Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Suy ngẫm về thời cuộc 2

Khoảng một thập kỷ nay TQ không còn thời kỳ tăng trưởng 2 con số nữa.
Với mục tiêu “nước giầu quân mạnh”, Đại hội 18 của ĐCSTQ đã đề ra nhiều cải cách quyết liệt về cơ cấu kinh tế (đặc biệt là cơ cấu đầu tư) và hệ điều hành (nhất là của hệ thống tài chính – tiền tệ, song vẫn chưa tự do hóa đồng Nhân dân tệ, để bảo đảm khả năng kiểm soát của nhà nước và giữ lợi thế trong xuất khẩu). Về đối ngoai, Đại hội 18 nêu ra đòi hỏi thiết lập quan hệ nước lớn kiểu mới – hàm ý không thừa nhận trật tự quốc tế một siêu đa cường… (Dương Danh Dy).
Trong những quyết định của Đại hội 18 về kinh tế, quan trọng nhất là (a) chính sách đổi mới cơ cấu kinh tế để tăng cường sức mua nội địa, (b) kế hoạch từ nay đến năm 2030 đưa 250 triệu dân vào sống trong đô thị (chiến lược đô thị hóa). Đây là 2 quyết định đầy tham vọng, theo đuổi mục đích duy trì tăng trưởng kinh tế 6 – 7%/năm trở lên, nhằm thực hiện 3 mục tiêu lớn: (a) duy trì ổn định ở mức có thể của nội trị Trung Quốc – bao gồm cả vấn đề kiềm chế thất nghiệp, (b) duy trì tính chính danh vai trò lãnh đạo của ĐCSTQ, (c)duy trì tiến độ trở thành siêu cường vào khoảng giữa thế kỷ. Các chuyên gia kinh tế đã phân tích: tăng trưởng kinh tế sẽ đạt tốc độ dưới 5%/năm (nhưng lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố sẽ phất đấu đạt 6 – 7%/năm)…
Không có một mục tiêu hay một kế hoạch kinh tế nào Đại hội 18 đề ra là dễ khả thi, không có một vấn nạn kinh tế nào của Trung Quốc là dễ giải quyết.
Ví dụ 1: Quyết định đẩy mạnh đô thị hóa với cái đích từ nay đến năm 2030 đưa 250 triệu dân nông thôn vào thành phố có thể được xem như một nỗ lực quyết liệt “sống hay là chết!?”. Có lẽ đây là gói “kích cầu” vỹ đại nhất trong lịch sử kinh tế thế giới. Quyết định táo bạo này có thể đúng, với nghĩa công nghiệp hóa phải gắn liền với đô thị hóa. Quyết định này được đưa ra giữa lúc nơi này nơi khác bong bóng thị trường bất động sản đã nổ tung, nợ công của Trung Quốc vượt quá 30 GDP (một số nghiên cứu độc lập cho là khoảng 60 GDP)… Gần đây Kiểm toán Trung Quốc đã công bố riêng nợ công của các chính quyền địa phương hiện nay đã vượt 1700 tỷ USD – tương đương với 29% GDP, chủ yếu do đầu cơ thua lỗ vào thị trường bất động sản... Vậy phải đặt ra câu hỏi: Thực hiện gói kích cầu vỹ đại này bằng con đường nào? cái giá phải trả?.. Phải chăng với quyết định đô thị hóa này, Trung Quốc thời Tập Cẩm Bình - Lý Khắc Cường đã lựa chọn phương châm “phải liều chết tiến lên phía trước”? Nếu sự thật là như thế, phải nói đây là một quyết định đáng kính nể và đáng gờm. Chắc bây giờ nhiều người còn nhớ cách Trung Quốc thời Mao Trạch Đông đã chủ trương làm gang thép vượt thế giới. Nhìn lại, phải thừa nhận việc thực hiện giấc mơ gang thép hồi ấy là một trò đùa chính trị cao thủ. Còn kế hoạch đô thị hóa khổng lồ này? [22].
Ví dụ 2: Vấn nạn ô nhiễm môi trường không thể khắc phục, cả nước hầu như không còn một con sông nào sạch, nhiều đô thị lớn không khí như sương mù... Song Đại hội 18 ưu tiên duy trì tốc độ tăng trưởng cao để giữ ổn định và để không chùn bước lên siêu cường. ĐCSTQ coi đây mới là điều sống còn, chứ không phải vấn đề môi trường!
Hai ví dụ vừa nêu trên một lần nữa cho thấy:
(a) Trung Quốc là một thế giới cho chính mình, nên có thể có những quyết định mà ở các nước khác là không thể;
(b) “mục tiêu biện minh cho biện pháp”, và “trả giá cục bộ để thực hiện mục tiêu toàn cục” là cách hành xử nhất quán của lãnh đạo Trung Quốc cho mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi vấn đề;
Vân vân…
Tìm hiểu Trung Quốc, 2 điều không nên bỏ qua là: (1)Trung Quốc trả giá đến đâu và như thế nào cho sự phát triển với những quyết định kiểu liều chết tiến lên phía trước của nó? (2) Toàn thế giới còn lại phải trả giá theo đến đâu và như thế nào?
Các nước phải tính toán như vậy, bởi vì hầu như chắc chắn Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới vào giữa thế kỷ này, sẽ tác động đến cả thế giới.
Tác động đối với thế giới về địa kinh tế: Có thể nói sự phát triển có một không hai trên thế giới của Trung Quốc trong những thập kỷ vừa qua là một trong những hiện tượng quan trọng nhất tác động vào kinh tế toàn cầu[23].
Trước hết Trung Quốc trở thành nước nhập khẩu lớn nhất thế giới về mọi nguyên liệu thiết yếu trong các nhóm kim loại, năng lượng, các vật liệu khác... Hiện tượng này diễn ra quyết liệt và bằng mọi giá hầu như ở mọi vùng nguyên liệu quan trọng trên thế giới, được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn tinh vi. Thực tế này khiến cho trong giới nghiên cứu xuất hiện các thuật ngữ như “chủ nghĩa thực dân mới kiểu Trung Quốc” (“chinese neo-colonialism”), “chủ nghĩa thực dân mới của quyền lực mềm” (neo-colonialism of soft power)… Phương thức thực hiện “chủ nghĩa thực dân mới” này là đầu tư, thương mại, viện trợ, lũng đoạn nước chủ nhà bằng mọi thủ đoạn tham nhũng… Không ít các chính khách tại một số nước ở châu Phi, châu Mỹ Latinh công khai ca ngợi: Viện trợ của Trung Quốc không xét nét chế độ chính trị độc tài hay tham nhũng của nước chủ nhà, không quan tâm nước chủ nhà có những vấn đề như đàn áp sắc tộc, phạm tội hủy diệt, hủy hoại môi trường, thuộc phe phái nào, vân vân.., không đòi hỏi những điều kiện kèm theo về dân chủ, nhân quyền, bảo vệ môi trường, thực hiện công khai minh bạch… như các nước phương Tây thường coi là những tiêu chí để quyết định viện trợ...
Giới báo chí đã tổng kết thực tiễn hoạt động của Trung Quốc: cái gì trong làm ăn thông thường không đạt được thì mua, không mua được thì mua bằng nhiều tiền hơn nữa… “Chủ nghĩa thực dân mới cực đoan”, “chủ nghĩa thực dân con rồng” (R. Kaplan, P. Navarro…) không có các chính quyền thực dân mới của mình tại bất kỳ quốc gia đối tác nào, nhưng có ảnh hưởng của tiền và quyền lực mềm, có không hiếm các đội quân lao động người Trung Quốc ở thành làng, thành vùng tại những vùng nguyên liệu có khai trường lớn – trước hết ở châu Phi, một số nơi ở châu Mỹ Latinh, Trung Á, Đông Nam Á... Sự xuất hiện những đốm dân cư Trung Quốc như thế gây nhiều hậu quả cho các nước chủ nhà (nội trị bị xáo trộn, xuất hiện những xung đột xã hội mới, thất nghiệp của nước chủ nhà gia tăng, những lũng đoạn về chính trị đối ngoại, tại một vài nơi ở châu Phi đã bắt đầu ngán lao động Trung Quốc…)[24]… Chưa nói đến việc Trung Quốc hàng năm thải ra khối lượng CO2 lớn nhất thế giới, nhưng đang thoái thác nghĩa vụ của mình… Ngay tại Nam Mỹ, sân sau của siêu cường Mỹ, ảnh hưởng của Trung Quốc khiến tâm lý chống Mỹ tăng lên rõ rệt tại những nước “cánh tả”... Trong những nỗ lực này còn phải kể đến việc Trung Quốc đang ra sức khai thác diễn đàn BRICS, diễn đàn Bác Ngao, vân vân…[25]
Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới các mặt hàng xưa nay vốn là các mặt hàng truyền thống của các nước đang phát triển, bóp chết nhiều ngành công nghiệp của những nước này. Song hàng xuất khẩu của Trung Quốc cũng xóa sổ không ít thành thị hay các trung tâm sản xuất nhiều mặt hàng truyền thống khác của hầu hết các nước phát triển – kể cả ở Mỹ[26].
Từ vài thập kỷ nay, việc các nước phát triển hàng năm nhập một khối lượng ngày càng lớn hàng công nghiệp tiêu dùng từ Trung Quốc và việc những nước này đẩy mạnh việc đưa sang Trung Quốc sản xuất nhiều lọai mặt hàng để tận dụng chi phí sản xuất thấp (hiện tượng “outsourcing” sang Trung Quốc), tất cả dần dần đã và đang tạo ra cho những nước phát triển này sự mất cân đối mới trong cơ cấu kinh tế và trong cấu trúc lực lượng lao động… Sự phụ thuộc này lớn dần lên đến mức nền kinh tế các nước phát triển này không thể sống thiếu các hàng công nghiệp tiêu dùng giá rẻ nhập từ Trung Quốc; chưa nói đến Trung Quốc đồng thời là thị trường xuất khẩu không thể thiếu của các nước phát triển. Giới nghiên cứu thừa nhận, nếu kinh tế Trung Quốc sóng gió, kinh tế nhiều nước phát triển sẽ lao đao theo. Những năm gần đây tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm lại, trong đó có nguyên nhân xuất khẩu của Trung Quốc sang các nước phát triển giảm sút. Toàn cầu hóa là như vậy.
Trung Quốc thuộc loại siêu giỏi trong viêc vận dụng những thực tiễn (practices) của chủ nghĩa con buôn (mercantilism)[27], vi phạm nhiều tiêu chí quan trọng của WTO như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, các tiêu chuẩn về chất lượng, các tiêu chuẩn về lao động (trong đó có vấn đề cấm lao động là trẻ em, lao động là tù nhân), những quy định về về chống bán phá giá, các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, vân vân… Ngoài ra Trung Quốc còn có những công cụ lợi hại khác như điều phối các dòng tiền để lũng đoạn, kiểm soát chặt chẽ tỷ giá ngoại tệ có lợi cho xuất khẩu của Trung Quốc…
Phản ứng chống lại của Mỹ và các nước phương Tây nhìn chung chưa đạt hiệu quả mong muốn.
Đã thế, những quốc gia này đang quá bận rộn với nhiều vấn đề của chính mình, như phải cấu trúc lại kinh tế, xử lý vấn đề nợ công quá nhạy cảm, tình trạng bấp bênh của đồng Euro, tăng trưởng kinh tế sụt giảm… Trung Quốc đang ra sức khai thác những khó khăn này để phân hóa nội bộ phương Tây. Gần đây, trong chuyến thủ tướng Đức Merkel chính thức thăm Trung Quốc 26-05-2013, phía Trung Quốc nói thẳng: Trung Quốc - nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, và Đức - nhân tố chính trong nỗ lực giải quyết khủng hoảng nợ, cần phải phối hợp để đối phó với bão nợ công châu Âu…
Về địa chính trị: Thời kỳ “trỗi dậy hòa bình, giấu mình chờ thời” đã lùi lại phía sau, từ hơn một thập kỷ nay siêu cường đang lên Trung Quốc tận dụng mọi lợi thế và ảnh hưởng kinh tế của mình mở rộng ảnh hưởng chính trị tại các châu lục và trong những vấn đề lớn của thế giới, song khu vực trọng tâm số 1 là Biển Đông.
Hiện tượng bề ngoài nổi bật và dễ nhận biết nhất là: Bước sang thế kỷ 21, hoạt động quân sự và chính trị của Trung Quốc có tính uy hiếp và lấn chiếm trên toàn Biển Đông gia tăng rõ rệt về tần số vụ việc cũng như về mức độ nghiêm trọng của các hoạt động. Sang thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, những hoạt động này lại càng ráo riết hơn, trước hết nhằm vào Philippines (vùng Scarborough / Hoàng Nham) và Nhật (đảo Senkaku / Điếu Ngư). Trong hội đàm kinh tế - chiến lược vòng 5, Tập Cẩm Bình nói thẳng với Obama: Trung Quốc coi Điếu Ngư / Senkaku là “lợi ích cốt lõi” (Kyodo 11-06-2013)[28].
Sự phản đối của Nhật và Philippines đã lên tới mức cao nhất về mặt chính trị và chính trị đối ngoại, đồng thời tuyên bố sẵn sàng đáp trả bằng các biện pháp quân sự nếu Trung Quốc sử dụng vũ lực. Đỉnh điểm cho đến nay trong phản ứng quyết liệt của Nhật là ban hành Sách trắng về quốc phòng và đang vận động trong nước cho thay đổi Hiến pháp để có những bước đi quyết liệt hơn.
Philippines không thể chấp nhận lập trường bất di bất dịch của Trung Quốc là “thừa nhận chủ quyền thuộc Trung Quốc, gác tranh chấp, cùng khai thác”. Yêu sách này của Trung Quốc có nghĩa là: Cái gì Trung Quốc đã chiếm được trên Biển Đông thì là của Trung Quốc; cái gì Trung Quốc chưa chiếm được trên Biển Đông thì trước hết phải thừa nhận là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, rồi gác tranh chấp và cùng khai thác! Vì tiềm lực mọi mặt đều yếu, nên Philippines một mặt kiên quyết đưa vấn đề tranh chấp ra tòa án quốc tế, mặt khác xúc tiến việc để Mỹ có mặt trở lại về quân sự trên lãnh thổ của mình để tăng cường quốc phòng.
Các hoạt động của Trung Quốc uy hiếp hay xâm phạm chủ quyền và lãnh hải Việt Nam không hề giảm so với thập kỷ trước. Tuy cách tiến hành không căng thẳng về mặt quân sự như đã áp dụng đối với Philippines và Nhật, song tính chất nguy hiểm trong những hoạt động của Trung Quốc tiếp tục leo thang nghiêm trọng, gắn với những tính toán và hoạt động chính trị thâm độc hơn nhiều – vì Trung Quốc có nhiều điều kiện can thiệp vào nội bộ Việt Nam.
Đặc biệt nghiêm trọng trong những hoạt động bành trướng không cần che giấu là việc lập thành phố Tam Sa tại Hoàng Sa với tính chất là một đơn vị hành chính hoàn chỉnh của Trung Quốc (26-06-2012, trong đó có việc cấp chứng minh thư của thành phố Tam Sa cho cư dân), lập căn cứ quân đồn trú thường trực ở đây, in bản đồ Hoàng Sa và Trường Sa vào hộ chiếu của Trung Quốc, tiếp tục khẳng định “đường lưỡi bò”[29], cản phá quyết liệt hợp tác khai thác dầu khí của Việt Nam với nước ngoài, ngang nhiên mời thầu nước ngoài các lô dầu khí thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam, v…v… Hàng năm Trung Quốc lặp đi lăp lại việc áp đặt lệnh cấm đánh cá, việc đưa hàng trăm tầu cá dưới sự yểm trợ của các tầu hải giám và tầu ngư chính xâm phạm vùng biển nước ta - có lúc vào sâu trong vùng lãnh hải của ta cách bờ biển chỉ 30 - 50 hải lý (06-2012)[30]…
Đầu năm nay Trung Quốc thành lập xong hạm đội tuần giám đảm nhiệm việc tuần tra thường xuyên toàn bộ Biển Đông, bao gồm 11 đội tầu chiến với tổng số 16000 hải quân.
Nhìn lại, toàn bộ hoạt động lấn chiếm của Trung Quốc trên Biển Đông là một quá trình leo thang liên tục, bắt đầu từ các đợt đánh chiếm các đảo và bãi của Việt Nam ở Hoàng Sa 1956 và 1974, đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi ở Trường Sa của Việt Nam năm 1988, đồng thời ngày càng ráo riết đòi thực hiện “đường lưỡi bò 9 vạch”; năm 1995 Trung Quốc đánh chiếm đảo Vành Khăn (Mischief Reef), từ 2 năm nay đẩy mạnh thực hiện các hoạt đông quân sự để kiểm soát bãi ngầm Scarborough / Hoàng Nham và bãi Cỏ Mây / Second Thomas Shoal. Đồng thời các hoạt động ngoại giao và quân sự của Trung Quốc nhằm vào Senkaku / Điếu Ngư ở Biển Hoa Đông ngày càng dồn dập.
Nhìn lại xa hơn nữa, đáng chú ý là: Tất cả các cuộc chiến tranh đã xảy ra với các nước láng giềng cho đến nay đều do phía Trung Quốc chủ động gây chiến.
Đó là: “cuộc kháng chiến chống Mỹ viện Triều” 1950 – 1953, cuộc chiến tranh biên giới Trung - Ấn 1962, cuộc chiến tranh biên giới Trung – Xô 1969, cuộc chiến tranh biên giới Trung - Việt 02-1979 rất đẫm máu (“Dậy cho tiểu bá Việt Nam bài học!”, tiếp theo là các hoạt động bắn phá và lấn chiếm biên giới Việt Nam kéo dài liên tục đến 1989 mới chính thức chấm dứt; trước đó còn phải kể đến việc Trung Quốc là cha đẻ của chiến tranh Khme đỏ chống Việt Nam), rồi đến các hoạt động quân sự đánh chiếm tiếp các đảo trên Biển Đông như đã nêu trên… Đương nhiên có thể sẽ có lời biện hộ: Có cường quốc nào mà tay không vấy máu để mở rộng quyền lực và phạm vi ảnh hưởng của mình?
Còn một vấn đề nữa: Nhìn riêng vào quan hệ Trung – Việt, còn phải lưu ý đến những bước đi đột xuất có tính chất thay đổi trận tuyến, xẩy ra do những diễn biến trong cục diện quốc tế.
Hai ví dụ điển hình là: (1)Khi Trung Quốc thấy cần xoay chuyển quan hệ Trung – Mỹ từ đối đầu sang hợp tác, ngay lập tức có Thông cáo chung Thượng Hải 1972 – giữa lúc Việt Nam đang ở thời kỳ quyết liệt nhất trong kháng chiến chống Mỹ; (2) vứt bỏ mọi mối quan hệ “xã hội chủ nghĩa” và quyết tiến hành cuộc chiến tranh 02-1972 tiến công biên giới phía Bắc Việt Nam, nhằm tạo ra bước ngoặt trong vấn đề Campuchia để thay đổi cục diện Đông Nam Á sau thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam và nâng cao vị thế cường quốc Trung Quốc…[31]
Phải thừa nhận thế và lực của Trung Quốc cùng với quan điểm thực dụng “mục tiêu biện minh cho biện pháp”, “trả giá cục bộ để thực hiện mục tiêu toàn cục”… đã cho phép Trung Quốc xoay trở tình thế từ cực nọ sang cực kia mau lẹ như vậy. Trong bàn cờ thế giới mọi thời đại, lúc nào cũng có những tình huống thuận lợi cho sự trở cờ như vậy đối với mọi quyền lực, các nước “bên thứ ba” luôn luôn đứng trước nguy cơ trở thành nạn nhân.
Một câu hỏi phải đặt ra trong nghiên cứu nhưng chưa có câu trả lời: Sự leo thang những hoạt động gây căng thẳng của Bắc Triều Tiên dưới thời Kim Chong Il trong quan hệ với Hàn Quốc, Nhật và Mỹ có liên quan gì với những bước đi vừa qua của Trung Quốc trên Biển Đông hay không?
