Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

Những miền gái đẹp của Việt Nam


Nếu những cô gái đẹp Hà thành làm mê đắm lòng người bởi vẻ dịu dàng, nền nã, “gái xứ Tuyên” khiến người ta ngẩn ngơ vì nét thanh thoát đằm thắm thì gái Huế lại ghi dấu bởi sự đoan trang, nhỏ nhẹ...

Gái đẹp Tuyên Quang - đằm thắm, thanh thoát
Câu thành ngữ “Chè Thái, gái Tuyên” không biết có từ bao giờ nhưng đến nay đã trở thành câu cửa miệng, ví hương vị tinh tế, thơm ngọt khó quên của chè ở vùng đất Thái Nguyên với nét đằm thắm, thanh thoát của những người con gái đẹp xứ Tuyên.
Nếu như chè Thái Nguyên đã trở thành đặc sản nức tiếng thì vẻ hút hồn của con gái đẹp Tuyên Quang cũng khiến lòng người thổn thức.


Gái đẹp xứ Tuyên - đằm thắm thanh thoát (Ảnh minh họa)

“Gái đẹp xứ Tuyên” không chỉ cuốn hút ở hình thức bên ngoài mà còn làm say lòng người với vẻ đẹp tâm hồn. Đó là nét dịu dàng, đằm thắm, nết na, sự khéo léo trong cách ăn, ở, đi đứng, nói năng.
Theo một số tài liệu ghi lại, nơi này xưa là thành trì của vua tôi nhà Mạc nên cũng lắm mỹ nhân tụ hội làm thê thiếp. Vương triều sụp đổ, nhiều cung tần ly tán và cưới dân thường, dần sinh sôi bao thế hệ người con gái đẹp. Thêm nữa, đây là vùng đất trung du miền núi có sông Lô, hồ Na Hang, núi Bạch Mã, Cham Chu... hội đủ linh khí hiền hòa lẫn hoang dã dữ dội của trời đất khiến con người luôn khỏe đẹp, tươi vui.

Gái Hà thành - vẻ dịu dàng, nền nã, thùy mị
Những người con gái đẹp đất kinh kỳ luôn toát lên vẻ đẹp của sự dịu dàng, nết na, thùy mị, đảm đang. Nét đẹp của thiếu nữ Hà thành xưa không chỉ thể hiện ở gương mặt, dáng người mà còn ở cách ăn mặc, đi đứng, nói năng.

Gái đẹp Hà thành - dịu dàng, nền nã, thùy mị (Ảnh minh họa)

Nét tề chỉnh là đặc trưng của gái đẹp Hà thành, sang mà không loè loẹt, đẹp mà nền nã; dù chỉ mặc áo vải thường cũng vẫn phẳng phiu, gọn ghẽ, kín đáo.
Con gái Hà Nội ngày ấy biết cách trang điểm hơn ai hết. Chỉ phớt qua một chút phấn, phủ một lớp son nhẹ, kín đáo một giọt nước hoa nơi bàn tay, trong chiếc khăn tay, chỉ đủ thoảng nhẹ như một hương nhài thơm xa cũng đủ làm người người say đắm.


Vẻ cổ điển, dịu dàng nhưng không kém phần tinh tế của thiếu nữ Hà thành được kế thừa từ nét đẹp văn hóa của con người Thăng Long - Hà Nội ngàn năm tuổi.

Người con gái đẹp Nha Mân - hậu duệ của cung tần mỹ nữ xưa
Có lẽ câu ca dao “Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh. Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân” đã lột tả chính xác về miền đất nổi tiếng nhiều giai nhân, mỹ nữ này.

Gái đẹp Nha Mân (Ảnh minh họa)

Nha Mân là địa danh thuộc xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Hàng trăm năm nay, Nha Mân nổi danh là vùng đất có nhiều người con gái đẹp.

Theo một số tài liệu ghi lại, vào năm 1985, chúa Nguyễn Ánh sau khi thua quân Tây Sơn trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút đã cùng cả đoàn từ tướng đến quân, tùy tùng, hậu cung theo sông Tiền bỏ trốn. Đến vùng Nha Mân này, bị quân nhà Nguyễn truy đuổi gắt quá nên buộc phải bỏ lại hàng trăm thê thiếp ở đây để chạy.


Tương truyền, những mỹ nhân bị “bỏ rơi” sau đó lấy chồng là người địa phương, trở thành nông dân nhưng con cái do họ sinh ra đều đẹp như tiên đồng ngọc nữ. Chính nhờ dòng máu cung phi mỹ nữ mà xứ Nha Mân mới có nhiều người con gái đẹp như ngày nay.

Miền gái đẹp Huế - đoan trang, dịu dàng, nhỏ nhẹ và có duyên
Nói năng từ tốn, điềm đạm nhưng lại quả quyết, dứt khoát là nét cuốn hút đặc trưng của người con gái đẹp sông Hương.

Gái đẹp Huế - đoan trang, dịu dàng, nhỏ nhẹ và có duyên (Ảnh minh họa)

Giọng nói nhỏ nhẹ và rất duyên của những người con gái đẹp Huế được một nhà thơ mô tả một cách hình tượng: "Em ơi giọng Huế có chi. Mà trong hoa nắng thềm thì cơn mưa".

Trong lịch sử, Huế từng là thủ phủ của xứ Đàng Trong rồi trở thành kinh đô của nước Đại Việt thời Quang Trung – Nguyễn Huệ nên ngoài cung cấm còn có nhiều phủ đệ, quan viên, con vua cháu chúa rất nhiều. Sinh hoạt của tầng lớp quý tộc, trong đó có cách ăn nói của họ đã ảnh hưởng đến lối sống của vùng đất này.


Vua chúa với quyền uy của mình không cần ăn to nói lớn, quan lại cũng không dám nói mạnh trước đức vua và triều thần. Ở kinh đô, tai vách mạch dừng, lời nói phải từ tốn nhỏ nhẹ, tránh lỡ lời mà mang vạ vào thân. Chốn kinh đô cũng cần sự trang nghiêm, kính cẩn, yên tĩnh cho sinh hoạt của vương triều cũng như cộng đồng xã hội phong kiến nơi đây. Trong suốt gần 350 năm, phong thái ấy đủ để lại dấu ấn trong cách giao tiếp, ứng xử của con người Huế.

Mường So – “Vùng đất mỹ nữ” ở Tây Bắc
Ở thung lũng Mường So (Phong Thổ, Lai Châu) có một truyền thuyết kể rằng Nàng Han, người con gái Thái đẹp nhất trời Tây Bắc, đã ban cho người dân nơi đây một dòng suối quý được “hóa thân” từ bộ váy áo của mình để hàng nghìn năm sau, bất cứ thiếu nữ nào tắm gội, vẫy vùng trên dòng suối ấy đều trở nên xinh đẹp lạ thường.

Tương truyền, những cô gái tắm gội trên dòng suối Mường So đều có làn da căng mịn, tràn đầy nhựa sống.

Theo những bậc cao niên trong vùng, Nàng Han được sinh ra trên đất Mường So. Trong tâm linh của khắp xứ Thái, xứ Mường Tây Bắc, Nàng Han là biểu tượng của người con gái tài giỏi và có vẻ đẹp vẹn toàn như hoa ban buổi sớm.

Vẻ đẹp ấy đã được khắc họa trong câu hát: “Người đẹp ra suối tắm, cá tìm về xem chân. Người đẹp đi lên nương, dâu, lúa tìm về xem tay. Người đẹp đi lên rừng, hoa tìm về xem mặt. Người đẹp hát trong rừng, chim ngập ngừng lắng nghe. Người đẹp bước chân xòe, trai Mường So ngây ngất…"

Không chỉ có nhan sắc rực rỡ, Nàng Han còn có đôi tay khéo léo, đặc biệt là trong việc kéo sợi, thêu thùa, dệt vải. Khi giặc ngoại xâm kéo đến xâm lược Mường So, Nàng Han đã anh dũng đứng lên kêu gọi trai tráng dựng cờ giết giặc. Thắng trận trở về, nàng được nhân dân trong vùng chào đón và suy tôn là “nữ tướng”.

Một đêm sáng trăng, Nàng Han trút bỏ bộ áo cóm, một trang phục của thiếu nữ Thái, để bay về trời. Bộ váy áo đó đã biến thành dòng suối Mường So mà bất cứ người con gái nào tắm ở đó thì đều có làn da đẹp tựa ban trắng trên rừng, môi đỏ như quả bồ quân. Nhờ dòng suối quý, Mường So trở thành “miền mỹ nữ” từ đó.

Thiếu nữ Thái có vẻ đẹp vẹn toàn như hoa ban buổi sớm.

Cũng từ ngày ấy, các vị vua, chúa đất ở khắp miền Tây Bắc đều cho người đi tìm những cô gái đẹp ở Mường So mang về dinh thự để đưa vào đội múa xòe. Các cô được chọn phải có làn da thật trắng, mái tóc đen nhánh, đôi chân cao thẳng, eo thắt, ngực nở và nhất là gương mặt phải đậm đà, xinh tươi như đóa hoa rừng mới nở.

