Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2013

Facebook


“Ting”, âm thanh báo hiệu có tin nhắn mới trên Facebook. Tôi hơi hé mắt nhìn lên màn hình, headphone vẫn đeo ở tai. Bây giờ là 10:30pm. “A, là Tina!” Tôi gõ lên bàn phím:
- Hey, Tina. Haven’t u slept yet? (Bạn chưa ngủ hả?)
- Nope. It’s 04:30pm at my place. (Chưa. Ở chỗ mình đang là 04:30pm.)
(Từ đây trở đi, chúng tôi chat với nhau bằng tiếng Anh.)
- Hôm nay bạn sao rồi?
- Vẫn còn sống. (cười)
- Chân bạn đỡ chưa? Chừng nào mới phẫu thuật nữa?
- Chân mình còn đau. Mình còn yếu lắm nên bác sĩ nói chưa phẫu thuật được.
- Ồ, không sao đâu. Mình tin bạn sẽ sớm được chữa khỏi mà.
- Cám ơn Tina. Sau khi mình khỏe lại, nhất định sẽ đi thăm bạn.
- Ok. Bạn cứ đến London đi, mình mời bạn ở lại nhà mình. Chúng ta chắc chắn sẽ có một khoảng thời gian thật vui vẻ :)
…….
Chúng tôi chat với nhau một lúc thì tôi buồn ngủ nên tạm biệt Tina và hẹn gặp lại vào ngày mai, dĩ nhiên vẫn trên Facebook.
Cuộc sống của tôi nửa năm nay gần như gắn chặt với chiếc xe lăn và Facebook. Từ sau tai nạn ấy, những tháng ngày tung tăng dạo khắp phố ngày cuối tuần, những tối la cà khu chợ đêm cùng bạn bè đã rời bỏ tôi. Bạn tôi thời gian đầu còn gọi điện hỏi thăm nhưng dần dần cuộc sống hối hả cũng cuốn họ trôi xa khỏi tôi. Không thể đến trường, sức khỏe yếu nên hạn chế ra ngoài: thế giới tôi dần thu hẹp lại, cuối cùng gói gọn trong bốn bức tường. Ban đầu tôi nghĩ thế cũng tốt, ít ra mình có thời gian thong thả nghỉ ngơi yên tĩnh. Nhưng sự yên tĩnh là một sát thủ thầm lặng, rút dần sinh lực bạn đến khi bạn nhận ra mình chỉ còn là cái xác không hồn.
Tuần đầu tiên: tôi là cô bé ngoan ngoãn đọc sách trong phòng. Tuần thứ hai: cô bé bớt ngoan, đọc được vài trang rồi gấp sách, nhìn trần nhà, lấy điện thoại gọi mọi số trong danh bạ nhưng đa số là tiếng bíp bíp báo máy bận. Tuần thứ ba: cô bé ngoan thành con nhóc ngỗ nghịch, cáu bẳn, sẵn sàng gây gổ với mọi người trong nhà. Tuần thứ tư: con nhóc bướng bỉnh suy sụp, chìm sâu trong cô đơn cùng cực. Trong thinh lặng, nó chỉ nghe tiếng tim mình đập, bằng chứng duy nhất cho biết nó vẫn còn sống. Nhưng mỗi nhịp đập ấy như nhát búa bổ vào linh hồn lẻ loi đang run rẩy của nó, tưởng chừng sắp vỡ tan muôn mảnh. Quẳng điện thoại qua một bên vì chẳng có ai để nó tâm sự, tán chuyện nữa. Lần đầu tiên sau nhiều tháng vi vu rong chơi khắp nơi, tôi ngồi lì bên laptop từ sáng đến tối. Trước đây tôi hay cười nhạo những kẻ suốt ngày chìm trong thế giới Facebook, cứ cách mười phút là cập nhật status, cái gì cũng post lên Facebook, liên lạc cũng qua Facebook… Họ không có cuộc sống thật hay sao ấy – tôi nghĩ vậy. Đến cả avatar, thông tin trên Facebook của họ cũng chưa chắc là thật. Có thể là một cậu nhóc ốm yếu, xấu xí nhưng lại để avatar của một anh chàng lực lưỡng, điển trai nào đó. Tôi, tôi tự hào có một cuộc sống năng động hơn những con người có lẽ mắc bệnh trầm cảm đó. Cho đến ngày tôi gặp tai nạn…
Khi cuộc sống thật sụp đổ, người ta có khuynh hướng trốn vào những ảo mộng. Tôi không muốn làm một kẻ trốn chạy, nhưng càng vùng vẫy thì thấy càng lún sâu trong chiếc hố mình tự đào. Tôi không muốn làm phiền người nhà, khăng khăng tự làm lấy mọi việc, nhưng đều thất bại do tình trạng sức khỏe tồi tệ, rồi tôi nổi giận, trút bực dọc lên họ. Nhiều đêm, tôi cắn môi bật máu để không khóc thành tiếng. Tôi mới 22 tuổi đầu, sao cuộc đời lại giăng rào kẽm gai chắn ngang đường tôi đi. Dây thép gai đâm tim tôi rướm máu, cào xước kiêu hãnh của tôi. Càng ngày hàng rào ấy càng vươn cao che khuất tầm mắt khao khát một bầu trời tự do.
Lúc ấy Facebook đã thành cứu cánh. Tôi kết bạn khắp nơi trên thế giới. Qua wall của họ, tôi biết bạn tôi lúc này đang ăn trưa ở một quán ramen tại Tokyo, một người bạn khác đang ở night club của Paris, một bạn khác đang câu cá ở Florida. Cuộc sống vẫn quay quanh tôi với thật nhiều màu sắc, cung bậc cảm xúc. Tôi không cảm thấy cô đơn nữa. Và tôi quen được Tina.
Tina đang là sinh viên y khoa ở London (đó là điều tôi biết qua những gì cô nói, tôi đã chọn quyết định tin cô). Đôi khi chúng tôi dùng video chat và tôi thấy được khuôn mặt của Tina: một cô gái dễ thương, đôi mắt to xanh màu đại dương, luôn ánh lên vẻ tinh nghịch nhưng Tina có vẻ khá ốm với làn da nhợt nhạt. Tôi không muốn tin khi cô cho biết mình bị bệnh máu trắng, những tế bào bạch cầu đang ăn mòn thân thể cô, đến một lúc nào đó cô sẽ “được đi nghỉ một chuyến du lịch không vé khứ hồi” như cách cô nói đùa. Tina không bao giờ tỏ ra bi quan, dù tôi đoán trong thâm tâm cô cũng có lúc khóc thầm như tôi. Nhưng tôi thấy mình thật nhỏ bé trước Tina. Chân tôi còn có cơ hội chữa lành, dù xác suất không cao, còn Tina chỉ chờ đến ngày Thượng Đế gọi cô về bên Người.
Hôm nay là ngày tôi phải làm những xét nghiệm cuối trước khi phẫu thuật. Không thể mang laptop theo, tôi chỉ vào Facebook được bằng smartphone.
6:00am: – Mình chuẩn bị đi lấy mẫu máu đây (icon nước mắt đầm đìa)
- Ok. Cố lên cưng! Bạn làm được mà
8:00am: – Xong rồi. Giờ về chờ kết quả.
- Ngoan lắm! (icon cười toe toét)
10:30pm: – 2 tuần nữa mình sẽ phẫu thuật.
- Mình tin chắc sẽ thành công mà. Mình chờ ngày bạn qua đây thăm mình đó!
Hai tuần sau…
Tôi không biết mình đã ngủ bao lâu. Mùi thuốc sát trùng xộc vào mũi, ánh sáng len lỏi qua hàng mi, chúng như những chú lùn phá phách đánh thức giấc ngủ biếng lười của Bạch Tuyết (dù tôi không tự so sánh mình là Bạch Tuyết). Hé mở đôi mắt nặng trịch, thân thể dần cảm nhận được sự đau đớn của cuộc phẫu thuật. Tôi thấy ba mẹ đang đứng bên tôi, còn có anh chị em họ của tôi. Trong đôi mắt họ, tôi lo lắng thử tìm xem có chút nét thất vọng nào không. Nhưng mẹ tôi đã cười tươi, để tay lên trán tôi:
- Khoảng 2 tuần nữa con xuất viện được rồi, mất thêm vài tháng tập vật lý trị liệu là con có thể đi lại bình thường
Cô em họ nháy mắt với tôi:
- Chị mau khỏe lại đi. Có cả đống message trên Facebook chờ chị trả lời kìa!
- Smartphone của chị em giữ hả?
- Ừa, chờ chị phẫu thuật xong trả lại nè.
Buổi tối, tôi dùng smartphone vào Facebook. Toàn là tin nhắn của Tina, trên wall là những hình ảnh tươi sáng cùng lời chúc tốt đẹp cô gửi cho tôi. Vẫn còn thấy đau đớn đến không muốn nhấc tay lên, tôi chỉ gửi cho Tina một tin nhắn ngắn: “Mình đã phẫu thuật xong. 2 tuần nữa mình ra viện. 2 tháng sau mình có thể đi lại được. Nhớ bạn nhiều”.
Đêm trong bệnh viện yên tĩnh lạ. Một sự yên ắng không hoàn toàn dễ chịu. Nó loãng và lơ lửng, chờn vờn quanh tôi, lẫn trong mùi thuốc sát trùng và cái lạnh về đêm. Thi thoảng đâu đó, nghe loáng thoáng tiếng rao của những người bán dạo về đêm, tiếng gõ lốc cốc báo hiệu có hàng mì gõ gần đây, cả tiếng gầm rú của một chiếc xe xé gió đang hăng say trong cuộc đua tốc độ. Phố đêm của sự tĩnh lặng, không phải phố đêm nhộn nhịp tôi từng biết trong những tháng ngày phố còn in dấu chân tôi. Nhưng tôi sắp có thể quay về phố đêm nhộn nhịp ấy rồi. Không biết nên vui hay buồn vì tôi đã quen mất cái phố đêm tĩnh lặng rồi. Tôi quen cảm giác an toàn khi có thể ngồi một chỗ mà quan sát thế giới. Một người bạn viết status “Mình leo núi bị trợt chân té, giờ đau quá trời!”, một đứa khác: “Hôm qua đi mưa về, cảm luôn”… Tôi ngắm được cảnh núi, cảnh mưa, cảnh sông hồ – nhờ bạn tôi – mà chẳng hề sợ bị té, bị ướt hay gặp những hiểm nguy trên đường đi. Đó chẳng phải cuộc sống tôi từng khinh rẻ sao?
Hai tháng tập vật lý trị liệu qua nhanh như chớp. Tôi càng vui mừng vì đôi chân sắp trở lại với tôi bao nhiêu thì càng lo cho Tina bấy nhiêu. Cô ấy liên lạc thưa dần. Mấy lần tôi gặng hỏi cô chỉ nói mình không khỏe. Có lần tôi thấy Tina qua webcam, không khỏi giật mình : cô ốm đi không ngờ, làn da càng xanh xao nhợt nhạt hơn nữa. Chẳng lẽ căn bệnh đã phát triển ngày càng xấu hơn ? Tôi không muốn mất Tina, mất người bạn đã đem lại nụ cười cho tôi trong thời gian tăm tối nhất. Khi cuộc sống thật ngoài màn hình và bàn phím từ bỏ tôi, tôi có Facebook và Tina. Khi tôi sắp giành lại được cuộc sống thật từng thuộc về tôi, tôi cũng sắp mất Tina. Như một trò đùa của số phận nhỉ!? Bạn chỉ được phép có một trong hai, sự hoàn hảo chỉ dành cho thần linh, con người là tạo vật khiếm khuyết nên sự hoàn hảo không bao giờ dành cho con người. Tôi không cam tâm. Cố dặn lòng kỳ tích sẽ xảy ra, tôi sẽ được gặp lại một Tina tươi tỉnh hồng hào, một ngày không xa tôi sẽ đến xứ sở sương mù của cô. Nhưng bán cầu não trái lạnh lùng bảo tôi xưa nay chưa từng có ai được tuyên bố là đã chữa khỏi hoàn toàn bệnh máu trắng.
Tôi vẫn hàng ngày nhắn tin cho Tina dù 2 tuần trở lại cô đã hoàn toàn không còn trả lời tin nhắn của tôi. Ngày mai là kết thúc đợt trị liệu, tôi sẽ có thể bước đi trên đôi chân của mình. Vâng, bước đi một mình. Tôi gõ tin nhắn cuối trong ngày: “Tina, làm ơn trả lời mình đi. Chỉ để mình biết rằng bạn vẫn ổn”. Vẫn là khoảng lặng lạnh người. Tôi thở dài, tắt máy và đi ngủ. Ngày mai cô ấy sẽ trả lời thôi mà, ừ, ngày mai…
Sáng rồi. Đầu tôi vẫn còn nhức, hai mắt sưng húp. Có lẽ giờ mà nhìn trong gương hẳn trông tôi sẽ kinh khủng lắm : hậu quả của một đêm thức và khóc. Chưa kịp rửa mặt, súc miệng, tôi vào Facebook bằng smartphone đặt cạnh giường: vẫn không có tin nhắn của Tina! Và tệ hơn, dường như tài khoản Facebook của cô đã bị xóa. Bị xóa chứ không phải khóa. Tina đã biến mất khỏi thế giới Facebook. Nhưng liệu cô ấy có biến mất khỏi thế giới này chưa? Ồ, một lần nữa cánh cửa thế giới thật mở ra thì thế giới ảo kia lại đổ sụp. Nhưng Tina không phải ảo. Cô ấy có thật, ít nhất là tôi cảm nhận được thế. Tôi đã thấy khuôn mặt cô, nghe giọng cô, tâm sự cùng cô mọi chuyện dù vui hay buồn. Không thể dễ dàng xóa hình bóng ai đó đã khắc trong tim chỉ bằng một cú click chuột đơn giản. Tôi không thể quên Tina, nhưng tôi cũng không thể khóc than mãi mãi cho một tài khoản Facebook đã bị xóa hẳn. Thế giới ảo có thể sinh ra rồi mất đi cả triệu tài khoản, nhưng những cái đó không đại diện cho cả triệu con người thật. Tina là thật, tài khoản của cô chỉ là ảo. Tôi vẫn tin một ngày Tina của tôi sẽ trở lại, dù là với tên tài khoản khác, avatar khác và có thể… một câu chuyện khác.
Tôi đẩy cửa bước ra ngoài. Ánh sáng đột ngột ùa vào, nuốt chửng tôi. Trong thoáng chốc, tôi thấy ngộp, lạ lẫm, bước chân tôi dừng ở bậc cửa. Một cảm giác không tên gần như là sợ hãi xâm chiếm tôi, chỉ chực kéo chân tôi khuỵu xuống. Tôi muốn quay về cảm giác an toàn bên màn hình và bàn phím. Nhưng tôi đã đứng dậy thì chỉ có thể bước đi tiếp thôi.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHÀ THƠ VĂN CAO: CÒN NHỮNG TIẾNG RẠN VỠ

