Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013
Bút máu ( Truyện ngắn của Vũ Hạnh )
Lương Sinh người ở Mãn Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đỉnh ngộ từ khi tóc để trái đàọ Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng.
Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết. Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn, mất ngủ, lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn là máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về săn sóc đêm ngàỵ Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương dùng biệt dược trị liệu nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòạ Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gởi đến Lã Công, một quan thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho Sinh luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày, kêu lên:
- Máu người tanh quá!
Ðoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.
Ðến nhà, lạy cậu thưa lên:
- Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theọ Máu người chảy trong cơ thể quý vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Ðiều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.
Người cậu giận lắm, bảo rằng:
- Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu naỵ Ðành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng có hại cho người, lại càng có tội!
Lương Sinh cúi thưa:
- Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói tốt xấu rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa ngườị Trộm nghĩ binh đao là điều dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổị
Cậu nói:
- Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với màỵ Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời! Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ lấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn, những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nữạ
Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà giàu đủ, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngàỵ Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậụ Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường. Khi quan giao trả, Sinh thấy có những bài thơ hay họa lại những bài đắc ý nhất của mình dưới ký tên Tuyết Hồng, con gái của viên quan. Sinh vui mừng nghĩ rằng gặp được người hợp ý. Sau quan lệnh ngỏ lời kén Sinh làm giai tế. Sinh sung sướng nhận lờị
Sau lễ hôn phối, Sinh mới ngỡ ngàng biết rằng Tuyết Hồng không đẹp, cũng không biết làm thơ. Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đờị Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗị Nhân tết nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủỵ
Sinh chọn đường ven theo suối đẹp, đi mãi đã mười ngày, tiền lương muốn cạn, ý thơ chừng đầy, chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng một người để hỏi thăm nơị Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chuông lẫn tiếng reo cườị Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết, đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữạ Chợt có tiếng hò hét và mọi người sợ hãi dạt ra, từ xa là chiếc kiệu hoa của tiểu thư Lý Duyên Hương, con quan Tổng Ðốc. Người đẹp vừa kiêu hãnh vừa sắc sảo khiến Sinh ngây ngất, nhìn đến quên ly rượu trong tay rơi xuống vỡ toang. Người đẹp quay nhìn thấy, nhoẽn miệng cườị Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình. Sinh lảo đảo đứng lên trả tiền rồi theo chiếc kiệu chen vào chùạ Vào trong thấy Lý tiểu thư thành kính đàm đạo với mấy vị Tăng già rồi lên chánh điện lễ Phật. Sinh đến phòng kế lấy bút và giấy hoa tiên theo phỏng mấy câu:
Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
Ðông biếc, thoáng cười tiên nữ
Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
Bóng đêm hang thẳm, long lanh một vẻ giai nhân.
Rồi bẻ cành hoa kẹp vàọ Khi Lý tiểu thư lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theọ Ðến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồị Lính hầu thoáng thấy kêu lên:
- Có người ám hại tiểu thư.
Lập tức mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy vào nhau kêu la náo động. Tiểu thư ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lờị Vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.
Ðám đông có tiếng thì thàọ
- Anh ta chỉ ném một cành hoa thôi đấỵ
- Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồị
- Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống đã là bay đầu, nói chi xúc phạm đến tiểu thơ vàng ngọc!
Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên Tổng trấn. Lương Sinh nằm rầu rĩ trong bốn bức vách đá, e phải mang nhục phen nàỵ Ðang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hàm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.
Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở tróị Trước sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi, Sinh từ chối hai ba lần không được. Quan nói:
- Ta thường ước ao gặp được một người tài đức, nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác đằng thuận nẽo gió đưa, người hãy cùng ta ở đây hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu naỵ
Ðoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậụ Lương Sinh thích thú uống rượu ngâm thơ suốt ngày Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh. Ðộ chỉ hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: Kia là dòng suối quanh co quan đã khai thông để để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.
Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối thấy đồng nhiều vẽ khác màu miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn, lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "Dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.
Ðến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng. Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêụ Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc vào chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cổ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực từ chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.
Giữa mùa xuân ấy Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền, Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng.
Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửạ Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mớị Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc. Nghiên mực đỏ tươi sắc máụ Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sửng sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầỵ Ðưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong ngườị Sinh nằm vật xuống mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng lại khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại. Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lãng vãng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét nàọ Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ, tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.
Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyển hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua vì mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôị Làm cho thiếu nữ băn khoăn sầu muộn, làm cho thanh niên khinh bạc hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên nhân ái, kêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đạo nghĩa của tha nhân, hát trên bi cảnh của đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạỏ Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dãy Thiên Sơn! Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậỵ Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chậm thêm ngày nào!
Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều, cơn bệnh do đó lui được khá xạ Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao lãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ vẫn chưa dò được lối máu từ đâụ Bỗng sực nhớ đến những lời phóng bút viết cho quan Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Ðồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thật trái ngược với những bài tán bài mình đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thật.
Sinh đến chốn cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều xơ xác. Qua khỏi dòng suối cạn, Sinh bước vào một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Ðến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rủ trước nấm mộ mới hiu hiu mấy nén hương tàn, Sinh dừng bước, lại gần ngồi một bên, khẽ hỏi:
- Bác khóc thương thân quyến nào vậỷ
Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lại bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:
- Người nằm dưới mồ không phải là bà con quen thuộc của tôị
Sinh nghĩ: "Chẳng lẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng?"
Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:
- Ông từ đâu mà đến đâỷ
- Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôị Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.
Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén bật lên những tiếng căn hờn:
- Nói cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ nàỵ Ví dù phải chết ngày nay thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâụ Ðã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Tổng trấn họ Lý độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Ðầu xuân này có khâm sai đi về, cụ thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, cản đầu ngựa, níu bánh xe mà tỏ bày sự thật. Thế nhưng khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ đốn mạt nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nhọ Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, khâm sai đi rồị Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chết vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đây dành để nuôi loài cỏ dại mà thôi!
Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏị
- Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không?
Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:
- Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có! Dân làng đây ai cũng nguyền rủa hắn mà hắn nào có biết đâu! Nghĩ thương cho cụ trưởng tôi mấy lần đứng ra chịu nhận tội để cứu bao người mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp người này rồi đến lớp người khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị đày đọạ Trước khi nhắm mắt cụ còn gượng nói: "Ðược chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi ta, thế là quý rồị Chôn ta ở đây cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vịn vào mà che lấp sự thật. Ðừng oán hờn tên danh sĩ. Ðáng thương cho nó!".
Người nông phu dừng lại nghẹn ngào nói tiếp:
-Nhưng bao nhiêu người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương xót gấp trăm ngàn lần!
Ðoạn gục đầu trước mồ khóc thảm thiết.Sinh cũng sụp xuống hòa tiếng khóc theọ
Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh có cảm giác như theo cơn gió, oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Viết nhanh nhân đọc bài viết của ông Trần Chung Ngọc trên báo Nhân Dân
Cái tên Trần Chung Ngọc đối với tôi không xa lạ gì. Lần đầu tiên tôi biết đến tên ông là cách đây gần 20 năm, khi ông sa vào một cuộc tranh luận khá ầm ĩ với một đồng nghiệp cũ của tôi là anh Dương Ngọc Dũng. Những tranh luận qua lại giữa hai người giờ vẫn còn có thể tìm được trên Internet, các bạn chỉ cần gõ "Trần Chung Ngọc" và "Dương Ngọc Dũng" vào google là có thể tìm ra được ngay để đọc và tự phán đoán về trình độ lập luận và tư cách trí thức của hai người.
Chính vì có vụ "đụng độ" này mà tôi mới bắt đầu đọc một vài bài viết của ông TCN, được đăng rất nhiều trên một trang mạng mà ông làm chủ có tên là sachhiem.net. Chẳng khó khăn gì để nhận ra rằng ông là một người chống Thiên chúa giáo một cách rất cực đoan. Là một tín đồ của Thiên chúa giáo, tất nhiên là tôi không thích những bài viết của ông TCN, nhưng chưa bao giờ lên tiếng vì tôi cho rằng ông TCN - cũng như bất cứ ai - đều có quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, nên việc ông chọn yêu đạo Phật và không yêu đạo Thiên chúa cũng chỉ là điều bình thường và chẳng có gì đáng để quan tâm.
Thực ra, quyền tự do ấy cũng có những hạn chế mà lẽ ra một người được xem là học cao biết rộng như ông TCN phải biết, nhưng không hiểu sao vẫn luôn vi phạm. Tuy nhiên, tôi cũng chưa bao giờ cảm thấy cần phải lên tiếng vì tin rằng một người đọc trưởng thành ắt phải có đủ hiểu biết để phán đoán sự đúng sai trong các bài viết của ông TCN. Còn những người đọc chưa trưởng thành thì tôi lại nghĩ có nói gì đi nữa thì họ cũng không hiểu, nên rút cục là tôi vẫn thấy chẳng cần lên tiếng.
Không lên tiếng, nhưng tôi không đồng tình với rất nhiều điểm trong các bài viết của ông TCN, đặc biệt những bài so sánh Phật giáo và Thiên chúa giáo vốn có vẻ là sở trường của ông TCN. Như anh DND đồng nghiệp của tôi - một người không phải là tín đồ Thiên chúa giáo, và cũng có ít nhiều nghiên cứu hàn lâm về Phật giáo - đã từng chỉ ra, những bài viết ông TC có nhiều sai lầm, trong đó tôi quan tâm nhất là sự sai lầm về phương pháp luận, vì ông dựa vào cách so sánh như sau:
[...] dẫn chứng kinh điển Phật giáo (tức là Phật Giáo như một lý tưởng) để chứng minh Phật Giáo là một tôn giáo hoàn thiện, tốt đẹp, giàu lòng từ bi. Nhưng khi công kích Thiên Chúa Giáo lại dựa vào các thực hành tôn giáo diễn ra trong lịch sử phát triển của tôn giáo này (Pháp Đình Tôn Giáo, vụ án Galilée, v.v...). Những người Thiên Chúa Giáo có thể làm ngược lại và sự cãi nhau sẽ kéo dài vô tận vì phương pháp so sánh đã hỏng ngay từ nền tảng.
(Nguồn: http://danluan.org/tin-tuc/20130408/duong-ngoc-dung-nhung-sai-lam-tong-quat-trong-cuon-sach-doi-thoai-cua-nhom-giao)
Vì sai lầm về phương pháp nên những bài so sánh tôn giáo (Phật giáo và Thiên chúa giáo) của ông không có giá trị cao, dù nó có thể làm cho những người theo đạo Phật thích thú vì cảm thấy tôn giáo mà mình tin theo được ông tôn vinh. Tuy nhiên, tôi tin rằng số người này nếu có chắc cũng ít thôi vì theo tôi hiểu thì tinh thần Phật giáo không bao giờ là một tinh thần "hơn thua" như trong những bài viết của ông. Do đó, sau khi làm quen và hiểu ra mục tiêu, phương pháp lập luận, và phong cách trình bày của ông TCN, tôi hầu như chẳng bao giờ bỏ thì giờ ra để đọc những bài nào có ký tên ông nữa.