Ngay cả đến những năm đầu thế kỷ 20, Mường So vẫn vang danh là vùng đất nhiều mỹ nữ. Không chỉ những chúa đất vùng sơn cước mà quan ta, quan Tây miền xuôi cũng luôn khao khát được một lần diện kiến nét đẹp đến mê hồn của những cô gái với điệu xòe Thái quay cuồng làm nghiêng ngả núi rừng.

Miền gái đẹp xứ Thanh
Người dân tộc Thái ở Mường Lè (huyện vùng cao Quan Hóa, Thanh Hóa) khai thiên, lập địa ở mảnh đất mạch rồng cuộn, nước dồi dào, sản vật núi rừng nhiều vô kể, nên đời sống đồng bào nơi đây luôn ấm no, hạnh phúc.

Ảnh minh họa

Mảnh đất lành này là nơi sinh ra những cô gái Thái đẹp hút hồn, hấp dẫn lạ thường. Cái đẹp của cô gái Thái Mường Lè đến từ đôi mắt biết cười, nước da trắng như trứng gà bóc, giọng nói nhẹ nhàng như mật rót vào tai

Lý giải về vẻ mê hồn, đằm thắm rất đặc trưng của cô gái đẹp Thái xứ Thanh, nhiều già làng, trưởng bản kể rằng tổ tiên lập làng bản của họ từng là thổ ty, lang đạo nên lấy vợ đều lựa chọn những cô gái đẹp lộng lẫy ở khắp vùng.

Có tiếng là vùng đất sản sinh ra nhiều cô gái đẹp nên thời điểm vùng bị giặc ngoại xâm tạm chiếm, thỉnh thoảng bọn giặc lại vào vùng bắt những cô gái đẹp đi. Thế nên, cứ mỗi lần nghe tin giặc vào bản bắt người, dân trong bản lại dẫn con, em của mình chốn vào trong rừng cho đến khi chúng rời khỏi bản.


Bên cạnh đó, cũng có nhiều ý kiến cho rằng con gái Thái nổi tiếng đẹp người, khéo và ngoan hiền, bởi ngay từ nhỏ đã được cha mẹ chỉ dạy rất cẩn thận từng việc làm, ăn uống, đi đứng, nói năng, đối nhân xử thế hiền dịu, không để mất lòng người.

Các cô gái đẹp người Thái ở Mường Lè sống gần gũi với thiên nhiên. Con gái Thái 15-17 tuổi phải thạo việc xe tơ, dệt thổ cẩm, biết làm cái chăn, cái gối, cái đệm, khăn piêu trước khi về nhà chồng.

Họ cũng giữ được vẻ đẹp mặn mà ngay cả khi về làm vợ, làm mẹ bởi những tập tục như hơ người vào lửa sau khi sinh, uống nước sôi đun trong ống nứa....

Lại có phân tích cho rằng vùng đất này có điều kiện tự nhiên tốt lành, độ dốc nhiều con suối và sông Mã cao; nước ở đây được hấp thụ bởi luồng khí trong lành từ những cánh rừng, ngọn núi; ăn uống và hít thở không khí trong lành đã tạo nên dáng vẻ cân đối và làn da sáng mịn, săn chắc của những cô gái đẹp dân tộc Thái ở Mường Lè

"Thôn cung nữ" toàn gái đẹp ở Quảng Ninh
Nghĩ đến con gái Quảng Ninh, nhiều người nghĩ đến nước da đen đúa và bụi bặm, nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Nếu bạn đến với Quảng Ninh, chắc chắn bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy con gái vùng than da lại trắng như tuyết.

Người đẹp Quảng Ninh - Ảnh: Dân trí

Đặc biệt, ở vùng đất phật Yên Tử (Uông Bí, Quảng Ninh) có thôn Năm Mẫu được mệnh danh là “thôn cung nữ”, nổi tiếng nhiều người con gái đẹp.

Gái đẹp ở "thôn cung nữ" (Ảnh minh họa)

Truyền thuyết kể rằng, Thượng hoàng Trần Nhân Tông cách đây trên 700 năm, một ngày mùa đông đã từ bỏ kinh thành Thăng Long đi về hướng đông để tìm núi tu luyện, đến vùng đất Yên Tử thì dừng chân. Lúc đi có 300 cung tần mỹ nữ theo hầu.

Khi đến Yên Tử, do không được vua cho ở cùng nơi đất Phật, nên các cung tần mỹ nữ lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan. Đường về kinh thành thì xa xôi vạn dặm, quân lính của tân vương phong tỏa khắp nơi, ở cũng khó mà đi cũng khó. Để giữ trọn đạo, 300 cung tần mỹ nữ đã trầm mình xuống con suối giữa đại ngàn Yên Tử.

Đúng thời điểm đó có 5 chàng trai người Dao bản địa đi kiếm củi về ngang qua đã nhảy xuống và cứu được 5 cô gái đẹp. Để tri ân, những cô gái này xin được làm vợ để "nâng khăn sửa túi" cho chàng trai đã cứu mình. Nhờ dòng máu của những giai nhân đến từ kinh thành, con gái của vùng đất này được thừa hưởng vẻ đẹp sắc nước hương trời cũng như phong cách lịch lãm.

Khi năm bà cung nữ qua đời, dân làng Thượng Yên Công đã lập đền thờ, gọi là đền Năm Mẫu. Ngôi đền này hiện vẫn nằm ở Thượng Yên Công và khu vực được tương truyền có 5 cung tần làm dâu không biết tự lúc nào có tên là thôn Năm Mẫu.

Thực hiện: / Nguồn: aFamily.vn/TTVN


Phần nhận xét hiển thị trên trang

XỨ SỞ VỌNG PHU…

Alan Phan

Có ai xuôi vạn lý, nhắn đôi câu giúp nàng, lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng… (Lê Thương – Hòn Vọng Phu)

Hôm qua xe tôi tình cờ bị kẹt trước một giao lộ gần khu Little Saigon của Quận Cam. Một tai nạn nhỏ đang được cảnh sát giao thông xử lý. Ở lane cạnh xe tôi là một người phụ nữ lớn tuổi, đang quay kính xe xuống và để một bài hát Việt hơi ồn ào qua phóng thanh trong xe. Cũng may đó là một bài hát ngày xưa tôi thích, nên nó cũng làm dịu đi chút nắng nóng và sốt ruột của mình. Bài “Mưa Trên Phố Huế”.

Tôi yêu Huế và nhũng người con gái Huế. Có lẽ vì đây là hai sự thể mà tôi không bao giờ hiểu nổi?

Đêm đêm khua ánh trăng vàng mà than…

Dù quê cha là Quảng Trị và tôi có dịp ghé thăm Huế nhiều lần, tôi chưa bao giờ ở Huế hơn 5 ngày liên tục. Do đó, ấn tượng của tôi về dòng sông Hương, về cầu Tràng Tiền, về Thiên Mụ, về Quốc Học hay Đồng Khánh…chỉ là những nét đẹp thoáng qua như bức tranh thuỷ mạc, không có gì sâu đậm. Nhưng chính cái đơn giản mộc mạc đó đã cuốn hút lòng người?

Thực ra, cảm nhận làm tôi yêu thành phố này là một nỗi buồn câm nín, chịu đựng và man mác lan tỏa trong khắp môi trường. Nỗi buồn đó thể hiện qua nụ cười e ấp của nhũng tà áo màu tím, qua đôi mắt vời vợi của những đứa trẻ lang thang, qua giọng nói trọ trẹ khó nghe của các bạn hàng, qua những đền đài cung điện đã tan phế…Tôi đã đi qua rất nhiều thành phố khắp thế giới, và tôi chắc chắn là không đâu “buồn” bằng Huế. Ngay cả Sarajevo đổ nát tang thương cũng không làm tôi rưng rưng như khi đọc vài đoạn văn “Giải Khăn Sô cho Huế” của nhà văn Nhã Ca. Cái buồn kỳ lạ, se sắt dù nhẹ nhàng.

Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai …

Rồi những người con gái Huế. Dù họ tíu tít như chim đầu ngày hay lãng mạn mông lung nhìn đất trời, cái nỗi buồn câm nín, chịu đựng và man mác đó vẫn thể hiện quanh họ. Bạn bè thường nói đàn ông Huế “thâm hiểm” và “khép kín” lắm; nhưng qua lớp bọc mỏng manh, họ vẫn là những con người hết sức bình thường, tốt với bà con bạn bè thân thuộc. Riêng đàn bà Huế, họ tràn đầy những bí mật không ai biết giải mã. Họ thông minh, khôn khéo, phức tạp, phi lý, theo mùa (moody?) và hoàn toàn sống theo cảm giác. Yêu một người con gái Huế là phiêu lưu bên bờ vực của núi cao, khi lên đỉnh với trăng sao, khi rớt xuống vực với thú dữ.

Có thể tôi diễn tả hơi quá, nhưng các bạn tự làm cuộc thử nghiệm nhé.