"Khi tôi hú lên thật to//Không nghe tiếng tôi nữa" : Gia tài thi ca Văn Cao qua lời bình Thiên Sơn

Trước khi đọc lời bình về gia tài thi ca của Văn Cao, ta hãy đọc những dòng thơ của chính thi nhân:


Khi tôi hú lên thật to
Không nghe tiếng tôi nữa
Như viên đá rơi vào im lặng
Những ngọn núi dựng lên đen trũi
Bờ một cái vực khổng lồ
Nơi cả mặt trời mặt trăng
Thường lặn xuống không tiếng động”.
                                           (Lòng núi)

Có thể đọc rồi quên toàn bộ, nhưng nên nhớ những câu thơ ấy, của Văn Cao.

Từ đây trở xuống là bài của Thiên Sơn, lấy về từ trang Nguyễn Trọng Tạo.

---

NHÀ THƠ VĂN CAO: CÒN NHỮNG TIẾNG RẠN VỠ


 

Nếu như âm nhạc Văn Cao đã được khẳng định ở vị trí số một Việt Nam trong thế kỷ 20 thì các lĩnh vực sáng tác khác, là họa và đặc biệt là thơ của ông dường như chưa có sự nghiên cứu thấu đáo. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho biết, khi ông và Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo  tuyển chọn tập thơ  của Văn Cao để in, có ít nhất 1 bài thơ của ông đã không in được, đó là bài Đồng chí của tôi nói về chuyện bất nhẫn giữa những người cùng một chiến hào đối xử với nhau. Văn Cao từ những năm 50 của thế kỷ trước đã có cái nhìn xuyên thẳng vào hiện thực, đã nói lên cả những mặt trái của cuộc cách mạng, cả những bất trắc khó lường trong đội ngũ của ông.
Giờ nhìn lại sự nghiệp thơ Văn Cao, ta không khỏi ngạc nhiên, khi chỉ trong hơn 10 năm kể từ khi có tác phẩm thơ đầu tiên, từ một nhà lãng mạn cuối mùa, ông đã làm một hành trình dài lao thẳng vào hiện đại như một cánh chim xuyên qua bão táp của những thành kiến trong thời đại mình để trở thành một nhà tiên phong, mở ra một cánh cửa mới cho thơ hiện đại Việt Nam, mà cho đến nay chúng ta chưa đi hết cung đường mà ông đã vạch ra.
 Ngọn lửa thơ của Văn Cao sung sức và bùng cháy nhất chính ở thời điểm ông viết trường ca Những người trên cửa biển năm 1956. Cảm xúc sôi trào. Ý tứ sắc sảo. Câu thơ hoạt. Hình tượng thơ gây nhiều ám ảnh. Từ thời điểm này về trước, Văn Cao thiên về cảm xúc, cảm giác và những hình ảnh lãng mạn. Sau thời điểm này, Văn Cao chuyển dần sang ẩn dụ, tượng trưng với những hình ảnh biểu tượng hết sức sâu sắc và những suy tư mang nhiều cay đắng.
Cuộc đời Văn Cao, có thể nói, cũng gặp phải những bước ngoặt ngặt nghèo từ sau khi viết Trường ca những người trên cửa biển. Trước đó, là một đoạn đời nhiều xiêu dạt, hào hùng, lãng mạn. Sau đó là những năm tù túng, bị trói buộc và chìm trong ưu tư triền miên.
Văn Cao sinh ra ở Hải Phòng trong một gia đình công chức, cha của Văn Cao vốn là đốc công nhà máy nước Hải Phòng. Thuở nhỏ, Văn Cao hoc ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành chung. Qua những tác phẩm còn lại thì 16 tuổi ông đã làm thơ, viết nhạc và giành được những thành công đầu tiên. Tuy nhiên, theo nhà thơ Văn Thao, con trai ông, thì Văn Cao làm thơ lúc chỉ mới 12, 13 tuổi. Văn Cao đến với thơ trước khi đến với nhạc, họa và thơ cũng là cõi riêng ông thổ lộ những suy tư thăm thẳm về cuộc đời mình, những chiêm nghiệm trước hiện thực ngặt nghèo mấy mươi năm thăng trầm của một thế kỷ đầy bão táp.
 Cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ trước, phong trào thơ mới bắt đầu cạn dần dòng chảy của nó. Những sáng tác đầu tiên của Văn Cao (bài thơ đầu tiên giữ lại được ghi sáng tác năm1939) chịu ảnh hưởng của tư duy thơ mới, nhưng lối dùng chữ vẫn còn nặng về hán việt, nhạc thơ còn chưa thật nhuần nhuyễn. Nhưng, chỉ khoảng 1 năm sau, khi ông viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế (1940) thì độ điêu luyện, mượt mà đã không kém các bậc đàn anh trong thơ mới trước đó. Và cũng chỉ mấy năm sau, ông viết Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc thì không chỉ độ điêu luyện đã lên đến đỉnh, mà còn cho thấy một cách nhìn, cách miêu tả hiện thực đến tận cùng trước thảm họa khủng khiếp của dân tộc ta trong nạn đói năm 1945. Đó là thời điểm Văn Cao đã hoàn toàn vượt qua ảnh hưởng của thơ mới và nghiêng theo chủ nghĩa hiện thực. Nhưng rồi sau đó, Văn Cao chủ yếu chuyển sang nhạc, liên tiếp giành được những thành tựu lớn trong âm nhạc, còn đường thơ thì dần trở nên thưa thớt.
Nhà thơ Văn Thao cho biết,  hồi còn học ở trường Saint Josef,  Hải Phòng, Văn Cao tham gia làm một tờ báo cùng các bạn trong lớp. Lúc ấy, ông đã tự tay trình bày báo và biên tập thơ của bạn hữu đăng lên. Văn Cao cũng tham gia hướng đạo sinh, trở thành đại biểu của tổ chức này được mời đi dự hôi nghị toàn Đông Dương tổ chức ở Huế. Sau khi gia đình sa sút, bố ông bị mất, chị gái ông lấy chồng trong Nam ra chịu tang cha, Văn Cao có thời kỳ theo chị vào Sài Gòn kiếm sống, nhưng sau đời sống khó khăn, ông không muốn phiền đến gia đình anh chị nên trở lại miền Bắc. Khoảng cuối năm 1943, đầu 1944, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội học thêm và có lúc do khó khăn phải ở nhờ một người chị từng là cô gái nhảy nổi tiếng của Hải Phòng xiêu dạt lên Khâm Thiên. Những năm lưu lạc ấy, đã giúp Văn Cao lăn lộn trong giông tố cuộc đời và hiểu thêm chuyện đời, chuyện thế sự. Nhưng rồi, như một quy luật, hầu hết những nghệ sỹ lớn hồi đó đều tham gia Việt Minh, Văn Cao cũng thế. Ông được ông Vũ Quý giác ngộ và gợi ý ông dùng tài năng của mình phục vụ cho cách mạng. Văn Cao từ 16 đến 18 tuổi đã cắm những cái mốc trong âm nhạc với Suối mơ, Trương Chi, Buồn tàn thu,  thì 21 tuổi đã viết Tiến quân ca, để rồi 1 năm sau đó trở thành Quốc ca. Và cũng từ đó, ông liên tục sáng tác nên những tác phẩm hào hùng Thăng Long hành khúc ca, Trường ca sông Lô,  Không quân Việt Nam, Tiến về Hà Nôi…
Nửa cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, Văn Cao có vài bài thơ, mà đáng chú ý phải nói đến Ngoại ô mùa thu năm 1946. Sự biểu đạt về ngôn từ ở đây đã thoát thai ra khỏi lối ước lệ cổ điển và cập nhật những từ ngữ mới có hơi thở đời sống. Cũng phải nói rằng, chính cuộc sống chiến đấu và lao động mới sau cách mạng Tháng 8 đã giúp nhào nặn lại ngôn ngữ thơ của Văn Cao và đưa ông lên tuyền đầu với những ước mơ và khát vọng sáng tạo mới cho thơ.
Trở lại với thời điểm bước ngoặt trong thơ Văn Cao, chính là khi ông viết trường caNhững người trên cửa biển. Ở trường ca này, Văn Cao lấy Hải Phòng làm một hoán dụ như “Việt Nam thu nhỏ”. Hải Phòng hiện lên trong thác lũ của chiến tranh và trong mơ ước nhào nặn lại hình hài của mình vươn đến cuộc sống mới. Và cũng chính ở đây, bên cạnh những thành công và mơ ước, Văn Cao đã không ngại ngần đề cập đến những hiểm họa khó trừ trong hàng ngũ những người cách mạng.
“Kẻ thù của chúng ta xuất hiện
Những con rồng đất khi đỏ khi xanh
Lẫn trong hàng ngũ
Những con bói cá đậu trên những dây buồm
Đang đo mực nước
Những con bạch tuộc
Bao tay chân cố dìm một con người”
“Đất nước đang lên da lên thịt
Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
Đã thấy loài sâu nằm dài trong cuống…”
“Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc
Những tên muốn cây to che cớm mầm non”.
Và ông cũng đã thấy những bi kịch lặng thầm:
“Không có tiếng vỡ trong không gian
Sao có tiếng vỡ trong lòng tiếng vang âm rên rỉ”.
Bản lĩnh Văn Cao, sự trung thực của ngòi bút, tính dự báo sâu sắc bắt đầu được thể hiện mãnh liệt. Và hẳn nhiên, điều này làm cho không ít người có quan điểm hẹp hòi, thích che đậy lấy làm khó chịu.
Cũng tại thời điểm này, Văn Cao viết bài Mấy ý nghĩ thơ như một tuyên ngôn về thơ, đặt ra những vấn đề lớn về thơ hiện đại. Văn Cao đặc biệt nhấn mạnh đến tính tư tưởng của thơ: “Chúng ta đã qua một thời kỳ dài thiên về cảm xúc và một thời kỳ cảm giác, cái thời kỳ thiên về tư tưởng có phải đang bắt đầu không?”
Tuyên ngôn rồi, Văn Cao bắt đầu có những đột phá cả trong khai thác đề tài và nghệ thuật biểu hiện.
Bài Anh có nghe thấy không là một cách đặt vấn đề về nội dung mới cho thơ. Trong lời đề từ Văn Cao ghi “gửi một nhà thơ”. Và ông viết:
 “Chỗ nào cũng có tiếng
Chưa nói lên”
Văn  Cao không ngại ngần chỉ ra:
“Chung quanh còn những người khôn ngoan
Không có mồm
Mắt không bao giờ nhìn thẳng
Những con mèo ngủ yên trên ghế
Trong một cuộc dọn nhà
Những con sên chưa dám ló đầu ra
Những dây leo càng ngày càng tốt lá”
Kẻ thù lớn nhất của cách mạng chính là những kẻ xảo trá, cơ hội lẫn vào hàng ngũ những người cách mạng để phá hoại nó. Hiện thực mà Văn Cao cảnh báo, tiếc thay đã không được khắc phục, không được chỉnh đốn kịp thời để sau này trở thành một hiểm họa lớn.
Trong cái thời sung sức ấy, Văn Cao cũng chú trọng đến cách tân hình thức. Điều đáng nói là Văn Cao đề cao sự phù hợp giữa nội dung và hình thức thơ. Trong bài Gửi những nhà thơ, ông viết:
“Hãy xếp lại thang âm
A ba ca
Da đa la ma
Ôi vần thơ nhạc điệu
Trong trúc trắc nặng nề ngột ngạt
Trong chua chát ngậm ngùi hàng ngày quằn quại
Chết mòn chết mòn chết mòn”
Ở một chỗ khác, ông cũng ví cánh thơ du dương như “chiếc máy bay của người đầu tiên tập lái”. Ông cho rằng, nhà thơ “hãy giữ lại thang âm và đôi cánh/ Trong cuộc đời cao tiếng hát du dương”. Tiếc thay, nửa cuối của thập niên 50 của thế kỷ trước, với những oan trái nặng nề, và cách xử lý vụ Nhân văn Giải phẩm có phần sai lầm đã khiến cuộc đời nhiều văn nhân rơi vào bi kịch. Văn Cao, một nghệ sỹ với tài năng sáng chói cũng bị người ta cho là có liên quan đến vụ này. Từ đó, tài năng của ông đã không còn nhiều cơ hội được thể hiện trước công chúng.
 Từ những năm 60 của thế kỷ trước, cuộc sống của Văn Cao trở nên nặng nề, cô độc và thậm chí nơm nớp vì một sự đe dọa vô hình. Ông gần như không làm nhạc, phải vẽ minh họa cho báo hoặc vẽ bìa sách để kiếm sống và thường phải chịu cảnh đói nghèo. Ông cũng ít làm thơ. Hầu hết là những bài thơ viết và để trong sổ tay, thỉnh thoảng mới được đọc lên chia sẻ với bạn hữu trong những cuộc rượu.
Mãi mấy chục năm sau, khi đất nước đã mở cửa, đổi mới thì thơ Văn Cao mới được in lại trong một tập “Lá”. Sau khi Văn Cao mất, những tuyển thơ của ông mới dần dần được in nhưng vẫn còn một số bài thơ gai góc đến giờ vẫn chưa xuất hiện chính thức trong tập nào.
Càng về sau, Văn Cao làm thơ như là một cuộc độc thoại với chính mình. Trước đây có lần ông muốn hét to lên, cảnh báo về những hiện trạng nguy hiểm đang dần dần lộ diện trong đời sống, nhưng chẳng ai nghe thấy, tiếng thét của ông tựa như gặp một triền núi dựng đứng chắn lại:
“Khi tôi hú lên thật to
Không nghe tiếng tôi nữa
Như viên đá rơi vào im lặng
Những ngọn núi dựng lên đen trũi
Bờ một cái vực khổng lồ
Nơi cả mặt trời mặt trăng
Thường lặn xuống không tiếng động”.
                                           (Lòng núi)

Đến lúc chìm trong cô độc, ưu tư, Văn Cao chua xót nhận ra:
“Bỗng nhiên
Bóng người ấy che mất
Nửa mặt của tôi”
                 (Nguyệt thực)