Cho đến hôm nay, khi tôi nhìn thấy tên TCN ký trên một bài viết được đăng trên báo Nhân Dân. Bài viết có tựa là "Tôn giáo chân chính đồng hành cùng dân tộc". Liếc qua bài báo, tôi thấy vẫn chỉ là những lập luận quen thuộc của TCN theo kiểu "ta thắng, địch thua" mà VN hay sử dụng, nội dung không có gì mới đáng để tôi quan tâm. Chỉ có điều, trong bối cảnh VN đang mong muốn vào Hội đồng nhân quyền của LHQ, lại nhân Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi Đan Mạch và được hỏi về nhân quyền, nên tôi bỗng chú ý đến phong cách của bài viết, cũng là phong cách nhất quán của các bài viết của TCN.
Và tôi sực nhớ ra một điều tôi đã học hơn 20 năm nay về cách viết trong tiếng Anh. Đại khái, khi viết các bài tranh luận - kể cả viết hàn lâm lẫn viết phổ thông - thì tuyệt đối phải tránh sử dụng "hate speech" (tạm dịch: ngôn ngữ kích động thù hận) và "them and us discourse" (diễn ngôn ta - địch). Thậm chí các nước văn minh còn có luật quy định cấm dùng hate speech nữa kia; bạn nào không tin thì chỉ cần gõ "hate speech laws" vào google là ra hết. Còn "them and us discourse" thì tuy không có luật cấm, nhưng nó được xem là thể hiện một tư duy phe nhóm, cục bộ, tức là một lối tư duy cũ kỹ lạc hậu không còn phù hợp với thế giới toàn cầu phụ thuộc lẫn nhau của ngày hôm nay. Vậy mà bài viết của ông TCN thì từ đầu đến cuối chỉ rặt một cách viết kích động hận thù và phân biệt địch (Thiên chúa giáo) - ta (Phật giáo) rõ ràng trên hai trận tuyến: Phật giáo thì yêu nước, đồng hành với dân tộc, Thiên chúa giáo thì bán nước, thà mất nước chẳng thà mất chúa. Đại khái thế, tràn lan khắp bài báo, chẳng cần tôi trích dẫn - mà trích dẫn làm gì, chỉ thêm mất đoàn kết giáo - lương!
Lẽ ra thì tôi không bao giờ đặt ra những câu hỏi dưới đây, thậm chí nghĩ trong đầu cũng không, nhưng quả thật sau khi đọc bài của TCN thì tôi bỗng có mấy thắc mắc thế này, xin hỏi lại ông TCN xem ông trả lời thế nào nhé:
- Bắt đầu từ đời Lý - Trần thì đạo Phật cực thịnh; đến nhà Lê đạo Phật vẫn còn rất mạnh (vẫn mạnh cho đến bây giờ). Lúc ấy đạo Thiên chúa còn chưa vào Việt Nam, dân chúng ai cũng theo đạo Phật cả. Một đất nước thấm nhuần tinh thần Phật pháp như trên ắt phải sản sinh ra những con người luôn đồng hành với dân tộc như ông TCN đã tuyên bố, vậy thì những Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống là đâu mà ra nhỉ? Nếu có ai đó nói rằng đó là do tinh thần của đạo Phật thì ông TCN có chấp nhận không?
- Đảng CSVN đã từng có sai lầm trong cải cách ruộng đất làm chết oan khá nhiều người dân, trong đó có một nhân vật nổi tiếng nhất là bà Nguyễn Thị Năm, người đầu tiên bị xử bắn trong thời oan nghiệt ấy. Điều này chính Đảng cũng đã thừa nhận ngay sau đó, và có sửa sai. Nếu bây giờ ai đó cứ mãi xoáy vào sai lầm này để kích động thù hận, để kêu gọi chống cộng, thì chắc chắn sẽ bị lên án. Thế thì tại sao bài viết của ông TCN với đầy những "hate speech", kêu gọi hận thù, chia rẽ lương - giáo như vậy lại được xem là bình thường, thậm chí là mẫu mực, đáng được đăng trên báo Đảng?
Tất nhiên, những câu hỏi mà tôi đặt ra ở trên chỉ là ví dụ để minh họa cho điều mà đồng nghiệp của tôi, anh DND, đã nhắc đến trong đoạn trích mà tôi đã nêu ở trên: Nếu cứ moi móc cái xấu của nhau ra mà kể lể, bêu riếu, thì có lẽ sẽ dẫn đến đánh nhau u đầu sứt trán, thậm chí đầu rơi máu đổ, như trong các cuộc thánh chiến đã từng xảy ra trên thế giới và sẽ vẫn còn xảy ra nữa. Là điều tôi không muốn, và chắc chắn tất cả mọi người VN đều không muốn. Cuộc chiến tranh Nam - Bắc đã kết thúc gần 40 năm rồi, vì cớ gì mà không "lại gần với nhau/thù hận xin quên/đây quê hương mình", như TCS đã mơ ước gần nửa thế kỷ trước?
Cuối cùng, xin nhắc lại đôi chút về Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà VN là một thành viên (xem ở đây:http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_%C6%B0%E1%BB%9Bc_Qu%E1%BB%91c_t%E1%BA%BF_v%E1%BB%81_c%C3%A1c_Quy%E1%BB%81n_D%C3%A2n_s%E1%BB%B1_v%C3%A0_Ch%C3%ADnh_tr%E1%BB%8B). Điều 20 của Công ước này ghi rõ: "Ngăn cấm bất kỳ hình thức tuyên truyền cổ vũ chiến tranh hay gieo giắc kỳ thị chủng tộc, tôn giáo." Tôi nghĩ bài viết TCN đã vi phạm chính điều khoản này, và việc đăng bài viết ấy trên báo Nhân Dân là một việc làm không khôn ngoan của chính quyền. Vì nó làm xấu đi cái nhìn của thế giới đối với Việt Nam, là một điều có lẽ cả ông TCN lẫn báo Nhân Dân đều không muốn.
