Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

LÃO ĐẠI VỀ QUÊ


                     Truyện ngắn Hồng Giang.

Lão Đại đặt mình nằm xuống một lát là gáy pho pho. Hình như lão còn nói mê lảm nhảm gì nữa mà  Lân không nghe rõ. Nỗi ám ảnh, hãnh diện về tài ăn nói của mình khiến cho “cơ quan ngôn luận” của lão làm việc cả khi đi vào cõi ngủ.
Căn phòng vôi màu vàng úa, trần cao lại hẹp. Có cảm giác như ở dưới hầm vì rất bí do không có cửa sổ.
Câu chuyện của lõa Đại lúc hai người vào phòng này khiến Lân cứ cảm giác gờn gợn. Lão bảo khi trước chỗ chợ này vốn xưa gọi là xứ Đông, toàn những mả là mả. Cỏ may hoa tim tím mọc rất nhiều, xen lẫn những cây cà gai có vuốt sắc như móng mèo.
Hồi bé lão thường hay ra đây bắt cào cào, châu chấu, chơi đá dế với đám trẻ con trong làng. Hôm nào về, hoa cỏ may cũng bám, dắt đầy vào hai bên ống quần. Sợ mẹ mắng  trước khi về lão phải lấy mảnh trai,mảnh sành nạo hết thứ cỏ tai quái nhọn một đầu bám vào vải rất chắc ấy đi. Nếu nhặt từng cái một chả biết đến bao giờ mới xong?
Vật đổi sao dời, sau ngày lão đi xa, người ta quy hoạch lại. Chợ ngày xưa họp ở xóm Đình, chỗ ấy đất hẹp, không thể để ở đó tiếp tục được nữa.
Một trong số yếu tố của “kinh tế thị trường có định hướng” là phải mở mang chợ. Cần nơi đất rộng, tiện bề giao thông để mở chợ, thế là người ta nghĩ ngay đến chỗ này, rồi mang nó về đây.
Bữa cơm chiều vừa rồi ông em trai lão kể, Lân mới biết như thế.
Nửa phố nửa làng, chợ sát ven đê, các ki ốt dày đặc, người đến , người đi tấp nập. Mùi thịt nướng, cá rán từ các quán nhậu cạnh chợ bay ra thơm nức. Cả mùi cá tanh tanh, mùi thịt nồng nồng, mùi hoa quả thoảng thơm, mùi những cô nàng choai choai..Tạo thành hỗn hợp hương vị rất đặc trưng của vùng ven đô. Không ai ngờ bên dưới những đường nhựa, nền ki ốt lát gạch hoa kia lại vốn là nghĩa địa chôn người.
Cái cảm giác phân vân, sờ sợ khiến người ta nghĩ ngay đến việc liệu dưới lớp đất của nền chợ nhơm nhớp này, có còn sót bộ hài cốt vô chủ của ai đó quên chưa di rời đi nơi khác hay chưa?

Lân không có thói quen đi nghỉ sớm. Ở nhà giờ này anh đang xem ti vi, đọc sách hay viết cái gì đó. Giờ đi cùng lão, phải làm theo là lẽ dĩ nhiên. Có ngồi nói chuyện với chủ nhà cũng chả biết nói chuyện gì. Mới lần đầu gặp gỡ, câu chuyện thật khó nói. Nặn ra cho cho có chuyện anh không quen. Lão kêu mệt muốn đi nằm sớm, anh cũng theo luôn, dù chưa muốn ngủ sớm hơn mọi ngày.
Ở góc phòng anh có thấy kê một tủ sách khung bằng nhôm, ghép kính bốn mặt. Nhìn rõ phía bên trong những cuốn sách dựng nghiêng, để lộ gáy ra ngoài. Ngọn đèn tiết kiệm điện không nhìn rõ chữ trên gáy sách. Nhưng qua hình thức bề ngoài Lân đoán đó là loại sách công cụ, dạy tiếng Anh, dạy nấu nướng, dạy cách làm giàu gì gì đó.. Toàn những thứ thời thượng một cách nông nổi, tràn lan, vội vã đang thịnh hành ở những phố thị vừa mới nổi. Thứ sách cho quảng đại chứ không phải nghiên cứu, chuyên sâu.
Cạnh tủ sách có giàn máy vi tính đời đã cũ. Bàm phím mốc meo, sứt cả con chuột. Một sợi dây cáp điện nhỏ bị đứt, thả lòng thòng ngay phía bên trên cái máy tính.
Có thể đây là phòng riêng học tập của cậu con trai chủ nhà. Cái thằng có cái sẹo dài ngang mặt. Có lẽ từ ngày bị tai nạn giao thông, cậu ta chả màng đến sách vở hay máy vi tính để ở kia nữa?
Lúc Lân cùng lão Đại đến buổi trưa nay, chính cậu con trai chủ nhà ra đón. Khi đi rửa chân tay sau chặng đường dài bụi bặm, lão Đại kể cho Lân nghe đôi chút về cậu ta như để cắt nghĩa vì sao có cái sẹo trên mặt:
- Năm ngoái thằng thứ hai nhà này đưa nó lên cho chạy xe. Không may xe nó bị đổ, không chết ai, nhưng nó bị tai nạn phải nghỉ về đây bán hàng cho mẹ nó. May lại lấy được cô vợ giáo viên xinh xắn giỏi giang. Vụ ấy anh đến khốn khổ với nó đấy!
Lão chỉ kể có thế, nhưng mà vụ này Lân biết.
Chuyến ấy thằng con tổng giám đốc của lão mất toi cái xe tải, loại xe “ba chân” siêu trọng. Hầu hết những chuyến hàng “chưa đúng thủ tục” đều chạy về đêm, gần sáng, tốc độ cao vào những đêm trời mưa. Đường trơn, ổ voi ổ gà ngập nước lênh lánh chả biết đâu mà tránh, bánh xe không bám đường, xe lại chở nặng, chuyện mất lái gần như không cần bàn cãi.
May mà thằng cháu gọi lão bằng bác mệnh nó lớn mới giữ được mạng. Sau chuyến đó chuyện chạy chữa, bồi thường của thằng anh đối với em có điều gì đó chưa thông, ông em với lão có vẻ không còn mặn mà đằm thắm như trước.
Đó là lý do lão đã gọi điện báo từ lúc ở nhà đi, ông em vẫn lấy lý do bận đưa người ra thành phố chữa bệnh không có nhà.
Đến nơi Lân thấy bà em dâu lão có vẻ khang khác. Bữa cơm trưa rất sơ sài được bày ra để thết đãi ông anh “Đại gia” cả năm cả đời về chơi.
Lão nói như để chữa ngượng: “Anh không muốn vợ chồng chú ấy bày vẽ. Mình đâu có thèm thuồng gì? Lại đang lo bệnh gút với tiểu đường nên phải dặn thím ấy cấm có được làm cỗ.   cứ xoàng xoàng như cơm bữa bình thường.. Ăn thế nào chả xong, phải không chú?”
Lân biết lão nói vậy để chống chế chữa ngượng vì suốt dọc đường lão luôn mồm ca ngợi anh em nhà lão nhờ phúc lớn tổ tiên, anh nào cũng vào hàng “đại gia” cả, lại lịch duyệt, hiểu biết, cư xử chả ai có thể chê trách vào đâu được”.
Mình đâu có nề hà miếng ăn? Lân nghĩ bụng. Nhưng anh cứ thấy việc này nó sao sao ấy, chả giống như lão vẫn thường mô tả trước khi về đây?
Hay là bọn “đại gia” ở đâu cũng vậy, đều keo kiệt, bủn xỉn giả tạo giống nhau? Họ chả bao giờ thết đãi ai không vì cái gì, khi chưa chắc chắn nắm được mối lợi vật chất hay tinh thần nào?

Như người xưa có câu: “ Có bạc mới giầu, có cơ cầu mới có”?