Dù sao, thơ Văn Cao vẫn tiến những bước dài trong sự chiêm nghiệm về thân phận con người, về những nghịch lý của thời đại và trong nghệ thuật biểu hiện, ông đã chọn lối ẩn dụ, tượng trưng như một phương thức biểu đạt chính, tạo ra những bài thơ trùng điệp các tầng ngữ nghĩa, gợi liên tưởng và ngẫm suy không dứt.
“Sự thất bại thường gặp trong một bài thơ là khép lại: Khép  tất cả sự muốn nghĩ và muốn nói”. Văn Cao đã từng quan niệm như vậy, và ông đã thành công khi biến mỗi bài thơ của mình thành một tác nhân kích thích suy nghĩ của độc giả. Có thể coi mỗi bài thơ như một câu hỏi nhức buốt về sự sống, hoặc một tấm gương để độc giả soi vào và tự ngẫm suy về chính mình, về thời đại mình. Bài thơ Văn Cao vì thế không phải là một văn bản chết, cứng đờ trên giấy, nó lung linh, sống động và biến hóa tùy theo sức cảm và nghĩ của độc giả. Đó chính là sự hấp dẫn đặc biệt của thơ Văn Cao, thâm trầm, sâu sắc và liên tục gợi mở. Tính hiện đại của Văn Cao biểu lộ rõ nét ở điểm này. Nó vượt thoát khỏi dòng thơ tuyên truyền đương thời. Nó xác lập một cá tính riêng, làm phong phú thêm cho Thơ Việt và mở đường cho những dòng chảy mới của thơ sau này.
Bài “Năm buổi sáng không có trong sự thật” là một thành công quan trọng trong nỗ lực hiện đại hóa thơ của Văn Cao. Bài thơ mở ra cái thế giới của tưởng tượng, của giả tưởng. Buổi sáng thứ nhất, khi tỉnh dậy bỗng “cả phố biến đâu mất” “Mặt đất đỏ màu gạch nung/ như miệng  quả núi lửa”. Buổi sáng thứ hai tỉnh dậy “không nghe tiếng chim hót”, không nghe tiếng chân đi, “không ai nhìn miệng tôi gào thét”. Tất cả chỉ có im lặng. Và nhà thơ cảm thấy “Hình như nơi đây bị đày trong im lặng”. Buổi sáng thứ ba, nhà thơ thấy “không phải mình thức dậy/ một người nào đó trong tôi đang thở”, thế rồi từ đó, bao nhiêu điều khủng khiếp đã diễn ra. “Từ khi ấy, chúng tôi hai người suy nghĩ/ Hai kẻ thù nhau/Hai thái cực tâm hồn/ Hai người ấy trong một người chịu đựng/ mưu hại lẫn nhau”. Buổi sáng thứ tư, cả phố phường như mở hội. “Mọi con người đeo mặt nạ đi chơi” nhưng nhà thơ lại nhìn thấy “Nước mắt mồ hôi / chảy ra trên từng mặt nạ”. Bài thơ kết lại bằng buổi sáng thứ năm ấm áp. Trong căn phòng trong suốt thủy tinh, “Em ở đây với anh”  “Da thịt em cho anh sưởi” “Chúng ta đi vào bí mật của mùa xuân”. Năm buổi sáng là năm tình huống, năm cung bậc của cảm xúc, suy tưởng, tưởng tượng. Dù nó được vẽ nên mang màu sắc giả tưởng nhưng lại không xa lạ với hiện thực. Bài thơ khép lại mà sức gợi của nó không dứt, tựa như một chất xúc tác nhào nặn lại những suy nghĩ của độc giả.
Nếu như “Năm buổi sáng không có trong sự thật” hướng ngoại, mô tả những cảnh ngộ chung của nhiều người, hoặc khái quát về cái chung, thì “Ba biến khúc tuổi sáu lăm” là một lối thơ nghiêng về ẩn dụ nói lên cảnh ngộ của một con người. Biến khúc thứ nhất, kể rằng, “một người cho tôi con dao găm” và tác giả vô tình ném con dao qua cửa sổ trong đêm. Bỗng có tiếng ngã ngoài sân, “một người trúng tim đã chết”. Tác giả thanh minh: “Tôi không hề biết người ấy/ Tôi là kẻ không muốn giết người/ Chỉ biết bóng tối/ mà tôi đã ném dao”. Biến khúc thứ 2, kể về một oan khiên: “Bỗng nhiên mọi người nhìn tôi/ một ai đó kêu lên thằng ăn cắp”. Thế rồi, khi chạy hết cả cuộc đời, sắp gục xuống, “tỉnh dậy mồ hôi chảy/ tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội”. Biến khúc thứ ba, kể: “Tôi rơi vào mạng nhện/ mạng nhện cuốn lấy tôi/ không còn cách gì gỡ được”. Đây  là một bài thơ đau đớn, nói về sự vô tình nghiệt ngã, sự  xô đẩy của thời thế tạo nên số phận oan nghiệt của một con người. Dù tất cả hình ảnh trong bài thơ đều mang tính biểu trưng, nhưng hầu như những mâu thuẫn, những kịch tích lại khá rõ ràng và có thể hiểu được khá rõ.
Trừ một số bài thơ dài, mà trường độ cảm xúc và tính khái quát không thua kém những trường ca, về cơ bản, thời kỳ những năm 60, 70 của thế kỷ trước, thơ Văn Cao trở nên ngắn gọn, cô đúc. Ông tìm sự liên kết trong ý tứ, hình ảnh, trong nhạc điệu, tức là sự liên kết từ bên trong chứ ít khi sử dụng những vần điệu vang vọng. Hình ảnh trong thơ ông thường biến nghĩa, cấu trúc câu cũng linh hoạt khơi gợi sự ngẫm ngợi. Hầu hết thơ ông quãng sau nghiêng về nghĩa bóng, mỗi bài thơ đặt ra những thách thức bí ẩn khiến người đọc phải giải mã điều thực sự nhà thơ muốn nói phía sau mỗi câu từ.
Dù không sáng tác nhiều thơ (khoảng 60 bài thơ và 1 trường ca), Văn Cao cũng đã ôm chứa trong ông bước dịch chuyển lớn lao mang dấu ấn của hơn nửa thế kỷ tìm đường của thơ Việt. Từ một nhà lãng mạn, Văn Cao đã nỗ lực để trở thành một nhà thơ hiện thực, từ một nhà hiện thực, Văn Cao đã tiến thêm một bước vào lãnh địa của thơ tượng trưng. Trong thơ ông người ta tìm thấy cả dấu ấn thân phận nhà thơ, lẫn nỗi cay đắng của một lịch sử đầy gấp khúc.
                                                             Hà Nội tháng 6 -2013
                                                                             T.S

Phần nhận xét hiển thị trên trang

BẢO NINH, NGƯỜI LÀM LỄ BỎ MẢ CHO GIAI ĐOẠN THƠ VĂN MINH HỌA .