Thế giới đã thay đổi nhiều lắm rồi, thưa ông TCN!
Chính vì có vụ "đụng độ" này mà tôi mới bắt đầu đọc một vài bài viết của ông TCN, được đăng rất nhiều trên một trang mạng mà ông làm chủ có tên là sachhiem.net. Chẳng khó khăn gì để nhận ra rằng ông là một người chống Thiên chúa giáo một cách rất cực đoan. Là một tín đồ của Thiên chúa giáo, tất nhiên là tôi không thích những bài viết của ông TCN, nhưng chưa bao giờ lên tiếng vì tôi cho rằng ông TCN - cũng như bất cứ ai - đều có quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, nên việc ông chọn yêu đạo Phật và không yêu đạo Thiên chúa cũng chỉ là điều bình thường và chẳng có gì đáng để quan tâm.
Thực ra, quyền tự do ấy cũng có những hạn chế mà lẽ ra một người được xem là học cao biết rộng như ông TCN phải biết, nhưng không hiểu sao vẫn luôn vi phạm. Tuy nhiên, tôi cũng chưa bao giờ cảm thấy cần phải lên tiếng vì tin rằng một người đọc trưởng thành ắt phải có đủ hiểu biết để phán đoán sự đúng sai trong các bài viết của ông TCN. Còn những người đọc chưa trưởng thành thì tôi lại nghĩ có nói gì đi nữa thì họ cũng không hiểu, nên rút cục là tôi vẫn thấy chẳng cần lên tiếng.
Không lên tiếng, nhưng tôi không đồng tình với rất nhiều điểm trong các bài viết của ông TCN, đặc biệt những bài so sánh Phật giáo và Thiên chúa giáo vốn có vẻ là sở trường của ông TCN. Như anh DND đồng nghiệp của tôi - một người không phải là tín đồ Thiên chúa giáo, và cũng có ít nhiều nghiên cứu hàn lâm về Phật giáo - đã từng chỉ ra, những bài viết ông TC có nhiều sai lầm, trong đó tôi quan tâm nhất là sự sai lầm về phương pháp luận, vì ông dựa vào cách so sánh như sau:
[...] dẫn chứng kinh điển Phật giáo (tức là Phật Giáo như một lý tưởng) để chứng minh Phật Giáo là một tôn giáo hoàn thiện, tốt đẹp, giàu lòng từ bi. Nhưng khi công kích Thiên Chúa Giáo lại dựa vào các thực hành tôn giáo diễn ra trong lịch sử phát triển của tôn giáo này (Pháp Đình Tôn Giáo, vụ án Galilée, v.v...). Những người Thiên Chúa Giáo có thể làm ngược lại và sự cãi nhau sẽ kéo dài vô tận vì phương pháp so sánh đã hỏng ngay từ nền tảng.
(Nguồn: http://danluan.org/tin-tuc/20130408/duong-ngoc-dung-nhung-sai-lam-tong-quat-trong-cuon-sach-doi-thoai-cua-nhom-giao)
Vì sai lầm về phương pháp nên những bài so sánh tôn giáo (Phật giáo và Thiên chúa giáo) của ông không có giá trị cao, dù nó có thể làm cho những người theo đạo Phật thích thú vì cảm thấy tôn giáo mà mình tin theo được ông tôn vinh. Tuy nhiên, tôi tin rằng số người này nếu có chắc cũng ít thôi vì theo tôi hiểu thì tinh thần Phật giáo không bao giờ là một tinh thần "hơn thua" như trong những bài viết của ông. Do đó, sau khi làm quen và hiểu ra mục tiêu, phương pháp lập luận, và phong cách trình bày của ông TCN, tôi hầu như chẳng bao giờ bỏ thì giờ ra để đọc những bài nào có ký tên ông nữa.
Cho đến hôm nay, khi tôi nhìn thấy tên TCN ký trên một bài viết được đăng trên báo Nhân Dân. Bài viết có tựa là "Tôn giáo chân chính đồng hành cùng dân tộc". Liếc qua bài báo, tôi thấy vẫn chỉ là những lập luận quen thuộc của TCN theo kiểu "ta thắng, địch thua" mà VN hay sử dụng, nội dung không có gì mới đáng để tôi quan tâm. Chỉ có điều, trong bối cảnh VN đang mong muốn vào Hội đồng nhân quyền của LHQ, lại nhân Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi Đan Mạch và được hỏi về nhân quyền, nên tôi bỗng chú ý đến phong cách của bài viết, cũng là phong cách nhất quán của các bài viết của TCN.
Và tôi sực nhớ ra một điều tôi đã học hơn 20 năm nay về cách viết trong tiếng Anh. Đại khái, khi viết các bài tranh luận - kể cả viết hàn lâm lẫn viết phổ thông - thì tuyệt đối phải tránh sử dụng "hate speech" (tạm dịch: ngôn ngữ kích động thù hận) và "them and us discourse" (diễn ngôn ta - địch). Thậm chí các nước văn minh còn có luật quy định cấm dùng hate speech nữa kia; bạn nào không tin thì chỉ cần gõ "hate speech laws" vào google là ra hết. Còn "them and us discourse" thì tuy không có luật cấm, nhưng nó được xem là thể hiện một tư duy phe nhóm, cục bộ, tức là một lối tư duy cũ kỹ lạc hậu không còn phù hợp với thế giới toàn cầu phụ thuộc lẫn nhau của ngày hôm nay. Vậy mà bài viết của ông TCN thì từ đầu đến cuối chỉ rặt một cách viết kích động hận thù và phân biệt địch (Thiên chúa giáo) - ta (Phật giáo) rõ ràng trên hai trận tuyến: Phật giáo thì yêu nước, đồng hành với dân tộc, Thiên chúa giáo thì bán nước, thà mất nước chẳng thà mất chúa. Đại khái thế, tràn lan khắp bài báo, chẳng cần tôi trích dẫn - mà trích dẫn làm gì, chỉ thêm mất đoàn kết giáo - lương!