Nếu nhìn những nỗ lực quân sự của Trung Quốc nêu trên trong khung khổ những động thái chính trị khác, - thời sự nhất hiện này là sự hiệp đồng Trung – Nga trong vấn đề Syri, thái độ thụ động hoặc thờ ơ của Trung Quốc trong vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên và Iran, những nỗ lực lôi kéo tạo liên kết Trung – Nga để chống lại Mỹ (nhất là qua các đợt tập trận chung giữa 2 nước gần đây), những nỗ lực kinh tế và chính trị thâm nhập vào sân sau của Mỹ ở Nam Mỹ, tăng cường quan hệ với Pakistan (nước có nhiều mối quan hệ thù địch với Ấn Độ).., ra sức lôi kéo các nước Trung Á (Kazakhstan, Turkmenistan, Uzbekistan, Afghanistan…) vì mọi lý do kinh tế (để thu hút tài nguyên) và chính trị (để tác động vào Nga và Mỹ…).., có thể hình dung được
- mối quan hệ qua lại với nhau giữa các hoạt động quân sự và các động thái kinh tế - chính trị của Trung Quốc,
- vai trò các động thái chính trị của Trung Quốc trong việc chuẩn bị, dọn đường, tổ chức triển khai… các hoạt động kinh tế, quân sự trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc,
- sử dụng rất nhiều tiểu sảo để đạt mục tiêu, nước lớn nhưng rất tiểu nhân...
Phản ứng trước mối nguy Trung Quốc, trong những tháng đầu năm nay Nga lần đầu tiên hiến hành tập trận trên bộ quy mô lớn chưa từng có ở vùng Viễn Đông - dưới sự thị sát của tổng thống Putin và huy động 100.000 quân tham gia. Cử chỉ này nhằm răn đe nguy cơ lấn chiếm của Trung Quốc tại vùng Novosibirsk và Syberia, mặc dù Nga cùng đi với Trung Quốc trong một số vấn đề địa kinh tế / địa chính trị quan trọng. Cũng trong những tháng đầu năm nay Ấn-độ điều thêm 50.000 quân tăng cường cho biên giới của mình tại các bang miền Tây Bangal cho đến tận điểm cao Kashmir; Nhật tăng cường khả năng hải quân và không quân bảo vệ Senkaku / Điếu Ngư và tuyên bố dứt khóat sẽ giáng trả nếu bị tấn công. Mỹ đã điều phối thêm lực lượng không quân trong vùng để hỗ trợ Nhật, song trên tất cả là Mỹ ráo riết triển khai chiến lược pivot to Asia & Pacific và TPP…
Xin đặc biệt lưu ý, so sánh lực lượng các mặt giữa Trung Quốc và thế giới bên ngoài, đồng thời quan sát các hoạt động của Trung Quốc, có thể kết luận: Hướng chính bành trướng khả thi nhất, hiện thực nhất, và cũng rõ nhất của siêu cường đang lên Trung Quốc là khu vực Đông Nam Á và Biển Đông. Bởi hai lẽ: (a) trên các hướng khác đã có các đối thủ lớn của Trung Quốc án ngữ, (b) Trung Quốc có lợi thế và sức mạnh áp đảo đối với các nước ASEAN.
Ý đồ lâu dài của hướng đi xuống phía Nam này là: Nếu thực hiện được kiểm soát Biển Đông, Trung Quốc sẽ có thể thao túng nghiêm trọng toàn bộ các nước ASEAN, tiến thêm những bước quyết định trong việc khuất phục Đài Loan, đẩy lùi chiến lược “Pivot to Asia & Pacific”. Theo đuổi ý đồ này, Trung Quốc còn muốn tạo ra cho mình khả năng uy hiếp trực tiếp tuyến hàng hải Malacca lưu chuyển khoảng 3/5 tổng lượng hàng hóa chuyên chở trên biển của cả thế giới, chưa kể đến nguồn tài nguyên phong phú của Biển Đông.
Tất cả đang hé lộ tính đối kháng quyết liệt (categorical antagony) của vấn đề Biển Đông đặt ra cho tất cả các nước hữu quan, trong đó Việt Nam là điểm rất nhạy cảm.
R. Kaplan và một số học giả Mỹ thừa nhận: Trên thực tế trong vòng hai thập kỷ nay, Trung Quốc đã thay đổi đáng kể cán cân quyền lực ở Đông Bán cầu, mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình rất bất lợi cho Mỹ, không ồn ào trong phương pháp thực hiện như các nước đế quốc trước đây vẫn làm, nhưng tinh vi và có hiệu quả lớn, phù hợp với thời đại toàn cầu hóa ngày nay…[32] Một số nhà nghiên cứu khác đánh giá: Chủ nghĩa thực dân con rồng khôn ngoan hơn và đã thành công vượt bậc so với chủ nghĩa thực dân cũ và mới… Con rồng ngày nay đang giương nanh vuốt của mình…
Đến đây có thể dễ dàng hình dung con rồng Trung Quốc đã và đang gây ra những biến động địa kinh tế và địa chính trị gì ở phạm vi toàn cầu như thế nào, gắn liền với sự bành trướng không mệt mỏi của quyền lực mềm của nó.
Hẳn không phải ngẫu nhiên khi mở đầu bài viết “Yếu tố địa lý của quyền lực Trung Quốc…”[33], R. Kaplan nhắc lại việc Halford Mackinder trong cuốn “The geographical Pivot of History” (1904) đã cảnh báo thế giới về mối nguy Trung Quốc[34], nhắc lại hy vọng của H. Mackinder cho rằng chỉ có lý tưởng của dân chủ mới có thể mang lại một thế giới tốt đẹp (H. Mackinder – trong cuốn “The democratic Ideals and Reality” - 1919).
V – Siêu cường đang lên Trung Quốc có thể với tới đâu?
Xin nhắc lại, trong giới nghiên cứu ở Mỹ và phương Tây có không ít ý kiến cho rằng không có khả năng bao vây hay ngăn chặn sự đi lên của Trung Quốc, sự việc Trung Quốc trở thành nền kinh tế có tổng lượng GDP lớn nhất thế giới vào khoảng giữa thế kỷ này sẽ là không thể đảo ngược.
Sự thật có thể sẽ như vậy, bởi vì từ nay đến giữa thế kỷ này hình như cũng khó xảy ra những biến động nào trong nội trị Trung Quốc đủ sức xoay chuyển được hướng phát triển của nước Trung Quốc hiện tại sang bất kỳ hướng nào khác (đổ vỡ? hay cải cách dân chủ?..).
Có 2 vấn đề lớn nên đặt ra để tìm hiểu:
(1) Kinh tế thế giới, đặc biệt là các nền kinh tế nhỏ yếu của các nước đang phát triển, sẽ phải đối mặt với những vấn đề gì, nếu con rồng Trung Quốc tiếp tục mô hình phát triển của nó như hiện nay trong vòng vài ba thập kỷ tới - với cái đói nguyên liệu không bao giờ thỏa mãn, với mọi thực tiễn của chủ nghĩa con buôn (mercantilism) và sự tác quái của quyền lực mềm như đang tiến hành.
(2) Cùng với khát vọng nhất quán ngoi lên siêu cường, việc ráo riết tăng cường chi tiêu quốc phòng và phát triển nhanh chóng lực lượng quân sự, nhất là ý đồ phát triển lực lượng hải quân nước xanh (blue marine – hải quân đại dương) đặt ra những hệ lụy gì cho cân bằng lực lượng tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và uy hiếp như thế nào các nước nhỏ bé hơn trong khu vực?
Dưới đây xin bàn từng vấn đề.
Về vấn đề (1) – vấn đề kinh tế
Dù có những nỗ lực cải tiến gì trong quản lý nền kinh tế quốc dân hay trong đổi mới cấu trúc kinh tế, về cơ bản và còn một thời gian dài kinh tế Trung Quốc tăng trưởng và phát triển chủ yếu vẫn nhờ vào (a) đầu tư và (b) nhờ lợi thế quy mô kinh tế (economics of scales)[35]. Hai đặc điểm này (a và b) cho phép Trung Quốc tiếp tục giành những lợi thế trên thị trường thế giới đối với nhiều quốc gia – kể cả các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. Vì thế, cạnh tranh kinh tế với Trung Quốc, nhất là cạnh tranh với các mặt hàng Trung Quốc sản xuất và có thế mạnh, vẫn tiếp tục là ác mộng đối với nhiều nước.
Hơn nữa, dù là Trung Quốc đang có những nỗ lực chiến lược nhằm đẩy mạnh hướng nội – bao gồm tăng sức mua và tiêu dùng nội địa, đẩy mạnh đô thị hóa (gói kích cầu đưa 250 triệu dân nông thôn vào đô thị).., nhưng với việc duy trì bằng mọi giá tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 – 6 hoặc 7 – 8% / năm, đòi hỏi của Trung Quốc về nguyên liệu, về năng lượng và về thị trường ngày càng lớn. Xin lưu ý, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn đồng nghĩa với suy sụp, trì trệ, thất nghiệp.., vì thế sẽ là thảm họa cho nội trị Trung Quốc cũng như đối với vai trò nắm quyền của ĐCSTQ. Nghĩa là, gần như một tất yếu, thực hiện tốc độ tăng trưởng cao là vấn đề sống còn của chế độ. Điều này cho thấy vì sao Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy mạnh mọi chính sách hiện hành đối với thế giới bên ngoài để thỏa mãn đòi hỏi bên trong. Hệ quả không tránh khỏi là sẽ gây ra những can thiệp hay lũng đoạn mới ở bên ngoài trên nhiều phương diện, những tranh chấp mới…
Những dẫn chứng nổi bật là: Tháng 7 vừa qua Trung Quốc đã khánh thành đường ống dẫn khí, và hiện nay đang tiếp tục hoàn thành đường ống dẫn dầu từ Trung Đông qua lãnh thổ Myanmar (cảng Kyaukpyu) vào Vân Nam, mặc dù quan hệ Myanmar – Trung Quốc hiện nay không xuôn xẻ gì; Trung Quốc đang đẩy mạnh hợp tác với Nga, Kazkhstan, Turkmenistan, Azecbaijan… đẩy nhanh các công trình dẫn dầu và khí từ Trung Đông và Trung Á, để hoặc dẫn dầu vào Trung Quốc, hoặc để cạnh tranh địa kinh tế và địa chính trị với phương Tây tại Trung Đông hay tại ngay Trung Á… Vân vân…
Tuy rằng lợi thế về giá lao động rẻ của Trung Quốc đang giảm dần, các chi phí sản xuất ở Trung Quốc ngày càng cao lên (do mức thu nhập tăng, chi phí về môi trường ngày càng đắt…), cả thế giới – bao gồm cả bản thân Trung Quốc – vẫn chưa giải được bài toán khó: Làm thế nào để phát triển kinh tế Trung Quốc trở thành một trong những động lực thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới?
Trong khi đó tình hình vẫn tiếp diễn là: Kinh tế Trung Quốc càng phát triển, trên thế giới càng xuất hiện nhiều vấn đề địa kinh tế và địa chính trị mới phức tạp hơn.
Rõ ràng những cam kết hay nỗ lực trong khung khổ đối thoại kinh tế & chiến lược Mỹ - Trung, những chế định trong khung khổ các thể chế hiện hành (WTO, WB, IMF, G2, G20…), quan điểm “win – win”… cho đến nay chưa giải quyết được bài toán khó này. TPP có lẽ càng không… Mong đợi một thiện chí của lẽ phải từ phía Trung Quốc sẽ chỉ là ảo tưởng nguy hiểm. Nguyên nhân hàng đầu có lẽ là bản chất chế độ chính trị và trình độ phát triển hiện nay của Trung Quốc vẫn đang ở thời kỳ chỉ dung nạp được sự phát triển như đang diễn ra. Nói cách khác, Trung Quốc vẫn đang ở giai đoạn phát triển mang cái tên chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc – đó là chủ nghĩa tư bản đặc sắc Trung Quốc trong chế độ toàn trị một đảng. Mô hình phát triển này còn là bất khả kháng trong một tương lai nhất định - cho đến khi nào đó Trung Quốc tự bên trong đủ sức tiến hành một cuộc cải cách sâu rộng thể chế chính trị. Thực tế này cùng với ảnh hưởng sâu xa của truyền thống văn hóa Đại Hán càng làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và thế giới bên ngoài.
Cũng xin lưu ý, ở Trung Quốc kể từ ngày thành lập nước CHNDTH thường xuyên có những nỗ lực cải cách. Song cho đến nay tất cả những nỗ lực này chỉ phát huy được trên phương hướng duy nhất: “mèo đen, mèo trắng không thành vấn đề, miễn là bắt được chuột” và đã góp phần có ý nghĩa quyết định tạo ra chủ nghĩa thực dân con rồng hôm nay.
Trong khi đó toàn bộ những nỗ lực cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc cho đến nay đều bị bóp chết – chỉ kể từ khi tiến hành cải cách 1978: đó là Hồ Diệu Bang hay Triệu Tử Dương, rất đẫm máu như vụ Thiên An Môn (1989), hay bớt ồn ào hơn như hàng trăm vụ đàn áp các nhân sỹ trí thức khác… Trung Quốc hiện nay rất khó tiến hành cải cách thể chế chính trị còn vì lẽ cả nước có tới hàng trăm nhóm lợi ích thao túng toàn bộ hệ thống chính trị từ cấp cao nhất đến cơ sở. Quyền lực thật của các nhóm lợi ích trước hết nằm trong tay các đại gia[36].
Có lẽ không phải ý thức hệ Mác hay Mao là nguyên nhân gốc làm cho chế độ toàn trị ở Trung Quốc hiện nay vẫn trụ được. Sự thật là Đại hội 18 của ĐCSTQ đã khéo léo vượt qua vấn đề này rồi; Mác và Mao chỉ còn vai trò trang trí để giữ cho chế độ của ĐCSTQ danh chính ngôn thuận mà thôi[37]. Nguyên nhân sâu xa đối kháng lại cải cách chính trị có lẽ vẫn là chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa dân tộc Đại Hán, nền văn minh thiên triều gần như một khát vọng.., đến mức ngày nay tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc nhìn chung cũng chưa thoát ra được di sản văn hóa này (Willy Lam).
Có thể nói ngay đối với các nước phát triển và đang phát triển: Làm gì để thích nghi được và để vượt qua được những hệ lụy của một thực tế Trung Quốc nhãn tiền này? Làm gì để biến những thách thức mới thành cơ hội?.. Đấy là những câu hỏi không thể không đặt ra, nếu như muốn sống chung với lũ khi đang ở giữa cơn lũ.
Nhân đây lại xin nhắc lại, để định liệu công việc của mình, mọi quốc gia hữu quan nhất thiết phải tính toán: Bản thân nước Trung Quốc phải trả cái giá nào cho sự phát triển này của họ? Thế giới còn lại – trước hết là các nước láng giềng và trong khu vực – sẽ phải trả giá theo như thế nào cho sự phát triển này? Những năm gần đây không ít doanh nghiệp hay vùng sản xuất một sản phẩm nhất định tại nhiều nước phát triển ở Mỹ, ở châu Âu… đã tự đặt ra cho mình câu hỏi: Làm thế nào để không chết đuối trong biển hàng hóa rẻ của Trung Quốc[38]?!... Có lẽ cũng đã đến lúc các nước đang phát triển nên đặt thêm cho mình câu hỏi: Làm thế nào để thoát được sự kiềm tỏa của quyền lực mềm Trung Quốc.
Vấn đề (2) – vấn đề quân sự
Trong thời bình, không có yêu cầu tiến hành một cuộc chiến tranh nào, nhưng lại bị thôi thúc bởi đòi hỏi chớp lấy cơ hội chấm dứt thời kỳ giấu mình chờ thời để mau chóng vươn lên siêu cường, tận dụng xu thế siêu cường Mỹ ngày càng yếu đi và sa lầy vào nhiều vấn đề lớn, tận dụng khoảng thời gian các cường quốc khác còn đang bận rộn với khủng hoảng kinh tế trầm trọng mang tính cơ cấu chưa có lối ra.., Trung Quốc từ hai thập kỷ nay ráo riết tăng cường tiềm lực quân sự của mình - song song với bành trướng quyền lực kinh tế và quyền lực mềm ở phạm vi toàn cầu.
Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc năm 2000 là 30 tỷ USD, năm 2010 vọt lên 120 tỷ USD, năm 2012 là 160 tỷ USD (nghĩa là liên tục hàng thập kỷ tăng trưởng 2 con số/năm) – đấy là theo số liệu được chính phủ công bố, người ta cho rằng con số thực còn cao hơn. Quân số của Giải phóng quân Nhân dân (PLA) hiện nay là 2,3 triệu, đông nhất thế giới. PLA được hiện đại hóa rất nhanh; trang bị vũ khí, khí tài chỉ đứng sau Mỹ và Nga. Tuy nhiên giới nghiên cứu hầu như có nhận xét thống nhất: Thời điểm Trung Quốc có thể thách thức Mỹ và Nga về quân sự còn xa, (có người cho rằng khoảng cách này giữa Trung Quốc và Mỹ là 20 – 30 năm).
Hiện nay hầu như chưa có khả năng Trung Quốc có thể thách thức trực tiếp Mỹ hay Nga bằng quân sự ở bất kỳ nơi nào. Đụng độ tranh chấp biên giới Trung - Ấn vẫn là nguy cơ thường trực, song ngày nay tiềm lực quốc phòng của Ấn-độ và tương quan lực lượng so sánh khác trước rất nhiều so với thời kỳ xảy ra chiến tranh biên giới năm 1962, hơn nữa thế giới ngày nay đã thay đổi. Tranh chấp Trung – Nhật tại Hoa Đông và đảo Senkaku / Điếu ngư dù căng thẳng thế nào, có lẽ vẫn rất ít khả năng nổ ra chiến tranh hay đụng độ quân sự trực tiếp Trung – Nhật/Mỹ; bởi vì không thể đánh giá thấp sức đề kháng của Nhật với sự hậu thuẫn trực tiếp của Mỹ.
Trong khi đó áp lực quân sự của Trung Quốc đang nhằm vào hướng chính là các nước láng giềng Đông Nam Á.
So sánh những gì đã xảy ra ở 2 vùng Hoa Đông và Scarborough / Hoàng Nham, kết hợp với đánh giá so sánh lực lượng tổng thể toàn khu vực Biển Đông, không loại trừ tình huống: Trung Quốc tuy gây áp lực quyết liệt với Nhật ở Hoa Đông để uy hiếp, song có thể đòn tấn công chính, hay là từng đòn tấn công chính của Trung Quốc trước hết vẫn là dành cho phía Nam. Tuy nhiên, Trung Quốc có dám đánh lớn trên Biển Đông hay không, điều này còn tùy thuộc vào thái độ ứng xử của từng nước hoặc cả nhóm ASEAN. “Mềm nắn, rắn buông”, đấy thường là tâm lý phổ biến của mọi kẻ xâm lược. Mối nguy tiềm ẩn khó khắc phục hơn của ASEAN là sự nhất trí rất có giới hạn của nhóm nước này trong đối phó với Trung Quốc[39].
Hiện nay, đánh giá tình hình so sánh lực lượng tại chỗ trên Biển Đông, đánh giá những phản ứng dây chuyền có thể xảy ra ở từng nước bị tiến công, phản ứng dây chuyền có thể xảy ra ở trong và ở ngoài khu vực, thậm chí trên toàn thế giới… một khi Trung Quốc tiến hành đánh lớn trên Biển Đông, có thể phán đoán: quyết định đánh lớn như vậy đối với Trung Quốc có lẽ cũng không dễ dàng gì, chưa hẳn là cần thiết, trong khi đó Trung Quốc có những thủ đoạn khác rẻ hơn, hữu hiệu hơn.