Cuộc sống này, quả thật còn có nhiều điều không thể hiểu. Tôi chỉ là người viết văn tép riu, vui là chính, như lời nhà thơ Trần Nhương. Ấy thế mà, tôi cảm giác, văn thơ như có một sợi dây vô hình nào đó gắn bết lại lại với nhau. Khi viết Nguyễn Trọng Tạo, tôi lại nghĩ đến nhà thơ Hoàng Cát, Lưu Quang Vũ. Lúc viết về Trần Mạnh Hảo, cái hào sảng, khí phách con người cũng như thơ ca Bùi Minh Quốc lại hiện về. Viết xong Đỗ Hoàng, thế quái nào tâm trí còn đọng lại bác Bảo Ninh. Giờ này đang viết về Bảo Ninh, người lính chiến miền Bắc, lại thấy ông em họ, lính thám kích miền Nam, chết sau mấy năm trở về, từ nhà tù Thanh Hóa, ngồi lù lù bên cạnh …
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài năng số một của miền Bắc viết tiểu thuyết, văn xuôi về đề tài chiến tranh. “ Dấu Chân Người Lính“ được cho là một trong những cuốn tiêu biểu đỉnh cao nghệ thuật của văn học thời kỳ ấy. Nhưng năm 1987, Nguyễn Minh Châu ra lời kêu gọi bằng chính tác phẩm của mình: “ Hãy Đọc Lời Ai Điếu Cho Một Giai Đoạn Văn Nghệ Minh Họa“. Thật ra, trước ông đã có một số nhà văn, nhà thơ đã định làm lễ bỏ mả cho cái giai đoạn văn nghệ tuyên truyền, minh họa này. Tiêu biểu Phạm Tiến Duật năm 1974 với bài thơ “ Vòng Trắng“. Mấy năm sau, Nguyễn Trọng Tạo lại trần trụi với bài “ Tản Mạn Thời Tôi Sống“…Chưa đúng thời, cả hai ông đều bị tẩm quất. Văn chương thơ phú muốn nói thật viết thật, quả thật còn nguy hiển hơn cả ngoài mặt trận. Phạm Tiến Duật lộn lại chiến trường, còn Nguyễn Trọng Tạo bị dồn đến chân tường, có những lúc ông đã phải nghĩ đến cái chết.
Không ai phủ nhận những đóng góp, sức mạnh của văn thơ tuyên truyền, cổ động trong thời điểm đó và tài năng của các nhà thơ nhà văn. Nhưng văn thơ tuyên truyền, minh họa chỉ nhất thời, có tuổi thọ ngắn. Ngay đến nhà thơ tài danh Xuân Diệu, đầu năm 1979 vào Buôn Mê Thuộc, theo đơn đặt của tỉnh ủy Daklak, ông viết bài thơ Huyện Lắc. Bài thơ này, được ông đọc và bình trước sinh viên trường đại học Tây Nguyên, trường sư phạm. Bài thơ không hay! Có một tên trời đánh Hoàng Thế Hoan (sinh viên sư phạm Đà Lạt, quê quán Nghĩa Hùng, Nghĩa Hưng, Nam Định), dám cả gan chê ngay trước mặt ông như vậy. Âu đó cũng là chuyện bình thường, bởi thơ đó không được tiết ra từ xúc cảm tâm hồn Xuân Diệu, mà cái đơn đặt hàng nó viết đấy thôi.
Ông phó cối, hàng xóm nhà tôi, người lính đã trải qua ba cuộc chiến. Ngày còn nhỏ anh thường phải theo cha đi đóng cối xay khắp nơi, nên ít được đến trường. Nhưng anh ham đọc, nhất là sách, truyện viết về chiến tranh. Có lần anh hỏi tôi, theo chú, tại sao truyện của Bảo Ninh đọc đi đọc lại mãi không chán? Nếu như người khác, tôi đã cho là hỏi đểu, nhưng với anh tôi biết, đó là câu hỏi thật. Vâng! Chỉ một câu trả lời: Sự thật tàn nhẫn của chiến tranh.  Và tôi hỏi lại, anh đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh, thấy Bảo Ninh viết về những người lính và chiến trường giống những gì anh đã trải qua không? Anh bảo, giống…giống lắm, người lính tên Can là một phần cuộc sống của anh về cả xuất thân quê quán, hoàn cảnh, chiến tranh đánh đấm khói lửa cho đến suy nghĩ…
Cách nay vừa tròn hai mươi năm(1993), tôi có về Hà Nội, gặp được ông em họ vừa ở tù ra vì can tội là lính thám kích, quân đội VNCH. Tôi có đưa cho hắn cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh. Đọc xong, hắn bảo, ông Bảo Ninh viết hoàn toàn sai về người lính VNCH.  Như câu chuyện bốn người lính thám kích bị bắt, tác giả viết một cách không đúng sự thật. Từ cách mô tả hành động đến thuật lại những mẩu đối thoại của những người lính thám kích này.
Lính thám kích được chọn, hầu hết còn trẻ, gan dạ và có bản lãnh. Họ không thể nào quá hèn hạ, van xin như Bảo Ninh kể. Nếu có xin tha đi nữa, thì cách nói và những lời nói ấy, nhất định không phải của họ. Điều này hắn khẳng định không thể có. Người lính thám kích đã được giáo dục về nhân cách, ngay sau khi đã được tuyển chọn. Trong nhiệm vụ đặc biệt, những toán thám kích cần phải tránh nổ súng, tránh bị phát hiện, trừ trường hợp, tự vệ, bất khả kháng. Cho nên, không thể có trường hợp phát hiện, bắt ba cô gái, rồi dẫn đi nhởn nhơ như vậy, để nhóm của Kiên tóm được. Hơn nữa, trong trường hợp đã bị bắt, trước sự sống chết, không thằng nào ngu xuẩn, nói giọng trêu cợt: Ba nhỏ đó trình quý anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi… Mấy nhỏ la khóc quá trời..
Hắn cũng cho rằng, cuốn truyện còn nhiều cảnh tưởng tượng quá mức, như trường hợp, một đám lính, làm thịt con xà niêng, nhưng sau khi cạo lông mới phát hiện ra đó là một người đàn bà.
Tôi viết lại lời hắn theo trí nhớ của mình. Và còn nhiều lời nặng nề khác của hắn về Nỗi Buồn Chiến Tranh, nhưng tôi xin phép không chép ra đây. Hắn ra người thiên cổ đã lâu. Vài dòng như một chút tưởng niệm đến hắn và các những người lính cả hai miền Nam-Bắc đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua. Tôi là người sinh sau đẻ muộn, rất may mắn không phải tham gia trận chiến thê thảm này. Bài này, tôi chỉ đề cấp đến sự thật khốc liệt của chiến tranh, ở những tình tiết có ở trên trang sách của Bảo Ninh và nghệ thuật viết truyện của ông, qua suy nghĩ cá nhân. Do vậy, khi đọc các bác đặt quan niệm chính trị, ra ngoài bài viết này.
Cũng như Lưu Quang Vũ, Bảo Ninh được sinh ra trong một gia đình văn chương, khoa bảng. Nói một cách dân dã, các ông là con nhà nòi và lớn lên trong cái lò văn chương, nghệ thuật. Lưu Quang Vũ đã sớm nắm bắt được cái tinh cái cốt ấy, nên đến với thi ca rất sớm. Còn Bảo Ninh đủng đà đủng đỉnh, cứ như một gã thợ cày làm công nhật, tính điểm thời hợp tác xã vậy. Do đó, ông đến với văn chương khá muộn, so với các nhà văn cùng thế hệ. Có thể nói, nếu như không có sự cổ vũ, giúp đỡ tích cực của người cha thì chưa chắc Bảo Ninh đã theo nghiệp viết lách. Thật vậy, khi đọc văn của Bảo Ninh, thấy dường như có một nhà ngôn ngữ học thấp thoáng ở đâu đó.
Điều tất nhiên khi đánh giá tài năng nhà văn, cũng như kiểm tra OTK trong nhà máy, chỉ dựa vào chất lượng sản phẩm của họ. Xuất thân, đến sớm hoặc muộn với văn chương chỉ là tài liệu tham khảo. Tài năng phát tiết ra sớm hay muộn cũng như cơ địa của hai cô gái cùng tuổi, nhưng thời điểm dậy thì, khác nhau mà thôi.
Bảo Ninh có cái may mắn, gốc rễ, được sinh ra tại miền quê và ông lớn lên trưởng thành ở Hà Nội. Giống nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, ông được đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người ở vùng miền khác nhau. Những cách sống, văn hóa, ngôn ngữ vùng miền ấy, sau này đã được ông tiếp thu, hòa trộn đưa vào trang sách một cách sinh động phong phú. Dường như Bảo Ninh viết không nhiều, không viết tạp. Ông chỉ viết những gì, khi hiểu thật kỹ và đã, đang sống cùng nó. Ngoài viết báo ra, ông còn gánh hai mảng, truyện ngắn và tiểu thuyết. Viết văn, nhất là tiểu thuyết là công việc nặng nhọc, nên nhà văn ngoài tài năng bẩm sinh, kỹ năng viết ra, cần phải có sức lực, vốn sống, kiến thức thâm hậu. Chứ viết văn dốt bị “nghĩa lộ“ ngay, không như  mấy bác lười nhác, trống rỗng làm thơ tắc tị, nhạt như nước ốc, vẫn có thể lấp liếm được, cho là thơ trừu tượng, thơ mới…Vì vậy, (tịnh) không thấy bác nào, lập ra hội văn phường, văn xóm như thơ. Vì những lý do này và là người kỹ tính, nên Bảo Ninh cốt tinh chứ không cốt lượng, viết thận trọng từng bước, từng bước chăng?