Phần nhận xét hiển thị trên trang

ĐIỀM GỞ CỦA BẠO CHÚA


Truyện ngắn













Thuở nhỏ tôi thường hay lui tới nhà ông Mục Công ở trong làng để đọc nhờ những cuốn sách cũ đủ các loại trên giá sách của ông và nghe ông kể chuyện. Ông Mục Công biết chữ Nho, giỏi sử Tàu, kể chuyện rất có duyên, song chuyện của ông trẻ con trong làng ít đứa thích nghe. Ông còn hay vẽ tranh Tết trên những cuộn giấy cạp điều mua ở chợ Huyện rồi cho những nhà bà con trong làng đem về treo cho vui. Tôi nhớ năm ấy là tết năm Mão, ông vẽ toàn mèo là mèo, những con mèo mướp, mèo đen, mèo tam thể… đủ các loại râu thẳng tắp như những que tăm cắm xung quanh mép, mắt long lanh như hai hòn bi ve. Chỉ duy nhất một bức ông vẽ một con mèo có bộ lông đỏ rực như lửa. Con mèo có đôi mắt dữ dội, chiếu ra những tia sáng xanh lè đang cuộn mình lấy đà như muốn lao vọt ra khỏi bức tranh. Tôi thắc mắc chưa bao giờ trông thấy một con mèo có bộ lông đỏ thì ông bảo: “Giống mèo này gọi là “xích miêu”, vốn chỉ có ở Trung Quốc cách đây hơn hai nghìn năm trở về trước, song đã bị tuyệt chủng kể từ đó đến nay.” Tôi còn chưa hết kinh ngạc thì ông đã nói tiếp: “Có lẽ trên đời chưa giống vật nào lại có một ảnh hưởng kì lạ đến lịch sử như giống xích miêu này. Có thể nói nếu không có nó, thì sử của Trung Quốc, thậm chí của nhiều nước xung quanh sẽ không giống như người ta đã thấy…” Câu nói của ông hàm chứa một câu chuyện ly kì. Tất nhiên lúc đó tôi đã không bỏ lỡ cơ hội. Sau đây là câu chuyện ông kể có liên quan đến giống “xích miêu” ấy mà mãi hàng chục năm sau, tôi mới có thể tạm hiểu và chép lại được:
Cách đây hơn hai nghìn năm, nước Tàu có Tần Doanh Chính vốn là một gã con hoang, nhờ tham vọng phú quý của người đời mà leo lên ngôi vua nước Tần. Nhân lúc thiện hạ đại loạn, Tần Vương Chính huy động binh mã dẹp tan sáu nước, thống nhất toàn cõi Trung Hoa rộng lớn, lập nên triều đại Tần. Ngay sau đó, Tần Vương Chính đặt ra phép gọi mình là Thuỷ Hoàng Đế, là “Nhất Thế”. Đời sau cứ theo số mà tính, là “Nhị Thế”; “Tam Thế”; cho đến “bách thiên”; “Vạn Thế”… truyền mãi không cùng. Với cái “phép” ấy, Tần Thuỷ Hoàng Đế trở thành kẻ mở đầu cho tham vọng vĩnh cửu, muôn năm của lũ vua chúa hậu sinh muốn đời đời, kiếp kiếp ngồi trên đầu, trên cổ thiên hạ. Tham vọng ấy truyền suốt mấy nghìn năm, cho đến tận bây giờ vẫn còn thấy hiện ra ở đâu đó dưới dạng này, dạng khác… Thế nhưng vị Hoàng Đế đó cũng chỉ lưu lại được mỗi cái “truyền thống” ấy cho những kẻ hậu thế tham tàn mà thôi. Còn khí số của nhà Tần thì không ngờ lại rất ngắn ngủi, chỉ qua nổi đời thứ hai (“Nhị Thế”) thì nhà Tần đã bị Hán Cao Tổ (Lưu Bang) cùng các anh hùng hào kiệt khắp thiên hạ nổi lên tiêu diệt. Việc đó vốn có nguồn cơn từ trước khi Tần Vương Chính thống nhất được thiên hạ. Không hiểu sao Sử Kí lại “lờ” đi không chép. Hoặc giả có chép, song đã bị ai đó xóa đi chăng? Chắc thời xưa cũng có những lý do “tế nhị”, chẳng khác nào sử của thời hiện đại ngày nay. Nguồn cơn ấy như sau:
Năm Giáp Dần (247 trước Công nguyên), Tần Doanh Chính lên ngôi vua nước Tần. Việc đầu tiên, Tần Vương tập hợp các nhà chiêm tinh, lịch pháp, các vị sử quan lại, ra lệnh tìm một con vật khác để thay thế cho con rồng (thìn) trong số 12 con giáp của hệ thống thiên can, địa chi đang lưu hành rộng rãi khắp thiên hạ. Vua phán:
“Các ngươi nếu là những kẻ đầu tiên chọn 12 giống vật ấy nạp vào 12 địa chi (tý, sửu, dần, mão…), thì ta thề sẽ lập tức chôn sống cho bằng hết. Những kẻ sĩ thời xưa phải chăng là những hạng đại nghịch vô đạo, chúng bày vẽ ra việc đó chẳng qua muốn làm loạn lòng tôn kính của thiên hạ đối với các bậc Đế Vương! Rồng chính là tượng trưng cho chân mạng của những Đế Vương như ta. Thiên hạ không ai được phép nhắc đến trừ ta ra. Cũng như ta là vĩ đại, thì từ nay không còn ai được coi là vĩ đại nữa. Huống chi trong số cái gọi là 12 “chi” chết tiệt ấy, con “rồng” linh thiêng còn bị đứng sau cả chuột bọ là cớ làm sao?”
Trong số các nhà chiêm tinh, lịch pháp, và các vị sử quan có một người liều mạng bước ra tâu:
“Muôn tâu! Can Chi vốn không phải hạng kẻ sĩ tầm thường có thể lập ra được. Đó là bậc Thánh nhân xưa căn cứ vào sự vận hành của Mặt trời, Mặt trăng và các vì sao mà lập nên. Mười hai con giáp đó chẳng qua chỉ là “tượng”. Song bên trong mỗi “tượng” đó đều tồn tại những lý (tính) có quan hệ vô cùng huyền diệu. “Tượng” và “lý” của can chi chính là dấu vết của thời gian được “ghi chép” trong toàn bộ những diễn biến từ trong ra ngoài, từ dưới lên trên, từ những cái nhỏ nhất cho đến toàn bộ vũ trụ này. Từ khi Trời mở ở hội Tí, Đất mở ở hội Sửu, thì thời gian không còn có đầu, có cuối nữa. Vì thế không thể xem con vật nào là đứng đầu, con vật nào đứng sau được… Sự vận hành của các thiên thể từ thuở khai thiên lập địa đến nay đã hằn sâu trong cấu tạo, thấu đến từng hơi thở của vạn vật, kể cả trong tạng phủ, thậm chí trong cả linh hồn… của mỗi con người. Nay nếu ta thay đổi phép tắc, có khác nào phạm vào sự vận hành đó của Trời, Đất. E rằng điều đó sẽ ảnh hưởng tới khí số của cả thiên hạ nhà Tần sau này chưa biết chừng. Kẻ hạ thần xin liều mạng cúi mong Đại Vương anh minh xem xét lại.”
Người vừa tâu vốn là một nhà chiêm tinh nổi tiếng đời bấy giờ tên là Tào Thiên, hiệu là Xích Miêu cư sĩ. Sở dĩ có cái hiệu đó bởi họ Tào rất yêu quý một giống mèo có bộ lông đỏ như lửa mà ông cho là linh miêu. Đến nỗi đi đâu ông cũng mang theo một con xích miêu bỏ vào trong ống tay áo. Lúc ấy, Tần Vương Chính nghe họ Tào tâu thì đùng đùng nổi giận. Vua phẩy mạnh tay một cái rồi phán:
“Đó là luận điệu của lũ học trò bạch diện thư sinh mà ta muốn chôn sống cho bằng hết. Cứ cho rằng thời gian là không có đầu, không có cuối, thời gian chạy theo vòng tròn như ngươi nói, thì Rồng cũng không thể đứng lẫn lộn trong đám những con vật tầm thường, hèn hạ như chó, mèo, gà, lợn… ấy được. Cái thứ kiến thức nhảm nhí của bọn xưng là thánh nhân thời thượng cổ ấy, làm sao có thể ảnh hưởng tới khí số đế vương của ta nổi. Nhà ngươi nói như thế là có ý khinh ta không dám xoay chuyển cả trời đất, vũ trụ này hay sao?”
Nói xong, Tần Vương Chính quát tả hữu lập tức đem Tào Thiên ra chém. Khi các tả hữu vừa xông tới túm lấy hai vai Tào Thiên thì một con xích miêu từ trong ống tay áo của ông lao vọt ra. Trong nháy mắt, con mèo xẹt qua đám người đang đứng khúm núm như một đốm lửa đỏ rực. Ra tới cửa cung, nó chợt dừng lại, ngoái đầu chiếu thẳng ánh mắt xanh lè vào Tần Vương Chính, miệng “ngoao” một tiếng thảm thiết, đoạn phóng vút lên mái điện, biến mất dạng. Mọi người còn đang rợn người, run như cầy sấy trước cái lệnh chém vừa ban ra nên không mấy ai chú ý đến nó. Ngay cả Tần Vương Chính cũng chỉ hơi thoáng rùng mình một cái trước ánh mắt của con mèo. Ngài còn đang bận tâm việc khác. Tả hữu lôi Tào Thiên đi. Một lát sau, đao phủ bưng cái đầu ròng ròng máu tươi trình lên. Các nhà chiêm tinh, lịch pháp và sử quan chứng kiến cảnh ấy thì ai nấy mặt cắt không còn hột máu. Không kẻ nào còn dám trái mệnh nữa. Bèn bàn nhau lấy con rết thay vào. Từ đó, hệ thống địa chi lưu hành trong thiên hạ nhà Tần sau “Mão” (mèo) thì đến “Công” (rết) rồi đến “Tị” (rắn), “Ngọ” (ngựa), “Mùi” (dê)…
Xích Miêu cư sĩ Tào Thiên bị chém. Con cháu ông ta bèn trốn khỏi nước Tần, đem nhau về mai danh ẩn tích ở đất Ngụy, thành ra một chi họ Tào ở đấy. Truyền đến đời thứ mười (khoảng hơn ba trăm năm sau), một hôm bỗng mắc chứng tâm thần hoảng hốt, mắt lúc nào cũng trông thấy máu tươi chảy ròng ròng, tai suốt ngày nghe tiếng mèo kêu gào thảm thiết. Cầu cúng mãi không khỏi. Một đêm nằm mơ thấy một người chỉ có đến cổ, còn cái đầu nhễ nhại máu thì bê ở hai tay. Cái đầu ấy mở miệng bảo: “Phía đông có thằng bé đỏ như đồ đồng hun. Nuôi nó làm con nuôi thì sẽ hết bệnh”. Nói xong biến mất. Sáng hôm sau, họ Tào đem giấc mơ kể với một ông thầy. Ông thầy bảo: “Phía đông là cung “Mão”, tiếng mèo kêu có lẽ tới từ đó chăng?”. Họ Tào bèn sai người sang phía đông dò hỏi. Quả có một nhà họ Hạ Hầu có thằng con út lên ba tuổi, da đỏ như đồ đồng hun. Mấy năm trước, một người thiếp lên núi hái thuốc bỗng gặp một con mèo rất đẹp, lông đỏ rực như lửa. Tự dưng nảy ý định bắt nó về nuôi. Song đuổi theo vào đến hang núi thì không thấy đâu nữa, lại cảm giác trong bụng như có cái gì đang chuyển động. Trở về nhà từ đó có thai. Đúng chín tháng mười ngày sinh ra thằng bé. Hỏi đến ngày, giờ nó sinh ra thì đúng trùng với ngày, giờ họ Tào phát bệnh. Cho là chuyện lạ, họ Tào bèn khấn lễ xin thằng bé làm con nuôi. Họ Hạ Hầu vui vẻ ưng thuận. Họ Tào đem thằng bé về, từ đấy quả nhiên hết bệnh. Thằng bé được đổi sang họ Tào, đặt tên là Tung, yêu quí lạ thường. Tào Tung chính là bố đẻ ra Tào Tháo sau này.