Thực ra, dù không có cường độ cao vút như gái Huế, phần lớn những người con gái Việt, không nhiều thì ít, đều chia sẻ cái “nỗi buồn câm nín” này. Câu hát “mong đợi một người biền biệt nơi mô” trong những chiều mưa rơi vẫn làm những cô gái khắp đất nước rơi lệ và thông cảm. Có một thời gian mà bài trường ca “Hòn Vọng Phu” của Lê Thương là một bài hát được nhiều người thích nhất.

Ôi Quê Hương Xứ Dân Gầy …

Trên thế giới, ngoại trừ Đan Mạch tạc tượng một mỹ nhân cá ngóng đợi một chàng thủy thủ (hay hoàng tử?), tôi chưa nghe một huyền thoại nào về một phụ nữ ôm con đứng đợi chồng về, rồi hóa đá. Tình yêu và sự chung thủy mà người đàn bà Việt dành cho gia đình, nhất là chồng, đã được nhiều bạn bè nước ngoài của tôi xác nhận. Dù đây là nét đặc trung của nền văn hóa Khổng Phu Tử khắp Á Đông, nhưng người đàn bà Việt đảm đương, bươn chải, chăm sóc…chồng con nhiều hơn cả người Tàu hay người Hàn (OK, có lẽ thua đàn bà Nhật một chút, và thế hệ mới của dân Việt đang lưu đày tứ xứ hay đã hưởng nền giáo dục XHCN có thể không còn mang nhiều truyền thống này…). Trong khi đó, tôi nghĩ đàn ông Việt gần như …”hư” nhất thế giới trong khía cạnh lo lắng cho gia đình. Alan tôi cũng không là ngoại lệ.

Lý do chính là trai Việt thích làm…anh hùng hơn. Nền văn hóa 4 nghìn năm của chúng ta đầy những huyền thoại về chiến công hiển hách, vang động đất trời…của những chàng trai đất Việt, lúc thì chống ngoại xâm giữ gìn quê hương, khi thì đi mở mang bờ cõi…Hồi còn nhỏ, khi học sừ, có lần tôi hỏi ông thầy là tại sao Tây, Tàu, Mỹ …là bọn thực dân xâm lược, còn Chiêm Thành, Chơn Lạp, Khmer…lại là bọn man di mọi rợ cần dẹp tan để khuếch trương…giang sơn đế chế Việt hào hùng? Ông cho tôi một cái đá đít đau điếng và đuổi ra ngoài lớp.

Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất quân…

Vì đàn ông Việt phải băng rừng lội suối sống kiếp chinh nhân, tạo thành tích cho lịch sử ngàn sau…cho nên chúng ta không còn nhiều thì giờ để quan tâm đến những chuyện lẻ tẻ? như một công trình dấu ấn trong lãnh vực văn hóa nghệ thuật hay khoa học…có thể sánh với các nền văn minh thế giới? Sao chép Tây, Tàu, Mỹ…cho nó tiện? Nhưng tệ nhất là bỏ bê gia đình lại cho người đàn bà Việt quản lý…để họ biến thành những hòn đá vọng phu?

Gần đây, thế giới thay đổi nhanh chóng và những …chinh nhân Việt không còn nhiều cơ hội để vung tay mài dao múa kiếm. Ngay cả mấy thằng đồ đệ như Lào, Kampuchia…cũng không còn ngoan ngoãn. Thay vì những cuộc viễn chinh…chúng ta đi “xuất khẩu lao động”, thay vì những trấn lột công khai của bên thắng cuộc, chúng ta đi xin viện trợ và FDI. Chúng ta vẫn nghĩ mình là…rồng, nhưng không ai quan tâm.

Sinh ra làm gái Việt, có lẽ các chị cũng biết về cái “định mệnh buồn muôn thuở” của mình. Và nỗi buồn man mác do đó vẫn thể hiện ngay cả trong những môi cười, trong những tiệc cưới. Nhưng nếu có chút an ủi, các chị phải biết rằng nhũng chàng trai Việt cũng đang..hóa đá trong lúc đợi chờ một thời kỳ vàng son mới. Anh hùng phải làm anh hùng…nghĩa là phải mang trong người một dũng khí để trực diện bất công và nô lệ.

Thực ra, họ chỉ cần làm một con người đúng nghĩa…và chăm sóc gia đình.

Alan Phan


Phần nhận xét hiển thị trên trang

To mo quá!

Bí hiểm về sự tuyệt mật cuộc họp của các đại gia quốc tế tại Đà Nẵng
Hội nghị 'tuyệt mật' của các đại gia quốc tế tại Đà Nẵng
Hội nghị tài chính quốc tế do Ngân hàng Standard Chartered tổ chức tại Đà Nẵng từ 15- 17.11, tập trung hàng loạt khách VIP đến bằng chuyên cơ quốc tế, có thể là một sự kiện “tuyệt mật”.  Tỉ phú thế giới tụ họp về Đà Nẵng (TT). - Hội nghị ‘bí ẩn’ tại Đà Nẵng của các đại gia quốc tế (TN).
Khu nghỉ dưỡng InterContinental Danang Sun Peninsula Resort, 
nơi diễn ra hội nghị - Ảnh: danang.intercontinental.com 
Một nguồn tin của PV Thanh Niên cho hay đơn vị tổ chức là Standard Chartered Bank (SCB). Trước đó, họ đã chuyển nhiều container vật dụng đến để phục vụ khách của mình. Toàn bộ khu nghỉ dưỡng cao cấp này gồm 119 phòng ở và biệt thự sang trọng đã được thuê bao, không cho bất kỳ khách nào lưu lại.
Đến tối qua (17.11), nhà báo Claire Boobbyer (Anh) tiết lộ với Thanh Niên rằng theo những thông tin cô biết thì ngoài ông Tony Blair, còn có chính trị gia Myanmar Aung San Suu Kyi và cựu Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell cũng tham gia sự kiện trên.

Trong khi đó, báo điện tử Chinhphu.vn phiên bản tiếng Anh chỉ đưa tin ngắn gọn về một hội nghị có sự tham gia của Phó thủ tướng Vũ Văn Ninh. Theo đó, vào ngày 15.11, lãnh đạo cao cấp của các doanh nghiệp nước ngoài đã tập trung tại Đà Nẵng để tham gia một hội nghị bàn về “những kết nối sáng tạo” (creative connections - NV) do SCB tổ chức.
Mặt khác, trên trang mạng cá nhân của nữ ca sĩ Hayley Dee Westenra, người New Zealand và là đại sứ của Tổ chức UNICEF, tiết lộ cô cũng tham gia hội nghị “Creative Connections” do SCB tổ chức tại Đà Nẵng. Tuy nhiên, cô cũng khẳng định đây là một sự kiện không công bố rộng rãi và rất “riêng tư”. Đến ngày 15.11, trang cá nhân của Hayley Dee Westenra có cập nhật một số hình ảnh tại Đà Nẵng nhưng tuyệt nhiên không hé lộ gì thêm liên quan đến “Creative Connections”.

Từ thông tin này, Thanh Niên tìm hiểu và được biết SCB cũng tổ chức một hội nghị tài chính mang tên “Creative Connections” vào năm 2012 tại thành phố Livingstone (Zambia). Đến nay, trang mạng của “Creative Connections 2012” vẫn còn hiện hữu, nhưng những ai muốn xem thông tin chi tiết đều phải đăng nhập bằng mật mã.

Theo một số thông tin có thể truy cập, “Creative Connections 2012 Livingstone” có sự tham gia của Giáo sư Joseph Stiglitz (Mỹ), người từng đoạt giải Nobel Kinh tế vào năm 2001. Vào tháng 4.2012, kênh Q-FM (Zambia) dẫn lời Tổng giám đốc SCB Zambia Mizinga Melu tiết lộ SCB sẽ tổ chức một hội nghị về đầu tư mang tên “Creative Connections” ở Livingstone, quy tụ 50 khách mời là những người nổi bật hàng đầu trên thế giới. Theo đó, sự kiện này được SCB tổ chức 18 tháng một lần. Tham gia “Creative Connections 2012 Livingstone” có Giáo sư Stiglitz, cựu Thủ tướng Anh John Major, sử gia lừng danh Niall Ferguson. Lần đó, chính quyền địa phương cũng khẳng định không nắm thông tin gì liên quan sự kiện này.

Ngoài ra, trên internet, còn có thông tin khá hiếm hoi về một sự kiện mang tên “Creative Connections” cũng do SCB tổ chức vào năm 2010. Theo một mẩu thông tin được cho là liên quan sự kiện này, “Creative Connections 2010” dường như diễn ra tại New York (Mỹ) có sự hiện diện của cựu TTK LHQ Kofi Annan cùng nhiều chính trị gia và lãnh đạo doanh nghiệp thế giới. Nữ ca sĩ nổi tiếng Thái Lan là Tata Young cũng được giới thiệu là có tham gia “Creative Connections 2010”.

Ngoài ra, các thông tin khác gần như đều nằm trong vòng “bí ẩn”.
Ngô Minh Trí - Nguyễn Thế Thịnh - M.Phương (thanh nien)
http://www.vnblognet.com/2013/11/bi-hiem-ve-su-tuyet-mat-cuoc-hop-cua.html
Phi cơ của cựu Thủ tướng Anh Tony Blair xuất hiện ở sân bay Đà Nẵng?

