọng vì bộ bàn ghế kê ở trong nhà?
Đơn giản đến thế, còn nói gì được nữa? Con cái cứ phụng phịu, không bằng lòng. Thời buổi này mọi thứ đâu có thiếu?
 Cơ man nào là kiểu dáng chất liệu. Cứ có tiền là có tất, đâu có khó khăn gì? Bộ gỗ Thạch am như bên nhà ông Phức Tạp e rằng khó, chứ bộ sa lon giả cổ Đồng Kỵ đâu có khó khăn?
Thấy vợ con không bằng lòng, ông chỉ bảo:
- Người ta sống ở đời cần nhất là cái Tâm, cái Trí.. đừng nên quan trọng hóa đồ đạc lên làm gì. Mọi phương tiện dù quý đến đâu cũng chỉ là vật dụng, phục vụ con người. Chả nhẽ mình lại làm nô lệ cho nó, vì đồ đạc mà lao tâm khổ tứ để cố sắm cho kì được?

Lại nói đến ăn mặc, hai sếp của tôi cũng hoàn toàn khác nhau. Một ông lúc nào cũng comlê, cavát đến sở, giày bóng lộn không một tý bụi. Một ông chỉ đơn giản áo bỏ trong quần, đi dép da. Mùa rét thêm cái bơludon bên ngoài, cổ quấn cái khăn len cũ. Chủ trương “đồng phục hóa” cơ quan khi tới công sở vì ông này, mà mãi tới nay vẫn chưa thực hiện được. Ông Phức Tạp rất không bằng lòng vì “sự kiện” đó, nhưng không nói. Biết đâu nói ra “phức tạp hóa vấn đề”, gây xáo trộn, mất đoàn kết nội bộ trong cơ quan?

Một hôm nhân cả hai sếp vắng nhà, có buổi họp quan trọng gì đấy “ở trên”, chúng tôi bàn tán với nhau. ( Thường thì bây giờ chỗ nào chả thế? Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm. Ngồi phòng máy lạnh, anh thì vào Phây Búc chít chát. Anh tò mò chơi Gêm, xem báo mạng. Một số chụm đầu lại với nhau đến phòng “tổng hợp” của tôi uống trà vặt, chuyện gẫu ).
Đồng chí Tân nói:
- Này không hiểu có anh nào phòng ta nói gì, sếp có ý nghi hoặc, cứ gặng hỏi tôi mãi “Phòng mình có anh nào không vừa ý tớ, có nói gì không?”. Tôi bảo làm gì có! Sếp đối với anh em như thế, khác nào như anh em trong nhà.. không có ai nói gì đâu ạ!
Đồng chí Cựu nói:
- Chẳng qua sếp hay phức tạp hóa vấn đề. Có ai dại gì mà bàn luận chuyện riêng hay bất cứ chuyện gì của sếp? Giả dụ như sếp có bồ bịch, mình có biết mười mươi, khi vợ sếp hỏi, mình cũng bảo “không”. Sếp ghét có nước độn thổ cũng không thoát!
Cái phòng tôi nó vậy.
Thật chả chuyện gì ra chuyện gì. Hễ vắng sếp y như rằng có chuyện. Anh nào cũng tỏ ý khôn ngoan, sắc sảo hơn người, ra cái vẻ “cách tân, đổi mới” thế nọ thế kia. Nay bàn cải tiến cái này, mai luận cải cách cái khác..
Nhưng hễ có mặt sếp anh nào anh ấy nhũn như con chi chi. Hỏi, chả biết thật hay giả vờ, cứ ấp a, ấp úng.
Lắm lúc tôi cứ tự nghĩ: Thực ra cái phòng mình thật sự có cần thiết phải có nó hay không? Đóng góp cụ thể với xã hội được những gì?
Lương hàng tháng chúng tôi vẫn lĩnh đều. Công việc nhìn bề ngoài luôn có vẻ quan trọng, nhưng thực ra chả việc gì ra việc gì.
Mang tiếng là “Phòng tài nguyên môi trường”, chả mấy khi chúng tôi ra đến bên ngoài. Chẳng “điều nghiên, sáng tạo” mới được cái gì.
Công văn trên đưa xuống, dưới đưa lên, chủ yếu lại chuyển từ phòng này sang phòng kia. Luẩn quẩn vài ba vòng mới thực sự được giải quyết.
Đã từng có bài báo nói rằng “Đến ba mươi phần trăm công chức đến sở chủ yếu đợi hết giờ mà không làm việc gì cả”?
Dạo đó phòng tôi cứ xôn xao, ồn xồn cả lên.
Đồng chí Cựu bức xúc quá, nói: “Tớ về sẽ viết lại một bài “đập” cho tay này một trận. Làm gì có chuyện công chức đến công sở ngồi chơi? Sáng cắp ô đi, tối cắp về, phải không các đồng chí?”
Nhưng rồi chả thấy có bài báo nào của đồng chí ấy “phản biện” lại được ra mắt thiên hạ. Một là sự việc người ta nêu ra không sai. Hai là “trình” của đồng chí Cựu viết không lại người ta, nên tòa báo không đăng. Ba là đồng chí ấy quá bức xúc mà nói vậy, về nhà lại quên?
Là đầu đề để chúng tôi nghị đàm hơn cả tuần giời, mỗi lúc các sếp đi vắng!