Quay trở lại câu chuyện của nước Tần. Đầu năm sau, Ất Mão, mùa xuân, tháng giêng. Hôm đó, Tần Vương Chính thức suốt đêm để đọc sách, phê duyệt tấu, sớ… Sáng sớm hôm sau, Tần Vương cảm thấy trong người bứt rứt khó chịu, nghĩ đến thiên hạ còn nằm trong tay những kẻ khác đến quá nửa thì nỗi hận bốc lên ngùn ngụt. Các bậc tiên vương nước Tần khi xưa đã diệt hẳn nhà Chu, thì đáng lẽ cả thiên hạ này phải về tay nước Tần mới phải. Ngôi Chí tôn! Đó là điều mà Tần Vương này phải đạt cho bằng được. Bèn truyền bãi cuộc triều kiến buổi sáng. Tần Vương Chính muốn tắm rửa thân thể cho thật sạch sẽ, thư thái trước khi cùng trăm quan bàn định mưu kế chinh phục chư hầu. Các viên quan nội hầu, thị vệ, cung nữ… rối rít chuẩn bị. Một viên thái giám cầm thẻ đi gặp quan bốc phệ để định giờ…
Đúng giờ công (rết), cuộc ngự sái bắt đầu. Tần Vương Chính ngâm mình trong một bồn tắm lớn hình tròn, đóng bằng gỗ. Bồn chứa đầy một thứ nước thơm ấm áp có rắc hoa, vẫn còn bốc lên những làn hơi nhè nhẹ. Xung quanh có tám cung nữ trần truồng, vú vê trắng nõn, thỗn thện chia đúng theo phương vị Bát quái hậu thiên đứng kì cọ, mơn trớn. Bất ngờ “Tõm!” một cái, một con mèo lông đỏ như máu từ trên trần nhà lao xuống trúng giữa bồn tắm, ngay trước mặt vua làm nước thơm văng tung toé. Các cung nữ hoảng hốt rú lên, cô nào cô nấy hai tay bưng chặt lấy khuôn mặt. Ngay cả Tần Vương Chính cũng giật nảy người rồi đờ ra, không biết phải xử trí thế nào. Chỉ thấy một đốm lửa đỏ rực cứ chao qua, chao lại làm Tần Vương hoa cả mắt. Con mèo đỏ lập tức bám lên cổ, lên vai ngài. Bốn chân nó vừa điên cuồng cào cấu, vừa gào lên những tiếng nghe rất man rợ (về sau quan ngự y đếm được tổng cộng 13 vết cào). Rồi nó leo lên đầu ngài, rún người lấy đà phóng vút ra ngoài, chạy biến khỏi điện, để lại trên sàn nhà một vệt nước tua tủa, cong vút hình con rết. Khi Tần Vương Chính và các cung nữ khoả thân hoàn hồn thì nước trong bồn đã đỏ ngầu máu của ngài.
Có tổng cộng ba mươi sáu người nằm trong danh sách bị chém sau sự kiện đó. Đầu tiên là hai viên tả, hữu thị vệ cai quản an ninh trong nội cung, cùng các thị vệ canh giữ ngoài cửa cung lúc đó. Tiếp theo là các viên quan ngự thuỷ (coi nước tắm cho vua); quan ngự hương (coi mùi thơm); quan trạch điệp (chọn cung nữ hầu tắm)… và cả tám cung nữ chứng kiến cái thời khắc kinh hoàng đó. Riêng quan bốc phệ tên Quách Giải lúc đó đã trở về phủ, cách chỗ vua tắm non nửa dặm tự dưng thấy rùng mình một cái. Giở tay bấm độn, Quách tiên sinh biết mình sắp có họa lớn, bèn lẻn ra tàu ngựa, chọn một con khoẻ nhất đóng yên cương vào rồi leo lên, mở cửa sau tế ngựa chạy một mạch ra khỏi cổng thành. Một lúc sau, quả nhiên thị vệ trong cung kéo đến vây chặt phủ Quách. Quan bốc phệ bị khép tội đại nghịch, cố tình bấm sai giờ tắm cho Tần Vương.  
Tần Vương Chính bị cái sự kiện ấy nó ám ảnh. Nhớ đến ánh mắt xanh lè của con xích miêu vào đúng cái ngày chém Tào Thiên năm trước. Tần Vương cho rằng hai sự kiện đó có liên quan đến nhau. Bèn ra lệnh huỷ diệt toàn bộ giống mèo lông đỏ trong toàn cõi nước Tần. Thế là một chiến dịch đại qui mô nhằm tiệt chủng giống động vật đáng thương đó được phát động. Khắp nơi người ta lùng bắt, chặt đầu những con xích miêu để nộp cho quan sở tại dâng về triều đình lấy thưởng. Kẻ nào cố tình nuôi giấu giống mèo ấy thì bị chém cả nhà. Thực ra ngay từ những thời trước đó, xích miêu vốn đã là một giống mèo rất quý hiếm. Chỉ những nhà quý tộc hoặc có duyên lắm mới nuôi được mà thôi. Người ta nuôi nó không chỉ để làm cảnh, mà còn coi việc xuất hiện của nó như một điềm đại cát trong nhà. Nay bỗng dưng đạt cát biến, thành ra đại họa. Lệnh ban đến một vùng thuộc phía đông nam nước Tần. Ở đó có nhà họ Trần, vốn dòng danh gia vọng tộc, đã ngoài năm mươi tuổi mà vẫn chưa có con nối dõi. Họ Trần cho rằng tại kiếp trước mình ăn ở có điều gì phạm vào đạo lý nên bị trời giáng tội chăng? Bèn dốc chí làm việc thiện, thường viết hộ đơn kêu oan cho dân chúng quanh vùng. Không ngờ việc đó làm cho quan huyện sở tại lấy làm khó chịu, từ đó nảy sinh hiềm khích. Quan huyện vẫn muốn trừ đi mà chưa có dịp. Một hôm, có gã nông dân ở thôn tây trước đã từng nhờ vả họ Trần mang đến biếu ông một cái tráp sơn son rất đẹp, nói là bên trong có bài thuốc gia truyền, có thể giúp sinh quý tử, xin đến cuối giờ mão hôm sau hãy mở ra thì sẽ linh nghiệm. Họ Trần không nghi ngờ gì, nhận lấy cái tráp rồi để cẩn thận trên án thư. Đêm hôm ấy chong đèn đọc sách, quá nửa đêm, bỗng thấy cái tráp đặt trước mặt chợt loé lên một thứ ánh sáng xanh lè, vụt một cái rồi biến mất. Ngay lập tức, trong lòng họ Trần bỗng cảm thấy xuân tình rạo rực, không thể dừng được, bèn gấp sách, đứng dậy đi vội vào buồng một người thiếp yêu… 
Sáng sớm hôm sau, chưa kịp dậy, họ Trần bỗng nghe thấy bên ngoài có tiếng huyên náo. Thì ra quan huyện đem lính đến vây chặt nhà ông, nói là có xích miêu nuôi giấu ở trong nhà. Họ Trần chưa kịp thanh minh thì quan huyện đã xông tới chỉ vào cái tráp đặt ngay giữa án thư, truyền mở ra. Bên trong quả có một con xích miêu mềm nhũn đang nằm thoi thóp, mình nó vẫn còn nóng, song xem ra chỉ còn là cái xác không hồn. Ngay tức khắc, họ Trần hiểu ra tất cả. Cái mưu kế hèn hạ và hiểm độc ấy xưa nay dân gian vẫn gọi là “gắp lửa bỏ tay người”. Ông đưa mắt tìm trong đám người kéo đến xem có gã nông dân phản trắc ngày hôm qua không, song gã đã ẵm món tiền thưởng của quan huyện rồi, đâu dám thò mặt tới. Quan huyện đắc chí sai lính áp giải cả nhà họ Trần cùng tang vật về huyện đường xét xử. Bấy giờ trong đám quân lính có một người lính lệ cũng từng chịu ơn họ Trần. Biết ân nhân của mình khó lòng thoát khỏi bị chém đầu. Trên đường đi, anh ta bèn tìm cách đến gần, ghé tai họ Trần hỏi xem có cần anh ta giúp gì không. Họ Trần ngẫm nghĩ nếu trời thương mà đêm qua, người thiếp yêu có cơ khai hoa nở nhụy, thì may ra ông vẫn có người nối dõi. Bèn nhờ anh ta hãy tìm cách cứu lấy người thiếp. Nếu quả được như vậy thì ông dẫu chết cũng không ân hận.
Người thiếp của họ Trần được cứu thoát, tức khắc cải trang ra khỏi cửa Hàm Cốc, rồi thẳng đường trốn sang đất Dương Thành (thuộc nước Sở). Quả đúng ý nguyện của họ Trần, lần ấy người thiếp có thai, chín tháng mười ngày sau sinh một đứa bé trai, đặt tên là Thắng, sau lớn lên lấy tên chữ là Thiệp. Trần Thiệp nhà nghèo chẳng được học hành gì, thường phải đi cày thuê, song lại có chí lớn. Về sau, Trần Thiệp chính là người đầu tiên khởi xướng anh hùng khắp thiên hạ đứng lên diệt nhà Tần. Chuyện ấy đợi đến năm thứ nhất đời Tần Nhị Thế (209 trước Công nguyên) thì xảy ra.
Cái lệnh tiêu diệt xích miêu còn theo chân những đoàn quân chinh phạt của Tần Vương Chính đi khắp thiên hạ. Những đội binh hùng tướng mạnh ấy, ngoài việc phải tiêu diệt các chư hầu, thì một nhiệm vụ cũng không kém quan trọng là lùng bắt và chặt đầu những con xích miêu cùng những người chủ của chúng. Năm ấy, tướng Tần là Lý Tín vâng mệnh chỉ huy 20 vạn quân cùng phó tướng Mông Vũ đi bình định nước Sở. Hạng Yên là đại tướng Sở được cử đem quân chống giữ. Thanh thế quân Tần mạnh lắm. Hạng Yên bèn mời một vị trí sĩ nước Sở là Sở Nam Công tới hỏi kế. Sở Nam Công bảo: “Người nước Tần có tiếng là tham lam. Tôi nghe nói vua Tần treo giải một cái đầu xích miêu bằng ba trăm đầu giặc. Nay hãy vét toàn bộ giống xích miêu trong nước, đem thả vào giữa quân Tần. Nhân lúc chúng mải tranh nhau tung quân ra mà đánh, chắc sẽ chiếm được tiên cơ.” Hạng Yên nghe lời huy động cả nước Sở được vài trăm con xích miêu. Đợi đúng lúc hai bên đối trận, Hạng Yên bèn lệnh cho quân sĩ tung lũ xích miêu ra. Hơn ba trăm con xích miêu như những đốm lửa đỏ rực lao vào giữa trận địa quân Tần. Quân Tần trông thấy xích miêu, quả nhiên tranh nhau đuổi bắt, hàng ngũ rối loạn. Hạng Yên thừa thế tung quân đánh vào. Quân Tần thua to, bị quân Sở đuổi giết ba ngày ba đêm liền, hai mươi vạn quân chết mất quá nửa. Lý Tín đành phải rút quân về nước chịu tội. Hạng Yên sai người đến tạ ơn Sở Nam Công. Điều quái lạ là Sở Nam Công không lấy thế làm vui mừng, trái lại còn thở dài bảo: “Lần này tuy phá được quân Tần, song lần sau Tần lại cử tướng khác tới thì không lừa được nữa đâu. Cái kế xích miêu ấy chẳng qua chỉ có tác dụng tạo thêm một mầm họa cho Tần sau này mà thôi.” Sứ giả về thuật lại cho Hạng Yên nghe. Hạng Yên nghĩ mãi vẫn không hiểu Sở Nam Công nói thế là có ý ra sao. Bèn cứ ra lệnh thu nhặt những con xích miêu còn sống sót đem về nuôi ở đất Hạng (quê Hạng Yên).
Bấy giờ ở đất Hạng, con trai Hạng Yên tên là Hạng Lương mới lên chín tuổi. Chú bé Hạng Lương trông thấy giống xích miêu thì thích lắm, đi đâu cũng ôm theo một con. Một hôm sang ăn giỗ ở nhà người anh họ tên là Hạng Túc, tiểu công tử nhà họ Hạng vẫn ôm theo một con xích miêu như thế. Chẳng hiểu mải chơi thế nào mà đến khi tan đám giỗ, bỗng không thấy con xích miêu đâu nữa. Tiểu công tử Hạng Lương gào khóc bắt đền ầm ĩ. Mọi người đổ xô đi tìm khắp các xó xỉnh, trong nhà, ngoài vườn… song tuyệt nhiên không biết nó trốn ở đâu. Đêm hôm đó, bà vợ cả của Hạng Túc đang một mình thiu thiu ngủ, bỗng nghe có tiếng động rồi cảm thấy có một vệt đỏ như lửa lao vút vào trong màn. Bà vợ sợ quá kêu ầm lên. Hạng Túc ở ngoài thấy vậy đẩy cửa bước vào thì lại không thấy gì nữa. Cho là vợ mình ngủ mê, Hạng Túc nhìn đến người vợ thấy đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch nửa kín nửa hở thì bỗng động lòng, bèn ôm lấy vợ cùng ngủ…