Sáng 17.11, sự xuất hiện của chiếc chuyên cơ "Blair Force One" tại bãi đổ quân sự phía nam sân bay quốc tế Đà Nẵng đã gây sự chú ý của hành khách tại sân bay này.
Theo đó, chiều tối 16.11, cùng với một số máy bay cá nhân khác, chuyên cơ mang số hiệu G-CEYL được cho là của cựu Thủ trướng Anh Tony Blair đã đáp xuống sân bay Đà Nẵng trong một sự kiện tài chính tầm cỡ.

Khác biệt so với chuyên cơ của các nhà tài chính, tỉ phú đến Đà Nẵng lần này, “Blair Force One” của cựu Thủ tướng Anh Tony Blair có màu sơn đen sang trọng và hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng gần như cuối cùng so với các chuyên cơ trước vào lúc 19h tối 16.1.Đặc biệt hơn, sân đỗ của chuyên cơ này nằm trong khu quân sự, thuộc sự giám sát nghiêm ngặt của Sư đoàn không quân 372.

Chuyên cơ “Blair Force One” là một sản phẩm cao cấp của hãng Bombardier với tên gọi Global Express BD-700, mang số hiệu G-CEYL đã cất cánh từ sân bay Manila (Philipine) trước khi hạ cánh xuống sân bay quốc tế Đà Nẵng.

"Blair Force One" đỗ tại khu vực quân sự thuộc Sư đoàn Không quân 372.

Theo báo chí nước ngoài, chuyên cơ “Blair Force One" được cựu Thủ tướng Anh Tony Blair mua lại của một thương nhân với chi phí hơn 40 triệu USD. Chuyên cơ có 15-19 ghế ngồi bọc da, cùng phòng khách, bếp, phòng ngủ đầy đủ tiện nghi sang trọng. Chính vì vậy, chuyên cơ được hãng Bombardier đánh giá là “mẫu máy bay sang trọng nhất đáp ứng nhu cầu của các doanh nhân khó tính nhất".

Không chỉ vậy, chuyên cơ có thể bay liên tục không nghỉ suốt 13 tiếng đồng hồ trong phạm vi hoạt động tối đa hơn 11.000 km, đạt vận tốc 950 km/h cùng chi phí bay mỗi giờ khoảng 11.000 USD.

Trước đó, trong khuôn khổ sự kiện tài chính diễn ra tại Khu nghỉ dưỡng cao cấp InterContinental Danang Sun Peninsula Resort (bán đảo Sơn Trà, TP Đà Nẵng), đội chuyên cơ của các tỷ phú và các giám đốc tài chính... trên thế giới “tụ họp” về Đà Nẵng.

Một loạt các chuyên cơ riêng của các nhà tài chính nổi tiếng mang các số hiệu như: N383AG, VPBJT, TPJ57DP, NJF996R, JJA095, AJ 601, JBJ22, TFA095, VTSMI, VTPCJM, DCS661, N28VL, N551VL,... đến từ nhiều quốc gia đã có mặt tại Đà Nẵng từ chiều 14-15.11.

Cùng vị trí đỗ với “Blair Force One” là 2 siêu máy bay mang 
số hiệu VP-BTB và N767CW đến từ Singapore vào chiều 16.11. 

Theo kế hoạch, ngoài việc tham dự sự kiện tại khu nghỉ dưỡng cao cấp nhất Việt Nam-InterContinental Danang Sun Peninsula Resort, các quan chức, khách mời của sự kiện sẽ tham dự đêm Gala Dinner tại Hội An vào ngày 15.11. Tuy nhiên, do Hội An bị lũ nhấn chìm nên đêm Gala Dinner đã bị hủy bỏ.

Được biết, trong ngày hôm qua (16.11) và ngày hôm nay (17.11), số chuyên cơ này sẽ rời Đà Nẵng. Riêng chuyên cơ “Blair Force One" sẽ rời Đà Nẵng đi Jordan vào đêm 17.11.

Theo Tâm Lân
Lao Động
http://cafebiz.vn/life-style/phi-co-cua-cuu-thu-tuong-anh-tony-blair-xuat-hien-o-san-bay-da-nang-2013111808541503712ca50.chn
Hàng chục phi cơ hạng sang của các tỷ phú thế giới tụ tập tại Đà Nẵng

Sáng 17-11, các tỷ phú thế giới đang tham dự hội thảo và chương trình sẽ kết thúc vào trưa cùng ngày. Dự kiến, sáng 18-11, các tỷ phú sẽ rời Đà Nẵng.

Các tỷ phú này đến từ nhiều trung tâm tài chính, du lịch trên thế giới như: Ả rập, Hồng Kông, Singapore, Phillipines, Thái Lan, Indonesia…
Chuyên cơ của các tỷ phú tại Sân bay Đà Nẵng 

15 chuyên cơ đậu tại sân đỗ Sân bay quốc tế Đà Nẵng được kiểm soát nghiêm ngặt của an ninh.

Được biết, hội thảo trên do một tỷ phú là chủ một khu du lịch, ngân hàng của Anh đứng ra tổ chức. Phía đứng ra tổ chức hội thảo ký hợp đồng với InterContinental Danang Sun Peninsula Resort tuyệt đối không được cung cấp thông tin, hình ảnh cho báo chí.
Chuyên cơ N551VL (giữa) tại sân bay Đà Nẵng

Chuyên cơ N388AJ bên cạnh các chuyên cơ khác tại Sân bay Đà Nẵng

Bên trong chuyên cơ N388AJ - Ảnh: T.L

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chó đen giữ mực, lão này vẫn thích nói xấu chúng ta thế này đây:

Biết đùa để sống


Nếu sống trong một thể giới mà trong đó phải nghe loa phường đưa thông tin rằng các nhà nước của cả Trung Quốc, Cuba, Việt Nam có được vào ‘Hội Đồng Nhân Quyền” của Liên Hợp Quốc và không muốn thành một người máy hay người điên, ảo tưởng thì phải biết mỉa mai, phải biết đùa.

Xong, dù người Việt Nam hiện nay quá biết mỉa mai, quá biết nói đùa, một yếu tố khó có thể có ở Việt Nam đến bây giờ là châm biếm chính trị. Sở dĩ  tôi có nghĩ đến vấn đề này hôm nay vì tôi thấy dân Việt Nam từ mọi phía đang trong một thời điểm lạ, hơi buồn, và đang tìm đường đi.
Một trong những cái tôi thích nhất về xã hội Việt Nam là tính chơi, tính vui vẻ trong đời sống dân dã hàng ngày ở cả nước. Dù ở nông thôn hay thành thị đại đa số người Việt Nam thích trêu, thích đùa. Thực vậy, hài hước là một yếu tố quan trọng trong cuộc đời. Gần như là một nhu cầu cơ bản của con người (basic human need).
Khẳng định như vậy không có nghĩa là ai nói đùa, thích hài hước không sống một cách thực tế, mà ngược lại: Hài hước là một cách suy nghĩ. (Cụ nội của tôi, là người đã từng sống 108 năm (1881-1989) đã nói đùa (và hút ciga) suốt ngày, dù nhiều khi chỉ có chính ông ấy cười!) Tôi quá biết đối với những người thật khổ thì hài hước cũng rất khó để có. Mặt khác, cũng có người giàu có mà sống một cách vô cùng nghèo về tinh thần vì tính cách của họ đã làm mất đi yếu tố hài hước đó. Nếu không có yếu tố hài hước thì Việt Nam đương đại sẽ giống Bắc Triều Tiên, nơi mà nhà nước coi hài hước là một tội nghiêm trọng chết người
Thế thì châm biếm chính trị là chuyện khác. Ai biết đến Việt Nam thì biết Việt Nam là một nước giàu có về truyền thống châm biếm chính trị. Là một sinh viên về xã hội Việt Nam tôi đặc biệt thích tìm hiểu về những chuyện liên quan đến châm biếm chính trị từ xưa đến nay; từ những biếm họa trên tập chí Tuổi Trẻ Cười của ngày hôm nay đến những bài thơ cổ truyền của Hồ Xuân Hương ngày xa xưa.Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên tôi đã được mời xem hài kịch ở Nhà Hát Tuổi Trẻ 11, Ngô Thì Nhậm, Hà Nội.
Vâng, ngày xưa và gần việc nói gì xấu tới Nhà Vua hay TBT ĐCSVN có thể có hậu quả nghiêm trọng, hoặc cả nhà, hoặc cả ba thể hệ. Nhưng qua bao nhiêu thế kỷ nhiều người Việt Nam đã cứ sống theo lương tri của họ, bất chấp những chủ trương vớ vẩn của những nhà cầm quyền. Đó là một thế mạnh của nền văn hóa Việt Nam.
Chuyện người Việt Nam thích trêu nhau, biết nói đùa là một cái tôi thật thích. Cũng như truyền thống châm biếm chính trị. Nhưng, cũng phải thừa nhận, trong nhiều năm, nhiều thập kỷ, truyền thống này đã teo đi trong những trói buộc về chính trị và đến bây giờ chưa phục hồi như xưa. Đó là một hiện tượng dễ thấy. Điều đó được thể hiện qua việc đại đa số ‘văn hóa phổ biến’ – đặc biệt trên vô tuyến – khi có nội dung ‘hài hước’ chủ yếu là loại trò hề tếu, trò vui nhộn (slapstick humor) mà dù có lúc buồn cười vì nội dung ít ỏi.
Một hạn chế cơ bản ở các nước độc đoán như Việt Nam hiện nay là tự do ngôn luận chưa thực sự được đảm bảo. Do vậy, dân thường kể cả những người làm trong bộ máy rất khó nói đùa về chính trị. So với trước đây, hiện nay tình hình đỡ hơn, nhưng nhiều khi nói đùa có nội dung chính trị vẫn là một ‘hành vi nguy cơ cao’ ở Việt Nam. Chính vì đến bây giờ ở Việt Nam chỉ có một quan điểm “đúng đắn” mà thôi
Tôi sẽ kể một chuyện ngắn đề làm rõ vấn đề này. Sau đó tôi sẽ đặt một số câu hỏi về định vị của châm biếm chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Chuyện này đã xãy ra cách đây chỉ mấy tháng và gồm có hai thờ báo, là tờ báo The Onion của Mỹ và Nhân Dân Nhật Báo, báo hàng ngày lớn nhất của ĐCSTQ. Chuyện đã bắt đầu vào mùa xuân năm nay khi báo The Onion (dịch sang tiếng Việt là Hanh Tây) đã cho đăng một bài mang tên “Kim Jung Un: lãnh đạo gợi tình nhất thể giới.” Bọn biên tập báo TQ thấy bài này cực hay, nội dung hấp dẫn: Báo mỹ thấy thế thì in ngay! Và đã không chỉ có việc mà báo TQ đã tái đăng bài này, họ nhiệt tình đến mức là trên trang web của thơ báo họ đã đăng bài và post 55 hình ảnh về Kim Jung Un để đẩy mạnh sự “gợi tình” của lãnh đạo này.