Bởi vì: Xem xét toàn cục, trận đánh lớn có thể thắng, nhưng làm chủ được những hệ quả tiếp theo thì không hẳn; bản thân Trung Quốc đã có nhiều kinh nghiệm này[40]. Bối cảnh Đông Nam Á - Biển Đông trong cục diện quốc tế hiện nay cho thấy đánh lớn rất ít khả năng giải quyết gọn những vấn đề có liên quan. Vì thế nhìn tổng thể, chung cuộc đánh lớn có thể mang về bại nhiều hơn thắng. Cho đến nay lực của Trung Quốc hoàn toàn cho phép đánh lớn trên Biển Đông (nhằm vào các nước láng giềng), song điều này chưa xảy ra, có lẽ chỉ vì những lý do như vậy.
Trong khi đó Trung Quốc đang có chiến thuật gặm nhấm rất hiệu quả, có cơ hội lại ào lên cắn trộm (1988, 1995…), rồi lại gặm nhấm tiếp. Mấy thập kỷ nay chiến thuật này giành kết quả tốt, rủi ro ít, đỡ ồn ào, vẫn đạt mục tiêu và uy hiếp được đối phương... Càng tác động được quyền lực mềm vào từng nước ASEAN, càng phân hóa được nhóm ASEAN theo thủ đoạn bẻ từng que đũa của bó đũa (chỉ chấp nhận đàm phán song phương), càng chia rẽ được ASEAN với thế giới bên ngoài, hiệu quả của chiến thuật gặm nhấm càng cao. Có lẽ chiến thuật này – cùng với tác động của những thủ đoạn chính trị lung lạc đi kèm, tiếp đến là các thủ đoạn “xâm lăng không vũ khí” bằng các đợt cho hàng trăm tầu cá lấn biển, kết hợp với các biện pháp kinh tế khác, kết hợp với tác động của thời gian (gây mất ổn định và kìm hãm sự phát triển của các nước ASEAN…)… Đấy mới là những đòn nguy hiểm hơn cả cho các nước ASEAN – trước hết là cho Việt Nam và Philippines.
Thực tế đã diễn ra là: Ngoài việc lập thành phố Tam Sa và đặt căn cứ cho quân đồn trú thường trực ở Hoàng Sa, đến nay Trung Quốc đã xây dựng xong những công trình cố định mới trên các đảo, các bãi ngầm và các rặng san hô ở Trường Sa do Trung Quốc đánh chiếm trong các đợt 1988 (gồm 7 đảo và bãi), đợt 1995 (gồm Đá Vành Khăn và một số bãi). Tại những điểm này Trung Quốc đã xây xong các căn cứ đóng quân cố định, căn cứ nổi, ụ pháo, đài quan sát, vạch ra tuyến đường tuần tra cho hạm đội hải giám (tổng cộng 11 đội tầu với 16.000 quân)… để hoạt động thường xuyên, qua đó nhằm khẳng định trên thực tế chủ quyền “đường lưỡi bò”… Không thể nói khác: Một cuộc xâm lược âm ỷ, bền bỉ năm này qua năm khác, vũ trang xen kết phi vũ trang, để gặm nhấm tiếp, để leo thang tiếp, hình thành dần dần một hành lang án ngữ trực tiếp trên biển đối với Việt Nam và Philippines, tiến tới khống chế toàn vùng... Chiến thuật này đang rất hữu dụng, chưa có các yếu tố nào mới khiến Trung Quốc phải thay đổi. Trong khi đó phản ứng đơn phương hay đa phương của các nước nạn nhân ở mức như hiện nay không thể chặn đứng hay đẩy lùi được chiến thuật gặm nhấm này. Để lâu e rằng sẽ là chuyện đã rồi!
Nhưng trong trường hợp nhất định, ví dụ một biến cố lớn bất thường xẩy ra ở bất kỳ đâu trên thế giới, kể cả trong lòng Trung Quốc, hay là ở một nước là đối tượng xử lý (ví dụ quốc gia này lâm vào tình trạng khủng hoảng bất thường),.. khả năng Trung Quốc đánh lớn trên Biển Đông là không thể không tính đến. Cuộc chiến tranh 30 ngày năm 1979 của Trung Quốc chống Việt Nam là một ví dụ thuyết phục.[41]
Hiển nhiên, thế giới ngày nay không hiếm những biến cố lớn bất thường rất quyến rũ. Hiện tại có thể liệt kê ra cả một danh sách dài:
- giả định Mỹ tuột tay trong dàn xếp những mâu thuẫn Israel – Palestin;
- mâu thuẫn Israel – Iran bùng nổ;
- nguy cơ vấn đề sản xuất vũ khí A của Iran hay Bắc Triều Tiên vượt ra ngoài mọi khả năng kiểm soát của thế giới;
- Al-Qeada có thể bất ngờ tổ chức tấn công lớn vào Mỹ hoặc các nước phương Tây, khiến cho sự quan tâm của Mỹ bị phân tán;
- nguy cơ đồng Euro sụp đổ;
- một tính toán sai lầm nào đó của Trung Quốc hay của bất kỳ ai (ví dụ những động thái rất nguy hiểm trong năm nay của Bắc Triều Tiên…);
- những yếu kém của đối tượng được dự định tấn công;
- vụ sử dụng vũ khí hóa học ở Syri có thể mở ra một bước ngoặt bi thảm;
- vân vân…
Có thể kết luận: So với Mỹ và đồng minh phương Tây, lực lượng tiến hành chiến tranh của Trung Quốc không mạnh bằng, hay chưa mạnh như các phát ngôn của giới diều hâu trong hàng ngũ tướng lĩnh Trung Quốc phô trương. Tuy nhiên, lực lượng tiến hành chiến tranh của Trung Quốc mạnh áp đảo so với các nước láng giềng phía Đông và Đông Nam Á, đã có những hoạt động đủ nguy hiểm, đến mức Mỹ phải nhiều lần chính thức cảnh báo: Trung Quốc đang đẩy Biển Đông đi vào chiến tranh.
Muốn hay không, các nước láng giềng của Trung Quốc đang rơi vào một cuộc chạy đua với thời gian: Hoặc là kịp tạo ra sức mạnh vượt lên những thách thưc mới đặt ra từ phía Trung Quốc, hoặc bị những thách thức mới của Trung Quốc vượt qua.
Tóm lại, về nhiều phương diện như đã trình bầy trên, bao gồm cả những hạn chế ban đầu không thể tránh khỏi, siêu cường đang lên Trung Quốc buộc phải lựa chọn Đông Nam Á là địa bàn chính cho việc bành trướng quyền lực. Mỹ nhất thiết phải tiến hành chiến lược “pivot to Asia & Pacific” và TPP để kiểm soát tình hình. Thực tế này sẽ tạo ra những nhân tố căng thẳng mới trong khu vực. Không phải ngẫu nhiên Mỹ coi Đông Nam Á là trọng tâm trong những nỗ lực chuyển hướng mới của mình.
Gần đây nhất, nghĩa là chỉ ít lâu sau vòng đối thoại kinh tế & chiến lược lần thứ 5 (Obama – Tập Cận Bình ngày 7 và 8-06-2013), tổng thống Obama ngày 11-07-2013 đã lên tiếng phê phán những hoạt đông nguy hiểm của Trung Quốc ở Biển Đông và Hoa Đông, đòi Trung Quốc phải giải quyết những tranh chấp bằng thương lượng hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc tế. Tiếp đến là Thượng viện Mỹ ngày 03-08-2013 thông qua nghị quyết 167 lên án Trung Quốc cùng nội dung, thúc giục Trung Quốc phải sớm tham gia COC[42].
Trung Quốc phản pháo lại rất gay gắt: “Trung Quốc không bao giờ từ bỏ các quyền và lợi ích chính đáng của mình trên biển, không bao giờ hy sinh lợi ích quốc gia cốt lõi của mình… Trung Quốc sẵn sàng đối phó với mọi diễn biến phức tạp, tăng cường khả năng bảo vệ các quyền và lợi ích của mình trên biển, kiên quyết bảo vệ các quyền và lợi ích của mình trên biển…’’ Tập Cẩm Bình nhấn mạnh như thế với hàm ý muốn làm cho mọi người hiểu: chỉ có “thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc, gác tranh chấp, cùng khai thác” là lối ra… (Reuters 31-07-2013). Phát biểu của Tập Cẩm Bình 31-07-2013 là nhiệt kế đo điểm nóng nguy hiểm trên Biển Đông.
Xin đặc biệt lưu ý: Mỹ chuyển hướng chiến lược vào CA-TBD / ĐNA là nhân tố kiềm chế quan trọng tham vọng bá quyền Biển Đông của Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ kiên định sự chuyển hướng này đến đâu, còn phụ thuộc không ít vào ý chí và sự hợp tác giữa các nước ASEAN với nhau, vào ý chí của nhóm nước này dấn thân cho hòa bình, cho bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi chính đáng của mình trên Biển Đông. Không có bất cứ cái gì “free lunch” cho các quốc gia Đông Nam Á trong toàn bộ câu chuyện Biển Đông. Không phải không có lý do, ngay từ đầu Mỹ tuyên bố đòi phải bảo đảm lưu thông tự do trên Biển Đông, mọi tranh chấp phải giải quyết bằng thương lượng trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhưng nói rõ Mỹ không can thiệp vào tranh chấp biển – đảo.
VI - Siêu cường Trung Quốc không thể lãnh đạo thế giới
Vào khoảng giữa thế kỷ này hoặc sớm hơn chút ít Trung Quốc có thể trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, điều này là hiện thực. Nhưng cũng trong khoảng thời gian dự đoán được như thế hoặc xa hơn chút nữa, hầu như chắc chắn không thể có một siêu cường Trung Quốc lãnh đạo thế giới hay sắm vai trò số 1 như Mỹ đang làm.
Sau đây là một số lập luận chính cho nhận định nói trên.
Một là: Trước hết lịch sử thế giới chưa từng có một siêu cường nào đủ quyền lực lãnh đạo cả thế giới. Trong lịch sử thế giới cận đại và trong nấc thang phát triển của thế giới hiện tại lại càng không! Thế giới dù phải sống trong một trật tự chung nào đấy của quá trình toàn cầu hóa, song vẫn là phân ra thành các mảng lớn khác nhau. (Cũng có thể nói theo cách khác: Thế giới ngày nay quá trưởng thành để chấp nhận một sự lãnh đạo nào đó của một ai, dù đấy là siêu cường Mỹ).
Lịch sử thế giới không thiếu những khát vọng điên cuồng muốn làm như thế, nhưng đều thất bại. Thời chúng ta đang sống, có thể tổng thống Bush ít nhiều đã mơ ước cái gì đó to tát na ná như điều này - vì những lý do dễ hiểu đã xuất hiện trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh và sau sự kiện 11-09-2001. Song phải chăng chính mơ ước này đã dẫn tổng thống Bush đến chiến tranh Iraq (2003 – 2010) và chung cuộc chịu thất bại trong chiến tranh này?
Cho đến nay, nhất là trong nấc thang văn minh của thời đại ngày nay, chỉ có tư tưởng nhân văn cùng với các giá trị nổi bật của nó mới có thể có tác động nhất định vào quá trình hình thành xu thế phát triển, hay là trở thành tinh thần hướng dẫn, hấp dẫn xu thế phát triển của thế giới – được gọi dưới cái tên chung là các giá trị toàn cầu. Ở nấc thang phát triển của thế giới hôm nay, chính xu thế này vừa ngày càng trở thành nguồn gốc sức mạnh, vừa trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng của hầu hết các nước phát triển. (Điều này hoàn toàn khác với tất cả những gì được mô tả trong cái gọi là “xu thế tất yếu của thời đại là tiến lên chủ nghĩa xã hội” và được minh họa bằng sự tồn tại và phát triển của 4 nước XHCN còn sót lại như đang được giảng giải trong các trường đảng ở nước ta, trong một số giáo trình chính trị và trong không ít phát biểu của một số người lãnh đạo).
Đối với một quốc gia cũng như một dân tộc, một con người trong thế giới văn minh ở trình độ phát triển hôm nay, nhận thức đầy đủ sự thật nêu trên như một chân lý và các giá trị toàn cầu là điều vô cùng quan trọng cho việc tự định đoạt số phận và tương lai của chính mình[43].
Hiển nhiên Trung Quốc hôm nay không thể đề ra được bất kỳ tư tưởng, quan niệm hay giá trị nổi bật nào có sức hấp dẫn hay là tác động tích cực vào xu thế phát triển của thế giới. Thậm chí Trung Quốc cũng không đứng trong hàng ngũ các nước đi tiên phong theo đuổi những giá trị toàn cầu ngày nay. Giá trị mà Trung Quốc muốn là chính nước Trung Quốc sẽ định hướng những quan niệm và giá trị của thế giới, chứ không phải ai khác… (“Giấc mơ Trung Quốc” – Lưu Minh Phúc, Đại học Quốc phòng, Bắc Kinh).
Văn hóa Trung Quốc nói chung, nền văn minh Trung Hoa rực rỡ một thời nói riêng, có những đóng góp quý báu vào kho tàng văn minh nhân loại, trong đó có những giá trị phổ cập đóng góp vào những giá trị chung của chân - thiện - mỹ. Ví dụ, những giá trị như nhân – nghĩa – lễ - trí – tín ngày nay vẫn là những giá trị bền vững trong đạo đức học (ethic). Dĩ nhiên, những giá trị này cũng nằm trong những giá trị nhân bản phổ cập của nhân loại từ ngàn xưa, được văn hóa Trung Quốc – trước hết là Khổng giáo – quan tâm đúc kết, và không tránh khỏi thấm nhuộm màu sắc văn hóa Trung Quốc. Nội hàm của các giá trị bao giờ cũng thường xuyên phát triển trong sự phát triển chung của văn minh nhân loại qua các thời đại.
Song văn hóa đại Trung Hoa với khát vọng lấy lại 5 thế kỷ đánh mất, cùng với mọi chuẩn mực gói ghém trong phạm trù “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” đang làm nên cường quốc Trung Quốc hôm nay, hiển nhiên rất khác, rất khó hòa nhập, hoặc thậm chí hàm chứa không ít mâu thuẫn đối kháng với những gì nằm trong các giá trị toàn cầu đang thôi thúc sự phát triển của văn minh nhân loại.
Văn hóa đại Trung Hoa như vậy cùng với những chuẩn mực làm thành nội hàm của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc có thể đang làm nên “giấc mơ Trung Quốc” hôm nay của không ít người Trung Quốc. Người ta nói ông Tập Cẩm Bình đã từng diễn giải ngắn gọn giấc mơ này như sau: Đó là một Trung Quốc của tầng lớp trung lưu nhỏ và có quân đội mạnh chống lại bất kể kẻ thù nào… (Willy Lam)[44]…
Rõ ràng giấc mơ Trung Quốc như thế rất khác với “giấc mơ Mỹ” như Obama đã nhiều lần đề cập khi tranh cử, và càng khác với những quan niệm và các giá trị toàn cầu đang hướng dẫn hay hấp sự phát triển của văn minh nhân loại ngày nay như đã trình bầy trong các phần trên của bài viết này.
Thế giới đã chứng kiến sự thất bại của Pax Americana. Rồi đây giả thử xuất hiện một Pax Sinica tái sinh (cứ cho là như vậy), nhân loại sẽ đón nhận ra sao đây? Từ những gì đang diễn ra trên Biển Đông, có thể suy luận nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước Đông Nam Á khác hầu như chắc chắn không muốn chào đón thứ “Pax Sinica” này.
Tuy nhiên, đừng lúc nào quên Trung Quốc đang là mối uy hiếp thường trực ngày càng nguy hiểm đối với tất cả các nước láng giềng phía Đông và Đông Nam Á.
Hai là: Trung Quốc về cơ bản còn đang ở nấc thang của các nước đang phát triển, thậm chí về phương diện nhất định là còn đang ở nấc thang nước chậm phát triển – nếu xét về các giá trị phổ cập như đã nêu trên của văn minh nhân loại ngày nay.
Hiện nay tổng sản phẩm quốc nội danh nghĩa tính theo đầu người (GDP p.c.) của Trung Quốc là 6000 USD (lấy con số tròn), đứng hàng thứ 86/182 trên thế giới, chỉ bằng khoảng 1/8 của Mỹ và bằng ¼ của Hàn Quốc – (nhưng gấp 4 lần Việt Nam: 1500 USD, đứng hàng thứ 137/182 trên thế giới)[45]. Song nếu xem xét về mức độ chênh lệch giầu nghèo, những bất công trong xã hội, tình trạng ô nhiễm môi trường.., Trung Quốc không tiến xa được bao nhiêu so với nhiều nước đang phát triển khác có mức GDP p.c. tương đương hoặc nhỏ hơn.
So với họ (ví dụ: Ấn Độ), thậm chí Trung Quốc kém hơn rất nhiều trên các phương diện thực hiện các quyền tự do dân chủ của nhân dân, quyền con người, thực hiện các tiêu chí của nhà nước pháp quyền – đặc biệt là trong những vấn đề công khai minh bạch, trong chế độ chịu trách nhiệm giải trình, trong chống tham nhũng…
Có câu hỏi: Xem xét nhiều mặt, Trung Quốc và Ấn-độ gần như cùng chung một khởi điểm phát triển, thế nhưng tại sao GDP p.c. của Ấn-độ ngày nay chỉ tương tự như của Việt Nam (nghĩa là bằng ¼ của Trung Quốc)? Phải chăng sự phát triển vượt bậc của Trung Quốc so với Ấn-độ nói lên tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc?
Nếu muốn so sánh như vậy. có lẽ cũng sẽ phải đặt câu hỏi: Tại sao cùng là chế độ xã hội chủ nghĩa như nhau do một đảng lãnh đạo (gọi đúng tên là chế độ toàn trị), khi tiến hành cải cách điểm xuất phát của Trung Quốc chỉ cao hơn Việt Nam chút ít (chênh lệch GDP p.c. ở thời điểm cải cách so với Việt Nam khoảng +100 USD), thế nhưng tại sao GDP p.c. của Trung Quốc bây giờ gấp 4 lần của Việt Nam (chênh lệch GDP p.c. bây giờ là +4500 USD)? Trung Quốc đã đi được chặng đường dài trên con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa, từng vùng đã mang tính chất là một nước công nghiệp, tại sao Việt Nam còn đứng rất xa vời mục tiêu này? Vân… vân…
Như đã trình bầy trong phần viết về kinh tế Trung Quốc bên trên, sự phát triển của Trung Quốc là hiện tượng độc đáo, với các nguyên nhân như đã được nêu trên (đúng, sai đến đâu sau này sẽ bàn tiếp). Việt Nam cũng có trong tay nhiều lợi thế tương tự, nhưng không vận dụng được. Ấn-độ có lẽ cũng như vậy, mặc dù Ấn-độ có nền dân chủ hơn hẳn Trung Quốc.
Xin nhấn mạnh: Sự phát triển đột xuất của Trung Quốc rất độc đáo, vô tiền khoáng hậu, nguyên nhân như đã phân tích. Hiện tượng khác thường này chẳng liên quan gì đến chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác như mọi nỗ lực hoài công gán ghép cho nó. CNXH đặc sắc Trung Quốc chỉ là tên gọi cho một hình thái phát triển đặc trưng không ít máu và nước mắt của chủ nghĩa tư bản mang văn hóa Đại Hán trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay mà thôi. CNXH đặc sắc Trung Quốc như thế đến hôm nay đã xâm phạm và đang tiếp tục uy hiếp nghiêm trọng lợi ích chính đáng và chủ quyền quốc gia của nhiều nước khác, trong đó có Việt Nam[46].