Nguyên người vợ Hạng Túc trước đó đã sinh mấy người con gái mà chưa có trưởng nam. Sau đêm ấy bỗng có thai rồi đẻ được đứa con trai. Hạng Túc mừng lắm, đặt tên đứa con trai ấy là Tịch, ngụ ý rằng nó ra đời nhờ vào một cái đêm có điềm lạ. Hạng Tịch lớn lên, có sức khoẻ, võ nghệ và ý chí trùm đời. Chính là bậc anh hùng cái thế Hạng Võ, lúc đắc chí lên ngôi xưng là Tây Sở Bá Vương, một trong những nhân vật có vai trò quyết định đến sự diệt vong của triều đại Tần sau này.
Tần Vương Chính cho rằng giống xích miêu ấy thuộc về “hoả”, Chính tự cho mình là “thuỷ”, cái lẽ tương sinh, tương khắc là chuyện không thể tránh khỏi, thậm chí điều đó có liên quan trực tiếp đến ngôi Chí tôn của Chính. Song muốn “khắc” được “hoả” thì việc quan trọng là phải không để cho nó “vượng”. “Hoả” mà “vượng”, thì thậm chí nó “khắc” ngược lại “thủy”. Đó là mối lo lớn nhất của Tần Vương Chính. Thế là lệnh huỷ diệt giống xích miêu từ triều đình vua Tần ban ra càng lúc càng gắt. Có điều Tần Vương không bao giờ ngờ nổi, rằng cái lệnh đó truyền đi đến đâu, thì anh hùng lại sinh ra đến đấy. Mà toàn những anh hùng sau này sẽ làm mất chính nhà Tần. Nước Sở ngoài Trần Thiệp, Hạng Tịch như vừa kể ở trên, còn sinh ra những Hàn Tín, Quý Bố, Loan Bố… Nước Ngụy (Đại Lương) nghiêng ngả trong những cuộc chinh phạt của tướng Tần là Mông Ngao, lại sinh ra những Trương Nhĩ, Trần Dư… Rồi thì những bậc hào kiệt khác như Anh Bố, Bành Việt… hết người nọ, đến người kia được sinh ra trong cùng một khoảng thời gian, hầu như đều có liên quan đến cái lệnh huỷ diệt giống xích miêu ấy của vua Tần. Câu chuyện của ông Mục Công còn kể ra nhiều lắm, không tào nào nhớ nổi. Song, sẽ là cực kì thiếu sót nếu không chép ra đây chuyện về vị quan bốc phệ có tên là Quách Giải kia.
Quách tiên sinh chạy một mạch ra khỏi thành Hàm Dương, suốt ngày ngồi trên lưng ngựa, không dám dừng lại. Ông biết ngay sau lưng ông, lệnh tróc nã của vua Tần sẽ lập tức ban ra khắp cõi. Ông không hiểu mình có sơ xuất gì trong việc chọn giờ ngự sái (tắm rửa) cho vua Tần. Khi viên thái giám mang thẻ đến thúc ông cho giờ, ông gieo được quẻ “độn” (Thiên Sơn độn) trong đó quẻ thể (ứng vào vua Tần) là “càn” thuộc “kim”; quẻ dụng (ứng vào việc tắm của vua) là “cấn” thuộc “thổ”. “Thổ” sinh “kim” thì là cát (tốt lành) mới phải. Tại sao lại xảy ra cái điềm hung như thế. Có một điều Quách tiên sinh không tính đến, cũng bởi do “thìn” đã bị chính vua Tần loại ra khỏi hệ can chi từ trước đó. Giờ ông chọn lại đúng giờ “thìn”, trong khi mạng của vua Tần thuộc “thuỷ”. Mà “thuỷ” thì vượng ở “tí”, chứ không vượng ở “thìn”. “Thìn” chính là “mộ” (chỗ kết thúc) của “thuỷ”. Thế là vua Tần vô hình chung đã tự chuẩn bị sẵn cái điềm gở ấy cho mình từ việc sửa đổi một trong số 12 “địa chi” ngày trước.
Giải thích việc này hơi có phần rắc rối. Song đã chép ra thì cũng xin cố chép thêm được chừng nào hay chừng đó. Các nhà bốc Dịch đời sau còn phân tích kĩ hơn về quẻ bói có một không hai ấy của Quách tiên sinh. Rằng lúc đó, họ Quách có biết đâu rằng trước khi viên thái giám cầm thẻ đi lấy quẻ, thì Tần Vương Chính đang nghĩ đến việc chinh phạt thiên hạ. Chứ đâu chỉ đơn giản là cái việc tắm rửa. Vì vậy Quách tiên sinh chỉ chú ý đến quẻ “chủ” là “Thiên Sơn độn”, mà không xét kĩ đến quẻ “biến” là “Thiên Hoả đồng nhân”. Ngay cả trong “hào từ” (lời đoán sẵn của hào “động” của quẻ “chủ” – là hào “sơ lục”), rõ ràng có chữ “trốn”, chữ “nguy!”. Vậy mà không hiểu trời xui đất khiến thế nào, cũng bị Quách tiên sinh bỏ qua. Cái điềm xích miêu xảy ra đúng vào thời khắc đó là sự báo hiệu cho trạng thái “biến” của quẻ. Các anh hùng, hào kiệt gần như đồng thời xuất hiện về sau chính là đã ứng vào quẻ “biến” (“đồng nhân” = cùng người) ấy. Vả lại, lúc đó đang là mùa xuân, thì quẻ “thể” ứng với vua Tần dẫu có thuộc “kim”, và vua Tần dẫu có mạng “thuỷ” đi nữa, thì mùa xuân chính là mùa mà sách đã dạy: “kim tù, thuỷ hưu”. Vậy thì còn nói vào đâu được nữa? Tóm lại, quẻ bói của Quách tiên sinh đối với vua Tần lúc đó chính là tiên “cát” (trước gặp được tốt lành), hậu “hung” (sau gặp phải hiểm họa). Tất cả những việc xảy ra về sau, kể từ khi Tần Vương Chính đánh đâu được đấy, đắc thắng cả sáu nước rồi lên ngôi Hoàng Đế, cho đến khi nhà Tần mất đã diễn ra theo đúng quẻ bói ấy, không sai lệch mảy may.
Quách tiên sinh ngày chọn đường vắng mà đi, đêm tìm miếu hoang để ngủ, không dám công nhiên chường mặt ra những nơi chợ búa hoặc phố xá đông người. Những nơi đó đều có dán sẵn cáo thị cùng với truyền thần của ông. Thỉnh thoảng ông vẫn phải cải trang, che mặt để tới những chỗ có hàng quán kiếm thức ăn và nghe ngóng tin tức. Vua Tần treo thưởng đầu ông tới cả nghìn lạng vàng, phong tước vạn hộ… Các quan thú, quan quận, phủ… ngày đêm sai lính ra sức truy tìm tung tích của ông cùng với việc lùng giết giống xích miêu. Cả nước Tần như một nồi cháo sôi sùng sục được quấy đảo liên hồi. Ông giận mình không thể biến thành thú hoang để có thể lẩn trốn mãi ở những nơi rừng sâu núi thẳm được. Thân phận một kẻ sĩ được học hành tử tế như ông đâu có ngờ lại mong manh đến thế…
Hôm ấy vừa đi qua một khu rừng nhỏ, người ngựa đã mệt lả. Quách tiên sinh bổng nhìn thấy một ngôi nhà nhỏ dựng bên kia con suối. Xung quanh nhà là một hàng dậu bằng trúc có dây leo quấn quýt, trên đó mọc những bông hoa đỏ rất đẹp. Xung quanh nhà rộn tiếng vượn kêu, chim hót. Nghĩ nơi đây vắng vẻ, cách xa những phủ quận, người ở đây chưa chắc đã biết đến những cáo thị ấy. Bèn nảy ý định ghé vào xin chút cơm ăn. Khi con ngựa vừa đưa Quách tiên sinh tới cổng ngôi nhà thì bỗng cánh cổng bằng trúc cũng từ từ mở ra. Một chú tiểu đồng đứng bên trong kính cẩn cúi chào và mời ông vào bên trong. Quách tiên sinh chưa kịp kinh ngạc thì con ngựa đã đưa ông vào tới giữa sân. Ngay lập tức, Quách tiên sinh phát hiện một lão ông râu tóc trắng như cước đang từ trên bậc thềm tươi cười bước xuống đón. Quách tiên sinh vội vàng xuống ngựa lập cập thi lễ. Ông cụ già gật gật đầu rồi hỏi ngay:
“Xin hỏi, có phải ngài là tiên sinh họ Quách đấy không?”
Quách tiên sinh giật nảy mình, bủn rủn chân tay. Vội vàng quỳ sụp xuống, vừa lạy cụ già, vừa trả lời:
“Thì ra cụ đã biết đến cáo thị. Thực không dám giấu, kẻ tội đồ này đúng là Quách mỗ. Nay chạy đến đây cũng là lúc sức cùng lực kiệt. Chỉ xin cụ chút cơm ăn cho đỡ đói rồi cụ có giải đi trình quan cũng không dám ân hận điều gì.”
Cụ già nghe nói thế thì cười khà khà, ung dung bước tới đỡ Quách dậy rồi bảo:
“Lão biết hôm nay thế nào tệ xá cũng có duyên được tiên sinh quang lâm tới. Tiên sinh nghĩ oan cho lão rồi. Lão phu nào có quan tâm đến cáo thị cáo thiếc gì đâu. Chẳng là ngày xưa lão phu cũng có hân hạnh được biết đến tiên phụ…”
Quách tiên sinh vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ. Không ngờ cụ già lại biết trước thế nào hôm nay ông cũng tới đây, lại còn nói biết cả thân phụ của ông nữa. Vậy đây có lẽ là một bậc kì nhân ẩn dật chưa biết chừng. Nguyên thân phụ Quách tiên sinh tên Quách Phủ, hiệu là Thiên Lang Quân, đời trước từng được tôn là một bậc đại sư về bốc Dịch, dòng dõi quan thái bốc Quách Yển của nước Tấn khi xưa. Nghĩ đến đây, Quách tiên sinh bỗng cảm thấy xấu hổ. Mang danh một chức quan của triều đình, chuyên về bốc phệ, lại là dòng dõi của những bậc danh sư như thế, mà nay bói phải một quẻ sai lầm không thể tha thứ được, phải trốn chui trốn lủi, tấm thân trượng phu không bằng một con mèo hoang. Giờ đứng trước mặt vị lão tiền bối này, ông những muốn chui ngay xuống đất cho khỏi hổ thẹn, nhục nhã đến cả tổ tiên. Càng nghĩ, Quách tiên sinh càng cảm thấy đau đớn, bất giác hai hàng nước mắt trào ra. Cụ già dường như đã thấu hiểu hết nỗi lòng của Quách. Cụ già nói:
“Đó là việc của trời đất xui khiến nên như thế. Con người ta dẫu không muốn sai lầm cũng không thể được. Tiên sinh không phải bận lòng gì cho lắm. Nơi này cách xa phủ huyện, dân chúng quanh vùng hiền lành, không thích gây họa cho ai. Tiên sinh có thể yên tâm lánh tạm, đợi sau này hẵng hay…”
Quách tiên sinh nghe cụ già nói thì vô cùng cảm động. Bỗng nhiên trong lòng có cảm giác ấm áp như vừa may mắn gặp lại bậc phụ huynh của mình. Bèn lau nước mắt rồi quỳ sụp xuống, lạy cụ già hai lạy lần nữa, đoạn cùng cụ bước vào trong nhà. Từ đó Quách tiên sinh sống trong ngôi nhà trúc với cụ già và chú tiểu đồng. Cùng với cụ đàm đạo về đạo Dịch suốt ngay không biết chán. Quách tiên sinh nhờ đó được sáng thêm ra nhiều điều. Đặc biệt, cách vài hôm lại thấy có mấy cụ già từ trên núi xuống. Một điều lạ là chẳng ai mảy may quan tâm đến thân phận cũng như sự xuất hiện của Quách trong ngôi nhà này, cứ thản nhiên chỉ trời vạch đất, bàn đến những đạo lý cao xa mà một kẻ học thức như Quách cũng không tài nào hiểu nổi. Có lúc Quách tiên sinh nghĩ hay là mình đã lạc vào một nơi chốn thần tiên…
Thấm thoắt trời đã sang chuyển sang hạ. Quách tiên sinh đã ở ngôi nhà nhỏ đó được hơn một tháng. Quách bắt đầu cảm thấy áy náy, sợ náu mãi ở đây có thể sẽ liên lụy đến cụ già. Hơn ai hết, Quách biết rõ pháp luật của Tần Vương Chính rất nghiêm. Kẻ chứa chấp tội nhân cũng bị chém cả ba họ. Nấn ná mãi, rồi cũng đến lúc Quách quyết định phải dứt áo ra đi, dù ông chưa biết mình sẽ đi đâu. Một lần nữa, cụ già dường như lại thấu hiểu tâm sự của ông. Cụ lấy ra hai tấm thẻ tre cột úp chặt vào nhau bằng dây rừng đưa cho ông rồi bảo:
“Tiên sinh đã muốn đi thì lão phu cũng không dám giữ. Từ đây theo hướng đông bắc, đến quận Bái cũng không xa lắm. Tiên sinh đi theo phương đó sẽ gặp cát tường. Lão có một học trò cũ ở đấy, họ Lưu, thường xưng là Thái công. Ông ta là một bậc trưởng giả trong thiên hạ. Lão đã viết sẵn cho y mấy chữ trong hai tấm thẻ này. Cứ như quẻ bói của lão phu, thì tiên sinh chính là người mà thiên cơ đã chọn. Trước sau tiên sinh cũng sẽ thoát khỏi kiếp nạn. Có điều không thể nói trước được mà thôi…”
Quách tiên sinh tuy chưa hiểu hết những ẩn ý trong câu nói của cụ già, song vẫn vô cùng mừng rỡ. Bèn tạ ơn cụ già, đưa hai tay đỡ lấy bó thẻ rồi bịn rịn làm lễ chia tay. Một người một ngựa lại tiếp tục ra đi, nhằm hướng đông bắc thẳng tiến. Quá trưa hôm sau thì thấy xa xa phía trước có một châu quận. Đó chính là phủ lị quận Bái. Gần tới nơi, bỗng con ngựa khuỵu hai chân trước xuống không chịu đi nữa. Quách tiên sinh làm mọi cách nó vẫn không đứng lên. Đành phải kiếm một gốc cây ven đường, buộc nó vào rồi che mặt đi vào quận dò hỏi nhà Lưu Thái công. Đó là một phủ lị nhỏ, nhà cửa tồi tàn ở cách rất xa kinh đô. Cáo thị truy nã Quách vẫn dán la liệt trên các bức tường song vì Quách đã che mặt nên người qua kẻ lại cũng không ai chú ý. Đang thơ thẩn trước một ngôi quán nhỏ, Quách tiên sinh bỗng giật mình nghe có tiếng huyên náo, đuổi bắt ầm ĩ phía một con phố bên kia dãy nhà. Chưa kịp hiểu điều gì đang xảy ra thì một con mèo đỏ như lửa ở đâu lao vọt tới, quấn lấy chân Quách. Quách tiên sinh hiểu ngay ra sự việc. Bọn lính kia chắc là đang đuổi bắt con xích miêu này. Sợ chúng đuổi đến đây thì chính mình cũng bại lộ chân tướng. Quách tiên sinh vội vàng rảo bước, cố ý tránh cho xa khỏi con xích miêu. Điều kì lạ là Quách càng đi nhanh, thì con xích miêu càng quẩn theo chân, cố ý không rời. Quách hoảng sợ không biết làm thế nào, chỉ còn cách hướng ra phía ngoài thành, đi nhanh như chạy. Bọn lính quả nhiên đã phát hiện ra con xích miêu. Chúng chỉ trỏ về phía Quách, hò hét nhau đuổi gấp. Giờ thì Quách tiên sinh cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng. Điều kì lạ là con xích miêu quái quỉ ấy cũng co cẳng phóng theo. Quách thử ngoặt sang hướng khác để mong tách ra khỏi nó, thì nó cũng ngay lập tức ngoặt theo như hình với bóng. Thật đúng là tai vạ. Quách tiên sinh vừa chạy vừa âm thầm kêu khổ…
Cuộc đuổi bắt đã bỏ xa phủ lị lúc nào không biết. Quách tiên sinh và con vật chạy cuống cuồng giữa một cánh đồng rộng mênh mông. Phía sau vẫn là những tiếng hò hét của lũ quan binh. “Vận ta đã đến lúc cùng chăng?” Quách tiên sinh tuyệt vọng nghĩ. Ngay lúc đó, bỗng có một cơn lốc ào ào cuộn lên phía sau lưng. Quách tiên sinh ngoái đầu nhìn lại. Cơn lốc cuốn tung bụi mù mịt, che lấp hẳn Quách với lũ quan binh kia. Quách mừng rỡ thấy có cơ hội trốn thoát, bèn lấy lại tinh thần, đưa mắt nhìn xung quanh để tìm một bụi rậm hay một ruộng nước nào đó để ẩn mình. Cơn lốc qua đi, Quách tiên sinh kinh ngạc nhìn về phía phủ lị. Tuyệt không thấy một mống quan binh nào nữa. Cứ như thể chuyện vừa xảy ra chỉ là cơn ác mộng. Chẳng lẽ thần nhân vì muốn cứu Quách và con xích miêu, đã làm ra cơn lốc ấy để cuốn lũ quan binh vào thành? Chợt Quách phát hiện trong lúc chạy đã đánh rơi mất bó thẻ tre của cụ già lúc nào không biết. Quách sững sờ cả người, trong lòng vừa ân hận vừa tuyệt vọng. Thế là không hy vọng tìm gặp vị trưởng giả Lưu Thái công ấy nữa rồi.
Quách tiên sinh mệt mỏi và chán nản lê bước đến bên bờ đầm ngồi nghỉ một lát cho hoàn hồn. Con xích miêu vẫn luẩn quẩn bên chân. Trong lòng Quách bỗng cảm thấy giữa mình và con vật đỏ như lửa này hình như có một mối duyên nợ. Quách không nỡ đuổi nó đi nữa. Con vật đưa cặp mắt xanh lè, long lanh nhìn thẳng vào mắt ông. Bỗng Quách tiên sinh cảm thấy có tiếng người thở nhẹ ngay bên cạnh. Quách giật bắn người vội quay đầu nhìn sang. Ngay gần mé tay trái, lẫn trong đám cỏ lúp xúp, có một người đàn bà nằm ngửa, đang say sưa giấc nồng. Một làn gió thổi nhẹ làm lật vạt áo lên, lộ ra mảng bụng trắng nõn. Quách tiên sinh vội vàng nhắm mắt lại không dám nhìn nữa. Vừa lúc đó, con xích miêu bỗng “ngoao” lên một tiếng rồi nhảy vào lòng ông. Ngay lập tức, Quách tiên sinh bỗng cảm thấy có một luồng điện chạy giần giật khắp cơ thể khiến ông mờ mịt hết đầu óc. Trước mặt ông, trời đất dường như đang đảo lộn, quay cuồng, toàn thân ông bừng bừng như có một ngọn lửa đang thiêu đốt từ bên trong. Vừa há miệng thở gấp gáp, Quách tiên sinh vừa cảm thấy đầu óc mình cứ mụ dần, mụ dần rồi không nhận ra nổi những gì xảy đến tiếp theo nữa…
Quách tiên sinh tỉnh dậy. Ông hết sức kinh hoảng khi thấy mình đang nằm úp trên bụng người đàn bà, thân thể của cả hai không một mảnh quần áo. Con xích miêu thì đã biến mất tăm tích. Cảm giác về một cuộc hoan lạc vẫn còn vương vất nơi hạ bộ. Quách vội vàng lăn người xuống, vớ lấy trang phục vứt lăn lóc bên cạnh mặc vào. Ông ngoảnh nhìn lại người đàn bà. Hình như nàng vẫn chưa ra khỏi giấc nồng, trên nét mặt đầy đặn vẫn còn đọng lại một vẻ mãn nguyện như vừa trải qua một cơn khoái cảm cực độ. Quách tiên sinh cảm thấy tấm thân mình thật ô uế. Ông đã không tìm được người mà cụ già gửi gắm, lại còn gây ra cái việc bất chính này. Bất giác, ông nảy ra ý định nhảy phắt xuống đầm, chết quách đi cho rồi. Song vừa xuất hiện ý nghĩ đó, thì toàn bộ y phục của ông bỗng đổi sang một màu trắng toát, đồng thời, ông cảm thấy người mình nhẹ tâng, đến nỗi có thể nương theo làn gió đang thổi tới mà bay đi được… Và ông đã phơi phới ra đi, chỉ thấy tà áo trắng phất phơ xa dần, xa dần rồi chìm hẳn vào bóng chiều đang từ từ buông xuống…
Quách tiên sinh đã đi đâu? Câu chuyện về ông đến đây xin chấm dứt. Chỉ biết rằng ông không cần phải đi tìm Lưu Thái công nữa. Bởi vì chỉ sau đó chưa đầy một canh giờ, Lưu Thái công đã tới đúng cái chỗ mà ông vừa đi khỏi. Bên bờ đầm, người đàn bà vẫn còn say sưa trong giấc mộng. Người đó chính là vợ của Thái công. Bên cạnh có bó thẻ tre, chính là bó thẻ mà Quách tiên sinh đã đánh rơi khi nãy. Không hiểu sao giờ lại xuất hiện ở đây. Lưu Thái công cúi xuống, nhặt lấy bó thẻ và mở ra. Đọc xong những chữ ghi trên tấm thẻ, Lưu Thái công mừng rỡ giắt mấy tấm thẻ ấy vào trong người. Đoạn Thái công quỳ xuống, nhẹ nhàng đánh thức người vợ dậy…
Đúng chín tháng mười ngày sau, bà Lưu lâm bồn. Đêm ấy, trong nhà Thái công bỗng hồng lên một thứ ánh sáng đỏ rực. Một đại quý nhân ra đời. Quý nhân ấy được đặt tên là Lưu Bang (tất nhiên phải lấy họ Lưu mà không thể lấy họ Quách, cũng như Tần Vương Chính phải lấy họ Doanh, không thể lấy họ Lã. Lịch sử cứ hay thích chơi trò lặp lại như vậy). Lưu Bang chính là Hán Cao Tổ, người sau này sẽ xoá sổ nhà Tần cường bạo của Thuỷ Hoàng Đế, lập nên triều đại Hán để thay thế. Việc này thì ai nấy đều đã biết. Nhà Hán của Hán Cao Tổ lại đưa con rồng (thìn) trở lại vào hệ thống 12 địa chi như cũ, đồng thời lấy màu đỏ của lửa (hoả) thay cho màu đen (thuỷ) của Thuỷ Hoàng. Tuy nhiên, câu chuyện về giống xích miêu dường như chưa chịu kết thúc ở đó. Bởi vì như đã chép ở phần đầu câu chuyện, hơn ba trăm năm sau, tính từ vị Xích Miêu cư sĩ Tào Thiên trở đi đúng 12 đời, đất Ngụy lại sinh ra Tào Tháo, người sẽ tạo tiền đề cho việc chấm dứt triều đại nhà Hán của Hán Cao Tổ sau 400 năm tồn tại. Nhà Ngụy (Tào) thay thế nhà Hán, bấy giờ mèo mới trở thành một con vật thiêng. Tuy nhiên, Tào Phi sau đó lại một lần nữa dẫm vào vết của Thuỷ Hoàng khi lại ra lệnh đưa con mèo (Mão) ra khỏi 12 con vật của hệ thống địa chi, thay vào đó là con thỏ (song vẫn đọc là “Mão”). Hình như điều đó cũng không có gì nghiêm trọng lắm thì phải. Bởi vì con thỏ trong số 12 con giáp ấy ở Trung Quốc vẫn tồn tại cho đến tận ngày nay.
Mùa Đông, tháng 10 năm Bính Tuất (2006)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chết mày chưa?