Chuyện về các sếp thì có nhiều, nhưng nói chung chúng tôi “hài hòa” và yên ổn chung sống với nhau.
Trừ khi sếp không thích, muốn thử thách anh nào đấy mới cử đi cơ sở. Những lúc ấy cực kỳ vất vả. Không những phòng máy lạnh không được ngồi, lại phải nắng nôi, mưa gió. Có hôm ăn uống thất thường vì ở cơ sở đâu có được đầy đặn như ở trung tâm?
Ghét nữa, sếp giao hẳn cho phụ trách một dự án. Lại nát óc ra mà mày mò. Anh nào cũng có “bằng cấp đầy mình”, thực ra “lỏng”và “hổng” kiến thức. Có va chạm thực tế mới lòi cái đuôi dốt của mình ra. Thời buổi “giỏi giang không bằng khéo léo”. Sếp không ưng ý thì liệu cái thần hồn. Dự án, dự iếc có cẩn thận, chu đáo, tính toán kỹ đến đâu cũng không hết thiếu sót..
Nói thế để biết, chả ai dại gì “phức tạp” tình hình, cứ “đơn giản”ngoan hiền cho nó lành..
Trong muôn cái “hãi” ở đời, phải công nhận “Hãi sếp” là cái hãi đứng hàng thứ nhất!
Khổ cái hai ông sếp tính cách như đã nói, khác biệt nhau, thành ra chả biết đâu mà lần. Sợ nhất là để một trong hai vị mất lòng.
Hễ các sếp đi vắng, chúng tôi thường chụm lại với nhau, thầm thì to nhỏ, để vừa lòng cả hai.
“Công vụ” đáng lý ra là việc chính, luôn phải “nung nấu” trong đầu, hóa ra là chuyện phụ.
Điều chúng tôi quan tâm lại chả dính gì đến công việc của cơ quan.
“Ứng xử” với các sếp “như nào” vẫn phải là mối quan tâm hàng đầu!
Đang bận rộn với nhau về vấn đề “đơn giản” hay “phức tạp”, ông nào hơn ông nào trong phòng tôi như thế, chợt có tiếng điện thoại.
Sếp gọi đích danh tôi và đồng chí Tân ra ngay ngã năm “có việc đột xuất”. Cả phòng ngẩn ngơ không ai biết việc gì? Lại đoán non đoán già?
Tôi và đồng chí Tân vội lấy xe máy đi ngay. Sếp đã gọi thì giá nào cũng không được chậm trễ, mặc dù chưa biết có việc gì, dù có bão chết cò vẫn phải có mặt!