Lẽ ra thì tôi không bao giờ đặt ra những câu hỏi dưới đây, thậm chí nghĩ trong đầu cũng không, nhưng quả thật sau khi đọc bài của TCN thì tôi bỗng có mấy thắc mắc thế này, xin hỏi lại ông TCN xem ông trả lời thế nào nhé:
- Bắt đầu từ đời Lý - Trần thì đạo Phật cực thịnh; đến nhà Lê đạo Phật vẫn còn rất mạnh (vẫn mạnh cho đến bây giờ). Lúc ấy đạo Thiên chúa còn chưa vào Việt Nam, dân chúng ai cũng theo đạo Phật cả. Một đất nước thấm nhuần tinh thần Phật pháp như trên ắt phải sản sinh ra những con người luôn đồng hành với dân tộc như ông TCN đã tuyên bố, vậy thì những Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống là đâu mà ra nhỉ? Nếu có ai đó nói rằng đó là do tinh thần của đạo Phật thì ông TCN có chấp nhận không?
- Đảng CSVN đã từng có sai lầm trong cải cách ruộng đất làm chết oan khá nhiều người dân, trong đó có một nhân vật nổi tiếng nhất là bà Nguyễn Thị Năm, người đầu tiên bị xử bắn trong thời oan nghiệt ấy. Điều này chính Đảng cũng đã thừa nhận ngay sau đó, và có sửa sai. Nếu bây giờ ai đó cứ mãi xoáy vào sai lầm này để kích động thù hận, để kêu gọi chống cộng, thì chắc chắn sẽ bị lên án. Thế thì tại sao bài viết của ông TCN với đầy những "hate speech", kêu gọi hận thù, chia rẽ lương - giáo như vậy lại được xem là bình thường, thậm chí là mẫu mực, đáng được đăng trên báo Đảng?
Tất nhiên, những câu hỏi mà tôi đặt ra ở trên chỉ là ví dụ để minh họa cho điều mà đồng nghiệp của tôi, anh DND, đã nhắc đến trong đoạn trích mà tôi đã nêu ở trên: Nếu cứ moi móc cái xấu của nhau ra mà kể lể, bêu riếu, thì có lẽ sẽ dẫn đến đánh nhau u đầu sứt trán, thậm chí đầu rơi máu đổ, như trong các cuộc thánh chiến đã từng xảy ra trên thế giới và sẽ vẫn còn xảy ra nữa. Là điều tôi không muốn, và chắc chắn tất cả mọi người VN đều không muốn. Cuộc chiến tranh Nam - Bắc đã kết thúc gần 40 năm rồi, vì cớ gì mà không "lại gần với nhau/thù hận xin quên/đây quê hương mình", như TCS đã mơ ước gần nửa thế kỷ trước?
Cuối cùng, xin nhắc lại đôi chút về Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà VN là một thành viên (xem ở đây:http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_%C6%B0%E1%BB%9Bc_Qu%E1%BB%91c_t%E1%BA%BF_v%E1%BB%81_c%C3%A1c_Quy%E1%BB%81n_D%C3%A2n_s%E1%BB%B1_v%C3%A0_Ch%C3%ADnh_tr%E1%BB%8B). Điều 20 của Công ước này ghi rõ: "Ngăn cấm bất kỳ hình thức tuyên truyền cổ vũ chiến tranh hay gieo giắc kỳ thị chủng tộc, tôn giáo." Tôi nghĩ bài viết TCN đã vi phạm chính điều khoản này, và việc đăng bài viết ấy trên báo Nhân Dân là một việc làm không khôn ngoan của chính quyền. Vì nó làm xấu đi cái nhìn của thế giới đối với Việt Nam, là một điều có lẽ cả ông TCN lẫn báo Nhân Dân đều không muốn.
Thế giới đã thay đổi nhiều lắm rồi, thưa ông TCN!
( Bạn đọc lưu ý: Chủ trang nhật trình này không theo đạo thiên chúa, chỉ là để tham khảo xã hội với muôn mặt của nó, không ủng hộ cũng như không phản đối bất cứ tôn giáo nào )
Được đăng bởi Vũ Thị Phương Anh
Phần nhận xét hiển thị trên trang
sự sống trên trái đất chỉ có thể kéo dài thêm 1,75 - 3,25 tỉ năm. >>
TTO - Theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia ĐH East Anglia (UEA - Anh), sự sống trên trái đất chỉ có thể kéo dài thêm 1,75 - 3,25 tỉ năm.
Trong tương lai xa, mặt trời sẽ trở nên lớn hơn và thiêu đốt sự sống trên trái đất - Ảnh: Science
Theo trang web khoa học Phys.org, các chuyên gia UEA cho biết trái đất hiện đang nằm trong “vùng ở được” của hệ mặt trời, nghĩa là khoảng cách từ trái đất đến mặt trời phù hợp để sự sống phát triển.
Nếu trái đất ở quá gần mặt trời, nhiệt độ cao sẽ khiến các đại dương bốc hơi. Ở quá xa, trái đất sẽ chỉ là một sa mạc băng giá, lạnh lẽo. Tuy nhiên, nghiên cứu của UEA cho thấy từ 1,75 đến 3,25 tỷ năm nữa, mặt trời sẽ trở nên lớn hơn, tỏa sáng mạnh hơn.