Chị Cả Bống

Lời Giới Thiệu: Truyện ngắn Chị Cả Bống xuất hiện đầu tiên trên báo Người Hà Nội, số ra ngày 8/6/05. Lập tức toàn bộ số báo bị tịch thu. Ông phó tổng biên tập cho in bài “nổi loạn“ này bị mất chức. Tác giả đang bị công an hù dọa liên tục. Hiện tại số báo ngày 8/6 này đang được phô tô truyền tay nhanh chóng tại Hà Nội, vượt xa cả số phát hành chính thức là 2000 tờ. Những số báo đã lỡ gởi ra trước khi có lệnh tịch thu mà các đại lý nhanh tay giấu được ngay lập tức được bán với giá gấp 10 lần ( 20. 000 đồng một tờ). Tại Sài Gòn nơi tác giả lấy bối cảnh để viết, giá lên gấp hai mươi, ba mươi lần.
Chiều tà, một người đàn ông phóng như ngựa phi nước đại về phía tây thành phố, nơi ấy có nhà tù với cái tên rất đẹp là “Hòa khí“. Tới cổng gác, ông ta trình thẻ căn cước cho lính canh. Sau khi xem chứng minh thư, lính canh dẫn ông vào văn phòng nộp hồ sơ. Một người đứng tuổi đeo kính trắng nhận hồ sơ rồi bảo:
-Dẫn tới khu nhà chờ, đợi thẩm tra hồ sơ, ba tuần sau có kết quả.
Lính canh lại dẫn ông ta đi, khu nhà chờ gồm vài dãy nhà cấp 4 sập xệ và rêu mốc, rất đông người ở kín các gian phòng, đàn ông, đàn bà, lớn bé, già trẻ, đủ cả… Điều kiện sinh hoạt rất tồi tệ song không ai ta thán, đơn giản họ chỉ ở lại đây có vài tuần. Từ khi lập ra khu nhà chờ này không lúc nào vơi người. Ngày nào cũng có người đi lại, ngày nào cũng có người đến. Giống như người đàn ông kia, mọi người chờ thẩm tra hồ sơ, nếu đủ tiêu chuẩn sẽ được vào tù. Tiêu chuẩn đơn giản nhưng không phải không kỹ càng, chỉ những người lương thiện không dính tý lưu manh nào mới được vào tù. Tất nhiên lũ bất lương đừng hòng bén mảng tới.
Chẳng ai lấy làm ngạc nhiên, ở xứ xở này, không có chuyện gì là không xảy ra kể cả những chuyện ngược đời, đơn giản mọi người không những thích đùa mà còn đùa rất dai; 5 giờ rưỡi sáng, kỹ sư Hoàng thức dậy, vợ và đứa con trai mười tuổi của anh đang ngủ say. Đứa con gái 17 tuổi của anh đêm qua không về, chị giúp việc cũng đã dậy từ lúc nào, đèn dưới bếp hắt lên mấy vệt sáng le lói qua khe cửa. Mười phút cho việc vệ sinh cá nhân, 25 phút cho việc mở các loại cửa. Như mọi nhà trong thành phố, từ lâu anh đã biến căn hộ của mình thành một pháo đài. Các cửa sổ ngoài việc lắp chấn song bằng thép dày, còn được giằng ngang ba ống thép to bằng cổ tay, chia đều từ trên xuống dưới. Cửa đi cũng bằng thép đúc, bên ngoài dán một lớp gỗ mỏng. Tính từ trong ra đến cửa, còn năm lớp cửa như thế, tất cả đều có khóa đặc biệt, mỗi cửa gồm ba chiếc khác loại nhau. Mở đến lần cửa cuối cùng thì vợ con anh cũng vừa trở dậy. Những việc chuẩn bị cho một ngày mới diễn ra đã thành nếp. Sau khi dặn dò kỹ lưỡng chị giúp việc hai vợ chồng dắt xe đi làm. Chị kiêm thêm nhiệm vụ đưa con tới trường, chiều về ghé qua chợ mua thức ăn cho ngày hôm sau. Trước khi ra cổng, anh một lần nữa kiểm tra trên người vợ con xem có đeo bất cứ loại trang sức nào không, nhắc vợ cẩn thận kẻo bị cướp… Anh lại lần lượt khóa tất cả các cửa từ trong ra ngoài, trong lúc vợ đứng giữ xe. Đứng bên ngoài thò tay qua các lỗ cửa thực hiện những thao tác của người mù, mười phút nữa cho công việc ấy, xong xuôi vợ chồng con cái chia thành hai ngả phóng xe đi.
Kỹ sư Hoàng làm việc tại một cơ quan thiết kế gần trung tâm thành phố. Mới ngoài 40 mà tóc anh đã gần như bạc trắng, thằng con trai lớn 19 tuổi đang ở trung tâm cai nghiện, đứa con gái thứ hai 17 tuổi đua đòi chúng bạn bỏ cả học đi vũ trường thâu đêm, suốt sáng. Không phải vợ chồng anh không biết dạy con mà là bất lực. Con đường đời biết bao nhiêu cạm bẫy, nó gài khắp mọi nơi, mọi chốn, gài trên mỗi bước chân. Già đời chững chạc như vợ chồng anh, ngày nào cũng phải nhắc nhau từng tí một mà vẫn ngay ngáy lo rằng không biết lúc nào, cái bẫy nào sẽ ụp xuống mình đây ?
Kỹ sư Hoàng chợt lạnh người. Có tiếng còi nghe rợn tai, một cảnh sát giao thông bước quả quyết từ trên vỉa hè xuống đường vừa tuýt còi, vừa chỉ thẳng cái dùi cui vằn vện vào mặt anh, một cảnh sát khác ngồi vắt vẻo trên yên xe máy phân khối lớn sơn màu trắng. Chưa kịp hiểu mình có sai luật hay không anh vội đạp phanh, chiếc xe dừng tắp lại.
-Kiểm tra giấy tờ! Người cảnh sát vừa rút chiếc còi ra khỏi miệng vừa giơ tay lên mũ chào như một cái máy, vừa ra lệnh cho anh. Cầm giấy tờ của anh đưa cho anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, anh cảnh sát ấy lại tiếp tục đút còi vào miệng cầm gậy trỏ xuống đường chọn bắt xe khác. Anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, lướt qua đống giấy tờ của một anh khác. Không nói năng anh ta đưa mắt ngó lơ đi chỗ khác như thể chờ ai đến đọc giùm. Cũng như một cái máy, kỹ sư Hoàng dựng xe, móc bóp, rút ra một tờ đẹp đẽ vuông vắn có in hình lãnh tụ, bước tới chỗ anh ta.
Đến cơ quan, vừa kịp giờ làm việc, chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia là một thẩm phán toà án, người đang xử lý vụ kiện đòi nợ của cơ quan anh. Bằng một giọng rất lễ phép anh thẩm phán nhắc khéo anh rằng vụ kiện của cơ quan anh sẽ có thể bị đình chỉ vì phía anh chưa nộp chi phí cho việc thẩm tra. Nhân tiện anh ta nhắn rằng bữa nhậu chiều qua vì điện thoại cho anh không được mà anh ta và đám chiến hữu bên viện kiểm soát phải ký nợ nhà hàng một khoản kha khá, lúc nào anh ghé qua thanh toán giùm…
Chiều hôm đó về nhà, kỹ sư Hoàng chưa kịp mừng vì tin cô con gái đã trở về đang nằm bẹp trên gác thì đã nghe vợ mếu máo báo tin chiếc xe máy của chị bị cướp, mẹ con phải đi bộ về. Thực ra chị đã dối anh, chiếc xe máy đó chị đã buộc phải thế chấp để chuộc cô con gái từ cái động của một mụ tú bà, vì cô còn nợ mụ một khoản tiền vay mua son phấn với mức lãi 40 % một ngày. Thế coi như của đi thay người. Kỹ sư Hoàng chưa kịp phát điên lên vì giận dữ thì may quá nhà có khách. Ông trưởng khu phố và mấy cán bộ của Uỷ ban lừng lững bước vào:
-Chúng tôi đến nhắc anh về khoản đóng góp xây nhà tù -Ông trưởng khu vào đề ngay, nhân tiện báo để anh biết tháng trước có xe chở vật liệu đến đây, anh đã thuê thợ sửa nhà mà không xin phép. Uỷ ban đã nắm được việc này, nếu anh không thu xếp ngay thì sẽ bị lập biên bản thu giữ giấy tờ nhà, giấy tờ đất.
Kỹ sư Hoàng ngớ ra, quả thật tháng trước anh có thuê thợ lắp thêm một lần cổng nữa, phải xây mấy mét vuông tường, tưởng việc nhỏ, không phải xin phép, ai ngờ… Thôi đành “thu xếp“ cho mấy vị trong Uỷ ban, nhưng còn khoản đóng góp xây nhà tù ?
-Can phạm bây giờ nhiều quá ông trưởng khu phố giải thích. Đấy anh xem, trong nhà gặp lưu manh, ra đường đụng kẻ cướp, đủ các kiểu ăn cướp; rồi còn lũ ăn trộm, lừa đảo cho vay nặng lãi, nhà tù nào cũng chật ních, phải xây thêm. Ngân sách không kham nổi phải áp dụng phương pháp “Nhà nước và nhân dân cùng làm“. Phố ta được giao chỉ tiêu góp vốn xây 500 mét vuông nhà tù, thế mà ngẫm lại vẫn chưa đủ cho số tội phạm của chính phố ta đang nằm trong đó, chưa kể số sắp phải vào tù nay mai…
Đoàn cán bộ khu phố về được một lúc thì lão Tiến cụt giò đến, đó là một lão già vô tích sự nhà kế bên. Lão bị cụt một bên giò từ hồi chiến tranh, giờ sống bằng số tiền thương tật, thỉnh thoảng con cháu dấm dúi gặp chăng hay chớ cho thêm. Suốt ngày chẳng làm trò gì, chỉ hay la cà hết nhà này đến nhà khác kiếm câu chuyện làm quà. Nhà kỹ sư Hoàng là một trong những nơi lão hay mò đến. Lão dở hơi ấy liến thoắng như thể đã tỏ tường mọi chuyện:
-Họ đến đòi tiền đóng góp xây nhà tù phải không? Anh kỹ sư này tôi nói anh xem có đúng không nhé: -Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá, phải góp tiền xây nhà tù cho bọn bất lương ở, lại còn phải nai lưng nuôi chúng nữa, trong khi bọn lưu manh ngày càng chiếm đa số, người lương thiện ngày càng giảm đi. Biết đâu đến một lúc nào đó, những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình. Khi ấy tất nhiên bọn lưu manh tha hồ ở ngoài, vì lương thiện bây giờ đâu có nhiều nhặn gì, vừa bắt chính bọn chúng phải nai lưng ra làm đề nuôi người lương thiện, như thế có phải là công bằng không ?
Kỹ sư Hoàng phì cười vì cái lý sự ấy của lão Tiến cụt, vừa lúc ấy, chuông điện thoại trong nhà đổ dồn, vợ anh nghe xong, mặt tái mét ra báo tin dữ:
-Anh tới ngay bệnh viện Chúng Sinh. Thằng Phúc con chị cả bị cướp giật té xe, chấn thương sọ não đang nằm cấp cứu trong ấy.
Chị Cả Bống là chị gái kỹ sư Hoàng ở dưới quê, anh chị có ba thằng con trai thì hai thằng lớn theo bố làm nghề xin đểu kiêm trấn lột ở bến đò Đuôi Cáo bị đâm lòi ruột, chết cả ba bố con từ năm kia. Cũng là cái số thôi. Làng khối người làm nghề ấy hoặc hao hao nghề ấy mà có sao đâu, chỉ thỉnh thoảng lại thấy đi ở tù, vài năm về còn lưu manh hơn trước. May còn lại một mình thằng út tên Phúc ngoan, hiền, học giỏi. Năm ngoái đỗ đại học lên ở ký túc xá. Nó thương cậu mợ Hoàng nghèo nên không muốn nhờ vả. Chị Cả bán hết mảnh vườn còn lại sắm cho nó cái xe máy cũ làm phương tiện đi lại. Hôm ấy đang làm cỏ ngoài đồng có người gọi về cái trạm điện thoại công cộng ở đầu làng báo tin nó bị nạn. Chị nghe nhắn lại mà muốn quỵ luôn xuống ruộng. Vội vã chạy về nhà, chị vét vội mấy bơ lạc, bơ gạo nếp cho vào mấy cái bao ruột tượng tất tả chạy ra bến đò Đuôi Cáo. Vừa mới mon men gạ bán ở các hàng quán quanh đó, bất ngờ gặp mấy anh quản lý thị trường, chị bị bắt vào trụ sở. Lạy van thế nào họ cũng không nghe, còn dẫn hết “nghị định 01“ đến “thông tư 04“ gì đó ra đọc sang sảng vào hai cái tai đã chỉ còn nghe thấy tiếng lùng bùng của chị. Kết quả mấy bơ lạc ấy bị tịch thu vì lý do bao bì không có nhãn hiệu hàng hóa !
Thật khốn khổ cho chị, chỉ do cuống lên vì đứa con cuối cùng còn sót lại đang gặp nạn, muốn bán tống bán tháo mấy món tài sản ít ỏi ấy cho thật nhanh để lấy tiền đi xe lên thành phố. Chứ có phải chị buôn gian bán lận gì đâu ? Còn tiền thuốc thang, nói dại, nếu nó bị nặng chị chưa biết sẽ trông vào đâu, một viên thuốc cảm bằng cái cúc áo bây giờ giá bằng ba bốn cân thóc. Giờ thì ngay đến việc lên nhìn mặt con cũng bị chặn đứng lại rồi. Không có tiền ai người ta cho chị đi xe hàng trăm cây số? Càng nghĩ chị càng quýnh quáng chân tay, cuống cuồng, đứng chôn chân một chỗ, đầu óc mụ đi, mắt ráo hoảnh, vô hồn nhìn phía trước như một bức màn sương… bỗng từ trong cái màn đục lờ ấy, một bóng trắng hiện ra quằn quại, máu bê bết hiện ra chập chờn lúc xa xa, lúc ập ngay trước mặt, gió lạnh quất gai người. Phảng phất màu tanh của máu tươi. Tai chị nghe rõ ràng tiếng kêu cứu của đứa con trai. Chị bàng hoàng nhận ra đó là tiếng rên từ địa ngục, tiếng của một âm hồn không còn ở cõi nhân gian này nữa:
-Mẹ ơi, con chết rồi. Họ đang mổ bụng con. Mẹ ơi…
Chị cả Bống hốt hoảng lao tới, giơ hai tay túm lấy bóng con, chợt cái bóng như có người giằng lấy, chập chờn quăng qua quăng lại trước mặt chị rồi mờ dần mờ dần, vẫn còn ri rỉ tiếng kêu cứu của oan hồn, rồi tất cả lịm đi. Cả tiếng kêu cứu lẫn cái bóng máu me chợt tắt ngấm bởi một tràng cười ré lên sằng sặc như của lũ ma quỷ nhưng không phải vọng lên từ địa ngục, tiếng cười ấy rõ ràng đang ở cõi nhân gian hiện hữu này…
Chị cả Bống sau này phát điên không về làng nữa, cứ lê la liếm láp ở quanh cái bến đò có cái tên rất ấn tượng là bến đò Đuôi Cáo ấy. Nhưng chị không điên ngay lúc đó, có người chứng minh là sau khi ra khỏi trụ sở ban quản lý thị trường chị vẫn còn tỉnh táo nhớ ra trong người còn sót mấy đồng tiền lẻ. Chị lần vào trạm điện thoại công cộng gọi điện báo cho cậu em trai. Đó là tất cả những gì chị làm được cho đứa con. Sau đó chị mới phát điên.
