Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2013

VĂN HÓA DUA



Mình đã định về. Ông anh ở huyện Con Dê lại bảo đi cùng với ông ấy một lúc. Ông ấy cần gặp một vài người, đi một mình “nó tơ hơ thế nào ấy”. Kinh nghiệm rồi, đã định không đi, nhưng khi ấy nể quá nên đành phải theo. Phàm là người dính chuyện bút nghiên, kinh doanh, ngoại giao.. khi độ cồn trong người quá mức đều không nên gặp ai.
Gặp người khi ấy chuyện nọ xọ chuyện kia, rất dễ sinh họa.
Nhớ năm du hành phương nam, ngày ba bữa bia rượu, chẳng mấy lúc tỉnh táo. Gọi là “đi thực tế để lấy tư liệu sáng tác” nhưng chả tích lũy được gì ngoài cái kinh nghiệm: - Khi say nói càng ít càng tốt. Mà tốt nhất đừng nói gì!
Buổi tối ở Quang Trị, nửa đêm phởn lên, ông “chánh đoàn” rủ mình với hai ông nữa đi chơi phố. Đến quãng đường vắng vẻ chỗ cây cầu gãy hồi chiến tranh lão ý dừng lại, có vẻ bồi hồi xúc động lắm. Ngắm ngía một thôi một hồi, mình cứ tưởng lão tìm nhà quen. Không hiếm ông cán binh hồi đó có “cơ sở” cũ trong này. Ông anh họ mình cũng có một nơi như thế. Ông ấy thường vẫn nhờ mình làm chân liên lạc cho sự bí mật của mình. Vợ ông từ ngoài bắc vào lúc nào cũng cháo ám kè kè, có muốn tắc tế cho người ta cũng khó. Không lẽ để người ta ôm con đỏ bơ vơ trong lúc đời sống khó khăn?
 Cám cái cảnh ấy mình đành nhận lời, thực lòng mình không đồng tình với lối ăn ở hai mang như thế này của ông ấy. Sau này bà vợ phát hiện ra, giận mình lắm, thỉnh thoảng còn trách lóc mình mãi đến tận bây giờ. Mãi đến ngày bà ấy dứt quyết buộc chồng về quê, nếu không làm dữ đến tổ chức đảng, chuyện mới chấm dứt. Nghĩ cũng tội cho ông anh mình. Vì cái lon thiếu tá hồi bấy giờ đành dứt áo ra đi, ngậm cay, nuốt đắng trong lòng rời bỏ nơi có giọt máu của mình để lại...Năm ngoái ông ấy trước lúc nhắm mắt cứ nhìn mình chằm chằm như nhắn nhủ điều gì, nước mắt ứa hai bên khóe mắt. Tắt thở đã lâu rồi, người nhà mãi mới vuốt được mắt cho ông ấy.
Thấy thái độ chùng trình của chánh đoàn lúc ấy làm mình chợt nhớ câu chuyện đó.

Nhưng thực ra không phải. Chẳng qua lão làm bộ làm tịch, “diễn” với bọn mình lúc đó về tinh thần quyết chiến, quyết thắng của lão thời bấy giờ.
Lão chỉ chỗ nọ, chỗ kia lão bắn chết được mấy thằng. Chỗ lão suýt bị bọn chúng bắn chết ra sao. Mình chỉ biết nghe, không tham gia câu chuyện. Chợt lão phó kéo áo mình lui lại nói nhỏ vào tai: “Lại phét đấy. Đừng có nghe. Ngày xưa lão ở 559 mãi bên Lào, đâu có ở đây ngày nào mà bắn với chả giết?” Mình ngạc nhiên, không biết lão ấy nói vậy để làm gì?
Cả bọn đi thêm một quãng, có một quán rượu ngoài trời, lão lúc ấy đang cao hứng bảo cả bọn dừng lại: “ Làm chầu nữa rồi về ngủ cho ngon giấc”. Lão phó có vẻ không bằng lòng, hai bên từ lâu chỉ bằng mặt không bằng lòng nhau. Phó ta cố nhịn chờ vài tháng nữa lão về mẹ đĩ mình lên thay. Ngồi uống rượu mà đầu óc cứ để đâu đâu. Rượu ngoại hẳn hoi mà chả thú vị gì.
Người ta ăn khi đói, rượu cũng vậy phải là lúc thèm nó mới thấy rượu là rượu ngon. Đủ chén, hay quá chén rồi còn biết gì hay dở, ngon hay không ngon?
Lão lên giọng thày đời dạy người ta nên như này, nên như khác. Rồi khoe cuốn TT mới ra đang được dựng thành phim như thế nào? 
Mình quen lão cũng đã lâu, trình văn vẻ, học vấn của lão đâu có lạ?