Từ xa chúng tôi đã thấy xe các sếp đỗ ven đường, cạnh đó một đám đông đứng vòng trong vòng ngoài, xúm xít bên một vụ tai nạn xe máy. Lạ một nỗi, chưa hề có ai động tay? Lòng nhân và thiện tính ở đám đông hình như chưa kịp khởi động?
Thôi chết, lại có tai nạn giao thông rồi? Các sếp đi đứng thế nào, loạng quạng đâm phải người, gọi chúng tôi hỗ trợ giải quyết hậu quả đây?
Tôi nghĩ thế, hóa ra không phải. Xe của các sếp không hề hấn gì, người cũng chả bị làm sao!
Hỏi kỹ mới biết đầu đuôi câu chuyện..
Giá như hai sếp không đi với nhau, sự việc đã khác, chưa chắc có ai gọi đến chúng tôi!
Người bị nạn đi ngược chiều với các sếp, cách xa một quãng. Thủ phạm gây ra tai nạn thấy vắng người bỏ chạy, người bị nạn vẫn nằm, gần như bất động. Người đi đường xúm lại nhưng chưa ai quyết việc gì, vì sự việc có thế sẽ  khá“Phức tạp”.
Đã có không ít người “làm phúc phải tội”. Đưa nạn nhân vào viện còn bị xét hỏi lôi thôi, làm chứng làm chung mất thì giờ. Có lẽ vì thế người ta ngại?

Lúc bấy giờ sếp “Đơn Giản” đang cầm lái. Sếp “Phức tạp” bảo: “Thôi cứ đi, không nhỡ mất cuộc họp!”. Nhưng sếp Đơn Giản không nghe. Ông lại nói: “Ở lại bây giờ là phức tạp lắm, phiền phí đấy.. ông có hiểu?”
Sếp phó bảo: “ Tôi biết, nhưng đơn giản mà nói, không thể thấy người bị nạn mà làm ngơ. Như thế quá tàn nhẫn! Nếu có đến muộn mình cũng có lý do cơ mà?”
Sếp “Phức Tạp” cằn nhằn: “Ông phức tạp bỏ xừ.. Đến bệnh viện là phải làm thủ tục nhập viện cho người ta, có ai là thân nhân của người ta ở đây đâu? Lại còn phải ra hiện trường làm chứng cho công an lập biên bản. Rồi còn gọi tới, gọi lui để giải quyết sau này.. Ông tưởng đơn giản, ít thời gian đấy à?”
Sếp phó gãi gãi đầu: “Không. Sẽ có cách, đơn giản thôi mà.. Ông cứ để tôi!”
Nói xong sếp Đơn Giản rút điện thoại, gọi cho chúng tôi.
Tất nhiên, việc còn lại là của tôi với đồng chí Tân, không cần kể!

Chỉ có điều về cơ quan buổi sáng hôm ấy, cả phòng chúng tôi cứ tranh luận mãi. Thực ra, trong hai sếp ông nào đơn giản và ông nào phức tạp, ông nào hơn ông nào?
Không ngã ngũ. Ai cũng có cái lý đúng của mình!
 Đến khi đồng chí Cựu phát biểu:
- Các cậu muốn đơn giản hay muốn phức tạp đây? Chuyện của các sếp “ai hơn ai” thì việc gì đến các cậu? có mà rỗi hơi hay sao mà cứ bô bô cái mồm?

Lúc bấy giờ, tất cả mới chợt hiểu ra. Im khe. Chút nữa cả bọn đã trở nên phức tạp, rồi thì.. mọi sự từ đây sẽ không đơn giản chút nào nếu đến tai sếp những câu chuyện đại loại như thế này! 
Sếp “Đơn Giản” thì không nói, chứ sếp “Phức Tạp” thể nào chả có “Ăng ten” trong đám chúng tôi?
Người ta bảo “nhịn ăn mới chết”, chứ nhịn nói xưa nay đã có ai chết bao giờ đâu? Ai hay thì ấm thân mình, bận rộn gì đến mình, mà lo?