Kỹ sư Hoàng đến bệnh viện Chúng Sinh thì trời đã tối. Tìm tới phòng cấp cứu, anh hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, cô hộ lý mặc blu trắng bảo:
-Biết ai là phúc với họa gì ở đây. Đi mà hỏi trực ban.
Phòng cấp cứu rộng mênh mông, đầy những giường là giường, giường nào cũng ít nhất hai người nằm trở đầu đuôi. Đủ các kiểu tai nạn, vỡ đầu, gãy chân, lòi ruột, lòi xương. Ánh đèn nê ông trắng bệch soi loang lổ những máu me bông gạc. Nồng nặc một thứ mùi vừa tanh tanh máu, vừa ngầy ngậy thuốc tây. Bóng những blu trắng đi qua lại giữa các giường như ma trơi. Làm sao nhận ra đứa cháu bây giờ ?
Kỹ sư Hoàng vội vã đến phòng trực ban. Phòng trực ban cấp cứu nằm cuối dãy hành lang đầy những kẻ nằm người ngồi vạ vật rất chi là bệ rạc. Trong phòng có mấy người cũng mặc blu trắng đang chụm đầu bàn bạc nhỏ to:
-Cái mật hôm trước bán vội quá. Ngay hôm sau có người tới trả cao hơn cả chục triệu, tiếc đứt ruột -một người nói
-Cái này đếch bán nữa, đem ngâm rượu. Hũ rượu trước hết con mẹ nó rồi. Mấy lão hen suyễn kinh niên uống vào là khỏi, để giành bán cho các lão ấy. Gớm họ vừa chi tiền vừa cám ơn rối rít ấy chứ -một người khác nói
-Thôi được rồi! Người thứ ba nói -các ông xuống làm ngay đi, thằng này căn cước ghi rõ ràng: -19 tuổi. Đã kiểm tra, đảm bảo còn nguyên dương ( đàn ông chưa xuất tinh lần nào) chết do chấn thương sọ não vừa được mấy phút. Cái mật này mới tuyệt hảo, để quá hai tiếng có mà hỏng mẹ nó cả chì lẫn chài. Đã điện thoại cho bên công an rồi, họ bảo cứ mổ đi, có gì đừng “quên“ họ là được.
Hai người kia vội vã đứng dậy lao nhanh ra khỏi phòng, vừa lúc ấy kỹ sư Hoàng bước vào:
-Bác sĩ làm ơn cho hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, 19 tuổi, sinh viên năm thứ hai, nghe nói bị chấn thương sọ não có cấp cứu ở đây không, nằm giường số mấy? Tôi là cậu ruột cháu -kỹ sư Hoàng vừa hỏi vừa tự giới thiệu
Anh bác sĩ còn lại trong phòng thoáng một chút giật mình. Anh ta làm như nghĩ ngợi điều gì rồi ngập ngừng:
-Tên Phúc, sinh viên, 19 tuổi.. A… anh… à bác ngồi chờ cháu một lát.
Linh cảm thấy có gì nghiêm trọng xảy đến với đứa cháu, lại cứ tưởng anh bác sĩ kia vì thông cảm với nỗi đau của mình mà chưa nỡ nói ngay. Kỹ sư Hoàng vừa lo sợ vừa cảm động nhìn anh bác sĩ đang cúi gằm mặt, tay lần giở một cuốn sổ to tướng chậm rãi lần một hồi. Mồ hôi đã toát ra lấm tấm trên khuôn mặt đỏ như gà chọi, anh bác sĩ chợt ngẩng lên bảo:
-Trong sổ này không thấy có tên Phúc. Bác ngồi đây chờ cháu đi lấy sổ khác. Nhớ là đừng đi đâu đấy.
Nói xong anh ta gập sổ rồi vội vã ra khỏi phòng, không quên đóng sập cửa lại, còn một mình trong phòng, kỹ sư Hoàng lòng như lửa đốt. Bỗng chuông điện thoại reo vang, một hồi, hai hồi… chừng như người đầu dây bên kia có việc cần gọi cho bằng được. Kỹ sư Hoàng do dự giây lát rồi nhoài người với lấy cái ống nghe, định nói cho bên kia chờ lát nữa gọi lại. Vừa áp ống nghe lên tai, kỹ sư Hoàng chợt nghe ngay một giọng nói dằn từng tiếng:
-Trực ban cấp cứu phải không ? Bảo với pháp y rằng cái mật lần này tuyệt đối không được bán nghe chưa! Chú Sáu bên Uỷ ban đăng ký rồi đấy.
Kỹ sư Hoàng chưa kịp hiểu mô tê ra sao thì người đầu dây bên kia đã dập máy. Sau khi định thần suy nghĩ kết hợp với mấy câu cuối nghe được loáng thoáng lúc mới bước vào phòng, kỹ sư Hoàng chợt lạnh người với một nỗi nghi ngờ. Anh với cuốn sổ lúc nãy mở ra. Ngay giữa trang cuối cùng, rõ ràng có tên nạn nhân Nguyễn Hồng Phúc, 19 tuổi, sinh viên, té xe, nhập viện lúc… giờ… ngày – Người đưa đến: Phạm văn A -bạn cùng lớp. Bỗng cánh cửa sịch mở, anh bác sĩ khi nãy ùa vào. Nhìn thấy cuốn sổ trên tay kỹ sư Hoàng, anh ta thoáng một giây bối rối rồi lập tức liến thoắng:
-Cháu quên không đọc trang cuối, đúng là có…
Anh ta chưa kịp nói hết câu kỹ sư Hoàng đã ngắt lời:
-Tôi biết hết rồi, anh không phải giải thích
Rồi chẳng muốn nói gì thêm, nữa kỹ sư Hoàng ném trả cuốn sổ, hấp tấp lao nhanh ra khỏi phòng, anh bác sĩ hé cửa ngó theo, hơi lắc đầu, mỉm một nụ cười ý nhị rồi đóng cửa lại, ung dung quay vào. Chuông điện thoại lại reo, anh ta cầm lấy ống nghe:
-Dạ… dạ… à thế ạ… Báo cáo, xong xuôi cả rồi ạ. Thế thì chú nói chú Sáu chuẩn bị rượu tốt để ngâm, cháu sẽ bảo anh em mang sang ngay bây giờ ạ.
Kỹ sư Hoàng xuống đến nhà xác thì Phúc đã nằm trong ngăn lạnh. Một không khí thê lương sặc mùi tử khí. Nền nhà vương đầy những bó nhang cụt, những cục nến gãy, những mẩu giấy tiền vàng mã… làm quang cảnh nơi đây giống như vừa xảy ra một vụ cướp. Viên quản lý nhà xác nghe trình bày, quan sát anh từ đầu đến chân bằng cặp mắt âm u như cặp mắt quỷ rồi chẳng nói chẳng rằng, ông ta lừ lừ tiến đến kéo một ngăn tủ ra. Kỹ sư Hoàng lạnh toát người nhìn trân trân cái xác… “Đúng thằng Phúc rồi, chị Cả ơi, khổ thân chị quá“. .. Không giữ nổi bình tĩnh, anh khuỵu xuống gục đầu vào ngăn tủ. Mùi máu tanh tưởi ập vào giác quan. Anh chợt tỉnh, ngẩng phắt lên, lấy tay lật manh áo trước bụng đứa cháu… một vết mổ cẩu thả còn chưa khít miệng với mấy mũi khâu vội vàng, dúm dó :
-Các người đã mổ cháu tôi… các người đã… Tôi sẽ kiện, kỹ sư Hoàng gào lên trong nước mắt
-Híc… viên quản lý nhà xác cất tiếng, giọng cũng âm u như phát ra từ bụng gã –
Tha hồ cho ông kiện, tất cả những cái chết bất đắc kỳ tử thế này đều phải mổ hết, luật pháp quy định như vậy. Hừ có mà điên mới đi kiện luật pháp. À mà tôi đã vi phạm nội quy khi cho ông xem xác, lấy gì chứng minh ông là người nhà bây giờ? Mời ông đi khỏi đây. Nói xong gã đưa tay đóng sập ngăn tủ lại
-Nhưng tôi… kỹ sư Hoàng chưng hửng… vậy còn cháu tôi?
-Trước hết phải có giấy tờ chứng minh ông là người nhà của nạn nhân đã, rồi sau đó phải làm đầy đủ thủ tục mới mang được lấy xác ra khỏi đây. Mà ông định cõng xác trên lưng mang về hay sao? Viên quản lý lạnh lùng phán.
Kỹ sư Hoàng có vẻ hiểu ra những việc cần làm, anh thất thểu bước ra khỏi nhà xác gọi điện về nhà bảo vợ chuẩn bị căn cước, sổ hộ khẩu lên phường xin giấy chứng nhận rồi tìm đến một tiệm bán quan tài. Ông chủ tiệm quan tài có tên “Nhân nghiã đường“ hăng hái đón khách. Chỉ vào đống quan tài đủ các kiểu loè loẹt đang bày la liệt, bảo kỹ sư Hoàng:
-Tùy bác chọn cái nào thì chọn. Bác cho biết địa chỉ, số nhà, giờ khâm liệm… chúng tôi sẽ cho người đến lo liệu.
-Không phải liệm ở nhà mà là ở nhà xác bệnh viện chúng sinh. Kỹ sư Hoàng ngắt lời
-Thế thì không được rồi. Ông chủ Nhân nghiã đường lắc đầu -tôi không bán được cho bác đâu, cũng không làm gì được hết.
-Tại sao lại như thế ? Kỹ sư Hoàng kinh ngạc thốt lên ?
-Chắc đây là lần đầu tiên nhà bác có người chết ở bệnh viện -ông chủ Nhân nghiã đường giải thích -bệnh viên có luật của họ, muốn lấy được xác ra phải có cửa. Quan tài mua tiệm nào do họ chỉ, khâm liệm, ma chay… tất tần tật do người của họ làm hết. Có thế họ mới ăn chứ, độc quyền mà.
-Té ra phải như vậy. Kỹ sư Hoàng cay đắng nghĩ rồi rời khỏi tiệm “Nhân nghiã đường“. Quay lại chỗ nhà xác chờ một lúc lâu thì vợ anh mang giấy tờ tới. Mấy đứa bạn học của Phúc biết tin cũng đã tìm đến, mang theo nhang hoa và trái cây. Lúc này đêm đã gần khuya, mắt đỏ hoe vợ anh mếu máo:
-Ối anh ơi, vẫn chưa thấy tăm hơi chị cả đâu, em đến nhà ông chủ tịch nói mãi ông ấy mới ký cho cái giấy chứng nhận, lại vừa đóng lệ phí, vừa bồi dưỡng hết mấy trăm. Cháu nó nằm đâu để em vào thắp nén nhang cho cháu.
Kỹ sư Hoàng dẫn vợ và đám bạn của Phúc vào, trình mớ giấy tờ cho viên quản lý.
Gã này săm soi một lát rồi lắc đầu:
-Không được, trường hợp này công an còn phải điều tra, vả lại khi nãy ông còn định kiện tụng gì nữa cơ mà? Sáng mai đến giải quyết
-Chẳng lẽ để đứa cháu lạnh lẽo qua đêm không một chút khói nhang an ủi linh hồn ? kỹ sư Hoàng lúc này đã mụ mẫm hết tinh thần, cụt què cả ý chí, anh chỉ còn biết vớt vát như một cái máy:
-Tôi xin ông, ấy là tôi chót nhỡ mồm. Tôi không kiện tụng gì đâu. Mọi việc giao cho các ông “lo“ hết. Chỉ mong sao mang cháu về nhà…
-Vậy thì về viết cam đoan đi, viên quản lý hạ giọng -nhưng cứ phải sáng mai mới giải quyết. Không có giấy của công an thì bố tôi cũng không dám giao xác cho các người.
Sáng sớm hôm sau. vừa thò mặt đến cổng nhà xác bệnh viện Chúng Sinh đã có mấy kẻ mặt mũi rất chi là khả nghi túm lấy kỹ sư Hoàng.
-Xác của bác là xác tai nạn giao thông phải không ? Giá chót tám triệu, chúng em lo mọi thủ tục chiều lấy xác ra… quan tài khâm niệm 12 triệu nữa bao trọn gói -một người trong bọn bảo
-Tại sao lại phải đến chiều ? Làm ngay trong sáng nay không được sao ? kỹ sư Hoàng hỏi lại
-Hì các bác này đúng là chưa “chết“ lần nào. Phải đợi công an người ta hoàn tất hồ sơ chứ… một người khác giải thích -mà chúng em phải đưa bác đến làm tờ khai, chiều lấy được là con nhanh, với điều kiện phải có bồi dưỡng… không thì cứ đợi đấy.
Đám người ấy quả là thạo việc, rốt cục chiều hôm ấy kỹ sư Hoàng cũng đưa được xác đứa cháu về nhà sau khi đã được khâm liệm cẩn thận. Vẫn không thấy bóng dáng chị cả đâu, linh tính xảy ra chuyện chẳng lành, kỹ sư Hoàng bàn với vợ cùng mấy đứa bạn của Phúc trông nom nhang khói, để anh về làng đón chị Cả lên:
-Có mấy kẻ lạ mặt lảng vảng ngoài cổng nghiêng ngó hỏi thăm, mấy đứa bạn của Phúc chạy ra nghe ngóng rồi vào bảo:
-Mấy thằng cò nghiã địa bác ạ. Nó bảo đất chôn mặt tiền lối đi là 12 triệu, phía trong tám triệu, chưa kể tiền lo giấy phép chôn và công đào huyệt lấp đất xây mộ, tùy theo to nhỏ tính riêng. Nếu túng tiền thì chôn đứng. Chôn đứng rẻ hơn một nửa, tất nhiên đất rộng chỉ bằng 1/3. Nghiã địa bây giờ khối người phải chôn như thế, thành ra đầy những ma đứng, linh hồn đứng, đứng vĩnh hằng.
Vội vã phóng về quê, kỹ sư Hoàng hoảng hốt lạnh người khi hàng xóm bảo chị Cả Bống đã lên thành phố từ chiều hôm qua, mấy nhà khác thấy anh về đổ đến hỏi thăm. Có người chợt nhớ ra bảo:
-Sáng nay đi chợ thấy ở bến đò Đuôi Cáo có ai nhang nhác bác Cả Bống ấy. Hay là bác sang tìm thử xem.
Không kịp suy tính, kỹ sư Hoàng vội vã lao sang bến đò, tìm khắp các hàng quán hỏi thăm, ai cũng lắc đầu. Chợt anh nhìn thấy dưới bờ sông sát mép nước, một người đàn bà đầu tóc rũ rượi đang ngồi ném những nắm cát xuống dòng sông… kỹ sư Hoàng vừa nghi hoặc, vừa thận trọng tiến lại gần… “Ai như chị Cả? Anh cất tiếng gọi… một tiếng, hai tiếng… Người đàn bà chợt quay phắt lại… Đúng là chị, chị nhìn anh với đôi mắt thất thần, khuôn mặt răn reo, lem luốc cát. Bỗng chị lảo đảo lao đến, ôm chầm lấy anh, gào lên nức nở:
-Ối! Con ơi, con về với mẹ đây rồi, người ta cướp cái gì của con, con chết có đau không? Con về đây báo oán mẹ… mẹ không đến được với con… con ơi
Cứ thế chị gào mãi, gào mãi, tiếng gào rợn cả một khúc sông. Kỹ sư Hoàng hai tay nâng khuôn mặt chị, miệng hoảng hốt nhắc đi nhắc lại: -Em đây mà, Hoàng đây mà!
Song chị đâu có nghe, đâu có thấy, chỉ một mực gào tên con… dần dần tiếng chị khản đặc chỉ còn như tiếng thở lào phào… Người chị bỗng lả đi, từ từ khuỵ xuống. Kỹ sư Hoàng quỳ xuống theo, hai chị em ôm nhau quỳ trên bãi cát, hoàng hôn bắt đầu buông, trăng chiều rực lên đỏ thẫm. Qua màn nước mắt, anh cảm thấy tất cả không gian như chìm trong biển máu, bên tai anh chợt vọng lên văng vẳng giọng nói của lão Tiến cụt hôm trước:
-Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá… biết đâu đến một lúc nào đó những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình.