 Chẳng qua người ta cơ cấu cả trong việc in ấn, phát hành, thổi thơm vì cương vị chứ đâu phải tài năng sáng tạo gì? Đang lúc giá trị văn chương nghệ thuật đang bị méo mó về các lối pờ rồ, lăng xê, bốc thơm bốc thối nhau nhặng xị thế này, giá trị thực rất khó xác định, chủ yếu là văn hóa a dua, a tòng theo “bề trên”. Chẳng nhớ lúc đó mình nói câu gì, đại thể ý như thế, lão vằn mắt rủa xả mình không còn câu nào để nói. Nhà văn gì mà nói chua, nói bẩn không thể tưởng tượng được. May mà lúc ấy chút“sĩ” giang hồ của mình đã nguội được vài năm, không thì  lão lỗ mũi ăn trầu là cái chắc!
Sau đó lão giận, thù mình đến mấy năm trời, làm mình có lúc điêu đứng. Rồi những câu chuyện nhăng nhít lão nhặt ở đâu về gán cho mình. Miệng kẻ sang như lão nói đương nhiên có nhiều người tin. Mãi sau này về vườn rồi lão mới thôi, trở lại bình thương với mình, mọi người mới ngã ngũ ra là lão nói xằng. Nhưng cái tội cao ngạo, dạy đời của lão vẫn chưa bỏ hẳn, nên bàn bè dần dần thưa thớt chẳng còn ai.
Bây giờ lại cái ông ở huyện Con Dê này rủ vào nhà lão chơi, mình đâm lưỡng lự..

Ông HK thì bảo: “Tao chịu chú mày, như nước mới lửa mà vẫn chơi được với nhau, Anh thì chào thua. Các chú có công việc đến thì cứ đến. Tay khôn lỏi đó, anh không vào đâu”.
Mình không nài thêm.
Chơi hay không chơi với ai là quyền của mỗi người. Mấy bác có tuổi thường hay cực đoan việc này, không thích ai muốn người khác không thích theo. Mình khác. Mình có “Độc lập, tự do” riêng của mình, nhưng vẫn từ tốn bảo bác ấy:
- Bạn văn nghệ đâu có nhiều? Ai cũng chê trách cả thì bỏ tất hay sao? Buồn lắm bác ạ. Với lại em cũng học cái anh “tàng hình”, đã là ti vi phải có nhiều kênh, ai em cũng chơi, miễn là biết được tốt xấu để học hỏi, hay nên tránh, không đơn điệu lắm. Kính bác về nghỉ trước!”
Mình vào. Đã thấy ông “NÓI HAY” ở đấy. Ông này mình không nhớ tên, Ổi hay Na gì đấy. Cứ tạm gọi là ông Ổi cho dễ nhớ. Ông Ổi bắt tay mình rất nhanh, cái bắt tay xã giao chẳng lấy gì làm mặn mà lại có phần quan cách. Nhà văn nhớn giới thiệu người đến trước kẻ đến sau để đôi bên làm quen. Ông Ổi cười cười:
- Thì ra đây là tác giả, tôi vẫn thường đọc của anh. Độc đáo và táo bạo, viết có gan lắm!
Mình chưa hiểu đấy là ông ấy khen hay ông ấy chê? Nên chưa biết nên nói như thế nào. Nhờ có rượu, men nói hộ:
- Nhà em viết VKG thôi, cảm ơn bác quá khen!
Nhà văn chủ nhà trừng mắt nhìn mình:
- Cậu biết đây là ai không? Nói vớ nói vẩn, trên người ta đánh giá..
Rồi lão làm luôn một chặp:
- Tay này ruột để ngoài da. Tính nó lôm côm thế nên đời nó khổ.Chả giữ được cái gì trong miệng, thông thốc như ống nứa..Đừng để ý, đừng để ý..
Mình bực. Mình nào có nói gì sai đâu? Lão í cứ làm như mình“phạm húy”
 không bằng! Mà có sai thì mình chịu chứ bận đếch gì đến lão phải cải chính hộ?
Hình như, về hưu rồi lão vẫn còn sợ ông NÓI HAY thì phải? Một cái sợ mơ hồ ám ảnh, len sâu vào tiềm thức..
 Nhiều ông về hưu rồi chả ý tứ gì nữa, nói vung tý mẹt. Nói cả những câu, những điều tại vị không dám nói. Như là một cách cải chính lại, sám hối lại quá trình lầm lạc đã qua, hoặc cố tỏ ra như thế.
Nói thật, mấy ông này mình không phục lắm. Có gan, nói mẹ lúc đương chức đương quyền. Sau này nói vuốt đuôi thì ăn thua gì? Chẳng qua cách của mấy anh hèn học oai, chơi sang, việc qua rồi mới ra cái điều..!
Nhưng kiểu giữ ý mãi như lão này mình không dám khinh, nhưng cũng không trọng. Đó là “Văn hóa a dua”, lựa theo người trên mà làm. May mà chỉ viết lách, văn nghệ văn gừng chả ảnh hưởng đến ai. Hoặc có ảnh hưởng cũng không có hậu quả cụ thể. Nó mơ hồ như sương khói thế gian chả làm ai chết ngạt, hay nhức đầu sổ mũi. Chỉ làm người ta không thích hoặc không dễ chịu. Lão là con người máy móc khó thay đổi. Kết tinh ngàn đời của “nền văn minh lúa nước”, ít có táo bạo, tìm tòi, thay đổi, chỉ theo thói quen gọi là “tập quán”!