Có thể nói, kinh tế Trung Quốc ngày nay đủ mạnh và có một số phương tiện uy hiếp hay lũng đoạn được nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển; có khả năng nhất định thao túng hay can thiệp một số vấn đề nào đó của kinh tế thế giới – ví dụ vấn đề tỷ giá, các vấn đề liên quan đến chủ nghĩa con buôn (mercantilism), chiến tranh mạng…
Cần tỉnh táo thấy rằng Trung Quốc vẫn đang trên đà tiếp tục tăng trưởng và phát triển, vì các yếu tố nội tại và bên ngoài vẫn đang cho phép như vậy. Cho đến nay có biết bao nhiêu dự báo kinh tế Trung Quốc sẽ sớm sụp đổ, vì chứa đựng nhiều khủng hoảng không thể cứu vãn, vì nhiều thứ vân vân khác… Song chẳng có dự báo nào đã xảy ra, vài ba thập kỷ tới chắc cũng thế[47].
Không ít người đi thăm Trung Quốc về kể cho tôi nghe một ấn tượng chung: “Trung Quốc phải trở thành siêu cường lãnh đạo thế giới!” - điều này gần như là một chất keo dính kết quốc gia khổng lồ này! Một thứ chủ nghĩa sô-vanh nước lớn kiểu Trung Quốc?
Hiện tượng Trung Quốc khác thường này không thể dùng những quan điểm học thuật thuần túy để lý giải. Phải chăng đây là một khúc quanh của lịch sử: Một dạng trỗi dậy trở lại của văn hóa Đại Hán, nhờ vào những yếu tố và đặc điểm của toàn cầu hóa thời đại ngày nay!? Chủ nghĩa dân tộc ở quốc gia 1,3 tỷ dân này đang được thứ văn hóa này nuôi dưỡng, đến mức đang xuất hiện một giấc mơ Trung Quốc, na ná như một thứ đạo Đại Hán, tinh thần Đại Hán, chủ nghĩa Đại Hán… – được nuôi dưỡng bằng Khổng giáo – tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ..! Nghĩa là trở thành lãnh đạo thế giới thì không thể, và chắc Trung Quốc cũng chẳng cần. Nhưng khát vọng bình thiên hạ, thì sẵn có trong hơi thở Trung Quốc từ ngàn xưa. Đượm màu sắc văn hóa như vậy ở thời hiện đại này[48], nên thế giới sẽ càng mệt! Vì thế vấn đề Trung Quốc càng thực sự sâu sắc, càng trở thành vấn đề của cả thế giới.
Nếu liều đoán, cùng lắm cũng chỉ có thể nói mò: Xu thế phát triển hiện nay của Trung Quốc chỉ thay đổi một khi sự vận động tự thân của các yếu tố bên trong của Trung Quốc không kiểm soát được nữa. Dù quan trọng đến mức nào, các yếu tố bên ngoài chỉ có vai trò hỗ trợ cho sự vận động này. Hiển nhiên, đây là câu chuyện của thập kỷ, của nhiều thập kỷ.
Song cho dù một khi trở thành nền kinh tế số 1 thế giới (về tổng lượng GDP), kinh tế Trung Quốc đến lúc ấy dự báo cũng chỉ chiếm tới 1/10 - 1/8 kinh tế thế giới, có nghĩa kinh tế Trung Quốc phụ thuộc rất lớn vào kinh tế thế giới. Điều này có nghĩa khó lòng Trung Quốc có thể làm mưa làm gió hơn hôm nay. Bởi vì đến lúc ấy, các nền kinh tế khác cũng sẽ lớn hơn, thiên hạ cũng sẽ ngày một khôn hơn. Chưa nói đến khoảng cách vài chục năm với phương Tây về tiến bộ khoa học kỹ thuật, về công nghệ, về năng lực tổ chức và quản lý xã hội… Trung Quốc không dễ gì vượt qua.
Người Trung Quốc có câu “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” – hiểu nôm na theo ngôn ngữ người châu Âu: xem anh chơi với ai, tôi sẽ biết ngay anh là ai![49] Quyền lực mềm của Trung Quốc có nhiều đối tác lắm. Cứ xem các đối tác của Trung Quốc khắp thế giới là ai, làm ăn cái gì và với ai, tìm hiểu tại sao chủ nghĩa thực dân con rồng lại thành công hơn tất cả các bậc đàn anh của nó ngày xưa (dù là Anh, Pháp, Bồ-đào-nha…), xem Trung Quốc hành xử với các nước láng giềng, xem Trung Quốc ủng hộ những vấn đề gì và chống vấn đề gì trên thế giới.., hoàn toàn không khó để nhận biết khả năng và bản chất sự tập hợp lực lượng của Trung Quốc trong thế giới này nay, kể cả một khi Trung Quốc trở thành siêu cường…
Một tập hợp lực lượng như thế có thể gây ra những ảnh hưởng lũng đoạn, song không bao giờ và hoàn toàn không thể có ảnh hưởng lãnh đạo thế giới.
Có thể dự báo khái quát:
1. Rồi đây, dù là một khi Trung Quốc trở thành cường quốc có nền kinh tế lớn số 1, song hầu như chắc chắn đó chỉ là trên phương diện tính toán khối lượng GDP. Trung Quốc sẽ không đủ lực và hoàn toàn không thể có phép lạ gì để tạo ra cho mình sứ mệnh tinh thần thực hiện một tập hợp lực lượng để dấy lên ở trên thế giới ngày nay một cái ảnh hưởng hay trào lưu gì đó - ở quy mô và theo cách nào đó… ví dụ như một thời Liên Xô đã từng làm – mặc dù về sau Liên Xô sụp đổ[50]. Hơn nữa, siêu cường nước kinh tế lớn số 1 này không có hoài bão hay mục đích thực hiện một tập hợp lực lượng như Liên Xô hồi ấy đã từng làm. Trung Quốc chỉ có giấc mơ “bình thiên hạ” và sự nham hiểm của quyền lực đặc sắc Trung Quốc.
Vì bản chất sự phát triển và ý đồ của nó có nhiều cái cơ bản trái chiều với các giá trị toàn cầu, Trung Quốc không có khả năng trở thành siêu cường lãnh đạo thế giới.
2. Nếu có làm được gì trong tập hợp lực lượng trên thế giới, siêu cường nước kinh tế lớn số 1 thế giới này lúc ấy chắc sẽ không thể đi xa hơn bao nhiêu những gì nó đã và đang làm được mấy thập kỷ nay và đã được trình bầy trong các phần trên của bài viết này – về cơ bản đấy sẽ là tập hợp lực lượng của những lợi ích thực dụng và lợi dụng lẫn nhau. Đương nhiên, trong những bối cảnh nhất định, sự tập hợp lực lượng như thế sẽ không kém phần nguy hiểm cho hòa bình và ổn định (ví dụ: khả năng về hình thành một trục Trung – Nga trong một số vấn đề nhất định, quan hệ Trung – Nga trong vấn đề Syri, Trung Quốc trong vấn đề Bắc Triều Tiên, quan hệ Trung Quốc – Pakistan – thế giới đạo Hồi, sự leo thang tình hình căng thẳng trên Biển Đông…).
Tuy nhiên đến lúc ấy siêu cường Trung Quốc cũng khó có khả năng thách thức Mỹ nói riêng và thế giới phương Tây nói chung về quân sự; nhưng đối với các nước nhỏ láng giềng thì không hẳn thế, thậm chí tùy hoàn cảnh có khi hoàn toàn ngược lại.
Siêu cường nước kinh tế lớn số 1 này chắc chắn đặt ra cho thế giới nhiều thách thức mới về kinh tế và văn hóa. Song nếu Trung Quốc quá đà và phạm sai lầm lớn, phản ứng của thế giới còn lại sẽ không dễ gì Trung Quốc có thể vượt qua được, và sẽ phải trả giá.
Giả định rằng siêu cường nước kinh tế lớn số 1 này có tham vọng làm mọi việc để lấy lại 5 thế kỷ đánh mất, thế giới còn lại có thể sẽ có thêm những thách thức mới và những phiền toái mới – chắc sẽ không ít đau đớn. Song hầu như chắc chắn kết cục chung cuộc của phiêu lưu này sẽ là sự phân rã: Trong kịch bản này, ĐCSTQ sẽ không còn tồn tại nữa, đại Trung Quốc có thể phân rã thành một số nước Trung Quốc. Kịch bản phiêu lưu đẫm máu này chắc lãnh đạo ĐCSTQ không muốn, và có thể cũng không dám; thế giới còn lại chắc chắn càng không muốn phải trả giá theo cho lỗi lầm này của Trung Quốc.
3. Trong một khoảng thời gian nhất định, kể cả đến khi trở thành nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, không thấy có khả năng xẩy ra cải cách thể chế chính trị với đúng nghĩa ở Trung Quốc – ngoại trừ những cải cách nhỏ và rất cục bộ, chỉ nhằm đáp ứng cho yêu cầu bảo đảm mức độ tăng trưởng giữ cho chế độ không sụp đổ hoặc tránh được khủng hoảng lớn.
Đối với thế giới bên ngoài, thực tế vừa nêu trên có nghĩa phải tìm cách sống cùng được và chế ngự được một Trung Quốc như hiện nay thế giới đang có. Một thách thức hoàn toàn mới. Đối với các nước láng giềng Trung Quốc: Phải tìm cách sống chung với lũ.
Lý do cơ bản là: Cho đến khi có được một cuộc cải cách sâu rộng thể chế chính trị, nhìn chung Trung Quốc không thừa nhận, không muốn đi cùng chiều với các giá trị toàn cầu – bởi vì bản chất sự phát triển của nó đặt ra như thế, lại thêm di sản của văn hóa Đại Hán, văn hóa thiên triều.
4. Tình hình các mặt hiện nay của Trung Quốc cho thấy: Trong một tương lai xác định được, không có chuyện xảy ra một Trung Quốc đổ vỡ do thất bại trong kiểm soát các vấn đề đối nội. Sự kiện Thiên An Môn, các sự kiện gần đây ở Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông… cho thấy lãnh đạo Trung Quốc sẵn sàng ngăn chặn và ngăn chặn được khả năng này với bất kỳ giá nào.
5. Tuy bị đàn áp quyết liệt, thăng trầm tùy lúc khác nhau, thực tế đang cho thấy xu thế cải cách ở Trung Quốc vẫn âm ỷ tồn tại, không thể tiêu diệt được, đến một lúc nào đó có thể phát triển mạnh – ví dụ đến một khi lực lượng trung lưu có vị trí áp đảo trong xã hội Trung Quốc... Bởi vì đó là sự vận động tất yếu của những mâu thuẫn xã hội nội tại đang ngày càng tích tụ ngay trong lòng Trung Quốc. Đã thế, càng phát triển sự phụ thuộc của Trung Quốc vào thế giới bên ngoài sẽ càng lớn (ví dụ: ngay từ bây giờ Trung Quốc đã phải tuân thủ ở phạm vi nhất định những chuẩn mực của WTO, của UNO… thì mới có thể giao lưu được với thế giới bên ngoài).
6. (a) Sự vận động của các mâu thuẫn nội tại trong xã hội Trung Quốc, (b) cùng với sự phát triển của giới trung lưu, (c)áp lực phải thích nghi với các chuẩn mực quốc tế để phát triển – có lẽ đấy là 3 yếu tố chính thúc đảy quá trình cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc. Cả 3 yếu tố này đang tiếp tục tăng lên. Có một sự thật: Trong cuộc sống hiện tại, quyền lực tuyệt đối hiện nay của ĐCSTQ đối với các nhóm lợi ích đang ngày càng giảm; chính thực tế này mặt nào đó hé lộ sự vận động không thể cưỡng lại của xã hội Trung Quốc hướng về cải cách. Song vì là cải cách thể chế chính trị ở nước 1,3 tỷ dân có nền văn hóa Đại Hán, nên thước đo thời gian có lẽ phải tính bằng nhiều năm, bằng thập kỷ,nhiều thập kỷ, cả thế kỷ... Có người còn dự báo thế kỷ 21 là thế kỷ Trung Quốc cơ mà (Schell, Delury…)! Sống cạnh Trung Quốc thì phải tính toán như thế. Cũng đừng phí thời giờ nghĩ hộ người Trung Quốc nên cải cách như thế nào, họ thông minh hơn người ngoài rất nhiều trong các vấn đề của họ… Nhưng cần lưu ý: Mối lo bị phân rã của Trung Quốc cực kỳ nhạy cảm và là một trong những nguyên nhân chủ yếu đối kháng cải cách thể chế chính trị - bởi vì nguy cơ phân rã gần như đồng nghĩa với xóa bỏ đế chế Trung Quốc.
7. Dù không tự nguyện, về cơ bản Trung Quốc chủ yếu vẫn phải lựa chọn đi với cả thế giới theo cách của Trung Quốc. Vì thế, hòa bình và phát triển phải luôn luôn được coi là ưu tiên số một của cả thế giới, vì thế khuyến khích mọi hợp tác có lợi cho hòa bình và phát triển trên cơ sở bình đẳng + cùng có lợi và bảo đảm tôn trọng chủ quyền của moi bên hữu quan dù là rất khó, song vẫn phải là mục tiêu phấn đấu của các nước hữu quan trong các mối quan hệ với Trung Quốc. Đòi hỏi này bao gồm cả sự cần thiết dành cho Trung Quốc một vị thế quốc tế đúng với ảnh hưởng và trách nhiệm của nó, tôn trọng những giá trị văn hóa chân chính của Trung Quốc.
Hợp tác như vậy còn là phương thức làm cho cách đi của Trung Quốc với cả thế giới ngày càng gần với cả thế giới.
8. (a) Nhìn cho rõ bản chất những vấn đề Trung Quốc đặt ra cho thế giới bên ngoài và (b) tâm lý bài xích Trung Quốc là hai việc hoàn toàn khác nhau. Bài xích bất kể một nước nào, đều là sai và chỉ dẫn đến mù quáng. Bài xích Trung Quốc càng như thế, nhưng với hệ quả và cái giá phải trả sẽ lớn hơn nhiều, và không thể thay đổi được tình hình. Bài xích Trung Quốc, sợ Trung Quốc, hay dựa vào Trung Quốc đều ngu xuẩn như nhau, không thay đổi được gì, chỉ tăng thêm cái giá phải trả.
9. Ứng xử của các quốc gia trong quan hệ với Trung Quốc cho thấy: Chỉ thực hiện được bình đẳng + cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau trong quan hệ với Trung Quốc nếu quốc gia ấy – dù là nước nhỏ hay lớn – có bản lĩnh đối nội & đối ngoại là chính mình. Hiểu Trung Quốc là một thách thức, điều này là cần thiết. Song làm thế nào sống được với thách thức ấy, điều này còn quan trọng hơn nhiều. Vẫn có khả năng, có con đường biến thách thức ấy thành cơ hội, nếu quyết cùng với cả thế giới tiếp cận thách thức này, bằng ý chí và trí tuệ với mục đích như vậy.
10.Siêu cường nước kinh tế lớn số 1 xuất hiện trên bàn cờ thế giới đồng thời cũng làm cho các “cuộc chơi” giữa các nước lớn phức tạp hơn. Cụ thể bây giờ một bên là “lợi ích cốt lõi bao gồm đến 80% Biển Đông” đang đối chọi quyết liệt với bên kia là chiến lược “Pivot to Asia & Pacific” + TPP. Các nước bên thứ ba phải làm thế nào để bảo tồn được lợi ích chính đáng và chủ quyền của mình, đồng thời không cho phép biến nước mình thành sân chơi của các cuộc chơi giữa các ông lớn, hoặc biến thành vật đổi chác với nhau của các nước lớn. Đây thật là một nhiệm vụ rất khó. Nước bên thứ ba chỉ có sự lựa chọn: thành hoặc bại! Không có kịch bản khác.
11.Không có “free lunch” trong tìm cách sống cùng được với “con rồng” Trung Quốc và chế ngự nó. Mỗi quốc gia dù lớn dù nhỏ đều phải dấn thân cho những giá trị toàn cầu, để hiệp đồng thúc đẩy xu thế tiến bộ của cả thế giới – bao gồm cả trong lòng Trung Quốc, để các chuẩn mực của các giá trị toàn cầu được cả thế giới – bao gồm cả Trung Quốc – cùng nhau tôn trọng, thực hiện, phát huy. Đã lỗi thời nhìn nhận dân tộc này dân tộc nọ theo tư duy phân biệt chủng tộc; cần trí tuệ và bản lĩnh xây dựng mối quan hệ bình đẳng và hữu ái giữa các dân tộc mọi quốc gia trên cơ sở tôn trọng nhân phẩm và quyền con người – đây chính là một trong những giá trị toàn cầu, vì nó chúng ta phấn đấu.
Ngày nay, hơn bao giờ hết phẩm chất và bản lĩnh quốc gia, bản lĩnh dân tộc của mỗi nước trở thành yếu tố tiên quyết quyết định vận mệnh mỗi nước. Chỉ một đất nước của con người tự do, mới có thể xây dựng, vun đắp, phát huy phẩm chất và bản lĩnh quốc gia, phẩm chất và bản lĩnh dân tộc của nước mình.
*
Nhìn toàn cục sự vận động kinh tế thế giới hiện nay trong bối cảnh trật tự quốc tế một siêu đa cường đang ngày càng định hình rõ nét, có thể rút ra 3 điều đang lưu ý sau đây:
Một là, sự việc CA – TBD trở thành trung tâm năng động mới của kinh tế thế giới trong bối cảnh cường quốc kinh tế số 1 (Mỹ) và cường quốc kinh tế số 2 (Trung Quốc) đều coi khu vực này là trọng tâm, đang tạo ra những căng thẳng mới – đặc biệt là tại khu vực Đông Nam Á và Biển Đông; trong khi đó những vấn đề “nóng” ở các khu vực trên thế giới vẫn tiếp tục giữ nguyên cường độ. Mọi quốc gia đều đứng trước những thách thức và cơ hội mới, đặc biệt trong đó Trung Quốc với mọi nỗ lực vươn lên siêu cường mang sắc thái Đại Hán đang trở thành vấn đề của cả thế giới.
Hai là: Những thách thức và cơ hội mới trong cục diện thế giới hiện nay, với tất cả tính triệt để và tính quyết liệt của chúng, đang gõ cửa từng quốc gia. “Phải thay đổi!” – điều này ngày nay trở thành thành đòi hỏi quyết liệt như một mệnh lệnh đối với mọi quốc gia.
Ba là: Cuộc sống cũng cho thấy tập hợp lực lượng xoay quanh các giá trị toàn cầu đang trở thành một xu thế, một quyền lực ngày càng mạnh trong quá trình phát triển của thế giới ngày nay. Mỗi nước cần vận dụng khả năng mới này tạo ra tập hợp lực lượng để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, đồng thời thúc đẩy hợp tác: Cùng nhau vì hòa bình, vì phát triển, chống lại cái “ác” (vấn đề dấn thân).