Chỉ có một việc họ đã không hiểu: Báo The Onion là một thờ báo hoàn toàn châm biếm do một số sinh viên đã thành lập cách đây 20 mấy năm. Vấn đề cơ bản là ở các nước độc đoán, việc không có tự do ngôn luận làm những ‘người máy’ của chế độ không thể hiểu được sự hài hước, sự mỉa mai, châm biếm.
Là một người theo dỗi tình hình chính trị ở Việt Nam tôi chủ yếu thấy châm biếm chính trị qua những biếm họa, những lời hài hước, mỉa mai trong những bài blog, và những chuyện được kể trong các đường phố của Việt Nam. Vâng, tôi biết, ở bên ngành nghệ thuật cũng đã có một số sản phảm có nội dung châm biếm chính trị. (xin lỗi tôi không biết nhiều về ngành nghệ thuật ở Việt Nam). Trong năm qua cũng đã có hai clip trên mạng, một mang tên là “Khi Hitler đi xe không chính chủ” và hai là “Video tuyệt mật: Bộ chính trị họp khẩn về Tuyên bố 258″; tôi thấy cả hai khá buồn cười, dù cái thứ hai đề cập vấn đề rất nghiêm trọng. Nhưng, nói chung, châm biếm chính trị ở Việt Nam hiện nay chưa phát triển mạnh, thậm chí chậm hơn TQ!
Trong một số bài trước đây tôi có khẳng định là nền chính trị văn hóa của Việt Nam đang thay đổi một cách thật hứa hẹn. Nhưng hôm nay văn hóa chính trị của Việt Nam đang trong một thời điểm lạ. Trong thời gian qua những nhà lãnh đạo then chốt của Việt Nam đã mới lại bỏ qua một cơ hội để cải cách nền chính trị của Việt Nam qua việc thay đổi hiến pháp, dân Việt Nam có đầu óc cải cách đang tìm cách để giữ bình tĩnh và không đầu hàng.
Đúng vậy, những phong trào đấu tranh xã hội luôn luôn phải giữ tính lạc quan, bất chấp những trở ngại…. Chính Ông Ghandi, khi được nhà báo hỏi, “Ông nghĩ gì về nền văn minh của Anh Quốc” ông trả lời, “Văn Minh Anh Quốc…. thì nếu có đó sẽ rất tốt!” Có lẽ điều đó giải thích tại sao ở Hà Nội họ đã từ lâu cất đi tượng đài Ghandi mà đã đứng ở nơi cách đây không lâu đã diễn ra cuộc diễu hành viếng Đại Tướng Giáp.
Tôi hy vọng trong cuộc đời tôi, sẽ có cơ hội để thấy châm biếm chính trị ở Việt Nam được thế hiện một cách thật tự do. Thực vậy, có ai muốn kết hợp với tôi, viết một chuyện hài kịch về Hội Đồng Nhân Quyền của Liên Hợp Quốc?
JL
P.s. Đến bây giờ một hạn chế của tôi đối với sự hiểu biết của mình đến Việt Nam là vốn từ vựng chưa đủ lớn đề hiểu hết sự đa dạng trong văn hóa hài hước của đất nước từ xưa đến nay. Dần dần sẽ giải quyết vấn đề này thôi. Một hạn chế của một số người thích phê bình tôi là họ không biết đùa, không hiểu mỉa mai.
P.s.s., Ai mà có tài liệu hay xin cho tôi biết, sẽ post nó và có lẽ tiến hành một nghiên cứu quy mô nhỏ…. thank you vinamilk!


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cận cảnh" nguyên nhân Liên Xô tan rã


 Nhân kỷ niệm 96 năm Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1917 - 7/11/2013), bài viết này nhằm cung cấp một cái nhìn cận cảnh về sự tan rã của Liên Xô.
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX là một sự kiện đặc biệt quan trọng của thế giới, là một tổn thất hết sức to lớn của những người cộng sản trong quá trình hiện thực hóa học thuyết Mác-Lênin. Sự tan rã của Liên bang Xô viết vào cuối 1991 đã làm thay đổi căn bản cục diện chính trị thế giới.

liên xô sụp đổ, Lênin, Đảng Bonsevich, đấu tranh vô sản - tư sản
Cuộc duyệt binh của các chiến sĩ Hồng quân Liên Xô ở Quảng trường Đỏ
Trong giai đoạn 1918 - 1920, nước Nga Xô viết nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và bị bọn Bạch vệ (được sự hậu thuẫn của nước ngoài) tấn công từ bốn phía. Trong giai đoạn đặc biệt khó khăn này, nước Nga Xô viết non trẻ lâm vào thế "ngàn cân treo sợi tóc". Dưới sự lãnh đạo của Lênin và Đảng Bonsevich, nước Nga Xô viết đã vượt qua thách thức hiểm nghèo để tiếp tục phát triển.

Sau hơn bảy chục năm tồn tại, phát triển không ngừng, vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, Liên Xô đã trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới. Với sức mạnh to lớn về quân sự, khoa học công nghệ và kinh tế, Liên xô đủ sức đương đầu với hệ thống tư bản thế giới và có khả năng ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ hòa bình thế giới.

Liên Xô tan rã khi đã đạt đến đỉnh cao.

Tại sao?