Lão vốn tinh quái, hình như đoán được mình đang nghĩ gì, nói luôn:
- Tớ phải mất ba ngày mới đọc xong bản thảo của cậu. Phải viết lại, viết thế hỏng chưa phải là TT.
- Bác nói cụ thể hơn xem nào:
- Này nhá, TT phải có chương có hồi. Có bố cục chặt chẽ, có tuyến nhân vật chính diện, phản diện, có “câu chuyện”.. Đọc cậu tớ chẳng biết cậu nói cái gì?
- Nghĩa là em không theo cách truyền thống của bác? Thế bác đọc “Linh Sơn” của CHK, đọc “Xe lên xe xuống” của NBP chưa?
Lão cáu:
- Tao đọc đéo gì mấy thứ đấy. Đó là văn chương phản động, không phải HTXHCN. Học theo để toi à?
Tôi thực sự ngạc nhiên. Người khác “thẩm văn” thế nào tôi không nói. Nhà văn nhớn như lão mà nghĩ vậy, chả trách văn đàn luôn luôn có tranh cãi, luôn luôn có “vấn đề”
Khốn nỗi bản thảo của mình đang nằm trong tay lão. NXB không hiểu kiểu gì lại nhờ lão đọc của mình. Lão mà phán vài câu văng mảnh là số phận của TP đi đời. Có khí mình còn bị làm khó cũng nên.
Mình đành bảo:
- Hội luôn khuyến khích anh em tìm tòi sáng tạo. Em cũng cố tìm một cách thể hiện mới. Cấu trúc của TT có chút thay đổi không theo lối thông thường. Kể cả trình tự cũng không theo thời gian. Nếu người đọc không chú ý, hoặc đọc một cách hời hợt đúng là không nắm được cốt lõi của câu chuyện. Nó vẫn có bố cục kín đáo, “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt, dẫn dắt mờ và sâu bên trong.. Bây giờ bác nói em mới vỡ ra nhiều điều. Có thể em làm chưa đạt, nhưng bác đọc lại lần nữa xem..
Lão cũng đang “xỉn” chả kém gì mình, nên chả ý tứ gì:
- Có cái chó gì mà phải đọc đi đọc lại? Tớ bảo hỏng là hỏng, còn nghe hay không là quyền của cậu!
Người ta bảo “Văn mình vợ người”. Ai chả cho rằng văn của mình hay? Nhưng trường hợp này hoàn toàn không phải. Mình không bảo thủ ý kiến cho mình viết như thế đã là được. Văn chương muôn đời là cái chỉ đến gần chứ chưa ai qua được bao giờ. Nhưng cách lão chê phũ phàng như tát nước vào trước mặt người khác, ai mà chịu nổi?
Không phải mình sĩ với ông HÁT HAY tên là ổi, hay với ông nhà thơ xứ CON DÊ mà mình phản ứng đâu.
Đau là ở chỗ, dù sao tác phẩm cũng là đứa con tinh thần của mình bị vùi dập, coi như không có, không đáng gì!
Chẳng may bạn có đứa con sứt môi, chả lẽ bạn không yêu thương nó sao? Bạn không phát khùng lên khi có người khác chế nhạo, chê cười nó trước mặt bạn và đông đảo mọi người?
Có thể lúc khác lão ấy góp ý riêng với mình, nói sao cũng được. Cần lắm được người ta chê, để biết chỗ khuyết của mình để sửa chữa, bổ sung vào.
Toàn khen nhau, khen lấy được chưa chắc đã hay. Điều này mình biết.
Nhưng lão chê lần này là có dụng ý khác. Va với lão vài lần, biết cách thù dai của lão nên mình hiểu. Người này dù có say, cũng luôn có chủ ý. Lão đã rèn được cái bản lĩnh ấy từ bao năm tháng rồi. Không phải ngẫu nhiên lão ấy thành công. Lại là thành công quá mức thực ra đáng được ghi nhận..
Biết khen biết chê theo ý người khác là lối văn hóa a dua, a tòng. Nhưng làm được thế đâu phải dễ?
Nhất là dạng vẫn ương ương dở dở như mình!
**
Có những cuốn sách nằm lăn lóc ở thư viện hàng chục năm trời chả ai để ý. Người ta không quan tâm vì nó chẳng có gì hay để đọc. Văn chương không có tư tưởng, không có tính triết lí nhân sinh, không có chính kiến riêng của tác giả đó là thứ văn chương vô hồn, người ta không để mắt đến là chuyện đương nhiên. Chữ nghĩa lại thực thà ngô nghê kiểu bà già nhà quê kể chuyện, vừa ngô nghê vừa lủng củng, ai đọc làm gì?
Nhưng bỗng một ngày mát giời nào đó, một ông “quan trọng”, hay một bà “chức năng” nào đấy, vì một lẽ nào đấy nhấc nó lên, khen vài câu..Thế là cả đám ào vào khen thêm. Thi nhau phát hiện cái hay tiềm năng vốn không có gì, bỗng chốc sáng lòe! Thật là kì lạ, nực cười hết chỗ nói.