=======




Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Ba, 11 tháng 3, 2014

Đất không giấu mặt


Bùi Việt Thắng
(Đọc Xuyên qua cánh rừng, tiểu thuyết của Cầm Sơn, NXB Hội Nhà văn, 2013)
Từ chất sống…
 Với nhà văn nói chung, nhà tiểu thuyết nói riêng thì, chất sống là điều kiện tiên quyết của sáng tác. Không phải vô cớ mà ngay những ngày đầu Cách mạng và Kháng chiến, Nam Cao đã đề ra cho mình, và các nhà văn thế hệ mình, phương châm “Sống đã rồi hãy viết!”. Ngày nay, nói theo cách mới, chính là sự trải nghiệm của nhà văn. Nhưng lại có một quan niệm khác cho rằng, nhà văn phải là người có thân phận thì những trang viết của mình mới thấm thía lẽ đời, sự đời, vì “sự đời nước mắt soi gương”, vì trước cuộc bể dâu nhà văn mới đau đớn lòng mà thốt lên bằng ngôn từ. Tôi chỉ mới gặp Cầm Sơn có một lần, nói chuyện cũng chỉ được dăm ba câu trong cái không khí náo nức (có phần ồn ào) của buổi gặp mặt cuối năm do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ngày 19-1-2014 vừa qua. Nếu không đọc trước Xuyên qua cánh rừng thì không nghĩ được ông này có thể viết tiểu thuyết. Vì sao? Vì cứ nghĩ, con người xởi lởi, hồ hởi đứng trước mình kia, nếu có chăng, chỉ có thể đi qua cuộc đời, bên cạnh cuộc đời, sức mấy mà đi xuyên qua được cõi trần gian, nhân thế. Nhưng đọc sách của người này xong thì tôi phải sửa chữa lại cái nhận định tức khắc dường như không trùng khớp với bản chất của đối tượng. Hóa ra là cảm giác ban đầu đôi khi linh ứng, nhưng đôi khi cũng đánh lừa ta. Thứ nữa, sau khi có vài ba thông tin cá nhân, mới biết người này đến với văn chương bắt đầu bằng …thơ. Nghĩa là tình cảm thường dẫn dắt suy nghĩ của anh ta khi cầm bút, nghĩa là khi viết thơ người này tựa hẳn vào sự mách bảo của con tim, của những run bật cảm xúc, thậm chí của trực giác. Trước khi ra mắt tiểu thuyết Xuyên qua cánh rừng, Cầm Sơn đã sở hữu ba tập thơ Tình rừng, Tình núi, Miền xanh. Và như thể để tập dượt cho cuộc chơi tiểu thuyết, anh đã thử thách mình bằng một tập truyện ký Đỗ quyên Đỏ. Tôi có cảm giác khi viết tiểu thuyết Xuyên qua cánh rừng, Cầm Sơn đã dồn toàn bộ tâm huyết để “đánh một trận sạch không kình ngạc”. Hay nói cách khác là bao nhiêu vốn liếng đời sống anh đều tập trung cho một trận đánh lớn với quyết tâm giành thắng lợi trên mặt trận văn chương. Gần 250 trang tiểu thuyết đã cho thấy tác giả dốc cạn - cả sở trường, cả sở đoản - cho trận đánh chữ nghĩa đầu tiên và cũng có thể là cuối cùng!? Nếu tôi đặt tên cho bài viết của mình là Đất không giấu mặt, thì cũng có thể hiểu là, tác giả không hề có ý định cất giấu hay ngụy trang cái kho chuyện của mình khi huy động hết toàn bộ nhân lực, vật lực cho một tác phẩm dài hơi mà chúng ta vẫn thường gọi là tiểu thuyết. Xuyên qua cánh rừng của Cầm Sơn không mở rộng không gian - thời gian của câu chuyện để có được cái phẩm tính mà các nhà nghiên cứu gọi là “chất sử thi”. Anh chọn chiều sâu, chọn điểm, khoanh vùng đối tượng để mổ xẻ, phân tích bằng ngôn từ những chuyện của rừng và người trồng rừng, cả đời gắn bó với rừng, như ca từ của một bài hát vào đầu những năm 60 thế kỉ hai mươi “Rừng ơi! Ta đã về đây/ Mang sức của đôi tay/ Lao động khó khăn không quản lùi”. Nói cho cùng thì, cho đến nay mặc dù đang sinh tồn trên một dải đất lắm biển, nhiều rừng, nhưng dường như chúng ta chưa hiểu hết rừng và biển khi thực tế cho thấy thậm chí không ít người chỉ giỏi phá rừng hơn bảo vệ, tái sinh rừng. Tương tự chúng ta chỉ biết bòn vét đại dương để thu lợi chứ chưa biết bảo vệ lãnh hải bao la, như là không gian sinh tồn tương lai của cộng đồng. 
Tôi nghĩ những gì được kể trong tiểu thuyết Xuyên qua cánh rừng là câu chuyện về tình yêu của con người với rừng, rộng ra với tự nhiên như là bà mẹ sinh thành đang bị lũ con tham lam tàn phá. Bài học về “nhân tai”, chứ không phải là “thiên tai”, đang nhỡn tiền trước mỗi chúng ta, được đặt ra khá tâm huyết trong tiểu thuyết đầu tay của Cầm Sơn. Đọc Xuyên qua cánh rừng, riêng tôi, thấy quý cái tâm nguyện, cái vốn sống dày dặn của tác giả, đã vượt qua được cái gọi là “đề tài” vốn nhiều khi như một cái “vòng kim cô” đối với người sáng tác. Tôi nghĩ tiểu thuyết của tác giả Cầm Sơn, về một khía cạnh nào đó, có thể coi như là một thứ “gia phả của rừng”. Lấy chuyện rừng để nói chuyện đời, tôi nghĩ, cũng là một lối nẻo vào văn chương của Cầm Sơn. Đọc Xuyên qua cánh rừng của Cầm Sơn, tôi cứ váng vất nhới tới kiệt tác Rừng Nga của nhà văn Liên-xô tài danh L. Lê-ôn-nôp. Tuy nhiên, như người ta nói, mọi sự so sánh đều khập khiễng.
Đến chuyện nghề…
 Nhân vật là vấn đề cốt tử của tiểu thuyết từ xưa tới nay, không có ngoại lệ. Trong tiểu thuyết Xuyên qua cánh rừng, thật tình và công bằng mà nói, chưa có nhân vật điển hình như cách nghĩ lâu nay của chúng ta. Nhưng có hai cặp nhân vật khá sinh sắc, có thể nói là “bắt mắt” độc giả: cặp nhân vật Nhứng - Linh (tức Trần Hoàng) và cặp nhân vật Hạnh (tức Hồng) - Đức. Hai cặp nhân vật này ban đầu khá hứa hẹn vì họ không đơn giản, vì họ có nội tâm, vì họ có quan hệ phức tạp (thậm chí họ sẵn sàng “nổi loạn”), và vì nhiều lẽ khác nữa. Nhưng đáng tiếc là “tấm lưới” này ban đầu dự định được đan dệt công phu. Nhưng về sau không rõ vì lí do gì mà mọi chuyện bị “lược” đi. Phải chăng cốt truyện bị “tãi” ra nhiều nhánh? Phải chăng cái “lưới tình” mà tác giả giăng ra đã bị “rò rỉ”, hay nói sát sàn sạt là bị “thủng” một lỗ khá lớn? Thành thử nhân vật bị rơi tuột. Nói cách khác, có thể vì chưa có nhiều kinh nghiệm viết tiểu thuyết, nên tác giả đã bị “việc” cuốn hút, đôi khi lãng quên “người”. Bằng chứng là: ở chương I, nhân vật Nhứng xuất hiện khá ấn tượng. Nếu tác giả chi chút cho nhân vật này ở các chương tiếp theo thì hứa hẹn sẽ có một nhân vật nữ khá sắc bén, thậm chí có thể đóng vai trò là “cái lõi” của tiểu thuyết. Tiếp sang chương II, Nhứng lập tức bị “bỏ rơi”, nhường chỗ cho Hạnh (tức Hồng). Cứ thế, hai nhân vật nữ này bị cuốn chìm trong vụ việc. Tương tự, Linh (tức Trần Hoàng) và Đức cũng bị cuốn phăng vào cơn bão của chức quyền, danh phận. Có thể nói, mười hai chương tiểu thuyết Xuyên qua cánh rừng như là mười hai cơn bão rừng nhỏ, to khác nhau, ào ạt cuốn đi bao nhiêu số phận. Công bằng mà nói, ở đoạn kết tiểu thuyết có một “khoảng lặng” khá thấm thía. Đó là bức thư của Hạnh gửi Đức trước lúc chất độc da cam hủy hoại cuộc đời cô. Phút chót của đời người, ai cũng nói thật, Hạnh cũng vậy. Ở thời khắc đó độc giả chớm nhận ra nội tâm của nhân vật Đức. Nhưng hơi muộn, vì tiểu thuyết cũng đã kết thúc.