Nguyễn Trung

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nguyễn Trung - Suy ngẫm về thời cuộc


Ông Nguyễn Trung
Dẫn đề
Ngày 12-07-2013, một ngày như mọi ngày. Song đây là ngày tôi bắt đầu sưu tầm các tài liệu cho việc ghi lại những suy ngẫm của mình về thời cuộc. Lên mạng, thấy các kênh truyền thông trong nước đưa tin:
- Phát huy kết quả chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Chủ tịch Trương Tấn Sang;
- Phó tổng thống Mỹ Joe Biden và Phó thủ tướng Trung Quốc Uông Dương khai mạc vòng đối thoại song phương (hàng năm, lần thứ 5) về Chiến lược và Kinh tế;
- Tin Tổng thống Obama sẽ đón tiếp Chủ tịch Trương Tân Sang vào ngày 25-07-2013;
- Hai tầu cá của ngư dân Quảng Ngãi bị hải quân Trung Quốc tấn công, chặt cờ, cướp săng dầu và thiết bị, hành hung ngư dân… trong vùng biển Hoàng Sa; cựu Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, ông Lương Lê Phương, lên tiếng: “…phải hỗ trợ ngư dân khi đánh bắt trên biển. Phải thành lập lực lượng kiểm ngư mạnh, đủ tầm để bảo vệ ngư dân khi đánh bắt xa bờ…"
- Thương lái Trung Quốc hoành hành khắp các vùng từ Bắc chí Nam trong cả nước ta, thực hiện nhiều hoạt động lũng đoạn như: thu gom mua vải thiều, dìm giá nhãn đang vào mùa, thu mua các hàng độc như móng trâu, rễ quế, đỉa, râu ngô, lá điều, mua vơ vét dừa khiến nhiều nhà máy chế biến dừa của ta chỉ còn hoạt động được khoảng 1/3 công suất…
- Trung Quốc phản ứng dữ dội bác bỏ Sách trắng Quốc phòng 2013 của Nhật…
- Hải quân hai nước Nga và Trung Quốc lần đầu tiên cùng nhau tập trận lớn…
- Vụ Edward J. Snowden rầm rĩ báo chí mọi phương trời và gây rắc rối cho một số nước …
- Liên hiệp quốc tiếp tục bó tay trong vấn đề nội chiến Syri đã kéo dài hơn 30 tháng không làm sao có được giải pháp, vì Nga và Trung Quốc đi với chính quyền Asad và sử quyền veto ngăn cản mọi quyết định của Hội đồng Bảo an LHQ; Mỹ và phương Tây không chấp nhận chính quyền tàn sát phong trào nổi dậy…
- IMF dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới 2013 giảm –0,2% so với 2012 vì những khó khăn của những nền kinh tế lớn và các châu lục còn nguyên vẹn…
Vân vân…
Trong một ngày như mọi ngày, những mẩu tin như vậy có vẻ như rời rạc, chẳng ăn nhằm gì với nhau, nhưng lại phản ánh đầy đủ nhất tình hình địa chính trị toàn cầu đầy xáo động đang diễn ra và những tác động vào Việt Nam. Đời sống quốc tế hiện tại là sự tổng hợp những ngày đầy ắp những sự kiện nóng bỏng như thế.
Tìm hiểu những chuyển biến đang diễn ra trên bàn cờ quốc tế hôm nay và nhận định xu thế của chúng với những phân tích khách quan, để rút ra những đánh giá, nhận định cần thiết, đấy là mong muốn của chuyên đề này.
*
I - Vài nét về thế giới hôm nay
(1) Việc Mỹ dưới thời Obama (nhiệm kỳ I bắt đầu từ ngày 20-01-2009) tìm cách mau chóng rút ra khỏi chiến trường Iraq và Afghanistan để tập trung sự quan tâm của mình vào chính sách “trục xoay hướng về châu Á – Thái Bình Dương” (ngoại trưởng Hillary Clinton công bố ngày 14-10-2011); (2) việc Trung Quốc với tính cách là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới (sau Mỹ) đã thôi náu mình trong cái vỏ “trỗi dậy hòa bình” để công khai tham lam hơn trên thị trường thế giới và hiếu chiến hơn trên Biển Đông, qua đó đang trở thành mối lo của cả thế giới; và (3) tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay tiếp tục kéo dài, thậm chí đang ngày càng đặm nét của một cuộc đại suy thoái toàn cầu lần thứ hai (lần thứ nhất là cuộc đại suy thoái toàn cầu 1929 – 1933), có lẽ đấy là 3 yếu tố nổi bật nhất chi phối tình hình địa chính trị và địa kinh tế toàn cầu hiện nay.
Hệ quả là tất cả các quốc gia trên thế giới, dù lớn dù nhỏ, dù tọa độ tại châu lục hay vùng nào, đều phải đối mặt với nhiều vấn đề kinh tế, nhiều vấn đề chính trị (đối nội cũng như đối ngoại) mà trước đây họ chưa bao giờ gặp phải:
- Trong quá trình toàn cầu hóa ở giai đoạn hiện tại, sự vận động của kinh tế thế giới đặt ra cho mọi quốc gia những đòi hỏi mới về cải cách và cấu trúc mới nền kinh tế nước mình, nhằm phát huy tốt hơn động lực của nội địa và tạo ra năng lực cạnh tranh mới. Những đòi hỏi và thách thức mới này sâu xa đến mức kinh tế của mỗi nước gần như phải làm mới mình về cấu trúc và hệ điều hành, để thích nghi và phát triển được trong bối cảnh quốc tế hôm nay.
- Thể chế chính trị và chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia bắt buộc phải đáp ứng được những đòi hỏi mới của phát triển kinh tế trong nước cũng như những vấn đề mới trong trật tự quốc tế “một siêu đa cường” đã hình thành; những thách thức truyền thống và phi truyền thống trong quan hệ quốc tế tiếp tục đan xen nhau rất phức tạp; xung đột lợi ích và tập hợp lực lượng trong các mối quan hệ song phương, đa phương, khu vực, quốc tế ngày càng đa dạng và phức tạp. Ở nấc thang mới hiện nay của quá trình toàn cầu hóa, hơn bao giờ hết thể chế chính trị của một quốc gia một mặt phải đáp ứng tốt nhất những chuẩn mực quốc tế chung, mặt khác nó còn phải có khả năng phát huy tối đa nội lực của mình trong xử lý mọi vấn đề nó phải đối mặt.
- Trong những biến động mới của một trật tự một siêu đa cường đã hình thành, những đòi hỏi truyền thống của nhân loại (1) về hòa bình, (2) về phát triển, (3) về dân chủ và quyền con người, (4) và về gìn giữ môi trường… là những giá trị toàn cầu phổ cập, đang ngày càng được chú trọng hơn trong các chuẩn mực chi phối các mối quan hệ và trật tự quốc tế. Trật tự quốc tế mới một mặt làm xuất hiện những tập hợp lực lượng mới, song đồng thời cũng ngày càng chịu sự chi phối của những giá trị toàn cầu này. Nói một cách khác: Những giá trị này có tính phổ cập toàn cầu ngày càng cao và trở thành một xu thế chung ngày càng lớn. Các tập hợp lực lượng đang diễn ra trong trật tự quốc tế mới hôm nay đều tận dụng, lợi dụng, hay bám vào sự vận động này. Quốc gia nào thành công nhiều nhất trong phấn đấu cho những giá trị toàn cầu này, sẽ có được tập hợp lực lượng đáng mong muốn nhất cho chính mình.
II – Đôi lời về Mỹ
Trong giới nghiên cứu không ít ý kiến cho rằng Mỹ là một siêu cường đang đi xuống. Cách đánh giá này dựa vào nhận định chung cho rằng ảnh hưởng của siêu cường Mỹ đang “nhỏ” đi (a) so với thời cao điểm sau khi kết thúc chiến tranh lạnh (các nước Liên Xô – Đông Âu sụp đổ 1989-1991), (b) so với kết quả đạt được trong những vấn đề nó phải giải quyết, (c) so với những thách thức mới nó phải đương đầu, và (d) so với sự lớn mạnh của các cường quốc khu vực và một số quốc gia đối tác / đối thủ. Nói một cách khác: Nước Mỹ đang ngày càng chậm hơn so với những diễn tiến trên thế giới liên quan đến nó, ngày càng nhỏ đi so với vị thế siêu cường duy nhất của nó[2].
Có rất nhiều số liệu và dữ kiện làm căn cứ cho nhận định nói trên.
- Về kinh tế Mỹ, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ năm 2008 mang tính khủng hoảng cơ cấu và thể chế, chịu nhiều tác động sâu sắc của những quan điểm của chủ nghĩa tân tự do bắt đầu từ thời R. Reagan; mặt khác quá trình toàn cầu hóa kinh tế - nhất là vấn đề “outsourcing” tạo ra những mất cân đối mới về cấu trúc. Có thể nói đây chính là cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản Mỹ (F. Fukuyama, P. Krugman…). Cuộc khủng hoảng này tuy đã qua thời kỳ chạm đáy, song hiện nay về cơ bản vẫn là “đi ngang” hay đang bước vào thời kỳ phục hồi chậm chạp.
Từ nhiều năm nay, nợ công của Mỹ đã vượt 100% GDP, thâm hụt cán cân thương mại và dịch vụ bắt đầu giảm nhưng vẫn còn cao (540 tỷ USD năm 2012 so với 559 tỷ USD năm 2011…), trong đó riêng thâm hụt cán cân thương mại và dịch vụ với Trung Quốc giảm nhiều song vẫn còn rất cao (năm 2012 là -315 tỷ USD, những năm cao nhất trước đó ước khoảng từ -400 đến -450 tỷ USD/năm), tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm nhưng vẫn ở mức cao (năm 2009 là 11%, năm 2012 là 8,2%), tỷ lệ lạm phát bắt đầu giảm (năm 2012 là 1,8%, vài năm trước đó là
Nhiều dự báo cho rằng phải sau năm 2017 kinh tế Mỹ mới có thể lấy lại sức tăng trưởng như trước khi lâm vào khủng hoảng. Tuy nhiên điều kiện phải có cho triển vọng này là Mỹ phải thành công trong thay đổi tư duy kinh tế vỹ mô và trong kiến trúc lại thể chế điều hành – trước hết là hệ thống tài chính -ngân hàng (Lawrence Summers[4]). Nói một cách đơn giản: Mỹ phải cấu trúc lại nền kinh tế và thể chế điều hành với tư duy mới – chỉ làm như vậy mới có thể đối mặt với quá trình siêu cường Mỹ đang đi nhanh vào dĩ vãng (John Kao). Trong giới nghiên cứu Mỹ không ít ý kiến cảnh báo bản thân thể chế dân chủ của các nước phương Tây – kể cả Mỹ - đang gặp nhiều bất cập trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay[5]
- Có hay không trong quá trình suy yếu này Mỹ đã phạm phải sai lầm chiến lược (hay những sai lầm chiến lược) trong địa chính trị toàn cầu? Câu hỏi này không dễ trả lời, nhưng phải đặt ra để phân tích. Người viết bài này đứng về phía trả lời: “Có!”. Cuối năm 2010, nghĩa là ít lâu sau khi chiến tranh Iraq kết thúc, trong bài viết “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ 2 thế kỷ 21” tôi đã phần nào trình bầy những suy nghĩ của mình cho câu trả lời này[6].
Hai cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan dù được tiến hành với bất kể lý do gì, kết quả Mỹ đạt được rất hạn chế so với mục tiêu đề ra, cái giá Mỹ phải trả là thế và lực của Mỹ bị tác động đáng kể. Mỹ đã mất 6640 binh sỹ (nếu tính cả đồng minh trong NATO là trên 8000), bị thương khoảng trên 40.000 (chưa kể đồng minh NATO), và phải chi trên 2000 tỷ USD. Kết cục, Mỹ đạt được một thế chiến lược yếu hơn so với vị thế Mỹ đã với tới được sau khi Liên Xô sụp đổ và đã duy trì được vị thế chưa từng có này cho đến khi tiến quân vào Iraq ngày 20-03-2003[7]. Thậm chí có thể nói, trong hai cuộc chiến tranh này Mỹ không đạt được một số mục tiêu chiến lược hàng đầu về địa chính trị và địa kinh tế.
Song thất bại lớn nhất của Mỹ trong 2 cuộc chiến này có lẽ nằm bên ngoài chiến trường: Trung Quốc chớp được thời cơ vươn lên vị trí nền kinh tế có quy mô GDP lớn thứ 2 trên thế giới, với nhiều tác động có tính toàn cầu và không ít hệ lụy cho một số nước hữu quan, nhất là các nước láng giềng. Tình hình phức tạp đến mức (a) kinh tế Mỹ và Tây Âu ngày nay rất khó được cải thiện nếu không cải thiện được các mối quan hệ nhiều mặt của họ với Trung Quốc – kể cả trên phương diện kinh tế; sự phụ thuộc lẫn nhau trong kinh tế ngày càng lớn; (b) đặc biệt là từ một thập kỷ nay Trung Quốc đẩy mạnh uy hiếp công khai bằng vũ lực trên biển, uy hiếp ngày càng trực tiếp các nước láng giềng – trong đó có các đồng minh quan trọng của Mỹ như Nhật, Hàn Quốc, có địa bàn chiến lược của Mỹ là Đông Nam Á; hòa bình ở Biển Đông bị de dọa nghiêm trọng, quyền lực mềm Trung Quốc luồn sâu vào sân sau của Mỹ ở châu Mỹ Latinh..; (c)chính sách thực dụng và 2 mặt của Trung Quốc trong một số vấn đề nóng bỏng ở châu Phi, trong những vấn đề có liên quan đến những đối tượng/đối tác rất nhạy cảm của Mỹ (Pakistan, Afghanistan, Iran, Syri, thế giới hồi giáo và vấn đề chống khủng bố…) luôn gây ra cho Mỹ những diễn biến phức tạp mới.
Nhìn theo tư duy “zero sum game” của địa chính trị toàn cầu, cũng có thể nói một cách hình ảnh: Sa lầy vào chiến tranh tại Iraq và Afghanistan, siêu cường Mỹ dưới thời Bush đã đánh mất thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 vào tay Trung Quốc[8].
- Chưa thấy các lý lẽ thuyết phục để cho rằng 2 cuộc chiến tranh Iraq & Afghanistan là nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng kinh tế hiện nay ở Mỹ (bắt đầu từ năm 2008), mặc dù 2 cuộc chiến tranh này và những hệ lụy kèm theo đã gây ra gánh nặng rất lớn cho nền kinh tế Mỹ.
Bản tổng kết của Mỹ trong thập kỷ vừa qua là: (1) kết cục không như mong muốn đã xảy ra của 2 cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan, (2) khủng hoảng kinh tế của Mỹ diễn ra đồng thời, lại trong bối cảnh cùng một lúc toàn bộ các nền kinh tế của phương Tây (trước hết là EU và Nhật) đều rơi vào khủng hoảng lớn, giữa lúc toàn bộ khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang trở thành khu vực kinh tế phát triển năng động nhất của thế giới, (3) rồi đến sự lớn mạnh của các cường quốc khu vực là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ đang đặt ra nhiều vấn đề mới cho chính sách đối ngoại của Mỹ, (4) những vấn đề phức tạp có liên quan đến thế giới Hồi giáo, đặc biệt là những thách thức đặt ra trực tiếp đối với Mỹ (trong đó có nguy cơ Iran sẽ có thể sản xuất vũ khí A, nguy cơ khủng bố lại bùng phát…) hầu như còn nguyên vẹn…
Toàn bộ tình hình như thế trên cả 2 bình diện địa chính trị và địa kinh tế đã tạo ra sức ép mới, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược có tính mở đầu một giai đoạn mới: trọng tâm chính của mọi nỗ lực mới của Mỹ sẽ chuyển vào châu Á – Thái Bình Dương.
Trên bình diện địa chính trị, sư thay đổi chiến lược của Mỹ là chủ trương thực hiện “trục xoay hướng vào châu Á – Thái Bình Dương” (the pivot to Asia & Pacific).
Trên bình diện địa kinh tế, đấy là đẩy mạnh xúc tiến Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans Pacific Partnership Agreement - TPP).
Đồng thời Mỹ đẩy mạnh tập hợp lực lượng dưới ngọn cờ hòa bình – phát triển – dân chủ & quyền con người – bảo vệ môi trường. Đối tượng chủ yếu của Mỹ trong chiến lược trục xoay này và trong TPP là Trung Quốc.
Như vậy hoàn toàn có thể nói: Trật tự quốc tế một siêu đa cường đã chấm hết thời kỳ hậu chiến tranh lạnh. Trong cục diện quốc tế mới này xuất hiện những “cuộc chơi” mới (các games) song phương và đa phương, trong đó các “cuộc chơi” Mỹ - Trung có xu hướng ngày càng nổi bật, có tác động sâu sắc mang ý nghĩa chi phối nhất định đối với địa chính trị và địa kinh tế toàn cầu – thậm chí là chi phối quyết định trong một số vấn đề cụ thể (ví dụ: quan hệ Mỹ - Trung trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên…).
Dù là dưới hình thức tranh giành nhau hay đối phó, dù là dưới hình thức hợp tác hay đối đầu, trong tình hình nhất định không loại trừ đụng độ quân sự.., nét nổi bật của các “cuộc chơi” Mỹ - Trung là: địa bàn chính là khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Đụng độ quân sự như thế nào, gián tiếp hay trực tiếp, giữa ai và ai là chính.., là những vấn đề để ngỏ. Thực tế này đẻ ra nhiều hệ lụy mới cho các nước trong khu vực – đặc biệt là cho các quốc gia từ Nhật trở xuống tới hết vùng Đông Nam Á.
Những nỗ lực của Mỹ dồn vào chuyển hướng chiến lược mới này là toàn diện và rất lớn: Những biện pháp vực dậy nền kinh tế, đổi mới hệ thống tài chính tiền tệ, cải cách giáo dục – đặc biệt là hệ đại học..; khắc phục tình trạng sa lầy ở Iraq và Afghanistan (bao gồm cả chủ trương tiến hành đàm phán trực tiếp với phe Taliban), xắp xếp lại quân đội theo hướng đẩy mạnh hiện đại hóa và tối ưu hóa hơn nữa; giảm ngân sách quốc phòng (tổng mức phải giảm từ nay cho đến trong vòng 10 năm tới là 500 tỷ USD) nhưng vẫn phải ưu tiên nâng cao vị thế và sự có mặt về quân sự của Mỹ ở khu vực CA-TBD (nhất là tại Nhật, Philippines, Đài Loan, Úc…); bố trí lại hải quân đáp ứng những ưu tiên mới này trên khu vực CA-TBD; tăng cường hợp tác và sự có mặt quân sự của Mỹ tại Úc; gia tăng các mối quan hệ với Ấn Độ, Myanmar; cổ vũ sự hợp tác của ASEAN…
Đồng thời Mỹ tiến hành nhiều hoạt động kinh tế và chính trị khác tăng cường các mối quan hệ đồng minh và liên minh của mình với mọi đối tác truyền thống ở các châu lục; tìm cách cải thiện quan hệ với một số nước châu Mỹ Latinh bất hòa – chủ yếu ở Nam Mỹ; giảm bớt những căng thẳng với thế giới đạo Hồi... Có nhiều dấu hiệu cho thấy Mỹ tích cực thúc đẩy hòa đàm Israel – Palestine, thậm chí đang tính đến những bước đi mới với Iran… Cùng với các đồng minh và liên minh của mình và thông qua tăng cường mọi hình thức hợp tác, Mỹ đang ra sức nâng cao vai trò của các thể chế khu vực và quốc tế mọi dạng – từ các diễn đàn như G7, G20.., đến các thể chế như UNO, WTO, IMF, WB, các diễn đàn với ASEAN, đẩy mạnh các vấn đề chung như môi trường, vấn đề chống các thách thức truyền thống và phi truyền thống (trong đó có những vấn đề hệ trọng như Không phổ biến vũ khí A, vấn đề chống khủng bố)…
Không phải ngẫu nhiên đã có không ít tiếng nói của Trung Quốc – đặc biệt là nhóm “diều hâu” trong quân đội… - cho rằng: Mỹ đang thực thi chiến lược bao vây Trung Quốc!
Mỹ có theo đuổi một chiến lược bao vây Trung Quốc không?
Câu hỏi này cũng được đề cập đến trong giới nghiên cứu – kể cả ở Mỹ. Đương nhiên chính giới Mỹ chính thức bác bỏ sự nghi ngờ này (!). Trong đối thoại kinh tế & chiến lược Mỹ - Trung lần thứ 5 (Obama – Tập Cận Bình ngày 07 & 08-06-2013), Obama nhấn mạnh xây xựng mối quan hệ nước lớn dựa trên sự tin cậy chiến lược (strategic trust).
Giới nghiên cứu Mỹ cũng có không ít ý kiến cho rằng không có khả năng ngăn chặn hay bao vây Trung Quốc; hợp lý và khả thi hơn là phải hướng Trung Quốc vào thực hiện trách nhiệm nước lớn của mình đối với thế giới (K. Rudd, J. Cassidy. R. Kaplan…).
Song dù thừa nhận hay không thừa nhận, “pivot to Asia & Pacific” và “TPP” trước hết hay sâu xa là nhằm kiềm chế Trung Quốc.