Rồi.. một thằng cha căng chú kiết vô danh tiểu tốt, đang làm ăn mờ ám ở đâu đấy đang muốn dùng chữ nghĩa, văn chương và chút danh hờ của nó làm cái thuẫn đỡ tên. Nó bỏ ra dăm ba chục triệu thuê người chuyển tác phẩm giống giống người khác ấy thành kịch bản, dựng phim. Thế là có tác phẩm lừng lững, “trên cả tuyệt vời”!
Cả nước mới ớ ra là lâu nay mình vô tình. Văn tài xuất hiện từ lâu rồi mà mình không biết!
Rồi thi nhau thổi hơi. Hết đăng đàn trên báo, lại đến các em làm luận văn tốt nghiệp đại học. Có chị còn làm luận văn tiến xí tiến xiếc! Hiệu ứng đô mi nô đổ theo ầm ầm..
Đúng là thời kinh tế thị trường có định hướng, có khác. Công nghệ quảng cáo, pờ rồ phát huy tác dụng của nó lên đến đỉnh điểm luôn.
Lúc đầu các bác  ấy còn có vẻ e thẹn. nói năng rất khiêm tốn thận trọng. (Thực lòng các bác ấy cũng biết mình “chả đi đến đâu”, e thẹn là phải ). Xong lâu rồi thành quen, cũng tưởng mình hay thật. Bắt đầu ngoa ngôn, loạn ngữ chả coi ai ra gì. Thấy thiên hạ toàn thứ cỏ giả, chỉ mình mới thực tài. Thật thương và buồn lắm thay.
Mình biết có những cuốn sách hay chịu thiệt thòi vì không có cái may mắn ấy. Hoặc có cái không may lỡ một vị quan trọng nào đấy đọc qua loa, chưa biết hay dở đã chê. Số phận của các tác giả tác phẩm này thật là thiệt thòi.
Ừ thì cũng phải. Thời nào chả quên, chả sót, vẫn có người áo gấm đi đêm. Vẫn có kẻ ăn may, có anh thô thiển vừa đi vừa xì hơi mà vẫn ngất ngú, ngồi chỗ cao, được thiên hạ khen sái quai hàm!
Cái gọi là công bằng, công tâm, đúng đắn tuyệt đối chả bao giờ có. Chưa nói đến tiêu cực, nhũng nhiễu do thiếu công khai minh bạch cộng với lòng đố kị hẹp hòi hay thù vặt!
Có bàn đến rằm tây đen cũng chẳng hết chuyện.
Đang lúc nước sôi lửa bỏng này bàn mãi chuyện cực chẳng đã không nên bàn, e không phải đạo làm người. Mấy cái tàu “nước lạ” đang rình mò ngoài khơi. Có cái đã liều mạng vào cắt cáp tàu của mình, tin kinh tế tiếp tục suy trào vào năm tới.. Toàn những tin quan trọng chết người cả.
Chuyện văn, chuyện đời bàn vào lúc này như câu chuyện thừa, chưa đúng lúc. Thế nên chuyện hay dở của mấy bác nhà nọ nhà kia tốt nhất là miễn bàn.
Ai hay thì ấm thân mình. Chẳng qua xả bớt một chút cho đỡ troét mà thôi! Đầu óc cần tỉnh táo quan tâm nhiều thứ khác thiết thực, gay go hơn vào lúc này..
Có điều gì không phải các bác bỏ qua và góp ý cho  nhá!
========


Làm sao dừng lại bây giờ?


Làm sao dừng lại bây giờ?

Category: , Tag:
12/21/2012 08:55 pm
                                             
  Truyện ngắn của Hồng Giang

Chiều chiều, dọc theo con đường bờ sông tráng nhựa người ta thường bắt gặp một ông lão gầy tong teo, dúm dó, mặt nhăn nhúm đến tội nghiệp.
Ông là một trong những người cao tuổi mê hát chèo ở cái thị trấn này. Người lạ chắc không thể đoán được ông bao nhiêu tuổi với cái hình hài bề ngoài đầy mâu thuẫn của ông.
Người quen thì biết ông đã qua tuổi tám mươi, nếu như gia cảnh an lạc thì đầu năm vừa rồi ông đã khao tuổi thượng thọ rồi.
Con người ta sống được đến cái tuổi ấy là có phúc lớn lắm rồi, cớ sao ông lại luôn than trời, kêu mình bất hạnh?
Ở tuổi ấy, mái tóc ông còn đen, lông mày còn rậm, răng hầu như còn gần đủ, nên mới nói hình dạng bề ngoài nhiều mâu thuẫn.
Ngoài mấy thứ ấy ra, “Các cơ quan đoàn thể” của ông rệu rạo lắm rồi. Chân tay gầy khẳng như các lóng mía, chả thấy da thịt đâu. Đôi mắt và cái mũi lại xuống cấp nghiêm trọng, luôn rỉ thứ nước đùng đục rất hôi. Bộ quần áo trên người dễ đến hàng năm không giặt. Nhìn cái dáng hình tiều tuỵ khốn khổ ấy, thấy ông xách cái mũ bảo hiểm đi đường, có lẽ nhiều người nghĩ ông già này là người cô đơn cô quả, không nơi nương tựa, đang lần hồi kiếm bữa qua ngày?