 Cho đến nay, về tiểu thuyết, Bảo Ninh chỉ mới trình làng cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh. Cuốn tiểu thuyết này, ông viết cách nay đã trên hai chục năm. Tôi cho rằng, đây là cuốn sách rửa lại bộ mặt nhem nhuốc cho văn học Việt Nam. Và nó là lời ai điếu cho giai đoạn văn thơ minh họa tuyên truyền.
Thân Phận Tình Yêu là cái tên đầu của cuốn sách. Một cái tên vô thưởng vô phạt, không hay, nếu như không muốn nói là tối nghĩa. Bởi vì cái tên, cái tựa là cái giỏ chứa cả hồn cốt của cuốn truyện. Tôi nghĩ, cái tên này chỉ là giải pháp bắt buộc tạm thời như vậy, nếu Bảo Ninh, muốn đưa được cuốn sách này đến người đọc. Gỉa dụ, cái tựa này do Bảo Ninh thực sự đặt ra, thì cha ông, một giáo sư ngôn ngữ học, không chịu để yên như thế. Vậy là cuốn sách đã qua được vòng kiểm duyệt, (chắc chắn có sự hỗ trợ của một số nhà văn khác có trách nhiệm, tư tưởng cởi mở) để  đến tay bạn đọc. Năm 1991, được tái bản, Bảo Ninh mới dám trả đúng tên cho cuốn sách của mình: Nỗi Buồn Chiến Tranh.
Mặc chiếc áo của người lính chiến tên Kiên, Bảo Ninh đã lột trần sự tàn nhẫn, của chiến tranh và thân phận đớn đau, không lối thoát của người lính ngay sau cuộc chiến. Một sự thật từ xưa đến nay người ta đều giấu giếm kiêng kị. Tiếng vang của nó không còn đóng khung trong nước, mà tràn ra khỏi biên giới. Độc giả các nước Âu-Mỹ đã đón nhận nó. Sự kiện bức tường Berlin sụp đổ, kéo theo hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Những năm sau đó, trong nước có những lãnh đạo cao cấp đã nhận ra sai lầm. Tư tưởng người dân dao động.  Tầng lớp trí thức, thanh niên bước đầu có những chính kiến rõ ràng. Các bác giật mình sợ hãi. Một cái lệnh vu vơ từ cõi trên, treo tái bản Nỗi Buồn Chiến Tranh hơn chục năm.
Mười năm, văn học Việt Nam vẫn luẩn quẩn, không có một cuốn sách nào vượt qua được Nỗi Buồn Chiến Tranh. Tuy sách của Nguyễn Huy Thiệp được xuất bản ở nước ngoài, gây tiếng vang, nhưng chỉ là truyện ngắn, không nặng ký như tiểu thuyết, truyện dài hơi. Đất nước muốn thoát cảnh đói nghèo, cánh cửa biên giới phải mở. Internet phát triển như vũ bão, các bác treo Nỗi Buồn Chiến Tranh, người đọc tìm Bảo Ninh trên trang báo nước ngoài. Bộ mặt văn học Việt Nam vẫn méo mó, đối ngoại luẩn quẩn. Các bạn nước ngoài hỏi đến Bảo Ninh, các bác ngơ ngác, thật là kỳ cục. Thế là, người ta lại phải cần đến Bảo Ninh và Nỗi Buồn Chiến Tranh để lau lại khuôn mặt nhem nhuốc đó. Muốn vậy, chỉ còn cách duy nhất, Nỗi Buồn Chiến Tranh phải được tái bản lại ở trong nước. Đây là cuốn sách, được  người đọc trong và ngoài nước yêu thích và cũng có số lượng phát hành nhiều nhất Việt Nam.
Tôi không thích đọc những bài viết về giải thưởng văn học trong cũng như ngoài nước. Nhưng hôm rồi lục tìm tài liệu về thân thế của Bảo Ninh, thấy có một bài viết của Đông La. Anh cho rằng, Bảo Ninh đã chôm một đoạn văn này, của cuốn sách nước ngoài(Bông Hồng Vàng) đưa vào Nỗi Buồn Chiến Tranh: “…Nếu Elêna nói với Anđexen: “Anh hãy chạy đi… Đừng nghĩ gì đến em. Nhưng nếu một ngày kia, tuổi già, nghèo nàn và bệnh tật có làm anh đau khổ thì chỉ cần anh nhắn cho em một lời, em sẽ… tới an ủi anh”, thì cô Lan cũng nói với Kiên: “Đừng bận về em. Đời anh rộng mở, hãy đi vào hãy sống cho thỏa… Còn nói ví dụ… một ngày nào anh gặp cảnh ngộ không hay, thấy đã hết ngả để đi tiếp thì xin anh hãy nhớ ngay rằng, dù sao cũng còn có một nơi, cũng còn một người… một chốn anh về“(bài của Đông La)
Tôi nghĩ, anh Đông La đã lầm lẫn, hai đoạn văn trên hoàn cảnh, ngữ cảnh và những câu thoại hoàn toàn khác nhau. Ngoài ra, đoạn trích của Đông La là những câu ghép lại bằng những dấu ba chấm để so sánh. Lắp ghép kiểu này, dường như không được chính nhân cho lắm. Cũng chẳng cần phải phân tích đúng sai, nói cho nhanh, nếu đoạn văn trên là chôm chỉa thật, chẳng cần anh Đông La phải mất công đào bới, mấy ông bản quyền ở Âu- Mỹ, đã lôi cổ Bảo Ninh ra tòa lâu rồi. Có một điều, có lẽ anh Đông La không biết, luật bản quyền ở châu Âu chặt chẽ xuống từng đầu người, từng chiếc Radio, từng cái Ôtô. Ai cũng phải trả tiền bản quyền nghe nhạc. Sử dụng nhạc trong cửa hàng kinh doanh, càng phải trả nhiều tiền hơn, tính mét vuông nhân lên số tiền. Tiện đây cũng nhắc luôn nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và các nhạc sỹ có bài hát, hay được(bị) sử dụng ở nước ngoài. Trước kia, các nhà hàng của người Việt ta, thường khai với công ty quản lý sử dụng nhạc trong kinh doanh(GEMA) chỉ sử dụng nhạc Việt, nên không phải trả tiền. Mấy năm gần đây, sử dụng nhạc Việt cũng phải nộp tiền cho công ty này. Họ bảo, nhạc Việt cũng được bảo hộ, tiền sẽ trả cho tác giả. Không biết công ty bản quyền và nhạc sỹ ở Việt Nam có được nhận hay không? Không những Đức mà còn nhiều các nước khác, châu lục khác. Tôi nghĩ, đó là khoản tiền không nhỏ.
Cũng như nhạc, ngoài ra bản quyền sách báo còn chặt chẽ hơn. Sách của Bảo Ninh có đoạn chôm chỉa, tôi bảo đảm không nhà sách nào dám in, chứ đừng nói mấy chục năm nay nó nằm chình ình ở các hiệu sách, thư viện Âu- Mỹ như vậy.
 Đông La còn đánh giá, nếu như Bảo Ninh nhận được giải Nobel về văn học, thì mang mầu sắc chính trị, chứ không phải về học thuật. Tôi nghĩ, văn học Việt Nam đang như cái chợ chiều thế này, thế hệ nhà văn Bảo Ninh không có hy vọng nhận được giải ấy. Nếu như Việt Nam nuôi hy vọng nhận được giải Nobel, ngay bây giờ nên có những công trình nghiên cứu, giải quyết những câu hỏi. Tại sao Nỗi Buồn Chiến Tranh tràn đầy sức sống và sống dai đến như vậy? Không những nó ghim vào lòng độc giả trong nước mà cả đến độc giả các nước Âu-Mỹ. Điều này không phải tôi nói, trước đây đã nhiều người nói rồi. Cái này, từ ông viện trưởng viện văn học đến ông chủ tịch Hội nhà văn chắc chắn cũng thừa biết. Nhưng các bác không làm, vì có lẽ làm cũng chẳng ăn cái dải rút gì. Nên các bác để thời gian, cùng nhau lên đồng, cùng nhau tụng ca những thứ, thơ chẳng ra thơ, vè chẳng ra vè của những ông linh hồn bệnh hoạn như Hoàng Quang Thuận… Với những suy nghĩ còn tiểu nông như vậy, văn chương bao giờ mới lớn lên được.
Không biết Đông La đã đọc kỹ Nỗi Buồn Chiến Tranh hay chưa? Cuốn sách này, tôi chẳng thấy đồng chí chính trị viên hay bác tâm lý chiến nào ở trong đó cả. Cũng chẳng thấy bóng dáng, những ông Kissinger, Nixon, Johnson hay bác Nguyễn Khoa Điềm… Đinh Thế Huynh đâu. Chỉ thấy, thuần một ông Bảo Ninh đang lên cơn điên, với những nỗi ám ảnh chém nát linh hồn. Từ đó bật lên sự thật trần trụi, tàn nhẫn của chiến tranh cũng như thân phận bi quan không lối thoát của con người sau cuộc chiến, chẳng có chút chính trị chính em nào ở trong này cả. Cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh, nếu như được trao giải, thì chẳng có lợi cho phe phái chính trị nào. Và Bảo Ninh cũng không phải là cái tầm cỡ to lớn như hai bác, thay mặt cho hai phe, xua quân đánh nhau, rồi bắt tay đình chiến, cùng được kêu tên nhận giải Nobel khi xưa, để người ta đáng phải làm như vậy. Đông La suy diễn quả thật không có cơ sở, dù sự việc chỉ là giả thiết.
Đến bây giờ tôi vẫn nghĩ, Nỗi Buồn Chiến tranh nếu được viết, xuất bản ở môi trường xã hội khác, có lẽ Bảo Ninh sẽ viết theo thể truyện ký, hay tự truyện. Dùng đại từ nhân xưng (tôi) ngôi thứ nhất, thay cho ngôi thứ ba (Kiên), gần gũi, truyền cảm xúc nhanh nhất từ người viết đến người đọc. Nó cho người đọc cảm giác thật và có sức lan tỏa mạnh hơn nữa. Nhưng nó có mặt hạn chế bó buộc, không được vung tay  mạnh, như viết tiểu thuyết. Bản thân tôi khi đọc, tiếp cận Nỗi Buồn Chiến Tranh, bằng mạch văn tự truyện, hay truyện ký, chứ không coi nó là tiểu thuyết.