III - Đôi điều lưu ý về Mỹ:
(a) Với tính cách là siêu cường, Mỹ vốn có những lợi ích riêng, những đòi hỏi riêng và những thách thức riêng do vị thế siêu cường và do việc duy trì vị thế này đặt ra; không nhất thiết các đồng minh / liên minh của Mỹ (kể cả một số đồng minh chí cốt) có thể cùng chia sẻ, chưa nói đến lúc này lúc khác có những mâu thuẫn nhất định với nhau. Điều này là lẽ tự nhiên.
(b) Bên cạnh sử dụng sức mạnh và ảnh hưởng theo khả năng cho phép, siêu cường Mỹ luôn luôn phải giương cao ngọn cờ chính trị để xác lập tính chính đáng cho vai trò quốc tế của mình trong tập hợp lực lượng. Đây chính là nguồn gốc chủ yếu của cái gọi là tính hai mặt, tiêu chuẩn kép (doppel standard) trong không ít vấn đề đối ngoại của Mỹ. Tiêu chuẩn kép như vậy đương nhiên không thể thiếu trong những vấn đề dân chủ - nhân quyền cũng như trong xúc tiến Hiệp định TPP hiện nay...
Thật ra thời nào cũng thế, đã là siêu cường, là cường quốc, thì từng bước đi của nó trước hết đều do lợi ích của nó quyết định – chứ không phải do các chuẩn mực phổ cập của đạo đức (ethic).
Nói một cách trắng / đen: Trong chiến lược đối ngoại quốc gia nói chung, không gian dành cho sự thống nhất giữa bạo lực và đạo đức (theo nghĩa các chuẩn mực phổ cập) thường rất hẹp hoặc thậm chí có khi không có. Phạm trù đạo đức trong chiến lược đối ngoại quốc gia thường có những tiêu chuẩn khác... Mỹ là nước đã từng ném bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki, rải chất độc da cam lên miền Nam Việt Nam, chủ động tiến hành chiến tranh Iraq… Song hiển nhiên hiện nay Mỹ còn là một trong những nhân tố quyết định trong tập hợp lực lượng thế giới đấu tranh cho các giá trị toàn cầu. (Xin lỗi đã nói dài dòng về điểm này, vì muốn lọai bỏ những lướng vướng theo kiểu tư duy máy móc và tư duy ý thức hệ).
Ngọn cờ chính trị này của siêu cường Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh là chống cộng nhân danh tự do.
Trong thế giới của thời hậu chiến tranh lạnh ngày nay, ngọn cờ này của siêu cường Mỹ là dân chủ và nhân quyền.
Không phải ngẫu nhiên trong hội đàm Obama – Trương Tấn Sang trong chuyến thăm Mỹ chính thức của Chủ tịch nước Việt Nam (25-07-13), vấn đề Mỹ quan tâm số một là dân chủ và nhân quyền, mặc dù Biển Đông và vị thế của Việt Nam đặt ra nhiều vấn đề chiến lược khác rất hệ trọng và nóng bỏng hơn nhiều (sẽ bàn tiếp trong phần sau)[9].
Tuy nhiên, sẽ là mù quáng chết người nếu phủ nhận: Sự phát triển của văn minh nhân loại ở nấc thang hiện tại của quá trình toàn cầu hóa đang làm cho các giá trị toàn cầu như hòa bình, phát triển, tự do dân chủ, quyền con người, bảo vệ môi trường… ngày càng trở thành khát vọng chung của toàn nhân loại. Xu thế này ngày càng mạnh mẽ và phổ cập hơn, thành một quyền lực ngày càng mạnh hơn. Xu thế này, chứ không phải là ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội, đang tác động, đang hấp dẫn, hướng dẫn sự vận động của văn minh nhân loại[10].
Ngọn cờ dân chủ - nhân quyền siêu cường Mỹ đang giương cao – dù là tính hai mặt và thực dụng lúc này lúc khác đặm nhạt thế nào (vấn đề “tiêu chuẩn kép”) – tự nó khách quan có những điểm phù hợp với khát vọng chung của thời đại trên những phương diện nhất định, có tác dụng hậu thuẫn ở mức nào đó khát vọng chung của thời đại. Cần xem khía cạnh này là một nhân tố tích cực của thời đại. Phong trào các nước đấu tranh cho những giá trị toàn cầu này là cần thiết cho sự phát triển của chính các quốc gia đó, đồng thời khách quan thuận lợi cho sự phát triển của mọi quốc gia khác – trong đó kể cả siêu cường Mỹ. Đấy chính là một nội dung mới trong xu thế thời đại của thế kỷ 21, là một nét mới của tình hình quốc tế hiện nay: Chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng hướng về những giá trị chung của nhân loại - những giá trị toàn cầu. Thời kỳ chiến tranh lạnh không thể là như vậy.
Giương cao ngọn cờ dân chủ và nhân quyền như vậy không hề có nghĩa là nước Mỹ là toàn vẹn hay chiếm đỉnh cao của nhân loại trên phương diện này. Chưa nói đến giương cao ngọn cờ là một chuyện, hành xử để bảo vệ hay thực hiện lợi ích của siêu cường lại là chuyện hoàn toàn khác.
(c) Mỹ và các đồng mình / liên minh đã hình thành một tập hợp lực lương chung quanh các giá trị phổ cập của nhân loại.
Bất luận còn xảy ra nhiều điều trái ngược, còn những cái gọi là “tiêu chuẩn kép”.., trên thực tế và về nhiều phương diện, các nước phát triển ở mọi châu lục, hiện nay đang trở thành lực lượng dẫn dắt trào lưu tiến bộ của thế giới; nguyên nhân chính là (1) trình độ phát triển cao đã đạt được của họ, và (2) họ hướng về lấy các giá trị toàn cầu làm các thành tố xây dựng các chuẩn mực chi phối quan hệ quốc tế mọi mặt. (3) trật tự quốc tế ngày nay vừa đòi hỏi vừa cho phép thúc đảy xu thế vận động này. (Đã đến lúc trong nghiên cứu và giảng dậy phải rỡ bỏ mọi kiêng cấm ý thức hệ đang cố bỏ qua thực tế này).
(d) Những thay đổi đang diễn ra trong so sánh lực lượng nhiều mặt (kinh tế, quân sự, chính trị, công nghệ và khoa học kỹ thuật, các nguồn lực khác…) giữa siêu cường Mỹ và toàn thế giới còn lại cho thấy Mỹ ngày càng “nhỏ hơn” so với những đòi hỏi hay thách thức nó phải đối mặt. Nhưng mặt khác, là chủ lực quan trọng số 1 (không phải là chủ lực duy nhất) của đội ngũ đồng minh / liên minh trong tập hợp lực lượng mới chung quanh các giá trị toàn cầu, Mỹ đã và đang tìm được môi trường mới, đang hình thành một chiến lược mới cho việc duy trì và tiếp tục bảo tồn hay phát huy vị thế của chính mình trong thế giới ngày nay. Đây cũng là sự thay đổi ngày càng rõ nét của siêu cường Mỹ trong một thế giới đang thay đổi quyết liệt. Thực tế này bù lại được phần nào những thiếu hụt trong quá trình vị thế “đang nhỏ dần đi” của siêu cường Mỹ trên bàn cờ quốc tế.
Cần hiểu rõ thực tế vừa nêu trên để thấy: Bên cạnh củng cố thực lực, Mỹ coi thực hiện chủ trương phát huy tập hợp lực lượng chung quanh những giá trị toàn cầu là một đòi hỏi sống còn cho sự tồn tại và phát triển của chính nước Mỹ, là một mũi tiến công quan trọng cho việc bảo tồn vị thế hiện nay của Mỹ. Yêu cầu này của Mỹ khách quan tạo ra không gian mới nhất định cho các mối quan hệ hợp tác xây dựng giữa các nước với Mỹ.
(e) Sẽ là sai lầm nếu như coi siêu cường Mỹ là anh hùng cứu nhân độ thế cho tự do dân chủ, quyền con người, cho các giá trị toàn cầu khác... Nhưng cũng sẽ là ngu ngốc không kém và sớm muộn sẽ phải trả giá, nếu một quốc gia không lựa chọn cho mình con đường đi cùng xu thế tiến bộ của nhân loại, thậm chí muốn đi ngược lại, hay không biết nương theo trào lưu của thời đại.
Nhìn từ góc độ các nước đang phát triển, có thể và cần rút ra kết luận: Thời đại ngày nay cho phép, một quốc gia nếu xác định được con đường đi cùng với trào lưu của thời đại – trào lưu của các giá trị toàn cầu - để phát triển và để khẳng định chính mình, sẽ có thể tìm được lối ra và tranh thủ được sự thừa nhận và hậu thuẫn rộng rãi của cộng đồng quốc tế, vô luận đấy là nước lớn hay nhỏ, rơi vào hoàn cảnh nào, và nằm ở bất kỳ đâu trên trái đất này. Thay đổi ở Myanmar có thể được xem như một ví dụ gần đây nhất, có tính thời sự nóng hổi nhất đang nói lên khả năng này? Phải chăng đây cũng là một kết quả, một nét mới trong thay đổi mọi tương quan trên bàn cờ quốc tế ngày nay?
Nói rõ hơn nữa: Cần có cách nhìn vấn đề như vừa trình bầy trên, để không xem những vấn đề hay đòi hỏi của Mỹ đặt ra cho các đối tác của mình về tự do dân chủ, về quyền con người đơn thuần chỉ là “vũ khí can thiệp vào công việc nội bộ nước khác” – mặc dù điều này là không tránh khỏi. Muốn trở thành đối tác được tôn trọng của Mỹ, cũng không phải là chỉ cần chấp nhận “dựa” vào Mỹ hay tuân thủ các đòi hỏi của Mỹ, mà trước hết phải là một thành viên chủ động và năng động trong trào lưu tiến bộ của thời đại ngày nay – một thành viên chủ động và có bản lĩnh trong cộng đồng quốc tế.
(f) Chiến tranh thế giới II đã diễn ra giữa các nước lớn. Song kể từ đó đến nay điều này không xảy ra nữa, vì các lẽ: (1) ngày nay khả năng hủy diệt lẫn nhau rất lớn, (2) không thể vượt qua được sự phụ thuộc lẫn nhau toàn cầu, (3) quá trình toàn cầu hóa toàn diện – nhất là về kinh tế - tạo ra những ràng buộc khó phá vỡ, vân vân…
Đánh giá tình hình mọi mặt trên bàn cờ thế giới hiện nay cũng có thể nhận định: Hiện nay và trong một tương lai có thể xác định được – ví dụ từ nay đến giữa thế kỷ 21 hay xa hơn nữa, khả năng xảy ra chiến tranh trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc có thể gần như bằng không (zero), vì nhiều lẽ, trong đó có một thực tế là: cho dù mâu thuẫn hay xung đột lợi ích giữa Mỹ và Trung Quốc quyết liệt như thế nào, và tính đến mọi mất/được nếu phải tiến hành chiến tranh, tất cả hình như đều không đủ bức thiết đến mức phải lựa chọn phương án này[11]. Kịch bản hiện thực hơn có lẽ là: Đụng độ Mỹ - Trung (xin tạm dùng khái niệm này) nếu xảy ra vì bất kỳ lý do gì, có lẽ sẽ được giải quyết trên địa bàn hay trên trận địa nước thứ ba, hoặc là thông qua những vấn đề của nước, các nước bên thứ ba.
Trong dự báo nói trên (không thể, khó có thể xảy ra chiến tranh Mỹ - Trung), có lẽ cần chú ý một ngoại lệ tuy rất khó xảy ra nhưng không phải là không tiềm tàng: Đó là tính huống một khi xảy ra sự lầm lỡ như là một tai nạn của con người, giả thử dẫn đến trạng thái không thể kiểm soát được tình hình. Thể giới đôi lúc đã mấp mé ở trạng thái này khi Bắc Triều Tiên làm nhiều việc nguy hiểm và đồng thời ngày 30-03-2013 tuyên bố chiến tranh với Hàn Quốc, bác bỏ Hiệp định đình chiến 1953.., tình hình nhạy cảm không kém khi các tầu chiến và máy bay Trung Quốc trực tiếp xâm phạm vùng đảo Senkaku / Điếu Ngư, vân vân…
Thật ra, lấy nước bên thứ ba (hoặc các vấn đề của nước bên thứ ba) làm sân chơi để các nước lớn giải quyết “nỗi buồn” của họ với nhau là một thực tiễn khá phổ biến, đã xảy ra liên tiếp trên bàn cờ quốc tế kể từ sau chiến tranh thế giới II cho đến ngày nay. Đây chính là điều các nước thứ ba ngày nay đừng quên và phải luôn luôn cảnh giác.
Những thay đổi của Mỹ trong chiến lược toàn cầu ngày nay đặc biệt quan tâm đối phó với (a) sự bành trướng ảnh hưởng quá nhanh của Trung Quốc, và (b) những thách thức toàn diện ngày càng khó kiểm soát của nước 1,3 tỷ dân này[12].
Mỹ đã công bố thẳng thắn: Những thay đổi chiến lược của Mỹ nhằm thực hiện tái cân bằng chiến lược toàn cầu, tập trung vào khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (Obama, H. Clinton, Kerry); trong đó ASEAN được Mỹ coi là một trọng tâm của chiến lược này. Yêu cầu tái cân bằng chiến lược như vậy đã trở thành một trong những yếu tố quyết định khiến cho “cuộc chơi” Mỹ - Trung có vị trí nổi bật nhất và chi phối những “cuộc chơi” khác trên bàn cờ quốc tế.
Các nước hữu quan trong khu vực với tính cách là nước bên thứ ba - trong đó có Việt Nam, đứng trước câu hỏi trực tiếp: Ngay từ bây giờ, phải ứng xử như thế nào và với bản lĩnh nào, một khi “cuộc chơi” Mỹ - Trung này đã bắt đầu và đang diễn ra ngay trên đầu mình, trên đất mình, hay là ngay trước cửa ngõ nhà mình?
Như đã nói bên trên, sẽ không có chuyện Mỹ là anh hùng cứu nhân độ thế cho tự do dân chủ và nhân quyền. Tại đây xin bổ sung: Cũng sẽ không có chuyện siêu cường Mỹ là lính đánh thuê giữ nhà cho bất kỳ ai. Và như mọi cường quốc khác, Mỹ đã cũng mắc không ít sai lầm.
(g) Chuyển hướng vào chiến lược “trục xoay CA – TBD”, không có nghĩa siêu cường Mỹ đã được rảnh tay trong nhiều vấn đề nan giải khác thuộc chiến lược toàn cầu của Mỹ. Có thể nói những vấn đề nan giải ấy chưa dịu đi bao nhiêu, thậm chí không ít vấn đề vẫn còn nguyên vẹn, tiếp tục phát triển… Thực tế này chính là một trong những nguyên nhân quyết định, dẫn tới chuyển hướng chiến lược của Mỹ. Phải chăng điều này có nghĩa: Tìm cách ngăn chặn nguy cơ lớn nhất là Trung Quốc, để giành lại chủ động trong thế bị động? Chuyển hướng của Mỹ trong tình thế như vậy, càng làm rõ thêm tầm vóc của mối nguy Trung Quốc đối với Mỹ nói riêng và đối với thế giới còn lại nói chung.
Tuy nhiên, trong giới nghiên cứu ở Mỹ cũng có những ý kiến lo ngại chiến lược “trục xoay” có thể tăng mối lo của Trung Quốc, qua đó khiến Trung Quốc có thể trở nên hiếu chiến hơn. Loại ý kiến này khuyến cáo chính giới Mỹ nên tăng cường nỗ lực lôi kéo Trung Quốc cùng đi với cả thế giới, Mỹ và cả Trung Quốc không nên rơi vào cái bẫy Thucydides (Clifford Kiracofe)[13], cả thế giới cần nỗ lực tìm cách chuyển đổi hệ thống một siêu cường hiện nay sang một hệ thống thân thiện hơn (J. Cassidy, K. Rudd, M. Jacques, C. Kiracofe…) (?!)[14]… Loại ý kiến này cần tham khảo, song khó đứng vững trước những gì đã và đang diễn ra ở Biển Đông, ở biển Hoa Đông trong suốt những năm qua và hiện nay.
Mọi nỗ lực của chính quyền Obama dành cho chuyển hướng vào chiến lược “trục xoay” đến nay vẫn kiên định. Đồng thời Mỹ cũng đẩy mạnh chính sách chia sẻ trách nhiệm trong hàng ngũ đồng minh / liên minh để bớt gánh nặng cho Mỹ. Chưa nói đến một thực tế khác rất quan trọng: CA-TBD, đặc biệt là các quốc gia phía Tây TBD, là khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới trong thế kỷ này, Mỹ nhất thiết không thể đứng ngoài.
Đối với đồng minh EU: Là đồng minh chí cốt của Mỹ, nhưng lại chìm ngập sâu vào khủng hoảng kinh tế - trước hết là khủng hoảng tài chính và vấn đề nợ công, nguy hiểm đến mức gần như đe dọa làm tan vỡ đồng Euro – khiến cho thế và lực của Mỹ cũng bị suy yếu. Hơn thế nữa các nước EU – kể cả những thành viên lớn như Đức, Anh, Pháp.., có quá nhiều mối liên hệ kinh tế với Trung Quốc, nên khó có thể có sự cứng rắn cần thiết trong đối xử với Trung Quốc.
Đối với Nhật: Tín hiệu tốt đối với Mỹ là kinh tế Nhật bắt đầu phục hồi sau 2 thập kỷ trì trệ và thắng lợi bầu cử vang dội ở cả hạ viện và thượng viện tháng 7-2013 của đảng Dân chủ Tự do (Liberal Democratic Party – LPD) của thủ tướng Abe. Đấy cũng là tín hiệu của cả nước Nhật về sự trả lời rất kiên quyết đối với những hành động hiếu chiến của Trung Quốc trong tranh chấp đảo Senkaku / Điếu Ngư. Trước bầu cử, Nhật đã ban bố sách trắng về quốc phòng, trong đó biểu thị lập trường dứt khoát của Nhật trong bảo vệ chủ quyền của mình. Sau bầu cử, LPD đang tiến hành vận động sửa đổi Hiến pháp, dự kiến sửa đổi nhiều điều quan trọng liên quan đến thể chế chính trị và kinh tế. Một trong những sửa đổi nổi bật sẽ là đòi hỏi lập lại chủ quyền đầy đủ về quốc phòng và tăng cường thực lực quân sự (bao hàm cả vấn đề tự trang bị vũ khí, vấn đề quân đội Nhật được hoạt động ngoài phạm vi lãnh thổ của mình khi tình hình đòi hỏi…) – nghĩa là xóa bỏ tất cả những ràng buộc hạn chế Nhật còn sót lại trong quá trình thi hành những quyết định của Hội nghị Teheran và Hội nghị Yalta đầu năm 1945 về chiến tranh thế giới II.
Mặc dù trong nội bộ Nhật còn những chia rẽ nhất định chung quanh việc sửa đổi Hiến pháp, song có thể nhận định: Nhật kiên trì còn nước còn tát trong duy trì hòa bình với Trung Quốc, nhưng rất quyết liệt thay đổi tất cả để đáp ứng những đòi hỏi và thách thức mới từ phía Trung Quốc. Bước phát triển mới này của Nhật là cần thiết, Mỹ hưởng ứng. Đương nhiên sự vươn lên của Nhật về quốc phòng không tránh khỏi những dị nghị hay lo ngại của 2 láng giềng là Nga và Hàn Quốc – cả 2 nước này đều có tranh chấp biển đảo với Nhật (vùng quần đảo Kurril do Nga kiểm soát; đảo Tokdo / Takeshima do Hàn Quốc kiểm soát); Nhật lại là đông minh chiến lược của Mỹ.
Đối với Nga: Do nhiều yếu tố khác nhau của lịch sử để lại – nhất là từ thời chiến tranh lạnh, do những va chạm có tính địa chính trị toàn cầu không tránh khỏi trong quá trình Nga ngày nay đang theo đuổi khát vọng lấy lại vị thế một thời đã từng ngang ngửa với Mỹ suốt thời kỳ chiến tranh lạnh.., bức tranh va chạm hay mâu thuẫn hiện nay có vẻ đậm nét hơn bức tranh hợp tác trong tổng thể mối quan hệ Nga - Mỹ.