Gặp xe nào ông cũng vẫy, nhưng chẳng ai dám cho đi, sợ mình làm phúc phải tội. Lỡ ông ngã xuống, các con ông không để cho mình được yên. Chúng đâu có phải người thường? Có chức có quyền cả đấy, toàn là bậc tai mắt trong xã hội, đại diện cho “ngũ liên” : Công, nông, binh, thương, trí ..
Ngay như bản thân ông cũng không phải người vô thừa nhận, ông là ông giáo về hưu, mỗi tháng còn có mấy triệu bạc. Hai ông bà song toàn, sống cả đến ngày nay.
Vườn rộng hàng mấy mẫu, toàn đất thượng đẳng điền. Con cái mỗi đứa một dinh cơ vào loại đàng hoàng nhất nhì trong vùng, con trai con gái hầu hết có ngành nghề hưởng lương nhà nước.
Tính tổng cộng ông có tám người con: Ba trai, năm gái. Như vậy kể về hào con, hào của, ông đều được cả, đâu có kém ai trên đời?
Vậy bảo khổ, không hiểu ông khổ cái nỗi gì? Ông còn bảo ông không bằng anh cu Ất, chữa xe đạp, nhà nó nghèo, nhà ở không bằng cái bếp nhà ông là cớ làm sao?
Ai lạ gì anh cu Ất, quanh năm đào ao, bổ củi thuê? Từ ngày làng lên thị trấn, đất có giá, bán được vài thổ, có tiền, tập tọng xoay ra kinh doanh. Nhưng kinh doanh phải có duyên, có số. Không phải ai đi buôn cũng giàu. Anh buôn thức ăn gia súc, thứ hàng mà khối người nhờ buôn bán nó mà giàu lên, nhưng anh thì lụn bại. Sổ sách luộm thuộm, nhớ nhớ quên quên, cho người ta thiếu chịu, có anh chây bửa không chịu trả .. Tính các nguyên nhân thất thoát thì nhiều lắm. Cộng thêm phần, cả đời đói rách, bỗng chốc có tiền, vợ con đòi ăn đòi tiêu, anh cũng chiều cho thoả thích. Thế là lửa cháy hai đầu, buôn đã lỗ, lại tiêu hoang. Tiền bán đất như là nước lã ra sông, tay trắng hoàn tay trắng.

Nhưng anh Ất không buồn, đời anh khổ mãi quen rồi, lại khổ nữa có làm sao đâu?
Chị Dậu ( Chị Dậu có thật hẳn hoi, chứ không phải chị Dậu nhân vật trong
“Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đâu nhé ), lại thân con gà, ra sức bới. Mỗi sáng một thúng bún rối, làm hàng bún riêu kiếm được gạo cho cả nhà. Được cái nết yêu chồng, quý con nên trong nhà lúc nào cũng vui vẻ, yên ắng như ngày mồng một tết. Ngày mà người ta chỉ ở nhà, chỉ nói chuyện vui, không to tiếng cãi cọ vì phải kiêng. Chị chiều anh hết mực, nghe đâu có rượu ngô ngon là mua bằng được về cho chồng.
Chả phải lo nghĩ gì, anh cu Ất làm thêm nghề sửa chữa xe đạp để thiên hạ nhìn vào thấy “có nghành, có nghề”, không phải loại đàn ông ăn nhờ vợ.
Thực ra nghề sửa xe đạp bây giờ đâu còn kiếm được như thời trước, dăm cái nan hoa cũng có tiền ngay?
Xe máy Tàu tràn sang rẻ như bèo, xe đạp mới còn chẳng ai ham, cũ quá người ta bán cho hàng lông gà, sắt vụn, ít khi sửa chữa. Lâu lâu mới kiếm được miếng vá, vài ba ngàn đồng.
Thôi thì ít còn hơn không!
Vả lại, anh là người theo chủ nghĩa lạc quan, coi cái khó, cái khổ như bạn hiền, nên vẫn vui đời!
Chả biết nghe ai xui dục, anh cu Ất dạo này lại sính văn chương chữ nghĩa, thơ ca, hò vè đủ cả.
Lâu lâu có anh nhà thơ ở tỉnh về sửa sang cho vài bài, rồi đem về tỉnh in, anh Ất trở thành “nhân sĩ” của thị trấn này.
Anh còn giỏi chơi đàn Măng đô lin nhất thị trấn. Hễ thị trấn có công việc gì là anh đều có tiết mục “văn nghệ chào mừng”!
Ông giáo Thuần bảo đời anh tươi hơn ông là phải. được cả phần xác lẫn phần hồn .
 Không phải như ông ngoài tươi, trong héo, nom bề ngoài thì đỏ mà thực ra chưa chín khi nào, vẫn chát, vẫn chua trong dạ.