Từ “chuyện” đến “truyện” là con đường đi đến sáng tạo của nhà tiểu thuyết. Một lần tôi ghi lại ý kiến khá sâu sắc này của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo trong buổi giới thiệu tác phẩm mới Người đàn bà nghịch cát (tập truyện ngắn) của nhà văn Nguyễn Đăng An, do nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức vào cuối tháng 8 năm 2013. Như đã nói ở trên, chuyện đời mà Cầm Sơn trải nghiệm, có thể nói rất phong phú. Phải là người sống đến độ nào đó mới thấm thía hết cái lí, cái lẽ đời. Chẳng hạn, trong bức thư cuối cùng Hạnh gửi Đức có viết “Thôi! Thế là Hạnh đã trút được tất cả, nhẹ nhàng và thanh thản rồi. Hạnh mừng vì Đức đã trọn vẹn. Đức biết dừng đúng trên đỉnh cái mỏm đồi của mình, thế là không phải đi tiếp đoạn đường xuống dốc. Xuống dốc tưởng dễ dàng nhưng nếu không khéo phanh thì cũng dễ nguy hiểm lắm”. Nhưng dường như độc giả có cái cảm giác chung như sau: “chuyện” đời dù hay đến mấy cũng chưa thể là một “truyện” hay, nếu nó được kể lại một cách thật quá, đúng quá theo công thức của chủ nghĩa hiện thực trước đây nhà văn thường tuân thủ “phản ánh hiện thực đúng như hình thức của bản thân đời sống”. Dẫu sao văn chương cũng cần phải “bịa đặt” như các bậc tiền bối đã chỉ dẫn. Nhà văn có cái quyền được “nói láo”, hiểu là tưởng tượng, tái tạo đời sống. Hóa ra ở chỗ tưởng là ưu điểm (chất sống dồi dào, sự thành thật đến tận cùng của tác giả), đôi khi lại trở thành nhược điểm. Tôi cứ nghĩ, giá như được đọc trước bản thảo của Cầm Sơn, tôi sẽ mạnh dạn đề nghị tác giả chịu khó “tháo dỡ” ra, viết lại (để cho “chuyện” hóa thân thành “truyện”). Biết đâu độc giả sẽ hân hoan hơn khi chào đón tác phẩm?! Nhưng như người ta vẫn nói, đôi khi vì chữ “nhưng” (hay là “giá như”), thì thậm chí lịch sử cũng đã khác xa so với cái đã xảy ra.
Và vĩ thanh…
Vĩ thanh thường chỉ có trong sáng tác. Nhưng trong trường hợp này, tôi vẫn muốn viết một khúc vĩ thanh. Ở phần kết tiểu thuyết Xuyên qua cánh rừng có kể chuyện Nhứng bị đi tù sáu năm (vì bung ra làm ăn rồi rơi vào lao lí), nhưng do cải tạo tốt nên được ân xá, giảm án hai năm. Nhứng trở về quê hương bản quán trong sự mở lòng của người thân. Có lẽ cái cảm hứng về tương lai của tác giả đã truyền sang nhân vật “Nhứng ngẩng nhìn lên, phía sau dãy nhà ăn là quả đồi Cây Nhội, mảnh đất đồi rừng ấy có mộ cụ Tổ nhà chồng Nhứng, đồng thời cũng là mảnh đất mà thằng Tiến đã được Nhà nước giao cho quản lí. Cây Nhội không biết đã bao nhiêu tuổi nhưng tán lá vẫn xanh tươi, sừng sững nổi bật trên nền trời đầy nắng”. Tôi nghĩ đấy là một kết thúc đẹp, theo lối “có hậu” truyền thống. Cuộc đời vẫn cần những đoạn kết “có hậu”. Tại sao không?! Ngẫm kĩ thì, đôi khi tấm lòng của nhà văn với đời, với người đã che đỡ bớt những khiếm khuyết của tác phẩm, nếu nhìn từ kĩ thuật văn chương./.