Khi đó, khoảng cách 149,5 triệu km giữa trái đất và mặt trời là không đủ để hành tinh xanh thoát khỏi cái nóng khủng khiếp. Các đại dương, nước và sự sống sẽ biến mất khỏi trái đất. Chuyên gia Andrew Rushby của UEA cho biết trước khi trái đất rơi vào “vùng nóng” một thời gian dài thì loài người không thể tồn tại trên hành tinh xanh được nữa.
“Loài người sẽ gặp khó khăn kể cả với sự tăng nhiệt độ nhỏ nhất. Khi bước vào thời kỳ cuối cùng trên trái đất, sẽ chỉ còn một số loại vi khuẩn có thể chịu được cái nóng” - chuyên gia Rushby cho biết.
Nhóm nghiên cứu cho rằng sẽ đến lúc loài người phải di cư khỏi trái đất. Đến nay, các nhà thiên văn học đã phát hiện một số hành tinh nằm trong vùng ở được bên ngoài hệ mặt trời. Chúng ở khoảng cách chỉ vài chục năm ánh sáng so với trái đất, nghĩa là rất gần xét theo khoảng cách vũ trụ.
“Tuy nhiên với công nghệ hiện nay thì chúng ta vẫn phải mất hàng trăm nghìn năm mới tới được các hành tinh này. Nếu buộc phải di cư tới một hành tinh khác, Hỏa tinh có lẽ là sự lựa chọn hợp lý nhất. Nó rất gần và nằm trong vùng ở được cho tới thời kỳ cuối của mặt trời, nghĩa là khoảng 6 tỷ năm nữa” - nghiên cứu của UEA cho biết.
NGUYỆT PHƯƠNG
Phần nhận xét hiển thị trên trang
NGÔI NHÀ KHÔNG CÓ MÁY LẠNH ( tIẾP THEO..)
***
Không phải bỗng
dưng mà tôi có ý nghĩ u ám, thắc mắc về cha mẹ mình. Như thế quả là không hiểu
đạo làm người, còn bất hiếu nữa.
Nhưng những gì
tôi thấy, khiến tôi không yên lòng.
Bao nhiêu năm
sống chung một mái nhà, thực tình tôi chẳng mấy hiểu biết về gia đình mình.
Một gia đình
nhìn bề ngoài còn bao người ước muốn mà chưa có được.
Bố mẹ tôi có cả
trai lẫn gái, chẳng “thất mùa” nếp hay tẻ để phải phân tâm sinh con một bề, hay
cô đơn cô quả.
Hai ông bà đều
có lương hưu đủ để sống quãng đời còn lại. Nhà cao cửa rộng, đất đai hàng mẫu
ta, chỉ cây trái trong vườn thôi đủ để nuôi sống cả nhà. Làm ra thêm bao nhiêu
là của để dành..
Tôi và người chị gái đều có công ăn việc làm
nhờ sự ưu đãi là “con thương binh”. Chúng tôi đều có gia thất đàng hoàng.
Vợ tôi là chủ
một tiệm tạp hóa trong vùng, doanh thu khá. Nói chung so với mọi người xung
quanh thua kém chỉ một vài người là cùng.
Thiên hạ có thứ
gì nhà chúng tôi có thứ nấy. Chỉ không gắn máy lạnh như một vài nhà bên cạnh,
mà lý do tôi đã nói ở phần trước rồi. Nếu không vì lý do ấy, vài ba cái máy
điều hòa với gia đình tôi lúc này chỉ là chuyện rất thường.
Ai một lần đến
đây, nhìn cơ ngơi của chúng tôi bên ngoài cũng có ý thán phục, thậm chí tỏ ý
thèm thuồng. Thật ít có gia đình nào được “nhiều bề” đến thế!
Vậy sao cha mẹ
tôi lại không như mọi người, thanh thản, sống vui cái “sống đời” cùng thiên hạ?
Tôi lấy làm lạ,
mỗi bận bố tôi kêu khó ở trong người. Mẹ tôi thường điện cho cậu tôi cách cả
chục cây số đến, mặc dù nhà cậu rất neo người, còn khó khăn.
Cậu sẽ thay mẹ
tôi chăm sóc ông.
Cậu tôi ở cho
đến khi bố tôi khỏi hẳn bệnh mới về.
Tất tật mọi việc
từ xoa bóp, giặt giũ, cơm cháo đều do một tay cậu tôi làm. Buổi tối cậu ngủ lại
luôn, chung giường với bố tôi.
Hoàn toàn không
phiền đến bất cứ ai trong nhà.
Mẹ tôi bảo: “
Anh em ông ấy hợp nhau. Có người nói chuyện, bố mày mau khỏi”. Còn nói: “Ông ấy
thích phòng máy lạnh, mẹ chịu không quen”!
Tôi nghĩ không
phải.
“Con chăm ông
bà, không bằng vợ chồng già chăm nhau” là nghĩa đời.
Dù có cực khổ
đến đâu vợ hay chồng cũng đều không nề hà, không đùn đẩy vất vả cho người khác
chăm bạn đời của mình.
Những người,
những việc như thế ở vùng sơn cước quê tôi bao đời nay là lẽ tự nhiên. Bảo mẹ
tôi ngại khó ngại khổ là đều trái với tính cách và thói quen của bà.
Vả lại nếp
sống, cách thể hiện trong gia đình tôi như bây giờ mới có ba năm nay, sau lần
bố tôi đi giám định lại thương tật.
Hôm đó bố tôi đi
đến tối, không thấy về nhà..