Ông với anh cu Ất là chỗ thân tình từ ngày ông hay lui tới chỗ quán anh sửa xe. đã lấy rẻ thì chớ mà lại hết sức ân cần. Nay kể cả lúc không sửa xe nữa vì không đủ sức đi xe đạp, ông vẫn năng qua lại.
Từ ngày anh Ất chuyển sang làm thơ, thì với anh, ông thân lại càng thân. Ông vốn là cộng tác viên nhiều năm nay của một số tờ báo. Từ hồi có phong trào viết về “người tốt việc tốt” ông đã nổi danh rồi.
Sống ở cơ sở, bao nhiêu điều mắt thấy, tai nghe, ông chỉ moniphe một chút là thành những chuyện cảm động, lay chuyển lòng người. Thêm một số bài thơ trên sáu dưới tám, hay thất ngôn tứ tuyệt, ông đã là cây bút có tiếng trong vùng.
Hai người thân nhau là lẽ đương nhiên, như người ta bảo “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Bây giờ nom tiều tuỵ thế, đi đâu trong cái túi ông xách theo cũng có tập bản thảo, một nửa văn xuôi, một nửa thơ ông sáng tác nhiều năm đã qua.

Nhưng chuyện ông bảo ông không bằng anh Ất là cớ làm sao?

Những người sống lâu năm ở cái làng này, khi nó chưa là thị trấn như bây giờ  đều biết ông giáo Thuần đã có một thời “vàng son” rất đáng tự hào. Lúc xung quanh còn nhiều người thiếu đói, mặc dù đông con ông vẫn hết sức đàng hoàng. Ông còn cho rằng ý kiến bảo rằng:“Đông con, tất nghèo khó” là ý kiến không mấy chính xác. Đó là ý kiến bao biện của anh đầu óc làm ăn kém sáng suốt, không biết đường dạy bảo con cái. Thực ra nếu biết sai khiến con cái cũng giúp được khối việc.
Sáu bảy tuổi chúng có thể chăn trâu, thả bò. Mười hai tuổi trở lên đã có thể cùng phụ cha mẹ làm vườn. Đứa bé thì trông nhà, quét sân, chăn con lợn con gà. Lớn việc lớn, bé việc bé, không có đứa nào ăn không, ngồi rồi cả! Ông giáo không chỉ nói mà đã làm như thế . Con ông thuộc loại ngoan ngoãn chịu thương chịu khó, chắt chịu, nhặt nhặnh, khéo léo nhất trong làng.
Ông là hiệu trưởng trường cấp hai trường làng, lương nhà giáo bấy giờ chưa cao như bây giờ nhưng ông luôn tìm ra cách thu nhập phụ.
Không phải bằng cách xén vào quỹ “Những khoản chi khác” của nhà trường như một số ông hiệu trưởng thời nay, cứ khai vống lên các khoản chi mua sắm trang thiết bị của trường. Cũng không phải o ép, bẻ hành, bẻ tỏi các thày cô trong trường để ép người ta cung phụng, lo lót mình. Thời đó có muốn làm những việc đó cũng khó. Ngân sách chi cho các trường eo hẹp, có muốn bớt xén cũng chẳng lấy đâu ra mà bớt xén. Còn các thày các cô, ông phải chiều họ như chiều vong, nói nặng với họ là không xong, rc rối là họ bỏ nghề ngay lập tức vì đồng lương “bèo” quá không đủ tiền mua gạo. Hầu hết các thầy các cô đều phải phát nương trồng ngô, đỗ cải thiện thêm. Thày cô nào nhà có vốn thì mở hàng tạp hoá ngoài chợ, buôn từ cuốn vở đến chai xì dầu, cân cá mắm ..
Ông không làm như họ. Vườn nhà ông rộng, đất lại tốt, ngoài giờ ở trường về, thời giờ còn lại ông dành cả vào đấy.
Cả một vùng chả có mấy người biết trồng rau, chỉ biết sẵn mấy thứ rau rừng, cứ rau bao, rau đay, rau dớn quanh năm. Phần vì bận công việc nương rẫy đồng áng, phần không có kinh nghiệm nên không mấy người làm. Có trồng cũng chỉ đủ nhà ăn, có đâu bán chợ?
Ông giáo là người nhận ra điều ấy, biết đây là lỗ hổng trong cách làm kinh tế của miền đồng rừng. Ông về quê học kinh nghiệm, lấy hạt giống rau về trồng. Quê ông là vùng rau chuyên canh, công cuộc “đưa rau xanh lên núi” nhờ thế đâu có khó khăn gì?
Mùa nào thức đấy. Mùa hè có rau ngót, rau muống, rau rền. Mùa đông có cà chua bắp cải, cà bát. .
Đất ven sông nên việc tưới tắm cũng rất thuận tiện. Rau vườn nhà ông cứ lên ngời ngời . Chỉ qua mấy vụ, hai vợ chồng đã có chút vốn kha khá. Cả nhà hầu như suốt ngày ngoài ruộng rau.
Mấy cô con gái thay nhau sáng chiều ngồi chợ, vì chúng còn đang học không thể ngồi cả ngày.