Hà Nội, tháng 2 năm 2014
B.V.T

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Quỹ nhà văn Lê Lựu” giúp tài năng văn học phát triển


Bài và ảnh NghiêmThị Hằng

Chiều 25/2/2014 “Quỹ Nhà văn Lê Lựu” chính thức ra mắt và đi vào hoạt động (theo Quyết định số 7101/QĐ-UBND ngày 21/11/2013 của UBND thành phố Hà Nội). Đây một trong những quỹ đầu tiên do nhà văn bỏ tiền (1 tỉ đồng) sáng lập, cùng sự chung tay ủng hộ của bạn bè và các doanh nghiệp. Đông đảo các nhà văn, nhà báo, bạn bè của nhà văn Lê Lựu đến chia vui và chúc mừng. Phát biểu tại lễ ra mắt “Quỹ Nhà văn Lê Lựu”, nhà văn Nguyễn Trí Huân, nhà thơ Bằng Việt, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà báo Hữu Ước,  nhà sử học Dương Trung Quốc… đều trân trọng tấm lòng, sự hi sinh của nhà văn Lê Lựu cho sự phát triển của văn học nghệ thuật. Sau sự xúc động, không cầm được nước mắt, nhà văn Lê Lựu nở nụ cười, vì tâm nguyện ấp ủ từ lâu của ông giờ được mọi người góp sức đã thành hiện thực.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam làm Chủ tịch Hội đồng Quản lí “Quỹ Nhà văn Lê Lựu”. Bộ máy quản lí của Quỹ có Hội đồng Cố vấn, Hội đồng Quản lí và Hội đồng Quản trị gồm 28 thành viên, không có sự tham gia của những người là vợ con của nhà văn Lê Lựu và những người có quan hệ huyết thống trong phạm vi 5 đời của ông.
Các đại biểu dự lễ ra mắt Quỹ Nhà văn Lê Lựu.
Các đại biểu dự lễ ra mắt Quỹ Nhà văn Lê Lựu.
Vì sao “Quỹ Nhà văn Lê Lựu” lại không có sự tham gia của những người trong gia đình Lê Lựu?
Nhà văn Lê Lựu sinh năm 1938, tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, là thành viên của Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Lê Lựu chuyên viết tiểu thuyết, truyện ngắn đề tài chiến tranh và nông nghiệp nông thôn. Từ khi sáng lập ra Trung tâm Văn hóa Doanh nhân, ông hay viết về những buồn vui, gian nan của doanh nghiệp, doanh nhân. Nhiều tác phẩm của ông được dựng thành những phim nổi tiếng như “Người về đồng cói”, “Sóng ở đáy sông” và “Thời xa vắng” được đạo diễn Hồ Quang Minh của Hãng phim Giải Phóng dựng thành phim truyện nhựa và ra mắt công chúng năm 2004, thu hút được sự quan tâm của độc giả bởi sự hoá thân của nhà văn với nhân vật Giang Minh Sài.
“Quỹ Nhà văn Lê Lựu” sẽ dành trao giải thưởng cho thể loại tiểu thuyết viết về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, trao giải thưởng cho các tác phẩm viết về doanh nhân và một phần trao cho các tài năng trẻ trong lĩnh vực văn học nghệ thuật nhằm động viên khích lệ thế hệ kế tiếp.
Nhà văn Lê Lựu chia sẻ, hiện nay sức khỏe của tôi rất kém, mang trong người 14 trọng bệnh, hằng đêm vật vã với những cơn đau, nhưng tôi vẫn đau đáu ý định thành lập một quỹ xã hội để khuyến khích những tài năng văn chương. Một người cao tuổi, đau ốm như tôi, sống không gia đình, lấy tiền đâu để thành lập quỹ? Với vốn 1 tỉ đồng so với các quỹ khác không lớn, nhưng đó là tài sản tích cóp, là tâm huyết của đời tôi. Tôi hài lòng vì đã góp được chút nhỏ cho quỹ. Tôi muốn mình là người đặt viên gạch đầu tiên xây dựng quỹ này, sau đó vận động quyên góp, tài trợ của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật, nhằm thực hiện các hoạt động trao giải thưởng cho các cá nhân, tổ chức có tác phẩm văn học xuất sắc có đề tài về nông nghiệp, nông thôn, doanh nhân và văn hóa.
 Lí giải sự chạnh lòng, ngậm ngùi với nhà văn khi vắng bóng người nhà tham gia quản lí quỹ, nhà văn Lê Lựu nói: Đó là chuyện đời thường đầy sóng gió của gia đình tôi. Cũng là cốt chuyện hay về gia đình và xã hội trong thời đại chúng ta. Nếu tôi còn sức khoẻ tôi sẽ viết chuyện về gia đình tôi, những người thân nhất của tôi cũng chính là những người làm tôi đau lòng nhất.
Bài và ảnh Nghiêm Thị Hằng
Phần nhận xét hiển thị trên trang