Mấy mẹ con chúng tôi phải vất vả ngược xuôi
tìm kiếm mãi mới thấy, nói mãi ông mới chịu về. Không nói lý do vì sao. Không
ai hiểu căn cớ gì, bỗng dưng lại thành
ra thế?
Chứ ngày mới
về, bố mẹ tôi đâu có sống với nhau như vậy?
Vợ chồng thương nhau, chăm sóc cho nhau hơn cả
vợ chồng son đang còn trẻ, yêu quý nhau không thể tả hết.. Hạnh phúc ít khi
thấy ai hơn ở đất này!
Ngôi nhà chúng
tôi ở không có máy lạnh bây giờ chính là kết quả của cuộc sống chung hạnh phúc,
chung sức chung lòng của hai người một thời
gian dài giữa cha mẹ chúng tôi mà có. Tuy kiểu kiến trúc đã cũ, không được
thanh thoát như nhiều nhà thời bây giờ, gần hai mươi năm trước nó là ngôi nhà
to, đẹp nhất vùng!
Nhiều người còn
nhớ chuyện bố tôi sau ngày ở chiến trường về, “học Tô Vũ” chăn đê.
Thời bao cấp
ông nuôi được đàn dê mấy trăm con là hy hữu, duy nhất tỉnh này. Đàn dê ấy là
nguồn tài lực duy nhất để có được ngôi nhà vợ chồng tôi đang ở bây giờ. Khi ấy
cả vùng chưa ai có nhà xây, chưa chỗ nào có điện. Ra thành phố phải qua mười
mấy con suối, vượt qua chặng đèo dài, heo hút và xa..
****
( Còn nữa..)
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013
Quê Choa: Thách thức và cơ hội – sự lựa chọn của nước ta
Quê Choa: Thách thức và cơ hội – sự lựa chọn của nước ta: Nguyễn Trung Theo Viet-studies NQL: Tiểu luận rất hay! Dường như cụ Nguyễn Trung đã vắt hết óc não, mồ hôi và nước mắt cho tiểu ...
Phần nhận xét hiển thị trên trang
NGÔI NHÀ KHÔNG MÁY LẠNH ( Tiếp theo ..)
**
Phía bên kia
đường là một dãy dài những ngôi nhà hoang hai ba tầng. Nhà nào cũng gắn máy
lạnh đàng hoàng. Không người ở không phải nhà vô chủ. Chỉ đơn giản chủ nhân của
nó vắng nhà. Người thì sau hợp đồng xuất khẩu ba năm lại tìm cách ly quê một
lần nữa. Có người vi phạm hợp đồng không thể tái xuất làm thuê xứ người, không
thể đi đâu thì tìm cách vào Đắc Nông, Đắc Lắc trồng khoai.
Người Nhật đang
nhập khẩu và đầu tư cho giống khoai lang đặc biệt ngon của vùng này. Nhờ thế,
trồng khoai lang tím đang là công việc hái ra tiền. Chẳng biết mai ngày công
việc trồng khoai này kết cục như thế nào? Hay lại như ngàn thứ công việc “Đầu
voi đuôi chuột” ở xứ chúng tôi?
Nhưng trước mắt
nó giải quyết được nạn thất nghiệp mỗi năm thêm trầm trọng, lại nhất thời kiếm
tiền “hơi bị dễ”, nói như kiểu các nhà “khoai lang học” nói với nhau!
Một, hai căn
khác lai lịch không rõ và minh bạch lắm. Một trùm ma túy bị xử chết cách đây
vài năm. Hai căn có chủ bị bệnh “ết” chết gần hết cả nhà. Những người sống sót
không ai biết họ bỏ đi đâu?
Dù có gắn máy
lạnh, tất cả số máy đó từ lâu hoàn toàn không dùng đến điện, dù nguồn điện vẫn
còn dây dẫn đến tận nơi.
Đêm nào có việc
bần cùng phải đi qua đây, tôi cứ thấy rờn rợn người. Rõ ràng là lúc ấy không có
gió, vẫn nghe thấy lào xào, lao xao ở sau lưng. Tôi không dám ngoái nhìn vào
những cánh cửa đóng im ỉm từ lâu.
Chỉ sợ bước ra
từ những căn nhà đó không phải bóng dáng con người!
Chỉ có duy nhất
cuối dãy nhà ấy là có ngôi cấp bốn là của bố tôi là có người ở. Nhà có một gian
gắn điều hòa cỡ nhỏ dùng cá nhân ở phía bên trong cùng. Bên ngoài là một phòng
khách và một gian thờ.
Trước nhà có
con suối nhỏ nước chảy quanh năm. Hai bên cây cối xanh um. Bố tôi thuê người
xây chắn hai đầu của khúc suối chảy
quanh nhà, đặt tấm lưới, tạo một khoảng ao tự nhiên có nước chảy ra, chảy vào.
Cá nuôi chỗ này
cực kỳ chóng lớn, mùi cá chín rất thơm. Gần như chả phải chăm sóc gì nhiều.
Cá nuôi một
năm, có con nặng bảy tám cân và chỉ toàn nuôi chép đỏ.
Nhờ có dòng
nước này, “tiểu khí hậu” cho ngôi nhà của bố tôi mát mẻ quanh năm. Lại thêm mấy
cây sấu, cây trám già che nắng. Kể như không có máy lạnh cũng chẳng sao, vẫn dễ
chịu như thường. Đêm gần về sáng, mùa hè, có hôm vẫn phải đắp thêm cái chăn
mỏng.
Bố tôi ở đây
một mình.
Chỉ khi nào mẹ
tôi có mặt ở nhà ông mới lên ngôi nhà không máy lạnh, bề thế của chúng tôi.