Ông không dừng lại ở đây.
Làm kinh tế là phải biết lấy ngắn nuôi dài, biết mở rộng sản xuất. Cả khu vườn rộng hàng mẫu, trừ đám trồng rau, trồng màu, ông rào lại, khoanh vùng nuôi gà. Môi trường còn tốt, chưa có dịch bệnh, đàn gà sinh sôi nảy nở, không thể đếm được có bao nhiêu con? Lại thêm phân gà bồi bổ cho đất vốn đã màu mỡ rồi, không tốn tiền mua đạm hay NPK.
Tiến thêm bước nữa, ông mua mấy con bò giống mang về. Đàn bò cũng
“ Không ngừng phát triển” theo tinh thần đi lên của CNXH. Nhà nuôi không xuể vì đàn bò quá đông, không cai quản hết, ông cho làng nuôi chia. Bò cái đẻ cứ hai con ông lấy một ..
Cứ như thế.. Tiền của như nước chảy vào chỗ chũng, ông giàu không nhất thì nhì trong huyện.
Tiếng tăm đồn ra tới tỉnh ngoài, quan hệ vì thế mà ngày càng mở rộng. Quan lớn quan bé cả tỉnh đều thành chỗ thân tình.
Nhưng ông không quá coi trọng cái đó. Danh tiếng là cái đáng quý, đáng trân trọng, nhưng chưa thiết thực, nếu nó chỉ là danh hão.
Quan trọng là biết để cho tiền sinh sôi nảy nở. Ngân hàng chưa có cơ chế cho dân vay tiền rộng rãi thì ông cho vay, thả lãi kiếm lời. Lãi mẹ đẻ lãi con, cộng ra, cộng vào cứ việc sinh sôi nảy nở.
Có tiền, ông có điều kiện cho con ăn học, đứa nào cũng có ngành có nghề. Cái nghề giáo xưa nay mạt nhất, đang được nhà nước quan tâm. Rồi đây sẽ là nghề có tiền mà đỡ vất vả, phơi nắng, phơi sương. Mấy cô con gái ông cho đi học sư phạm bằng hết. Nghề này về lâu về dài có tương lai và nhất là phù hợp với  đàn bà con gái. Qua kinh nghiệm bản thân, ông biết chắc là như thế.
Anh con cả học nghề xong, ông lo cho nó đi lao động nước ngoài. Thời ấy, những người khác muốn được vậy có mơ cũng không được! Với ông chỉ trong tầm tay.
Chưa có gia đình nào nền nếp, trong ấm ngoài êm như gia đình ông. Vợ con ông còn đòi hỏi gì nữa mà không quý trọng, yêu kính ông?

Nhưng sự đời không ai biết trước được ngày mai nó sẽ như thế nào?

****
Đã năm sáu giờ chiều, gần tối rồi mà vẫn nắng như đổ lửa. Ông giáo cố gắng lết đôi chân rã rời của mình cho mau về đến nhà. Hôm nay anh cu Ất về tỉnh nhận giải thưởng về bài dự thi viết về nghành giáo dục nên không có nhà. Nếu không ông đã ghé vào đấy, ngồi chơi một lúc cho lại sức. Nhân thể đọc cho anh ta nghe bài thơ ông vừa viết đêm qua. Ông viết bài thơ chủ yếu để giải tỏa tâm trạng của mình với những nỗi đau nhân tình thế thái, nỗi hận với vợ với con, hận với đời, nếu không viết ra, ông sẽ không chịu được.
Ông cũng chẳng vội gì, về nhà lúc này mất điện, nóng như thiêu như đốt, lại không có người trò chuyện thì vội về để làm gì? Hơn nữa mấy hôm nay ông thấy trong người đuối qúa, có muốn vội cũng không được. Nhưng anh Ất không có nhà, ông không muốn vào nhà khác. Ở thị trấn này, xứ u tì quốc tăm tối nhất nước nam từ ngày gia cảnh ông có chuyện lục đục, người ta đã nhìn ông với con mắt khác.
Xưa thì thấy ông từ xa, đã có người cười cười, nói nói, chạy ra đón tay dắt vào, vì khi ấy ông còn có của, cho vay, cho mượn, giúp dập người này người khác. Nay thì họ bơ ông như củ khoai hà, nhìn nhận ông như kẻ sa đoạ, rượu chè.
Bạc, đúng là “Bạc như dân, bất nhân như lính”. Ý nghĩ chua chát thoáng qua trong đầu, làm miệng ông đắng ngắt.
Nhưng cũng chẳng trách họ được, ông biết thằng con trai ông không muốn ông lui tới bất cứ nhà ai ở thị trấn này, chỉ vì ông hay mang chuyện của nó ra than vãn với họ. Mà người ta không muốn mất lòng nó, nó đang là người giữ gìn an ninh trật tự, có một tý chức, tý quyền ở đây. Chả ai muốn nó mất lòng, để ý soi mói đến mình nếu chứa chấp ông hay ông năng lai vãng. Cái thằng con ông sinh ra, nuôi nấng, gây dựng để cho nó có ngày hôm nay. Trong ba đứa con trai, ông vất vả với nó nhiều nhất, cũng là đứa làm ông đau lòng nhất.