Đã có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn bài viết, công trình chuyên khảo và sách lý giải vấn đề này, trong đó các cuốn sách của những người trong cuộc đưa ra lời giải có sức thuyết phục nhất. Nhân kỷ niệm 96 năm Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1917 - 7/11/2013), bài viết này nhằm cung cấp một cái nhìn cận cảnh về sự tan rã của Liên Xô.
1. Hệ thống XHCN hiện thực với Liên Xô làm trụ cột đã có đóng góp hết sức to lớn vào sự phát triển của thế giới.
Trong nửa sau của thế kỷ XX, trên thế giới có hơn một chục Đảng Cộng sản cầm quyền, hình thành một hệ thống XHCN hùng mạnh đủ sức kiềm chế mọi hành động đơn phương, hiếu chiến chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ.
Chính nhờ sự tồn tại của hệ thống XHCN hùng mạnh, hàng trăm dân tộc bị nô dịch, áp bức đã vùng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, làm suy sụp chủ nghĩa thực dân cũ, làm thất bại chủ nghĩa thực dân mới. Xét đến cùng, sự hình thành và phát triển của phong trào không liên kết là thành quả của cuộc đấu tranh vô sản - tư sản trên phạm vi toàn cầu, là thành tựu to lớn của các Đảng Cộng sản cầm quyền trong thế kỷ XX. Nói cách khác, chính những người cộng sản, trước hết là các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước thuộc hệ thống XHCN, đã ghi tạc một mốc son chói lọi vào tiến trình phát triển văn minh nhân loại.
Các Đảng Cộng sản cầm quyền đã xây dựng được một hệ thống xã hội hùng mạnh (hệ thống XHCN), trên nhiều lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội tốt đẹp hơn, ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản (CNTB). Cho đến nay, sau 22 năm Liên Xô tan rã, vẫn có 59% người Nga được hỏi ý kiến cho rằng ở chủ nghĩa xã hội nhiều điều tích cực hơn là tiêu cực, và đa số người Nga vẫn nuối tiếc thời Xô viết vàng son.
Thật trớ trêu, chính các Đảng Cộng sản cầm quyền, trước hết và chủ yếu là Đảng Cộng sản Liên Xô, lại để mất quyền lãnh đạo, làm cho hệ thống XHCN hùng mạnh được họ dẫn dắt hàng trăm triệu người xây dựng nên sụp đổ, tan rã. Cần lưu ý rằng Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo, Liên Xô tan rã mà không thông qua một cuộc chiến tranh với chủ nghĩa đế quốc.
Thực chất, Đảng Cộng sản Liên Xô, trực tiếp và chủ yếu là Bộ Chính trị, BCHTƯ đã tha hóa, đã tự đánh mất mình và làm cho Liên Xô tan rã. Chính những người lãnh đạo cao nhất, các ủy viên Bộ Chính trị Đảng CSLX đã thừa nhận điều đó. Tất nhiên, hoạt động chống phá của các thế lực chống cộng quốc tế thông qua chiến lược "diễn biến hòa bình" cũng là một nguyên nhân làm cho Liên Xô tan rã, nhưng chắc chắn không phải là nguyên nhân chính, không phải là nguyên nhân chủ yếu.
2. Đảng Cộng sản Liên Xô đã tha hóa, biến chất như thế nào?
Sơ bộ có thể nêu ra một số biểu hiện lớn sau đây:
- Một là, Đảng Cộng sản Liên Xô đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các bệnh tật: độc đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi thường tập thể, coi thường cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc mọi người phải tuân theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm chí là thù địch, khi cần thiết bảo vệ "cái uy" của mình, họ sẵn sàng đối xử với đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù. Kết quả là trong sinh hoạt, đảng mất hết sinh khí, mất hết tính chiến đấu. Sinh hoạt đảng trở nên tẻ nhạt, khô cứng, độc thoại một chiều. Trong điều kiện đó nhiều đảng viên trung kiên, trong sáng không được trọng dụng, cố nín nhịn để tồn tại, những kẻ cơ hội, nịnh bợ có điều kiện được thăng tiến.
- Hai là, Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng Cộng sản Liên Xô đã quan liêu xa rời thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa Đảng CSLX với nhân dân Liên Xô. Tệ quan liêu làm cho những người lãnh đạo các cấp của Đảng CSLX xa rời thực tế, không có hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà mình đang lãnh đạo, quản lý. Họ thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của quần chúng, thậm chí không có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ, oan ức của một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng viên, cán bộ cấp dưới.
- Ba là, những suy thoái về đạo đức, lối sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân, gia đình và người thân lên trên lợi ích của Đảng, của nhân dân; cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người thân tín với mình, kể cả những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống vào những vị trí lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống xa hoa, nói một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hoá, suy đồi về đạo đức, lối sống.
Trên đây là những biểu hiện nổi bật chủ yếu sự thoái hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô, nhất là các cán bộ chủ chốt ở cấp cao.
Chỉ khi nào sự thoái hóa, biến chất diễn ra tại trung tâm quyền lực (chóp bu) của Đảng thì mới trở thành nguy cơ đối với Đảng, đó là đêm trước của sự tan rã, sụp đổ. Đảng Cộng sản Liên Xô và các "phiên bản" Đông Âu của nó thuộc trường hợp này.
Thông thường các biểu hiện trên không tồn tại biệt lập, mà luôn song hành, có quan hệ với nhau, tác động với nhau, có lúc cái này làm tiền đề, điều kiện cho cái kia tồn tại và phát triển. Những biểu hiện thoái hoá nói trên, không bỗng nhiên xuất hiện, mà có một quá trình từ chớm nở như một ung nhọt nhỏ rồi phát triển qua nhiều giai đoạn. Những bệnh tật này lặng lẽ tích dồn liên tục trong nhiều tháng, nhiều năm làm Đảng mất sức chiến đấu, thiếu nhạy bén, không đưa ra được đường lối, quyết sách đúng đắn, khả thi. Trong Đảng CSLX đã thực sự có phân hoá: Một bộ phận cán bộ, đảng viên giàu lên nhanh chóng do đặc quyền, đặc lợi, đại bộ phận sống khó khăn; nhiều đảng viên nói một đằng làm một nẻo, trong cuộc họp nói khác ngoài cuộc họp, suy nghĩ một đằng phát biểu một nẻo. Tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng dần dần nguội lạnh, nhiều đảng viên trở nên thờ ơ trước những vấn đề chính trị có quan hệ đến vận mệnh của Đảng CSLX.
Theo Ph. M. Rudinxki, có thể chia 20 triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô làm 4 loại: 1, Những đảng viên chân chính thường chiếm tỷ lệ nhỏ, 2. Những người thực hiện, chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng như cái máy (chiếm khoảng hơn 96 %); 3. Những kẻ cơ hội , xu thời, nịnh bợ (phần lớn trong bộ máy công quyền) ; 4. Những người im lặng (phần lớn họ là những người có hiểu biết nhưng sợ bị trù dập nên họ giữ im lặng, không dám phát biểu).
N. I. Rưscôp, nguyên ủy  viên Bộ Chính trị ĐCS Liên Xô, Thủ tướng Liên Xô (1985 - 1990) cho rằng: Tồn tại hai Đảng trong Đảng Cộng sản Liên Xô: Một đảng của hàng chục triệu đảng viên bình thường và một đảng của những quan chức chóp bu trong hệ thống đảng, nhà nước Liên Xô . Những đảng viên nắm quyền lực ở cấp cao ngày càng xa rời, cách biệt với hàng chục triệu đảng viên bình thường. Số đảng viên này, về thực chất, không đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp, của dân tộc, mà chỉ tìm mọi cách bám giữ quyền lực vì lợi ích cá nhân của họ.
Do những bệnh tật kể trên, đại bộ phận quần chúng nhân dân giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng CSLX, thờ ơ đối với những vấn đề chính trị trọng đại của đất nước, thậm chí có một số trông chờ, mong muốn có sự thay đổi. Chính đó là trạng thái trong Đảng Cộng sản Liên Xô và trong xã hội Liên Xô vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đêm trước của sự sụp đổ, tan rã (1989 - 1991).
3. Thử bàn về các nguyên nhân.
Về hoạt động chống phá của Mỹ và các thế lực chống cộng quốc tế thì rõ ràng, có đầy đủ thông tin, tư liệu để khẳng định. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác.
Mặt trái của cơ chế thị trường cũng là một nguyên nhân. Nhưng nếu quá nhấn mạnh, cường điệu mặt trái của cơ chế thị trường thì khó lòng giải thích được những thoái hoá của Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ Mao Trạch Đông, Xtalin và Brê-giơ-nhép nép lãnh đạo, vì thời Mao, thời Xtalin, thời Brê-giơ-nhép chưa có kinh tế thị trường.
Nghiên cứu kỹ quá trình thoái hoá của Đảng Cộng sản Liên Xô, kể cả những đảng cầm quyền rồi mất quyền và những đảng hiện nay còn cầm quyền, chúng tôi xin nêu ra hai vấn đề để trao đổi, thảo luận.
- Một là, về mặt tổ chức, trong suốt quá trình tồn tại, phát triển của mình, Đảng Cộng sản Liên Xô chưa xây dựng được cơ chế hữu hiệu để đảm bảo dân chủ thực sự trong sinh hoạt Đảng. Đảng CSLX đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong suốt quá trình hoạt động. Theo chúng tôi, đây là điểm khởi thuỷ, nguồn gốc của mọi biểu hiện khác về sự thoái hoá của Đảng CSLX (quan liêu, tha hoá về tư tưởng chính trị, thoái hoá về đạo đức, lối sống, chia rẽ mất đoàn kết...). Ở đâu và khi nào trong sinh hoạt đảng thể hiện sục sôi dân chủ, thì đảng có sức sống mãnh liệt. Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Nga dưới thời lãnh đạo của Lênin là một ví dụ điển hình.