Xuyên suốt Nỗi Buồn Chiến Tranh là sự hồi tưởng  trong trạng thái ám ảnh của người lính chiến tên Kiên (tức là Bảo Ninh). Theo lời ông bạn, chuyên gia thần kinh học, thì ám ảnh cũng là một căn bệnh do bị tổn thương thần kinh. Những lúc bị ám ảnh, mỗi người bệnh có hành vi khác nhau. Có người đập phá, người hát hò nhảy múa hoặc tìm sử dụng chất ngây nghiện …Nhưng có những người lại trầm lặng làm những công việc đặc biệt, hoặc sinh ra những cá tính cá biệt. Có lý, như ông bác Đặng Trác, họ bên mẹ tôi là tướng tá gì đó, tư lệnh quân khu 9 từ thời đánh nhau với ông Pháp. Vợ ông ngày xưa có lẽ cũng tham gia đánh trận, nên bị ám ảnh, rất sợ bẩn. Có lần vợ chồng bác đến thăm ông trẻ, em bà ngoại tôi, chú Đặng Xuân Đỉnh(em ruột TBT Trường Chinh) cũng ở đó, đưa mời vợ bác Trác ly nước, bà vội rút khăn ra lót vào ly, rồi mới dám cầm. Bác Trác xin lỗi, và giải thích căn bệnh của bà…
Như vậy, rất may Kiên rơi vào dạng thứ hai này. Mỗi lần ám ảnh, thần kinh kích động cao độ, ông ngồi vào bàn viết, làm công việc duy nhất độc thoại về Phương về Can về Quảng, về Hòa…trong nội tâm và được chuyển tải trên từng trang giấy. Lúc này tâm hồn ông thoát, tách rời và khỏi thế giới xung quanh và không bị tác động bởi nó, ký ức hiện lên trang viết của ông là chân thật rõ nét nhất. Trong tâm trạng không bình thường, với nỗi ám ảnh chập chờn như bóng ma hiện về. Những ký ức bị xé vụn, đan xen chằng chịt, với lối kể nhanh, hoạt làm cho người đọc rờn rợn, nhưng vẫn đuổi theo hành động của nhân vật. Phải nói đây là cách dẫn chuyện mới lạ với người Việt, gần với tâm lý độc giả phương Tây hơn.
Có một nhà phê bình tên tuổi, khi đánh giá về Nỗi Buồn Chiến Tranh viết (quanh quẩn một hồi, rồi có câu kết): Bảo Ninh đã xây dựng thành công nhân vật người lính. Vâng! Tôi hiểu sự úp mở để che đậy cái suy nghĩ thật mà ông không dám nói, dám viết. Xây dựng của ông là nghệ thuật xây dựng của con chữ, chứ dứt khoát không phải xây dựng thành công người lính ĐIỂN HÌNH trong tập thể điển hình như những Dấu Chân Người Lính của Nguyễn Minh Châu, Đêm Trường Sơn Nhớ Bác của Nguyễn Trung Thu…
Bảo Ninh có cái nhìn khác về chiến tranh, thông qua cái mâu thuẫn nội tâm cũng như hành động cá thể của người lính. Tôi cho rằng, đó là cái nhìn biện chứng, khách quan, đúng với qui luật của cuộc sống cũng như tâm lý con người, dù là cái nhìn cá nhân. Đêm Trường Sơn, một thoáng lặng yên, trước nhất người lính phải nhớ về mẹ, về người yêu, người thân, chứ không thể nghĩ về người nào khác, dù người đó có là thánh nhân, (hoặc là ai đi chăng nữa).
Đọc lại đoạn thoại này, ta thấy được diễn biến tâm lý người lính rất thật, rất đau chứ không phải ấn vào mồm họ, những lý tưởng, từ ngữ phơi phới, đao to búa lớn:
 “…Can từ từ đứng dậy, đối diện, nhìn thẳng mắt Kiên.
- Cả đời đi đánh nhau, thú nhật, tôi chả thấy cái trò này là có gì vinh. Nhưng do hy vọng nên vẫn còn chịu đựng. Về quê, càng khốn nạn, tôi biết. Người ta chẳng để cho sống đâu. Nhưng mấy đêm vừa rồi tôi toàn mê thấy mẹ tôi gọi tôi… Có nhẽ anh tôi đã chết mà mẹ tôi thì khổ não lâm bệnh rồi chăng. Không thể nấn ná, vì suất học sĩ quan là của anh… Tôi phải lần về quê. Chỉ mong anh em trong trung đội thương tình, thông cảm. Sẽ chẳng ai tóm nổi tôi lại nếu như chính anh em trinh sát không truy đuổi. Nhất là anh, Kiên ạ, anh thả cho tôi đi thì tôi sẽ đi được… Tôi đành mang tội lỗi với anh em… Quê tôi thì anh biết rồi đấy… Hà Nam, Bình Lục… mai sau mà có dịp…“(NBCT)
Thay cho những buổi học chính trị sáo mòn ta thắng địch thua, người lính lao vào những cuộc sát phạt đỏ đen hay hút xách, nhằm quên đi cái tàn khốc của chiến tranh, mỏng manh của thân phận. Cỗ bài này, ngày mai ai sẽ là người khuyết chân?
“…Thường là cứ chập tối cơm xong bắt đầu ngả chiếu bạc. Trong bầu không khí ẩm rượt, nồng ngạt mùi mồ hôi và khét lẹt khói xông muỗi, các con bạc châu quanh cỗ bài, tơi bời đỏ đen.
Tiền đặt cửa thường là những tàu thuốc “đồng bào” hôi mù, cay cú hơn thì thuốc lào, đá lửa hoặc sợi hồng ma một thứ tiền ma túy – hoặc là lương khô và ảnh nữa, ảnh con gái các loại, bất kể gái tây hay gái ta, xấu hay đẹp, người yêu hay người dưng, dùng tuốt, dốc hết ra mà sát phạt. Chẳng còn gì ăn thua nữa thì quệt muội đèn, chơi trò bôi râu. Người đánh kẻ chầu rìa, vui vẻ, om sòm nhiều hôm thâu đêm…
Chơi tà tà nhé, – Kiên đề nghị – nếu dở ván thì trời để cho cả bốn thằng sống qua trận này, để còn chơi tiếp…“ (NBCT)
Vậy là, cỗ bài này chỉ còn lại một chân. Mình Kiên sống sót. Cái chết tuy đã được báo trước, nhưng trước cái chết quằn quại của những người lính trẻ từ cả hai phía Bắc –Nam, làm cho người đọc không khỏi bàng hoàng, đau xót. Và hình ảnh người lính bắn nhầm vào con xà niêng, cạo lông làm thịt một cách rùng rợn, cho ta thấy sự điển hình tàn nhẫn dã man của chiến tranh: “khi ngả ra, cạo sạch bộ lông thì hóa ra: con vật hiện nguyên hình là một mụ đàn bà béo xệ, da sần lở, nửa xám, nửa trắng hếu, cặp mắt trợn ngược… Cả trung đội thất kinh, rú lên ù té, quẳng tiệt nồi niêu, dao kéo…”   
Phải nói, trí tưởng tượng, sự liên tưởng phong phú và tài năng kết nối sự việc là những yếu tố chính làm nên sự thành công của Nỗi Buồn Chiến Tranh. Chẳng có hương thơm nào có thể rửa hết mùi tử khí trong tâm hồn người lính chiến. Một cánh quạt trần quay cũng làm ông giật mình kinh hãi.
“…Nhiều hôm không đâu giữa phố xá đông người tôi đi lạc vào một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi hám pha tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối rữa. Tôi tưởng mình đang đi qua đồi “Xáo Thịt” la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng Chạp 72.
Tử khí xộc lên từ vỉa hè nồng nặc đến nỗi tôi phải vội đưa tay lên bịt mũi như kẻ hóa rồ trước mắt người qua đường. Có đêm tôi giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hóa thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng vũ trang. Thót người lại trên giường tôi nín thở đợi một
trái hỏa tiễn từ tàu rà phụt xuống. “Chéo-éo-éo … Đoành!…”
Đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh, tôi mới vỡ ra một điều, cái sự tưởng tượng của trang văn nó cần tính khái quát và cụ thể hơn so với thơ. Ở đây chỉ có một hình ảnh nhỏ “..luôn luôn nhìn xuống như sợ giẫm phải cái bóng của mình…“ người đọc đã liên tưởng, thấy được toàn bộ con người cũng như gia cảnh của người hàng xóm, tang thương vật vờ một cách sâu sắc hơn. Cái quan sát tỉ mỉ, lối miêu tả đầy hình ảnh này, chỉ nhà văn tài năng mới có được:
“…Có hôm ông bước xuống cầu thang vào sau bữa cơm trưa, xách trên tay chiếc cặp lồng đựng bữa tối. Ông không cao gì lắm nhưng vì quá gầy nên trông lênh khênh. Cổ lộ hầu, vai hẹp, lưng lòng khòng, luôn nhìn xuống như sợ giẫm phải bóng của mình. Ba người con của ông đều nằm lại trong chiến tranh. Anh con thứ là Toàn. Hy sinh gần như trước mắt Kiên. ông Huynh không biết chuyện đó. Vợ ông bị liệt khi báo tử đến người con cuối cùng. Vợ chồng ông sống nghèo khổ, câm nín, trống rỗng suốt bao năm trời. ông Huynh vẫn ngày ngày đi lái tàu điện…“(NBCT)
Đôi lúc, ta thấy dường Bảo Ninh đã cởi chiếc áo lính ra, đứng từ góc cạnh khác để  nhìn vào cuộc chiến. Đã giúp ông nhìn khách quan hơn. Và từ cái nhìn khách quan ấy, đã cho ông hiểu rõ hơn về bản chất của cuộc chiến. Từ đó, lòng nhân đạo là mạch nối giữa ông và người đọc thông qua trang viết:
“…Tên tuổi anh ta tôi không biết, chỉ biết anh ta là lính của liên đoàn 6 biệt động quân; Người Nam hay Bắc hay Trung cũng chả biết vì anh ta chỉ rên, rên thì dân xứ nào cũng một giọng như nhau…”
Câu nói, cũng như lời ước đầy tính nhân đạo, khi kết thúc chiến tranh: “Giá mà vào giờ phút giải phóng, tất cả những người lính đều được phục sinh”. Nhưng đó là những người lính nào? Vâng! Chính là những người lính chung của cả hai miền chiến tuyến. Đấy là tư tưởng Bảo Ninh trong toàn bộ tác phẩm này.
Thân phận của người lính sau chiến tranh, nằm trong cái bế tắc chung của toàn xã hội. Với những chính sách diệt tư sản tư nhân, cấm chợ ngăn sông, giá-lương-tiền, lạm phát phi nước đại, có những gia đình miền núi phía Bắc phải chết đói. Sự dối trá làm băng hoại đạo đức xã hội. Nhưng từ trên xuống dưới, các bác vẫn say sưa trong niềm vui chiến thắng. Phấn khởi lạc quan đến mức, bác Tố Hữu Phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng(Phó thủ tướng) sau khi đi Pháp về, ví nếu trái đất là một chiếc nón, thì chúng ta đang ở trên đỉnh chóp cái nón đó. Làm cho người lành như nhà thơ Trần Đăng Khoa, cũng phải sửng sốt trước mặt bác Phó chủ tịch: Không biết chiếc nó đó đang úp hay ngửa?
Trong cái sấp, ngửa đó, Bảo Ninh nhận đã ra cái bi đát từ chính mình, đồng đội mình và trong gia đình, xã hội. Sau cuộc chiến súng đạn, là chiến tranh (trong) lòng người, còn ghê sợ hơn thế. Làm cho ông hoàn toàn thất vọng và kinh tởm những khuôn mặt giả dối ấy:
 ” – Hừ! Hòa bình! Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình, để chừa lại có chút xương. Mà những người được phân công nằm lại góc rừng le là những người đáng sống nhất- Nền hòa bình này… Hừ tôi thấy hình như các mặt nạ người ta đeo trong những năm trước rơi hết. Mặt thật bày ra gớm chết…“(NBCT)
Một gia đình người hàng xóm có ba con liệt sỹ đói nghèo với cuộc sống vật vờ. Một đứa em gái người bạn chết trận là gái làm tiền. Người yêu đã là gái bao, Kiên cũng như bao đồng đội khác, lạc lõng, không thể hòa nhập vào cuộc sống, sau chiến tranh. Cuộc sống của họ chìm mình vào những cơn say và nôn ọe. Hình ảnh người lính hùng dũng lái xe chiến trường năm xưa, nay chỉ còn lái trong những lúc ám ảnh của linh hồn.
“…Xóc mạnh ổ gà, ổ trâu, chồm nẩy lên thì còn chịu được – Vượng kể – chứ mà những đoạn nhún nhảy, êm êm, mềm mềm, nhũn nhũn là tớ ọe liền, nôn chóng mặt đến buông cả tay lái. Đêm về không ngủ được. Ngủ lại gào lên như bị cắt tiết. Thế là tửu. Mà tửu vào thì còn lái chó gì được nữa…“(NBCT)
Có lẽ đồng đội của Bảo Ninh đều là những người ra đi từ miền quê, những nông dân chân lấm tay bùn, nên hầu như ông sử dụng từ ngữ địa phương của nông thôn miền Bắc trong cuốn sách, như một lời chi ân, tưởng nhớ chăng?
Vâng! Đúng như vậy, từ đầu đến cuối cuốn sách này, hình như chúng ta không hề tìm thấy động từ xem- nhìn- nó được thay bằng động từ nom, nông dân đồng bằng sông Hồng hay sử dụng“…Kiên nom thấy trong quầy …vẻ mặt hắn lúc này, nom phải đặt biệt nhà quê…“ Hay cụm từ dưới đây là một minh chứng rõ ràng “Xin để mắt quan tâm…“
Tôi nghĩ, việc sử dụng tiếng địa phương đúng với văn cảnh, hoàn cảnh, sẽ làm cho câu chuyện, lời văn sẽ sinh động và thật hơn. Đoạn trích dưới đây, với những lời nói, từ ngữ địa phương, miền quê ấy, làm tăng thêm cái trớ trêu của người ăn xin với người (có thể là) đồng đội cũ, sau chiến tranh:
“…Kiên bước qua đường. Dưới cột đèn trước cửa một hiệu ăn anh thấy một người ăn mày
đang đứng co ro, tay giấu trong nách, rạp xuống ngẩng lên vái người qua đường và cất giọng ống bơ rỉ kêu van một cách tự tin:
“Xin hãy để mắt quan tâm đến tình cảnh người khác một phút đồng chí ơi! Xin hãy nhớ tới những miền đang lụt lội, đồng chí”.
- Ăn mày mà lập trường gang thép gớm chưa? Mẹ kiếp, cái dân An Nam nhà mình chỉ giỏi chống ngoại xâm chứ đến ăn xin cũng chẳng biết đường – một ông bệ vệ diện bành tô quắp một ả áo lông đi từ trong quán ra, lên giọng – ê, hạ lập trường xuống, thì cho.
Ả áo lông cười rú lên như bị cù. Kể cũng buồn cười thật. Một lúc nào đó mình sẽ dùng đến cảnh này, tự nhiên Kiên nghĩ thế. Có thể sẽ viết rằng thằng cha bệ vệ kia và người ăn xin là bạn cũ của nhau. Thậm chí là đồng đội. Mà cũng có thể… Nhưng, vớ vẩn chưa kìa…“.
Bảo Ninh đã viết khá nhiều trang về sinh hoạt văn chương của những năm sau chiến tranh. Thời văn học nghệ thuật phuc vụ, minh họa cho đường lối lãnh đạo của đảng. Thời kỳ văn chương không có cái tôi ở trong đó.
Đọc những trang viết này của Bảo Ninh, làm tôi sực nhớ đến bác Đặng Quốc Bảo, họ hàng bên mẹ tôi, nguyên bí thư trung ương đoàn. Cuối những năm 1979 đầu năm 1980, bác thường hay đến các trường đại học để nói chuyện về văn hóa nghệ thuật, lý tưởng thanh niên …Thời kỳ đó, trước cửa trường đại học, hay nơi sinh viên thường tụ tập, luôn có đội cờ đỏ cầm chai, cầm kéo kiểm tra. Ống quần, không đút cái vỏ chai vào được, gọi là ống típ, ống bó cắt xẻ ngược lên tới đầu gối. Quần ống rộng ống loe cắt, áo bó áo chẽn cắt. Người ta cắt xé tất cả những gì cho là văn hóa của Mỹ Ngụy, để lại. Cứ nhè lúc bác Bảo diễn về văn hóa trên bục, thì ở vòng ngoài bọn cờ đỏ đè mấy thằng sinh viên ra thiến. Quần áo người ngợm thằng nào cũng te tua như vừa đánh trận về.
Một lần tôi đến nhà bác ở phố Phan Đình Phùng, con đường đẹp và yên tĩnh bậc nhất của Hà Nội. Phải nói bên ngoại tôi, toàn những ông làm to, nhưng với con cháu, thân mật tình cảm nhất là bác Đặng Quốc Bảo. Sau khi thăm hỏi mẹ, bà tôi, là đến là chương trình lý tưởng thanh niên. Rồi ví dụ, những ngày đầu cách mạng, bác phải cà răng căng tai để làm công việc dân vận ở Tây Nguyên. Và nhiều công việc đại loại như nhà văn, người lính địa phương quân Trung Trung Đỉnh đã viết…Bài học của bác vừa kết thúc, không hiểu sao lúc đó, tôi buột miệng hỏi: Lúc bác đang nói về văn hóa với thanh niên, bọn cờ đỏ đè sinh viên ra cắt quần áo, một việc làm giết văn hóa như vậy, bác có biết không?  Bác cũng bất ngờ câu hỏi của tôi. Có lẽ một câu hỏi bác không bao giờ nghĩ đến. Cũng may, lúc đó ca sỹ Mạnh Hà đến, nhận nhiệm vụ sang Liên Xô, dự Festivan hay gì đó. Tôi đứng dậy, xin phép bác về. Mạnh Hà bắt tay tôi, nhìn áo chẽn quần loe của anh, tôi định nói, ông anh ăn mặc thế này, vào cổng trường đại học, thế quái nào cũng bị chúng nó làm thịt.
Cũng đến 34 năm tôi không gặp lại bác Đặng Quốc Bảo. Nhưng gần đây được đọc những bài viết của bác, tôi thấy tư tưởng suy nghĩ hoàn toàn khác, không giống những bài giảng của bác trước đây. Tôi rất thích đọc những bài viết này, kể cả bài về chính trị, dù tôi không thích chính trị và những bài viết về nó. Khi nào về Việt Nam, nhất định tôi sẽ đến thăm bác, và xin được nghe bác giảng bài mới này. Dẫu biết, bác đã già lắm rồi và tôi cũng không còn trẻ nữa.
Trong bối cảnh xã hội đang cùng nhau lên đồng, cùng nhau cắt tiết văn hóa, Bảo Ninh viết trần trụi, trắng hếu ra như vậy, cha con người lính tên Kiên phải xé tranh, đốt bản thảo là phải. Có người cho rằng, hành động đốt bản thảo của Kiên là tiêu cực. Nhưng tôi lại nghĩ khác. Sự đốt bản thảo của của Kiên là hành động phản kháng tích cực, một cách tự nhiên tâm lý con người. Bởi nhà văn cũng là con người bình thường, không nên thần thánh hóa và ấn cho anh ta cái lý tưởng phơi phới không có thật  nào đó. Nếu nhà văn Kiên không đốt bản thảo, bọn cờ đỏ gác cổng kia, không trước thì sau chúng nó cũng thiến mất thôi. Thôi thì, xé hết quần loe áo bó, hoa hoét màu mè, cứ mặc quần nâu áo gụ, đến trường cho nó lành.