Ông nói ông
muốn yên tĩnh, ở chung với chúng tôi ồn ào quá, ảnh hưởng đến vết thương còn
mảnh đạn trong đầu.
Cạnh bờ ao lạ
kiểu ấy có một phiến đá vuông vắn, nhẵn, phẳng. Bố tôi mất gần một tuần trời
với nó. Ông dùng chiếc đục cũ, mòn gần hết lưỡi chạm một bàn cờ trên phiến đá
này. Bên cạnh đó ông xây một cây hương nhỏ, đêm nào cũng thắp nhang. Dưới chân
cây hương là bộ quân cờ bằng sừng trâu đủ hai màu đen, trắng tự nhiên không
phải dùng đến sơn hay bất cứ chất nhuộm màu nào. Những quan cờ to gần bằng
miệng chén. Quân, tướng bằng nhau, không phân biệt cấp bậc to nhỏ.
Những đêm không
ngủ được ông thường ra đây, thoát khỏi gian có máy lạnh, ngồi một mình “đánh cờ
với đồng đội” của ông. ( Là ông bảo thế chứ tuyệt nhiên không thấy ai ngoài bố
tôi ).
Ông dùng đèn
pin soi và sắp quân cờ ra hai bên. Thỉnh thoảng lẩm nhẩm như bàn thảo với với
một người nào đó, rồi cầm quân của phía bên kia đi một nước.
Cho đến lúc gần
sáng, như thể cầm đang tay một người nào đó, ông cười không ra tiếng, nét mặt
tươi, đi về gian phòng có máy lạnh của mình.
Thỉnh thoảng có
đêm không đánh cờ, ông cầm theo cuốn sách. Trong đêm tối, núi rừng chỉ còn
những vệt đen xẫm in lên nền trời mờ mịt, bố tôi làm thơ!
Nghĩ được tứ thơ nào là ông khập khễnh đi vội
vào nhà, chép như sợ bị vuột mất vần thơ chợt đến bất ngờ, quý báu.
Cả ngày hôm
sau, gần như ông cài chặt cửa phòng, không dậy.
Nhà không thấy
ông sang căn nhà không máy lạnh, tới xem ông thế nào? Nhưng không dám gọi. Đành
để cơm, nước ngoài gian khách cho ông.
Có hôm đến
chiều, thức ăn, đồ uống vẫn còn nguyên..
Lạ một nỗi,
những ngày như thế, bố tôi có vẻ khỏe hơn thường ngày. Ông không hề có vẻ gì
mệt mỏi hay đau nhức.
Tôi thật không
hiểu thơ là cái gì, sao mang đến được cho ông nhiều sinh lực đến thế? Không ăn
uống, thức cả đêm mà lại có vẻ khỏe khoắn hơn ngày thường?
**
Vùng tôi ở gần
như cách biệt với bên ngoài. Nó là một địa danh ít người qua lại, ít người biết
tới nếu không có đỉnh núi cao nhất tỉnh được đánh số. Núi cũng chỉ có số thôi chứ
không có tên trên bản đồ khu vực.
Vì thế thông
tin hiếm hoi như thú rừng thời bây giờ.
Tôi hầu như chỉ
biết rất ít về thế giới mình đang có mặt. Nhất là cách đây mấy năm, khi chưa mở
con đường ngang qua đây.
Ngay hiểu biết
về cha mẹ mình, tôi cũng rất mù mờ.
Có những câu
chuyện cha mẹ chỉ có thể nói với nhau, không thể nói với con cái! Thậm chí
không thể nói với bất cứ ai khác ngoài bản thân mình, kể cả người má ấp môi
kề..
Kiến thức sống
này, khiến tôi rất băn khoăn.
Cha mẹ tôi là
ai? Họ thực sự như thế nào, là điều tôi luôn day dứt trong lòng.
( Còn nữa..)
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Giả thuyết mới về sự hình thành vũ trụ
Vũ trụ hiện tại có thể là 'con' của một vũ trụ khổng lồ - Ảnh: NASA Bên cạnh Big Bang, giới thiên văn học vừa công bố một giả thuyết mới về khởi nguồn của vũ trụ, theo đó vũ trụ có thể được tạo ra sau khi một ngôi sao sụp đổ vào bên trong hố đen.
Các chuyên gia cho rằng giả thuyết trên giúp giải thích được tại sao vũ trụ mở rộng về mọi hướng, theo báo cáo trên chuyên san Nature.
Theo giả thuyết Big Bang, vũ trụ được tạo ra từ một điểm đơn nhất trong vũ trụ, nhưng bất chấp nhiều năm nghiên cứu, chẳng ai biết được điều gì đã kích hoạt vụ nổ đó.
Nó cũng không giải thích được tại sao vũ trụ lại có nhiệt độ hầu như đồng nhất.
Các nhà nghiên cứu phân tích rằng có vẻ như không đủ thời gian kể từ khi vũ trụ khai sinh để nó đạt được nhiệt độ cân bằng như vậy, theo trang tin News.com.au.
Nhóm chuyên gia vật lý học thiên thể thuộc Viện Trường đo Vật lý Lý thuyết ở Waterloo (Canada) đã công bố báo cáo phân tích giả thuyết mới do các chuyên gia Đức đề xuất trước đó.
Theo giả thuyết này, vũ trụ hiện tại là một màng khối 3 chiều trôi nổi bên trong một vũ trụ khổng lồ 4 chiều.
Các chuyên gia cho rằng có thể một ngôi sao 4 chiều trong vũ trụ rộng lớn hơn đã bị hút vào một hố đen của vũ trụ đó, và tạo ra vũ trụ nhỏ hơn mà chúng ta là một phần của nó.
|
Hạo Nhiên - TN0
|
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)