Trong các vấn đề do lịch sử để lại có vấn đề rất nhay cảm là nhiều nước XHCN Đông Âu cũ và một số nước trong Liên Bang Xô Viết cũ nay trở thành thành viên của NATO, qua đó hình thành trên thực tế một vòng tròn NATO bao quanh Nga. Tất cả những quốc gia thành viên NATO mới này trong quá khứ có nhiều vấn đề lịch sử rất sâu sắc với Liên Xô cũ. Nước Nga bây giờ vẫn đứng trước nguy cơ ly khai của Checnya và phong trào khủng bố tại đây… Mớ quan hệ rối rắm này bây giờ được bổ sung thêm những vấn đề nhạy cảm mới như việc NATO bố trí tên lửa giáp nước Nga (phía Đông Âu, với lý do ngăn chặn khủng bố và những nguy cơ khác đến từ Bắc Triều Tiên, Trung Quốc…), đàm phán chật vật Mỹ - Nga hiện nay về cắt giảm số tên lửa chiến lược mang đầu đạn hạt nhân, vấn đề tỵ nạn của Snowden,… Những thách thức mới từ phía Trung Quốc buộc Mỹ và Nhật phải tăng cường hợp tác để củng cố sức mạnh chung; nhưng thực tế này lại kích thích sự ngờ vực của Nga, kích thích sự liên kết Nga – Trung ở mức độ nhất định. Nga và Trung Quốc gặp nhau ở chỗ cả 2 đều không muốn chính quyền Assad sụp đổ, vì Syri là vị trí duy nhất hiện nay Nga còn có được trong thế giới Ả-rập, Trung Quốc không muốn Mỹ và phương Tây tiếp tục mở rộng ảnh hưởng tại đây... Trong khi đó Mỹ và đồng mình không thể chấp nhận việc Nga cùng với Trung Quốc ngăn cản những nỗ lực của Liên hiệp quốc cho giải pháp vấn đề Syri và chống lại sự can thiệp của phương Tây.
Nhưng mối nguy hiểm lớn nhất đối với Mỹ (và phương Tây) có lẽ không nằm trong vấn đề chính quyền Assad tồn tại hay không tồn tại, mà là hiệp đồng Nga – Trung chống lại Mỹ trong vấn đề Syri đang manh nha nguy cơ hình thành một kiểu trục Nga – Trung trong những tình huống nhất định...
Những hệ quả của sự hiệp đồng Nga - Trung này đang trở thành thách thức trực tiếp đến vị thế siêu cường hiện nay của Mỹ, kể cả ở Liên hiệp quốc. Tâp trận chung hải quân Nga – Trung Quốc thượng tuần than 04-2013 tại Hoàng Hải cùng mang một ý nghĩa như vậy. Nhưng ngay sau đó tại Quân khu phía Đông (bao gồm vùng Viễn Đông và một phần Siberia), Nga đã tiến hành tập trận lớn chưa từng có trên bộ (vùng giáp ranh với Trung Quốc), bao gồm cả việc diễn tập trên biển tại vùng đảo Sakhalin. Cuộc tập trận lớn này của Nga có lực lượng thủy, lục, không quân với 10 vạn lính tham gia, có sự thị sát của tổng thống Putin. Giới nghiên cứu cho rằng: Tập trận của Nga trên bộ là nhằm răn đe Trung Quốc đang muốn dòm ngó vùng Viễn Đông, còn tập trận tại vùng đảo Sakhalin là nhằm cảnh báo Mỹ và Nhật. Thế giới quả là phức tạp.
Một số người trong giới nghiên cứu Mỹ cân nhắc trên nhiều phương diện và đi tới kết luận: Có lẽ Trung Quốc, chứ không phải Mỹ, mới là sự uy hiếp hiện hữu lớn nhất hiện nay đối với Nga. Họ tính toán xem có cách nào tận dụng thực tế này thúc đẩy quan hệ Mỹ - Nga được không?
Trong khi đó cũng ở Mỹ lại có ý kiến ngược hẳn lại: Nhìn vào chính sách của Nga trong vấn đề Syrie, vào thái độ của Nga rắn lên đối với Mỹ và một số nước phương Tây trong nhiều vấn đề kinh tế và chính trị, gần đây lại thêm vụ E. Snowden.., vào các sự việc như đang dấy lên hoài bão làm sống lại sự huy hoàng của Nga qua các thời Sa hoàng, thời Stalin… phải chăng Nga đang tìm kiếm một liên minh nào đó với Trung Quốc và thế giới đạo Hồi, với mục tiêu mau chóng lấy lại vị thế đã từng có dưới thời Liên Xô và chống trả ảnh hưởng của Mỹ - phương Tây? Chú ý: Một số nhà báo Nga và phương Tây nhìn nhận Putin như một sa hoàng mới giấu mình.
Đối với thế giới Ả-rập, vấn đề đạo Hồi, vấn đề chống khủng bố…: Sau chiến tranh Iraq và Afghanistan, Mỹ dưới thời Obama rất thận trọng trước những diễn biến ở các nước Bắc Phi, nhất là trong việc đưa quân đội thực hiện can thiệp trực tiếp. Có nhiều nguyên nhân cho sự thận trọng mới này. Nguyên nhân chủ yếu có lẽ ở chỗ: Sự nổi dậy của các nước Ả-rập Bắc Phi trước hết vì những lý do bị bần cùng hóa về kinh tế, chứ không phải khát vọng dân chủ là chủ yếu; đã thế xã hội các quốc gia Ả-rập này chia rẽ sâu sắc về tôn giáo, sắc tộc và phe nhóm hình như không một khát vọng dân chủ hay một thể chế dân chủ nào có thể vượt qua được.
Những diễn biến tại các quốc gia này còn cho thấy Mỹ và phương Tây không thể gửi gắm vào bất kể một lực lượng, phe nhóm hay sắc tộc nào… Iraq và Afghanistan đã chứng minh là như thế, bây giờ lại có thêm Ai-cập là như thế.
Với sự dính líu của Trung Quốc vào những quốc gia Ả-rập này, tình hình còn trở nên phức tạp hơn (đã lộ ra trong những vụ việc có liên quan đến Syri, Pakistan, Afghanistan...) Không phải ngẫu nhiên cuối cùng Mỹ phải tìm cách xúc tiến đàm phán trực tiếp với Taliban tại Afghanistan, vì chính quyền Karzai quá tham nhũng và bất lực, tất nhiên tổng thống Karzai rất phẫn nộ…
Việc vũ khí hóa học được sử dụng trong nội chiến ở Syri (phương Tây khẳng định thủ phạm là chính quyền Assad) đặt Mỹ và phương Tây trước sự lựa chọn khó khăn: Nga và Trung Quốc muốn cùng nhau vận động thế giới đạo Hồi chống lại mọi quyết định của Mỹ và phương Tây và cản trở HĐBA LHQ có quyết định về vấn đề nhạy cảm này; nhưng nếu Mỹ và phương Tây không can thiệp vũ trang để trừng trị chính quyền Assad cũng sẽ để lại nhiều hiểm họa khôn lường như là trường hợp can thiệp. Trên thực tế, ngoài chuyện vấn đề Syrie trước hết là của Syrie còn có vấn đề đây là địa bàn tranh chấp một bên là Mỹ và phương Tây, một bên là Nga-Trung và thế giới đạo Hồi. Nhìn theo góc độ này, Syrie đang rơi vào số phận nước bên thứ ba. Tình hình chứa đựng một nguy cơ khủng hoảng lớn có ảnh hưởng lan ra ngoài khu vực.
Vấn đề hạt nhân của Iran ngày càng nóng và bế tắc, sự phản ứng rất quyết liệt để tự vệ của Israel trước nguy cơ này (bao gồm cả tuyên bố sẵn sàng đánh đòn phủ đầu) càng như đổ thêm dầu vào lửa. Dứt khoát Mỹ không thể bỏ rơi Israel. Nhưng cũng dứt khoát Mỹ không thể chấp nhận để vấn đề hạt nhân (bao gồm cả khả năng hay nguy cơ sản xuất vũ khí A) của Iran vượt ra ngoài sự kiểm soát… Hiện nay Mỹ đang thúc đẩy hòa đàm Israel – Palestin, đồng thời đang tìm kiếm khả năng lôi kéo Iran vào một sự hợp tác hòa bình nào đó và đang ra sức khai thác việc tổng thống Hassan Rowhani thuộc phe ôn hòa ở Iran thắng cử... Vấn đề Syri đang cản trở nỗ lực này.
Vấn đề chống khủng bố có chiều hướng tích tụ thêm những hiện tượng phức tạp mới, đặc biệt do nguyên nhân buôn bán lậu vũ khí, mối nguy tán phát vũ khí A hay công nghệ quân sự cao qua đường buôn lậu, hoặc qua các con đường chính trị khác rơi vào tay các lực lượng khủng bố… Vừa qua quân khủng bố đã phá 9 nhà tù tại các nước Đông và Bắc Phi, tại Pakistan.., hàng trăm phần tử khủng bố Al Qeada đã trốn thoát, nguy cơ khủng bố có thể bùng nổ trở lại, Mỹ có lúc đã buộc phải tạm đóng cửa 19 đại sứ quán trong vùng này…
Vấn đề Biển Đông: Như đã trình bày trên, Biển Đông là một trọng tâm của chiến lược “trục xoay”. Lập trường của Mỹ là không chấp nhận đường lưỡi bò, đòi phải bảo đảm lưu thông hàng hải tự do, phản đối giải pháp vũ lực, đòi mọi tranh chấp biển đảo phải được giải quyết bằng thương lượng đa phương theo luật pháp quốc tế. Tuy nhiên Mỹ tuyên bố không can thiệp trực tiếp vào giải quyết tranh chấp biển đảo giữa các nước trong khu vực, quan điểm này không cản trở Mỹ giúp các đồng minh của mình theo thỏa thuận hợp tác song phương về quốc phòng.
Trước tình hình Trung Quốc chiếm bãi cạn gần Scarborough / Hoàng Nham (2011 – 2012) và còn lăm le mở rộng lấn chiếm nữa, Philipines và Mỹ tăng cường hợp tác quân sự với nhau trong khung khổ ký kết hiện có giữa hai nước; 2 bên đang xúc tiến đàm phán để Mỹ dưới dạng nào đó trở lại căn cứ Subic và Clark. Mỹ ủng hộ DOC và thúc giục phải sớm hoàn thành COC.
Vấn đề Đài Loan: Đây là chiến hạm không bao giờ chìm của Mỹ trên Thái Bình Dương án ngữ trước mặt Trung Quốc (Douglas MacArthur). Vì khác nhau về chế độ chính trị, trong một thời gian nhất định khó có thể xảy ra khả năng Đài Loan hòa bình thống nhất hay trở về với Trung Quốc đại lục; trong khi đó Trung Quốc dứt khoát bác bỏ quan điểm 2 Trung Quốc.
Trong giới nghiên cứu Mỹ hiện nay có mối lo ngại: Mối quan hệ kinh tế Đài Loan - Trung Quốc ngày càng lớn và mật thiết sẽ có thể gây ra những biến đổi gì? Hiện nay 2/3 số công ty của Đài Loan đang đầu tư vào Trung Quốc hay kinh doanh với đại lục, mỗi tuần có 270 chuyến bay giữa hai bờ. Trung Quốc hiện nay là khách hàng số 1 về xuất khẩu của Đài Loan, khách hàng nhập khẩu số 2 của Đài Loan. Hiện nay mỗi năm Đài Loan có trên nửa triệu khách du lịch đến từ đại lục, và khoảng 750.000 người Đài Loan vào sống 6 tháng trên đại lục. Nói khái quát, ngày nay 60 – 70% kinh tế Đài Loan là làm ăn với đại lục. Mọi tác động qua lại giữa hai bờ không hề hấn gì đối với sức mạnh của thể chế chính trị ở đại lục, nhưng cũng không thể kéo Đài Loan về chung sống dưới một mái nhà Trung Quốc… (Tình hình quan hệ giữa đại lục và Hongkong, giữa đại lục và Macao cũng tương tự).
Tuy nhiên, nên xem xét một giả thiết khác: Với những diễn biến nhất định nào đó (trong đó có sự suy yếu tiếp tục của Mỹ, hoặc giả định là Trung Quốc thay đổi chiến lược và có sự nhân nhượng nào đó đối với Đài Loan…) dẫn tới một tình huống cho phép xảy ra kịch bản một “liên bang Trung Quốc”, trong đó Đài Loan là một bang (với những quyền tự trị rất cao) và cùng đứng chung với đại lục dưới ngọn cờ Đại Hán thì sao? Bước đệm cho kịch bản này đã có sẵn rồi – đấy là quan điểm “một Trung Quốc hai chế độ” đang dành cho việc duy trì thể chế của Hongkong và Macao.
Trong một “liên bang” như vậy, cái mà Đài Loan sẽ nhận được là (a) mối nguy bị thôn tính từ phía đại lục sẽ không còn nữa, và (b) kinh doanh trên đại lục càng béo bở; cái Đài Loan sẽ mất là (c) bản thân mình không còn là một “chiến hạm không bao giờ chìm” của Mỹ nữa. Và trong một tình huống như thế, chắc gì Đài Loan muốn đóng vai trò là chiến hạm không bao giờ chìm của Mỹ? Việc Đài Loan đánh chiếm một số đảo của Việt Nam ở Hoàng Sa và đứng cùng một chiến tuyến với Trung Quốc trên Biển Đông trong một số vấn đề quan trọng cho thấy máu Đại Hán cũng tiềm tàng trong cơ thể Đài loan.
Giả thiết về một liên bang Trung Quốc như thế có thể còn xa với, nhưng trong tham vọng chính trị của cường quốc có điều gì là không muốn, không dám?..
Xin lưu ý: Trong tình huống nhất định (ví dụ: xảy ra khủng hoảng mới ở Trung Đông, trong thế giới đạo Hồi, trong lòng nội địa Trung Quốc.., hoặc trục Nga – Trung công khai xuất hiện…)., và một khi (1) sự tha hóa các giá trị của Đài Loan, (2) sức ép + sự quyến rũ (cái roi và củ cà-rốt) của đại lục, (3) cộng hưởng với sự suy yếu của Mỹ đạt tới một điểm nào đó, việc xảy ra khả năng đại lục chớp thời cơ tạo lập một “liên bang Trung Quốc” sắc thái Đại Hán có thể không hẳn là chuyện của khoa học viễn tưởng.
Một “liên bang Trung Quốc” sắc thái Đại Hán như thế, sẽ hệ lụy ra sao đối với (a) các nước Đông Nam Á, (b) so sánh lực lượng và mối tương quan giữa các cường quốc hữu quan: Mỹ, Nhật, Nga, Ấn-độ, sự tập hợp lực lượng mới… (c)toàn bộ hệ thống liên minh quân sự của Mỹ ở CA-TBD?
Xin lưu ý: Có không ít ý kiến cho rằng sự khác nhau về hệ thống chính trị giữa môt bên là Trung Quốc đại lục và một bên là các thực thể lãnh thổ Trung Quốc như Đài Loan, Macao, Hongkong là rất lớn. Do đó có thể loại trừ khả năng có một Trung Quốc thống nhất, dù là dưới dạng liên bang. Liệu suy nghĩ này có thể đứng vững?
Thực tế những thập niên vừa qua cho thấy sự khác biệt về chế độ chính trị không ảnh hưởng đến quá trình phát triển tiếp tục các mối quan hệ giữa đại lục và các thực thể Trung Quốc khác. Thậm chí, với bản chất là chủ nghĩa tư bản trong chế độ toàn trị một đảng đặc sắc Trung Quốc, khoảng không gian của đại lục dành cho các mối quan hệ hợp tác và liên kết với các thực thể lãnh thổ Trung Quốc này đang ngày càng mở rộng mà không bên nào phải thay đổi thể chế của mình.
Một khía cạnh khác: Trong giới chuyên gia quân sự Mỹ có ý kiến lo ngại từ năm 2020 trở đi khả năng của Mỹ bảo vệ Đài Loan có thể sẽ ngày càng giảm. Không loại trừ tình huống đến lúc nào đó và trong những điều kiện nhất định, đại lục có thể thống nhất Đài Loan bằng vũ lực - (theo Kaplan, dựa vào nghiên cứu của RAND[15])… Điều gì sẽ xảy ra nếu mối lo này thành hiện thực? Rồi phản ứng dây chuyền của sự đổ vỡ này đối với toàn khu vực Châu Á – Thái bình Dương?.. Đã có ý kiến đề xuất từ RAND: Đối sách của Mỹ có thể là phải bằng mọi cách kéo dài tình trạng hiện thời của Đài Loan cho đến khi có một sự phát triển dân chủ hơn xảy ra ở đại lục Trung Quốc…[16] Lại thêm một ảo tưởng nữa?
Vấn đề Đài Loan như vừa trình bầy làm rõ thêm sự bức thiết của chiến lược “trục xoay” và việc Mỹ quay lại CA – TBD.
Tuy nhiên, Trung Quốc sẽ phát triển như thế nào và có thể hành động gì? – thiết nghĩ còn rất nhiều ẩn số ở phía trước. Mỹ cũng có danh mục khá dài các biện pháp đơn phương, đa phương, tổng hợp… để khống chế Trung Quốc khi tình hình đòi hỏi.
Có thể rút ra kết luận về Mỹ:
Nhìn tương quan lực lực lượng toàn cầu và xu thế vận động hiện nay của thế giới, có thể đánh giá: Chí ít cho đến giữa thế kỷ 21, Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất, vị thế này là không thể thách thức.
1. Quá trình phạm vi ảnh hưởng của siêu cường Mỹ “đang nhỏ dần đi” là không thể cưỡng lại. Trong khi đó Mỹ vẫn chưa ra khỏi được nhiều vấn đề tồn tại lâu nay (trong đó có các vấn đề Iraq, Afghanistan, vấn đề các nước Bắc Phi, vấn đề Israel - Palestin…). Đồng thời nhiều vấn đề gai góc khác tiếp tục nóng lên (vấn đề nguy cơ vũ khí A của Iran và Băc Triều Tiên, vấn đề khủng bố, quan hệ NATO – Nga, quan hệ Mỹ - Nga, hiện nay xuất hiện thêm vấn đề Snowden với cả thế giới, vấn đề vũ khí hóa học đã được sử dụng ở Syri…). Trong bối cảnh đó từ hơn một thập kỷ nay sự vận động của siêu cường đang lên Trung Quốc tiềm tàng nguy cơ xáo trộn trật tự quốc tế hiện thời, thách thức trực tiếp nhất vị thế siêu cường của Mỹ, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược toàn cầu của mình.
2. Song trong cục diện quốc tế hiện tại một siêu đa cường, Mỹ và đồng minh / liên minh vẫn giữ vai trò chi phối – trong nhiều trường hợp là vai trò quyết định – đối với diễn tiến hay giải pháp của hầu hết mọi vấn đề toàn cầu hay khu vực, của mọi thách thức truyền thống hay phi truyền thống.
Về nhiều mặt đồng minh / liên minh Mỹ - phương Tây còn là lực lượng dẫn dắt trào lưu và xu thế phát triển của thế giới (trào lưu của văn minh nhân loại, của tự do dân chủ, sự phát triển của khoa học và công nghệ…). Trong mối liên kết đồng minh / liên minh này, với phương thức tập hợp lực lượng thông qua ngọn cờ dân chủ - nhân quyền và những giá trị toàn cầu khác, Mỹ có vai trò nổi bật. Toàn bộ thực tế này trong tình hình mới khách quan bù đắp lại đáng kể những hao mòn vị thế xảy ra trong quá trình “đang nhỏ đi” của siêu cường Mỹ.