Đằng sau sự đốt tranh, đốt bản thảo ấy, có hiệu quả báo động, lên án, cảnh tỉnh quá đi ấy chứ, không thì làm sao Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phải kêu lên, hãy cởi trói cho các văn nghệ sỹ. Không có sự đốt tranh, đốt bản thảo của cha con người lính Kiên, thì sẽ không có cuốn sách Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh ra lò, đến tay chúng ta và bạn bè năm châu như hôm nay. Vâng! Sự tàn khốc của kiểm duyệt trong giai đoạn đó là thế. Vậy thì phải cảm ơn sự đốt lửa của nhà văn Kiên lắm lắm…Tôi lại nghĩ, ngày còn sống, đọc đến đoạn văn này, Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm…chẳng vỗ đùi đen đét khen Bảo Ninh.
Dường như Bảo Ninh dành những từ, những câu văn hay và đẹp nhất viết về Phương. Là người có tính cách mạnh mẽ, có khát vọng tự do, nên lúc nào Phương cũng cảm thấy bị tù túng  bức bối, muốn phá tan đi tất cả. Là người “vì sợ mà chẳng sợ gì nữa“, nên Phương luôn hành động được coi dị thường trong giai đoạn đó. Bước vào đời Phương đã cú sốc nặng, con đường bước vào gái bao là tất yếu, trong khung cảnh tối tăm như vậy. Cũng như Chí Phèo, ai cho Phương làm người lương thiện, khi xung quanh toàn là Bá Kiến.
Khi đọc đến đoạn, Phương chủ động hơi chồm lên, vòng tay ôm lấy cổ Kiên kéo xuống, tôi lại nghĩ đến hành động, dám phá tan những ràng buộc của lễ giáo phong kiến của Thúy Kiều. Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình đến với Kim Trọng, khi ông bà Vương Viên Ngoại vắng nhà. Đó là hình ảnh đẹp. Một hình ảnh cho chúng ta thấy một điều, quyền lực, chế độ xã hội, tiền bạc qua năm tháng rồi sẽ biến đổi, chỉ còn lại khát vọng tình yêu là vĩnh cửu:
“Nhưng Phương không mệt à? – Kiên thấy giọng mình như lạc đi – Không lạnh à?
- Có – Phương đáp và hơi nhổm người lên, vòng tay ôm lấy cổ Kiên kéo xuống. Thoạt tiên, một cảm giác nhức nhối làm Kiên gai hết người, run lên, gân cốt chùng xuống nhưng rồi sự chấp nhận biến thành sức cuốn mãnh liệt lập tức ghì riết anh, nuốt chặt anh vào thân hình mềm mại, thơm mát và nóng hổi, chân thành và mù quáng, đầy cuồng bách của Phương. Đó là một cái gì không thể ngờ được, như thể tiếng sét, và hơn cả đau đớn, như thể đột ngột cất lên một tiếng kêu tự đáy lòng. Và không phải là cái hôn đầu tiên nhưng là nỗi da diết đầu tiên được khám phá ra bên bờ hồ… Song, tất cả diễn ra chỉ trong khoảnh khắc. Đột nhiên một ý chí sầm tối và cứng rắn đánh thức nhói lên nói rằng anh không được, anh không thể, rằng… ráng hết sức bình sinh Kiên tự giằng mình ra, thả buông vòng tay đang dằn xiết Phương, ngồi chồm dậy. Sự buông hẫng ấy làm Phương lặng đi. Mọi cảm giác choáng loạn tản bay nhường chỗ cho sợ hãi và xấu hổ. Cô lăn tránh sang bên, gài nhanh hàng cúc áo sơ mi che kín ngực rồi nhè nhẹ ngồi lên. Sóng hồ dập dềnh, ì oạp vỗ vào bờ cỏ. Xa xa, từ chỗ pháo đội cao xạ chất nổi trên đám bè neo sâu trong hồ một hồi kẻng khuya chậm rãi dõng lên. Vị thần bảo hộ cứu tinh cho sự trong trắng và trong sạch của đôi bạn, chẳng là ai khác ngoài chính họ.
Gió thở dài. Im lặng lan xa. Hai người như thể vừa từ đáy nước nổi bồng lên để rồi mỗi người bị cuốn dạt ra mỗi ngả. Kiên đưa tay ra, run run nắm lấy cổ tay Phương như muốn níu giữ cô.
- Kiên sợ phải không? – Phương dịch lại gần – Sợ phải không? Phương cũng sợ. . . Nhưng vì sợ mà chẳng sợ gì nữa. . .“(NBCT)
Tôi rất thích đọc những đoạn văn tả cảnh, tả tình của Bảo Ninh vì rất khoáng đạt, từ ngữ đơn giản nhưng vẫn toát lên sự sang trọng. Nó lung linh sương khói mờ ảo như một bài thơ tình vậy. Đây là một trong những trang văn hay và đẹp nhất mà tôi đã được đọc:
“…Đêm hè mát rượi, mà trán và lưng anh ướt mồ hôi. Tràn ngập nỗi sợ hãi và lòng thương mến, anh xiết chặt eo Phương. Anh cảm thấy yếu đuối, mờ mịt. Tình yêu. Sự tôn thờ quy phục. Anh không sợ. Nhưng anh không thể. Anh không dám.
Phương khẽ nằm xuống kéo Kiên ngả xuống theo. Cỏ mát rượi, hơi sương, nhưng nền đất vẫn còn đọng hơi ấm buổi chiều. Kiên gối đầu lên tay Phương, áp chặt vào mình cô. Như một cậu bé. Đúng là Phương không điên mà cô như là một người chị, một người mẹ trẻ, cô lùa tay vào tóc anh vuốt nhè nhẹ và thì thầm kể chuyện về người cha của anh. Mái tóc hồi đó Phương để rất dài, xỏa rộng phủ lên mình Kiên, ấm và thơm lạ lùng. Hé mắt nhìn qua làn tóc, Kiên nhận thấy trăng hạ tuần đã lộ. Vừng trăng mỏng và cong hiện ra rất nhanh ở rìa một khối mây đùn cao trên đỉnh hồ. Rồi lập tức bị che khuất. Anh nhìn thấy ánh lửa đập dờn như lửa ma trơi trên sân thượng. Cha và Phương. Những bức tranh màu lá úa và màu vàng như rơm. Những linh hồn được phóng thích ra khỏi mặt vải. Giọng Phương đều đều, ngái ngủ hệt như giọng một người mẹ kể chuyện cổ tích trong màn. Kiên không nhận thấy là mình đã bật mở hết cúc áo của Phương cho tới khi hai bầu vú trắng phau bật ra. Vành trăng lướt thoáng một dải sáng lên mặt hồ và bãi cỏ. Phương nằm yên, không trở mình, có lẽ đã ngủ say. Kiên không nhận thấy là miệng mình đã ngậm chặt lấy đầu vú của Phương còn thành thạo hơn một chú bé con. Anh mút nhè nhẹ thoạt tiên là như thế, như thuở mới ra đời người ta bú. Nhưng rồi kế đó là một nỗi khát khao kỳ quái thôi thúc, anh dùng cả sức mạnh của hai bàn tay, cho đến lúc cảm nhận trong miệng cái vị ươn ướt ngòn ngọt thoáng cả nỗi đau đớn mơ hồ như thể vị ngọt từ giấc mơ của Phương thấm truyền sang…“(NBCT)
Góp vào sự thành công Nỗi Buồn Chiến Tranh có nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quan trọng nhất làm nên nó là SỰ THẬT TÀN NHẪN CỦA CHIẾN TRANH. Sự thật đó đã chạm được vào nỗi đau tận cùng của con người. Nó như một bức thông điệp sáng giá đưa văn học Việt Nam đến gần với văn học chung thế giới. Và Nỗi Buồn Chiến Tranh- Bảo Ninh góp phần không nhỏ cùng với những Chuyện Ba Người của Tô Hoài, Mảnh Đất lắm Người Nhiều Ma- Nguyễn Khắc Trường, Ly Thân- Trần Mạnh Hảo…. chứng minh sức sống của văn học hiện thực không xã hội chủ nghĩa.
Tất nhiên, trong một tác phẩm văn học nào cũng vậy, ngoài những yếu tố thành công, dứt khoát còn có mặt hạn chế, Nỗi Buồn Chiến Tranh cũng không ngoại lệ. Trong phạm vi bài viết này, tôi chưa thể đề cập đến.
Có một điều thú vị, khi đọc truyện ngắn của Bảo Ninh, tôi nghiệm ra, trong văn chương không có đề tài nào lớn hoặc nhỏ. Lớn, nhỏ do tài năng người viết. Có những cái rất nhỏ, tưởng chừng viết dăm ba câu là đủ, nhưng ông đã mở ra những điều rất lớn, rất đáng suy nghĩ ở trong đó. Câu chữ trong truyện ngắn của Bảo Ninh thô ráp, nhưng sau nó là cái tinh tế mượt mà. Giống như cô gái hiện đại thời nay sống trong ngôi nhà cổ cũ kỹ vậy.
Nhất định tôi sẽ trở lại với đề tài truyện ngắn của ông.
Leipzig ngày 6-7-2013
Đỗ Trường

Phần nhận xét hiển thị trên trang

màu lập phương

mưa ả đào
nắng đánh trống chầu lỡ nhịp
gió vật vã say nàng tiên nâu
chân bước âm dương không về đích
ý nghĩ hình tròn
bị nung chảy
nứt vỏ ngày buồn rơi chầm chậm
ký ức hình thang, mắt mù tiệm cận
 
lưng chừng núi, con suối ngừng chảy
lưng chừng đêm, tiệc ly cạn đáy
lưng chừng cánh đồng, người nông dân khóc
 
gió thổi định hướng
buồm vẫn ngược chiều đi
bão vẫn quay ngược chiều quay trái đất
mọi vật vận hành quanh trục đồng tâm
lực ly tâm bắn ra khỏi quỹ đạo
sự cảm hứng tàn bạo
hoa hồng, hoa hồng
màu lập phương
 
Tu Sam
Phần nhận xét hiển thị trên trang