Phạm Lưu Vũ


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhớ Nguyễn Khải

Nguyễn Quang Lập 

Đợt trước vào Sài Gòn còn gặp Nguyễn Khải, đợt này vào không còn thấy anh nữa. Tự nhiên thấy tiếc. Không nhớ mà tiếc.

 Đợt trước gặp anh được nửa giờ, tình cờ gặp ở vỉa hè, kéo vào ngồi quán cà phê nghèo ở hẻm, anh nói Lập viết kịch hay, viết phim cũng hay, nhưng viết văn đi em. Mày bỏ văn lâu quá rồi. Đó là lần đầu tiên anh Khải gọi mình bằng em, bằng mày, trước nay toàn gọi ông xưng tôi dù anh hơn mình cả 20 chục tuổi.


 Đó cũng là lần đầu tiên mình tin anh Khải khuyên mình chân thành nhất. Trước nay anh nói câu gì mình cũng khả nghi. Anh sống khéo nổi tiếng, chưa chê văn ai nửa câu. Hoặc khen hoặc không chứ chưa bao giờ chê.

 Gặp lần nào anh cũng khen, anh khen rất khéo, không lộ như Trần Đăng Khoa, nhưng mình vốn khả nghi anh từ lâu nên không bao giờ mình tin là anh khen thật. Khi nào cũng nghĩ: ông này có đọc mình đếch đâu, chỉ khen thế thôi. Bởi vì ông nổi tiếng câu: Thằng nào thích khen thì khen cho nó chết. 

Vì thế dù anh khen có thật lòng cũng chẳng sung sướng gì. Ở Hà Nội anh thân nhất là Nguyễn Khắc Trường, còn đám con nít tụi mình, anh chơi như sự chiếu cố mà thôi. Đấy là mình nghĩ thế, hoá ra không phải.

 Hồi đại hội IV nhà văn mình còn hung hăng lắm. Mặc bộ đồ bò đầu gấu lên diễn đàn nói văng mạng, được vỗ tay càng nói hăng. Nói xong về chỗ thì run, không biết mình có nói hớ chỗ nào không. Nghỉ giải lao ra hành lang ngồi gần Nguyễn Khải, mình hỏi anh, nói em nói có được không anh? Anh nhìn mình chăm chăm, nói ông có cái miệng tươi kinh. Tôi mà đàn bà tôi đã có chửa với ông lâu rồi.

Cả buổi sáng hôm đó mình cứ nghĩ vẩn vơ: Không biết ông này nói thế là có ý gì, tại sao mình hỏi thế ông lại nói thế. Bốn năm sau gặp lại, hỏi hồi đó anh nói thế là có ý gì? Anh cười, nói tôi nói thật mà ai cũng cho tôi nói lỡm, khổ thế. Khi ông lên diễn đàn tôi có nghe đâu, tôi đang tán phét với Đỗ Chu ở ngoài sảnh. Rồi anh thở dài, nói Đảng cho tôi nói lỡm đã đành, bạn bè cũng nghĩ vậy, chán mớ đời.

 Mình nghĩ bụng cũng tại anh quá thông minh, biết sợ, luôn cảnh giác. Anh không tin ai thì ai cũng không tin anh thôi. Bụng nghĩ thế thôi chứ bố bảo cũng không dám nói.

Đợt đó anh khen mình, thằng Thiều ( Nguyễn Quang Thiều), thằng Phong ( Nguyễn Thành Phong) làm Văn nghệ trẻ giỏi, nói nhất định sẽ viết bài, mình cũng không tin. Bụng nghĩ ông này nói thế thôi, dư hơi mà đi khen đám con nít ranh tụi mình. Hoá ra anh viết thật, khen nức nở, khen mình nhiều nhất, còn khen mình đẹp trai nữa, he he.


 Cách đây gần hai tháng, mình viết đến tám giờ sáng, vào buồng ngủ lại, chợt có điện của anh Trọng Huấn báo anh Khải mất rồi. Mình gọi điện lung tung báo cho mọi người.

 Đến một giờ chiều anh Huấn lại gọi điện nói anh Khải chưa chết, người ta chưa cho anh Khải chết. Mình hỏi sao, anh Huấn nói nhà tang lễ đòi có thẻ 40 năm tuổi Đảng mới cho vào chết trong đó, nhưng anh Khải đã vứt nó đâu rồi, tìm không ra.

 Ngao ngán hết nỗi, đến chết cũng khó thế thì sống làm sao. Anh Khải ôi anh Khải! 

Trước khi vào Sài Gòn mình có đọc bài Cái tôi của anh, viết hay quá, hay đến nổi cả da gà. Đây là bài đầu tiên và cũng là bài cuối cùng Nguyễn Khải nói thật. 

Nhưng cứ ai sắp chết mới chịu nói thật như anh cả thì bọn cần lao biết sống làm sao, sống thế nào!? Anh Khải ôi là anh Khải ôi!

NQL

Phần nhận xét hiển thị trên trang