Xét đến cùng, do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng nên cơ quan lãnh đạo của Đảng CSLX thiếu thông tin nhiều mặt về một vấn đề, đặc biệt là những vấn đề hệ trọng quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Thiếu dân chủ cho nên trong sinh hoạt đảng thường là độc thoại một chiều từ những người lãnh đạo cao nhất, thiếu hẳn thông tin phản hồi từ dưới lên. Thiếu dân chủ, nên những đảng viên ưu tú, nhạy bén, sắc sảo, thông minh không có chỗ để thể hiện ý tưởng của mình. Trong một tổ chức như vậy, bộ tham mưu cao nhất không có đủ thông tin nhiều chiều, toàn diện, do đó những quyết định về đường lối, sách lược thường không phù hợp với thực tiễn, thậm chí trái ngược với quy luật, ngược với hiện thực khách quan. Phải chăng, đó là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến tình trạng nghị quyết, chỉ thị rất nhiều nhưng việc đưa vào cuộc sống không được bao nhiêu. Theo ngôn ngữ y học, thuốc rất nhiều nhưng không có loại đặc trị, nên bệnh tình sẽ ngày càng trầm trọng.
Dưới góc độ lý thuyết hệ thống, có thể xem một tổ chức đảng như một hệ thống. Để đảm bảo cho hệ thống đó tồn tại bền vững, nhất thiết phải có trao đổi thông tin. Nếu thiếu trao đổi thông tin (theo 2 chiều thuận - nghịch, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong) thì sớm muộn hệ thống đó sẽ bị đổ vỡ để chuyển sang một trạng thái khác. Thiếu dân chủ trong sinh hoạt đảng, tức là thiếu trao đổi thông tin (trên xuống, dưới lên, trong đảng ra ngoài xã hội và ngược lại). Nếu trạng thái này kéo dài thì sẽ sinh ra thoái hóa của hệ thống đảng dưới nhiều biểu hiện như đã trình bày ở trên. Nếu không khắc phục được, để kéo dài, thì sớm muộn sự thoái hóa của một số đảng viên ở vị trí chủ chốt sẽ dẫn đến sự thoái hóa của đảng cầm quyền.
Hãy trở lại với Đảng Cộng sản Liên Xô để chúng ta hiểu rõ vấn đề dân chủ trong đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng được ghi rõ trong Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Bôn - sê - vích Nga từ năm 1903. Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô, qua nhiều lần thay đổi, vẫn là một văn bản quy định rất chặt chẽ, rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của đảng viên. Tại sao không ngăn chặn được những biến thái lệch lạc của Xta-lin, Brê-giơ-nhép, không ngăn chặn được hành vi lạm quyền, lộng quyền và phản bội của Góoc-ba-chốp? Cớ sao hàng chục triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô không có phản ứng gì khi Góoc-ba-chốp tuyên bố giải tán Đảng? Không thể nói cách khác, thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng và không có cơ chế giám sát quyền lực hữu hiệu, đặc biệt là thiếu hẳn cơ chế giám sát hoạt động của Tổng bí thư, của Bộ Chính trị là nguồn gốc sinh ra tệ lạm quyền, lộng quyền của những người lãnh đạo Đảng CSLX, làm cho đảng có một xác thịt to lớn (hàng chục triệu đảng viên), nhưng không có hồn, không có sức sống.
Thực tế xác nhận: Đảng CSLX trước đây không có lực lượng nào và không có cơ chế nào thực hiện giám sát và phản biện hoạt động của Tổng Bí thư, của Bộ Chính trị. Một nhóm nhỏ này, có khi chỉ dăm ba người nắm quyền lực tối cao, tự tung tự tác, ai có ý kiến khác sẽ bị họ chụp cho cái mũ là "chống đối", "là phản động", "là chống Đảng", thậm chí là "phản bội Tổ quốc"...
Cũng do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng mà các thành viên trong tổ chức có quan hệ với nhau rất lỏng lẻo, đảng mất hết sức sống, tính chiến đấu chỉ còn lại trong nghị quyết.
Do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng, mà một thời gian dài trước khi sụp đổ, tan rã, trong Đảng Cộng sản Liên Xô cũng như trong các Đảng Cộng sản ở các nước XHCN ở Đông Âu đã lặng lẽ diễn ra một quá trình phân hóa trong đảng, cả trong sinh hoạt Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Các đảng viên nghĩ một đằng phát biểu một đằng, không dám thể hiện chính kiến của mình ngay cả đối với vấn đề quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Trong cuộc họp người ta nói một đằng, mà phần lớn không thật lòng, ngoài cuộc họp người ta nói riêng với nhau lại khác, cấp trên áp đặt, cấp dưới điều chỉnh hành  vi cho phù hợp với cấp trên, mọi thông tin chính thức từ trên xuống và đặc biệt là từ dưới lên đều thiếu chân thật. Chưa đến một tháng trước khi tan rã, mất quyền lãnh đạo, những người lãnh đạo của một Đảng Cộng sản cầm quyền vẫn khẳng định sức chiến đấu của đảng mình, vẫn tuyên bố tuyệt đại bộ phận nhân dân còn ơn đảng, theo đảng, tin đảng và tuyệt đại đa số đảng viên là tin cậy, trung thành...!
Cũng do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng mà Đảng CSLX đã mắc sai lầm trong việc đánh giá cán bộ, đào tạo cán bộ, tuyển chọn và bố trí, sử dụng cán bộ vào vị trí chủ chốt trong Đảng, trong Nhà nước. Thiếu dân chủ là bà đỡ của thói nịnh bợ, luồn lọt, là điều kiện tốt cho chủ nghĩa thực dụng, cơ hội vị kỷ phát sinh tồn tại trong đảng, nhất là ở các cơ quan lãnh đạo cấp cao. Ai cũng biết cán bộ quyết định tất cả, và thực tiễn cũng xác nhận điều đó. Nhưng Đảng CSLX phạm sai lầm trong công tác sử dụng, bố trí cán bộ.
- Hai là, sự thoái hóa của Đảng CSLX là do các đảng viên, trước hết và chủ yếu là các đảng viên trước hết giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt ở cấp cao, chưa đủ độ chín muồi về mặt chính trị, chưa thực sự giác ngộ về giai cấp, về lý tưởng cộng sản. Khi kết nạp mọi đảng viên đều tuyên thệ về sự giác ngộ lý tưởng cộng sản của mình, hứa hẹn một lòng một dạ phấn đấu vì  lợi ích  của giai cấp, của những người lao động, nguyện trung thành với lý tưởng cộng sản... Nhưng khi đã vào đảng rồi thì họ thiếu rèn luyện và trong hoạt động thực tiễn, họ dần dần xa rời những lời tuyên thệ, hứa hẹn của mình. Đó là quá trình tha hóa của đảng viên, và kéo theo sự tha hóa của đảng. Tất nhiên, không phải mọi đảng viên đều diễn ra quá trình tha hóa đó.
Tất nhiên, còn nhiều vấn đề thuộc về nguyên nhân và điều kiện làm cho Đảng CSLX thoái hóa, Liên Xô tan rã. Ở đây chúng tôi không có điều kiện để trình bày tất cả, chỉ nêu ra những nhân tố quan trọng nhất, cơ bản nhất. Có thể xem nó là nguồn gốc của mọi thoái hóa của Đảng cầm quyền nói chung, của Đảng CSLX nói riêng.
*
*          *
Năm 2013, nhân dân Nga nói riêng, nhân dân 15 nước Cộng hòa thuộc Liên Xô (cũ) cũng như nhân dân Việt Nam và nhân loại tiến bộ nói chung, kỷ niệm 96 năm Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại (7/11/1917 - 7/11/2013). Chủ nghĩa xã hội đã tồn tại 74 năm tại nước Nga (1917 - 1991) và Liên Xô tan rã đã 22 năm (1991 - 2013). Người Nga nói riêng, nhân loại tiến bộ nói chung, còn phải tiếp tục nghiên cứu lý giải một cách cặn kẽ và có sức thuyết phục về những vấn đề liên quan đến sự tan rã của Liên Xô.
Sau chừng ấy thời gian, cho phép chúng ta khái quát ba vấn đề lớn sau:
- Một là, từ Cách mạng tháng Mười Nga đến khi Liên Xô tan rã (1917 - 1991) có thể phân kỳ như sau: 1. Thế hệ cách mạng đầu tiên do Lênin lãnh đạo đã đưa nước Nga Xô viết non trẻ vượt qua thử thách "ngàn cân treo sợi tóc" 1917 - 1920 để tồn tại và phát triển; 2. Thế hệ lãnh đạo thứ hai do Stalin lãnh đạo đã tiêu diệt Chủ nghĩa phát xít Đức - Nhật - Ý và đưa Liên Xô trở thành cường quốc thế giới; 3; Thế hệ lãnh đạo thứ ba ở Liên Xô từ Khơrusốp đến Bregiơnép là những người đã tham gia Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (1941 - 1945) và họ đã đưa Liên Xô trở thành cường quốc hàng đầu thế giới; 4. Thế hệ lãnh đạo thứ tư với hạt nhân là Góocbachop, là những người sinh ra trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ đại và chưa nếm trải thử thách của chiến tranh.
Chính thế hệ lãnh đạo thứ tư đã làm cho Đảng CSLX mất quyền lãnh đạo, làm cho Liên Xô tan rã.
- Hai là, thế hệ lãnh đạo thứ tư ở Liên Xô với Góocbachop là hạt nhân đã nắm trong tay mọi quyền lực và mọi nguồn lực của đất nước, nhưng họ không thuận theo lòng dân, không được dân ủng hộ nên đánh mất toàn bộ cơ đồ sự nghiệp và bị lịch sử vứt vào sọt rác.
Hóa ra, việc thâu tóm được mọi quyền lực và mọi nguồn lực quốc gia không khó bằng nắm được lòng dân. Những ai không nắm được lòng dân thì họ đã thất bại ngay khi đang nắm quyền lực.
- Ba là, các đảng cộng sản đang cầm quyền và chưa cầm quyền cần rút ra bài học từ thất bại của Đảng CSLX, từ sự tan rã của Liên Xô để vượt qua chính mình vì hạnh phúc của nhân dân và sự hưng thịnh của đất nước.
Sai lầm và khuyết điểm rất khó tránh, nhưng không thực sự nguy hiểm. Điều nguy hiểm nhất là không dám thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là không có quyết tâm chính trị để tránh sai lầm, khắc phục khuyết điểm.
Thiếu tướng Lê Văn Cương (Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược Bộ Công an)
TheoBáo Nghệ An. Tên bài do Tuần Việt Nam đặt lại.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Để hiểu thêm về các nhà "Ngại cảm":