3. Thay đổi triệt để nhằm tạo mọi khả năng tiếp tục giữ vị thế quyết định toàn cầu và đồng thời nắm lấy vai trò đi đầu trào lưu phát triển của thế giới với phương thức tập hợp lượng mới, đấy chính là con đường phát triển Mỹ lựa chọn để duy trì và tiếp tục phát huy vị thế siêu cường của mình, qua đó tác động vào cục diện thế giới.
4. Thách thức lớn nhất đối với Mỹ có lẽ chính là vấn đề: Thể chế chính trị Mỹ liệu có đủ sức kham nổi những thay đổi không ít đau đớn trong mọi lĩnh vực kinh tế, nội trị, quốc phòng, đối ngoại.., để cùng với cả thế giới phương Tây tiếp tục phát huy ảnh hưởng có lợi cho cục diện quốc tế chung hay không?[17].
5. Bù lại vị thế siêu cường của mình đang nhỏ dần đi, Mỹ quan tâm đẩy mạnh tập hợp lực lượng chung quanh những giá trị toàn cầu. Thực tế này khách quan có lợi cho việc mở rộng quan hệ hợp tác với Mỹ như một đối trọng có ý nghĩa quyết định cho việc xử lý ảnh hưởng bành trướng của Trung Quốc.
IV – Trung Quốc trở thành vấn đề của cả thế giới
Trong vòng hơn một thập kỷ nay, nhất là từ khi vứt bỏ khẩu hiệu “trỗi dạy hòa bình”, Trung Quốc trong lời nói cũng như hành động, ngày càng biểu lộ công khai khát vọng siêu cường của mình. Cũng trong khoảng thời gian này, trên thế giới, nhất là ở Mỹ, ngày càng nhiều công trình nghiên cứu, sách báo… cảnh báo thế giới những vấn đề siêu cường đang lên Trung Quốc đang đặt ra cho cả thế giới[18].
Về kinh tế
So với khi tiến hành cải cách năm 1978, kinh tế Trung Quốc hiện nay tăng khoảng 30 - 35 lần (về quy mô GDP). Hãy hình dung về tốc độ: Năm 1990 kinh tế TQ đạt GDP tính theo đầu người là 350 USD; năm 2000 là 1000 USD p.c.; năm 2009 là 3000 USD p.c. (đây là GDP p.c. danh nghĩa, tính theo thời giá, không phải tính theo sức mua PPP)... Năm 2020 dự kiến GDP p.c. sẽ đạt 8500 USD; năm 2030 dự kiến 20.000 USD p.c. Tập đoàn Goldman Sachs dự báo GDP kinh tế TQ sẽ vượt Mỹ năm 2041. Hiện nay Trung Quốc có khoảng 1500 tỷ USD dự trữ ngoại tệ và là chủ nợ của hầu hết các nước Mỹ và Tây Âu (Trung Quốc nắm giữ 1250 tỷ USD trái phiếu Mỹ)…[19] Theo IMF, GDP p.c. nominal của Trung Quốc năm 2012 là 6000 USD (trong khi đó của Mỹ là 49.000 USD, của Thái Lan là 5678 USD, của Việt Nam là 1578 USD), vân vân...
Trước hết xin đánh giá khái quát: Năm 1978 quy mô kinh tế Trung Quốc chỉ bằng Hà-lan lúc đó. Ngày nay (nghĩa là trong vòng 35 năm) Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 trên thế giới.
Cụ thể là: Năm 1980 GDP của Trung Quốc là 200 tỷ USD, xuất khẩu đạt 18 tỷ USD, năm 2012 GDP đạt 7000 tỷ USD và xuất khẩu đạt 1200 tỷ USD (số tròn). Đây là hiện tượng chưa từng có trên thế giới.
Về nguyên nhân thành công, nói ngắn gọn là:
(a) thắng lợi của cải cách chuyển sang thể chế kinh tế thị trường,
(b) tận dụng tối đa lợi thế quy mô kinh tế (economics of scales) của địa kinh tế và địa chính trị Trung Quốc – trong đó có lợi thế quy mô dân số, quy mô thị trường…
(c) khai thác triệt để quá trình toàn cầu hóa của kinh tế thế giới đi vào thời kỳ rất năng động sau khi chiến tranh lạnh kết thúc,
(d) động lực Đại Hán với khát vọng lấy lai 5 thế kỷ bị đánh mất được khai thác triệt để gần như đồng nghĩa với khát vọng dân tộc, giấc mơ Trung Quốc..,
(e) tầm nhìn rộng, sự tài giỏi, ý chí quyết liệt và nhất quán vươn lên siêu cường của lãnh đạo Trung Quốc.
Nhìn theo những giá trị và những tiêu chí kinh điển của chủ nghĩa xã hội (như vẫn được giảng dậy và tuyên truyền về chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là những tiêu chí liên quan đến công bằng, tự do dân chủ, nhân văn, bảo vệ môi trường, phúc lợi xã hội…), không thể coi sự phát triển của Trung Quốc là thành tựu của chủ nghĩa xã hội. Cũng theo nghĩa kinh điển này, không thể coi nền kinh tế Trung Quốc là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Học giả Trung Quốc Minxin Pei – được tạp chí “Prospect” của Anh xếp hạng là một trong 100 trí thức nổi tiếng, đánh giá chế độ chính trị Trung Quốc: “Hệ thống của Trung Quốc hiện nay là một cơ chế cho thuê – phân phối khổng lồ. Các tầng lớp cầm quyền đã học cách sống cùng nhau không phải bằng sự chia sẻ niềm tin, các giá trị, hoặc các quy định, nhưng bằng cách chia nhau chiến lợi phẩm của phát triển kinh tế.”[20]
Bên cạnh những mất cân đối vỹ mô ngày càng gia tăng trong kinh tế (bao gồm cả những vấn đề liên quan đến dân số), một loạt các vấn đề nóng bỏng trong nội trị Trung Quốc cũng tăng theo sự phát triển của Trung Quốc: (1) chênh lệch giầu nghèo rất lớn, bất công xã hội gay gắt[21]; (2) tham nhũng và tội phạm xã hội trầm trọng làm cho xung đột xã hội ngày càng khó kiểm soát, (3) ô nhiễm môi trường nặng nề, (4) đàn áp các sắc tộc (tại các vùng Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông…), (5) chế độ toàn trị tước đoạt gắt gao các quyền tự do dân chủ của dân - đấy là những vấn đề tồn tại lớn của Trung Quốc… Mặc dù vậy, Trung Quốc vẫn có thể duy trì đà tăng trưởng hiện nay trong thập kỷ tới.
Bản thân lãnh đạo Trung Quốc đưa ra lý thuyết chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc để lý giải và biện minh cho sự phát triển không bình thường và gần như bằng bất kỳ giá nào của Trung Quốc. Nếu phải diễn tả bản chất sự phát triển đang diễn ra của Trung Quốc dưới một tên gọi, có lẽ đấy là: chủ nghĩa tư bản của chế độ toàn trị một đảng đặc sắc Trung Quốc.
Từ hàng chục năm nay trên thế giới có không biết bao nhiêu cảnh báo và dự đoán về nguy cơ sụp đổ của nền kinh tế quá nóng của Trung Quốc. Những cảnh báo và dự đoán này đưa ra rất nhiều chứng cứ và số liệu thuyết phục, song điều dự báo vẫn chưa xảy ra, vì bản thân Trung Quốc là một thế giới cho chính nó, sẽ bàn tới dưới đây. Dẫn chứng là một thập kỷ nay, kinh tế thế giới đi vào khủng hoảng sâu sắc có tính cơ cấu, tác động khốn khổ đến hầu hết mọi nước, Trung Quốc cũng không được miễn trừ. Tuy nhiên, suốt thập kỷ vừa qua và hiện tại kinh tế Trung Quốc vẫn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong hàng ngũ các cường quốc kinh tế. Trung Quốc hiện nay vẫn giữ được GDP tăng khoảng 7 – 8% p.a. (trong khi các cường quốc kinh tế thường là 1 – 2%). Trong một hai thập kỷ tới tăng trưởng GDP của Trung Quốc được dự báo là 5 hoặc 6% p.a. (vẫn có một số dự báo là từ 7 – 8%), điều mà các nền kinh tế Mỹ và phương Tây không thể làm được.
Có 3 nguyên nhân chính khiến cho hiện tượng Trung Quốc còn có thể kéo dài một vài thập kỷ tới, đó là:
(1) dư địa cho phát triển của lợi thế quy mô kinh tế (economics of scales) của Trung Quốc còn khá lớn, bản thân Trung Quốc là một thế giới cho chính mình;
(2) Trung Quốc còn có thể tiếp tục khai thác, tận dụng tốt quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới đang diễn ra;
(3) vì là một thế giới cho chính mình, nên Trung Quốc có khả năng lớn vận dụng phương thức hy sinh vấn đề cục bộ để giải quyết vấn đề toàn cục khi tình hình đòi hỏi.
Hiện tượng Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới (dự báo là khoảng giữa thế kỷ này) là một thực tế khách quan, với mọi hệ lụy thế giới phải đối mặt.
Bàn thêm về hiện tượng Trung Quốc là một thế giới cho chính nó:
Thông thường trong phát triển kinh tế, mọi mất cân đối về bất kỳ phương diện nào và vì bất kỳ lý do gì, đều có thể dẫn tới khủng hoảng và sụp đổ. Quy luật thép này cũng không lọai trừ Trung Quốc.
Nhưng nhìn lại chúng ta thấy: Hàng thập kỷ liên tiếp, Trung Quốc đã hy sinh hoàn toàn sự phát triển của phía Tây – bất chấp phải trả giá như thế nào, để dồn mọi nguồn lực của cả nước và mọi cơ hội cho phát triển phía Đông, đặc biệt là toàn vùng duyên hải. Mọi mâu thuẫn xã hội, khi cần thiết thì được giải quyết bằng vũ lực với mọi giá, điển hình là vụ tàn sát ở Thiên An Môn 1989. Hiện nay các vụ đàn áp ở Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông vẫn tiếp tục (tại những vùng này nhiều nơi người người Hán có tỷ lệ cao gấp đôi người các dân tộc địa phương tại chỗ, có hiện tượng đồng hóa…), chưa kể đến mỗi năm có hàng vạn vụ đàn áp sự phản kháng của nông dân liên quan đến vấn đề đất đai… (Chú ý: Trước cải cách đã xảy ra thảm kịch tàn sát trong cách mạng văn hóa khắp Trung Hoa, cướp đi hàng chục triệu sinh mạng).
Mọi cảnh báo hiện nay về phát triển kinh tế Trung Quốc được giới nghiên cứu nêu lên – ví dụ: nợ công các địa phương đã chiếm tới khoảng 30% GDP cả nước, nguy cơ đổ vỡ của hệ thống ngân hàng, nguy cơ đổ vỡ của kinh tế bong bóng bất động sản, nguy cơ không thể cứu vãn về ô nhiễm môi trường, nguy cơ dân số lão hóa nhanh chóng vì chế độ 1 gia đình / 1 con, vân vân… - nói chung là xác đáng.
Song (a) vận dụng phương thức “mục tiêu biện minh cho biện pháp”, (b) vận dụng cách tiếp cận “trả giá bộ phận để thực hiện mục tiêu toàn cục” trong những điều kiện đặc thù của quy mô kinh tế Trung Quốc với nghĩa Trung Quốc là một thế giới cho chính nó, rõ ràng trong những thập kỷ vừa qua Trung Quốc đã chứng minh một cách thuyết phục khả năng phi thường của nó trong việc “tiêu hóa” các cuộc khủng hoảng.
Ví dụ 1: Nguy cơ đổ vỡ của kinh tế TQ là nợ công, là yếu kém của ngành ngân hàng… Đấy là những nguy cơ hoàn toàn xác thực, ở mức độ như đang xảy ra tại Trung Quốc chắc chắn khó một nước nước phương Tây nào – kể cả Mỹ - có thể chống đỡ nổi. Song Trung Quốc có thể và đang chống đỡ được, vì nó có 1500 tỷ USD dự trữ, với cách tiếp cận “muc tiêu biện minh cho biện pháp”, với quan điểm “trả giá cục bộ để thực hiện mục tiêu toàn cục”…
Ví dụ 2: Chế độ chính trị Trung Quốc coi kinh tế quốc doanh là chủ thể (hay chủ lực, họ không nói “chủ đạo”), chiếm tới 25% GDP. Nhưng trên thực tế kinh tế quốc doanh của Trung Quốc hiện nay chỉ còn lại các tập đoàn lớn; quy mô của chúng khá lớn. Không ít tập đoàn này còn lớn hơn các tập đoàn kinh tế của Nhật hay Mỹ… Những năm gần đây xuất hiện ngày một nhiều tập đoàn kinh tế quốc doanh của Trung Quốc đứng trong top 100 của thế giới; tất cả đều kinh doanh theo cơ chế thị trường như tại các nước công nghiệp phát triển. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh Trung Quốc cạnh tranh với nhau quyết liệt không kém cạnh tranh với nước ngoài, chưa nói đến những chi phối chính trị khác của nội trị Trung Quốc, tệ nạn tham nhũng lớn nhất cũng diễn ra trong khu vực này… Có thể nói đấy là các tập đoàn kinh tế tư bản nhà nước đặc sắc Trung Quốc, vận hành trong khung khổ cơ chế cho thuê – phân phối khổng lồ - như Minxin Pei đã phân tích. Thực tế này cũng toát lên nội dung cơ bản của toàn bộ quá trình cải cách tiếp tục của Trung Quốc đang diễn ra và sẽ tiếp tục diễn ra trong lĩnh vực kinh tế.
Vân vân…
(Còn nữa)
Nguyễn Trung
Nguồn: Viet-studies
Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGÔI NHÀ KHÔNG CÓ MÁY LẠNH ( Tiếp theo.. )

Một chiều phố núi tôi đi cầu lông về. Thói quen này tôi mới học được theo lối “thời thượng” của một tay "trưởng cự" mới nổi. Y vốn là con bạc phất lên nhờ bịp bợm, đỏ đen ở vùng này tập học làm sang. Y mua một miếng đất ngoài trung tâm xã, mở sân đánh cầu lông. Mục đích thể thao chỉ là hình thức bề ngoài. Cái chính tạo bình phong để che mắt chính quyền.

Buổi chiều nào ở đây cũng tụ bạ năm ba người, trong đó có tôi. Tôi thì tôi biết học làm sang là thứ không ra gì và không dễ học. Người ta có thể một đời người đã làm được giàu. Nhưng để sang trọng, quý phái phải mất ba bốn đời mới nổi.
Vả lại tôi đến đây không phải vì câu chuyện đó.
Sang hay hèn như mẹ tôi nói có phận số cả rồi, có có muốn cũng chẳng được.
Tôi đến đây vì lẽ khác.
Ở nhà, trong căn hộ không có máy lạnh, bức bối thời tiết chỉ là chuyện nhỏ. Trai núi, sống miền rừng, nóng lạnh đâu có cái gì đáng phải quan tâm?
Lý do tôi đến chỗ như thế này là để quên đi sự áy náy trong lòng. Không thể làm ngơ đi được khi cách xử sự của bố tôi mỗi ngày mỗi khang khác.

Mới sáng nay thôi, vừa xảy ra chuyện, tôi áy náy vô cùng..
Bố tôi có khách.
Có mấy ông nhà văn nhà báo mãi trên tỉnh đưa hai ông từ Hà Nội lên. Người ta muốn gặp bố tôi để viết bài “ Hậu clip Người anh hùng đặc công” mà bố tôi là một trong số các nhân vật phóng sự truyền hình vừa được giải “Bông sen bạc” này.
Bố tôi có vẻ rất vui. Nom mặt ông rạng rỡ hơn cả ngày thường. Đứng bên ngôi nhà không gắn máy lạnh bên này nhìn sang phía căn nhà cấp bốn ông ở rõ mồn một, vì thế đất cao hơn.
Thấy ông đi ra đi vào, cười nói rộn rạo, bốc máy gọi đi chỗ này, chỗ kia.
Đầu tiên là cậu tôi đến. ( Thường vẫn vậy, cậu là người ông nhớ đến đầu tiên, bất kể chuyện gì ). Sau đấy là mấy ông bạn đồng ngũ người các xã lân cận.
Mọi người xuống khúc suối làm ao gần bàn cờ đá của bố tôi bắt cá, mang nỏ ra bắn gà. Một ông chạy ra chợ mua thêm thức ăn. Hai ông chạy sang nhà không máy lạnh của chúng tôi hỏi chỗ làm bếp.
Rồi đun. Rồi nấu. Rồi bưng lên..
Đến lúc hoàn thành mâm rượu, tôi và vợ tôi mới được gọi đến ngồi vào mâm cho đông đủ cả nhà.
Hình như không ai để ý đến chi tiết là lạ này: Chúng tôi như thể hàng xóm sang chơi chứ không phải con ông vậy?
Nhậu nhẹt chỗ nào chẳng như chỗ nào? Tưng bừng. Bông bốc. Nói cả những chuyện lúc không nhậu sẽ không nói ra.
Một ông Hà Nội có ý quan tâm hỏi bố tôi về chuyện gia đình. Bố tôi làm như vẻ không nghe rõ, hay chuyện này không cần thiết, không quan trọng gì, ông lảng sang chuyện khác:
- Các bạn thông cảm. Chuyện về “lực lượng đặc biệt” của ta thì nhiều. Kể cả đời chưa hết. Có chuyện sống để dạ, chết mang đi. Có những thứ lá quanh đây rất nhiều, bôi vào người chó khôn đến mấy cũng không phát hiện ra được. Những chuyện đấy ngay đến vợ con anh em ruột cũng không dám nói. Chiến tranh kết thúc gần bốn mươi năm rồi, vẫn còn những điều bí mật. Nguyên tắc quân sự là như thế. Nên các anh có hỏi điều gì đó không thể trình bày, cũng xin được thông cảm..
Ông Hà Nội kia cứ há hốc, ông đang hỏi về gia cảnh chúng tôi chứ có tò mò bí mật quân sự gì đâu?
Lúc đó tôi tái mặt, tai như ù đi. Hình như bố tôi cố tình lảng tránh, không muốn nhắc đến chúng tôi.
Thường nhà ai cũng vậy. Có khách tới nhà, vợ chồng con cái đều vui vẻ đón tiếp. Sao bố tôi không đả động gì đến vợ con mình?
Mẹ tôi ngồi chơi bên nhà cô giáo năm xưa là học trò của mình chỉ cách mấy nhà, ông cũng không gọi về.
Thế là làm sao? Bố tôi không muốn phiền, hay ông giận điều gì?

Khách về hết. Bố tôi lại sang căn nhà cấp bốn bên kia đường. Tôi ngồi một mình. Bứt dứt, bức bối, tôi vớ cái vợt và ra đây. Chơi thì chơi chứ không bụng dạ nào để ý đến xung quanh. Tôi liên tục thua. Cho mãi gần nhá nhem tối mới quay về.
Chút nữa thì tôi đâm xầm vào một người..

( Còn nữa..)



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc: Nền kinh tế phía sau chiếc bánh Trung Thu


Diên Vỹ chuyển ngữ
Người Trung Quốc đang ăn mừng Tết Trung thu bằng việc trao và nhận bánh trung thu. Trong những năm gần đây, những than phiền về chuyện phong tục này bị biến thái đã trở thành một thông lệ thường niên, chẳng khác gì lễ hội này. Nguyên nhân là vì chiếc bánh này đã trở thành phương tiện cho những xấu xa trong xã hội Trung Quốc: hối lộ, hàng giả, tiêu xài xa xỉ và hoang phí. Chiếc bánh trung thu được dùng để mua chuộc đặc ân, chen lẫn trong những món quà cực kỳ xa hoa như đồng hồ Rolex hàng độc mạ vàng. Chúng được xem như là tiêu chuẩn của đẳng cấp, giàu có và trên hết là quyền lực, và rồi bị bỏ đi (đôi khi được biến thành bánh cho năm sau). Những vỏ hộp bánh bị bỏ đi chất cao dường như có thể lên đến mặt trăng.


Phần nhận xét hiển thị trên trang