Giá trị của ngoại cảm là giúp người vô thần xác định được chết không phải là hết
Là người quan tâm đến ngoại cảm, thượng toạ – tiến sĩ Thích Nhật Từ, phó viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM đã chia sẻ với phóng viên báo Sài Gòn TT về những lùm xùm thời gian qua liên quan đến ngoại cảm, dưới góc nhìn của Phật giáo.

Thượng toạ Thích Nhật Từ nói: “Ngoại cảm không phải là chuyện mới vì cách đây nhiều chục năm nó đã được nói đến ở Liên Xô cũ. Tôi cho rằng ngoại cảm là một năng lực có thật, nhưng lạm dụng nó mới là điều đáng nói”.

- Như thế nào là lạm dụng, thưa thượng toạ?

Nước ta trải qua một thời gian dài chiến tranh, nay là thời bình, nên nhiều người dân có nhu cầu tìm kiếm người thân của mình bị mất tích hoặc chết mất xác. Thời gian qua, theo tôi, một vài nhà ngoại cảm đã làm được chuyện này. Thế nhưng, điều nhà ngoại cảm làm và công việc nhà ngoại cảm làm đôi khi lại không ăn khớp với nhau.

Thí dụ một nhà ngoại cảm chỉ tìm được một, hai hài cốt có kiểm chứng bằng ADN, nhưng sau đó lại thổi phồng lên tìm được 1.000 hài cốt là điều không chấp nhận được. Cũng có không ít người chẳng có năng lực ngoại cảm gì, nhưng lại tự phong mình là nhà ngoại cảm để lừa đảo, lợi dụng người khác và phục vụ lợi ích riêng tư.

- Thượng toạ từng nói, nhà ngoại cảm cần đến liêm khiết tri thức. Điều này được hiểu ra sao?
Liêm khiết tri thức nghĩa là nhà ngoại cảm cần đánh giá nghiêm túc năng lực ngoại cảm của mình có còn hay không. Thí dụ mười năm trước họ có năng lực kiệt xuất, làm được chuyện này hay chuyện kia, có kiểm chứng bằng ADN hẳn hoi, nhưng không có nghĩa là bây giờ năng lực đó vẫn còn. Thực tế nhiều nhà ngoại cảm không thừa nhận chuyện này, cứ tiếp tục sống với hào quang cũ, dẫn đến sai lệch trong tìm kiếm: hài cốt trâu bò thì cho đó là hài cốt người, hài cốt người A lại nói của người B, đó là không liêm khiết tri thức.

Trong thể thao hay nghệ thuật, vận động viên hoặc diễn viên đến một tuổi nào đó sẽ không còn năng lực thi đấu hay biểu diễn. Trong lĩnh vực ngoại cảm, theo tôi, sự đào thải còn khắc nghiệt hơn nhiều. Có người chỉ có năng lực ngoại cảm vài ba tháng, 1 – 2 năm, hiếm ai quá năm năm... Nếu cứ cố tiếp tục, điều đó làm cho họ mất uy tín, những đóng góp có thể có thật của họ trong quá khứ bây giờ bị đặt lại vấn đề và hiểu sai.

- Được biết, thượng toạ từng tổ chức hội thảo về ngoại cảm, điều gì thượng toạ rút ra được từ hội thảo này?

Tôi từng hai lần làm trưởng ban tổ chức hội thảo về ngoại cảm tại Quân khu 7 – TP.HCM. Tại đó, tôi có mời một số nhà ngoại cảm đến thuyết trình và bản thân cũng có thuyết trình chung với họ. Có thể họ chia sẻ rất hay về những trải nghiệm ngoại cảm của mình trong quá khứ, nhưng điều này hoàn toàn khác với năng lực hiện tại của họ.

Trong lần hội thảo ngoại cảm đầu tiên, tôi cũng nhờ vài nhà ngoại cảm tên tuổi tìm người thân của mình, từng chết đói trong trận đói 1945 tại tỉnh Thái Bình, mà đến giờ gia đình tôi không có tông tích gì. Thế nhưng khi đó, và mãi đến tận bây giờ, những nhà ngoại cảm đó cũng không tìm ra được. Từ đó, tôi mới thấy những lời đồn đãi về nhà ngoại cảm bao giờ cũng được khuếch trương hơn năng lực thật sự mà họ có.

- Làm thế nào phân biệt được đâu là “nhà ngoại cảm” chân chính và không chân chính?

Thường thì thông qua một sự kiện, nếu nhà ngoại cảm đưa ra được những thông tin chính xác, xem như nhà ngoại cảm đó còn năng lực và chân chính; còn nếu nhà ngoại cảm không đưa được thông tin chính xác, người dân đừng nên dại dột nghe họ, dù cho họ có giải thích cách này hay cách kia. 


Cũng có thể phân biệt thông qua thái độ của nhà ngoại cảm. Chẳng hạn họ vẽ sơ đồ về một địa điểm cách xa và nói ở đó có hiện tượng này, cảnh vật kia, nhưng khi ta mời họ đi theo, họ lại từ chối. Trường hợp này đúng là nhà ngoại cảm “dỏm”. Bởi nếu anh vẽ được sơ đồ, không có lý gì anh không dám đến tận nơi và lại kêu gia chủ… đi một mình!

- Khoa học chưa giải thích được ngoại cảm, vậy tôn giáo giải thích như thế nào?

Tôi không biết tôn giáo khác giải thích như thế nào, nhưng Phật giáo có đề cập đến năm loại siêu giác quan. Những chuyện bàn luận về ngoại cảm ở nước ta thường chỉ tập trung vào siêu giác quan thiên nhãn thông (hay thiên nhãn minh) – nhìn nhận và dự báo chính xác về thời tiết, thiên tai, tình huống, sự kiện sẽ xảy ra, và thiên nhĩ thông – nghe được các loại âm thanh khác nhau với tần số khác nhau, như âm thanh của người chết chưa siêu trong thời gian ngắn, âm thanh của động vật mà người thường nghe không được.

- Khi có người thân bị mất tích hoặc chết mất xác, người ta muốn phải tìm kiếm bằng mọi giá. Phật giáo nhìn việc này như thế nào?

Cái chết, theo đạo Phật, là một quy luật, vì thế chúng ta hãy chấp nhận nó như một sự thật và đừng nên quá đau buồn. Phật giáo cho rằng tinh hoa của con người không nằm ở thể xác mà nằm ở cái tâm. Khi cái tâm thoát khỏi cơ thể để tái tạo, có mặt trong một bào thai mới, với một mầm sống mới, thì chúng ta vẫn có thể gặp lại nhau bằng cách này hay cách kia. Đạo Phật không quan niệm việc tìm ra hài cốt là không quan trọng, nếu được thì cũng tốt, nhưng điều quan trọng là sau khi chết người sống làm một lễ tống táng đơn giản và ý nghĩa để nhắc nhở người sống nhớ đến đóng góp của người quá cố.

Phật giáo dù là Nguyên thuỷ hay Đại thừa đều thừa nhận việc tái sanh, trong biên độ thời gian nhanh nhất một tích tắc và chậm nhất là 49 ngày. Vì thế không có chuyện một hương linh đã chết rồi mà còn nằm dưới lòng đất hay vất vưởng đâu đó trong quãng thời gian quá lâu, hơn cả 49 ngày. Nhà ngoại cảm nào đó nói tôi có thể nói chuyện được với một hương linh chết đã lâu, thì theo Phật giáo, đó là điều không có thật.

Ngoại cảm được cho là có thể giúp xác định được hài cốt người chết, nhưng nếu nhìn rộng ra, giá trị ngoại cảm không đơn thuần như thế?

Theo tôi, giá trị của ngoại cảm là giúp người vô thần xác định được chết không phải là hết, từ đó giúp họ thiết lập được trách nhiệm về những hành vi của mình trong cuộc sống. 

Nếu kết cục của mọi con người, thiện và bất thiện, đều như nhau thì có lẽ người ta không cần sống thiện để làm gì. Sự chứng minh rằng chết không phải là hết sẽ giúp người không tin vào kiếp sau, phải đặt lại vấn đề sống có trách nhiệm, bằng không họ phải gánh lấy hậu quả hoặc tạo hậu quả tiêu cực cho người khác từ những gì họ đang làm.

Thực hiện: Bình Yên - Thu Nguyễn (theo Sài Gòn tiếp thị)

Phần nhận xét hiển thị trên trang