Hồi vợ nó bỏ nó, nó chán đời, mấy lần tự vẫn mà không chết. Lần nặng nhất uống thuốc sâu, phải đi bệnh viện rửa ruột, nếu ông không có tiền, làm gì nó còn sống đến ngày hôm nay?
Người ta bảo uống phải thứ thuốc ma quỷ đó, thần kinh bị ảnh hưởng, chẳng đâu muốn nhận nó vào cơ quan nhà nước.
 Vậy mà ông chạy chọt, lo liệu mãi nó cũng có chút địa vị. Từ ngày có quy định mới, nó vĩnh viễn hưởng lương nhà nước cho đến già thì về hưu. Hơn cả bí thư, chủ tịch do dân bầu, nếu không trúng chắc cũng về vườn.
 Lộc nước như thế, đáng nhẽ nó phải biết ai là người lo cho nó chứ?
Cứ như nó ai người ta vời? Nó tưởng ti toe ba miếng võ “Cứt gà” mà được trọng dụng hay sao? “Nhầm to rồi con ơi! Mày là đứa bất nhân, bất hiếu, rồi đời mày sẽ gặp quả báo thôi con ạ!”
Thằng anh nó, con vợ cầm quyền trong gia đình, đối với ông cũng không hơn gì. Chính nó cũng nhiều lần nói thẳng vào mặt ông :“Ông già rồi mà không đứng đắn, nát rượu, gái gú làm con cái xấu hổ. Bao giờ ông chết tôi chôn, chứ tôi không muốn nhìn thấy ông nữa” .
Ông hận lắm, nó đâu phải người ngoài, không biết chuyện mà kết luận nói với ông những điều như thế ?
Ngày ông với mẹ nó ra toà, nó đâu biết nỗi khổ trong lòng ông? Người ta ở tuổi xưa nay hiếm mà còn phải ra toà ly dị thì có nỗi đau, nỗi nhục nhã nào hơn? Cực chẳng đã ông mới phải làm như vậy. Đâu phải chuyện trai trên dưới dưới gì để chúng mang tai mang tiếng?
Chung quy cũng bởi bà ấy quá đáng quá. Một chuyện hiểu nhầm, có bé xé ra to, lôi kéo cả đàn con lên án ông, coi thường ông, uất ức quá ông mới phải hành xử như vậy.
Ông về dưới Phủ Đoan với bà sau này, tuy không làm đám cưới, nhưng cũng có đăng ký hẳn hoi, cũng có dăm mâm biến báo xóm làng. Đâu phải là chuyện gì mờ ám?
 Chẳng qua lấy chỗ dựa lúc tuổi già, đâu còn “nụ cà hoa mướp” gì mà chúng nghĩ ông là người trăng hoa?
Nhà cửa, đất đai, tài sản ông để lại hết cho cho bà ấy và các con, có mang một tý một mảy nào của nhà đi đâu? Chúng nó chẳng thương thì ông tìm đường lo lấy thân ông vậy?
Nhưng nào chúng để cho ông yên? Chúng vu cho người ta là thấy ông có lương hưu, có của dấu  ngầm, tìm cách quyến rũ lừa đảo ông, để đến nỗi uất quá người ta chịu không nổi. Bà ấy phải vừa khóc vừa gạt nước mắt nói với ông rằng: “ Thôi ông về trên ấy, thỉnh thoảng tôi lên thăm, chứ ông ở đây các anh các chị ấy làm tôi xấu hổ quá, chết mất ông ạ!”
Rồi chúng bày trò đón rước ông về, bỏ ông ở nhà thằng con bất nhân ông vừa nhắc đến.
Khốn khổ, người già đêm thường ít ngủ.
Ông dậy đi ngoài, nó bảo ông phá rối không cho vợ chồng con cái nó ngủ. Bữa ăn không đứa nào mở mồm ra chào mời ông lấy một câu. Ông bỏ tiền mua rượu bố con cùng uống, nó bảo nó “không thèm, cứ uống cho lắm vào rồi nói bừa nói bãi”
Mỗi tháng ông đưa nó cả hai triệu bạc mà nó không bằng lòng. Nó bảo ông già rồi giữ tiền làm gì? Lại mang cho gái hẳn?
Ối con ơi là con! Ăn tiêu như nhà mày mỗi tháng chi cho bố cũng chỉ đến năm trăm là cùng, bố đưa cho cả hai triệu, mày vẫn chưa cho là đủ ư? Hay là có bao nhiêu phải đưa cả cho mày? Tao còn phải phòng khi ốm đau, lúc khách xa, bạn gần, đi đình đi đám nữa chứ? Chả nhẽ đến lúc đó lại ngửa tay ra xin vợ chồng mày?
Vẫn biết “Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày” Nhưng đối xử với bố như hiện nay thì con ác, con tệ lắm con ạ!
Răng bố là răng giả, vợ chồng con cái nhà mày cứ mua toàn xương củ chối về gặm với nhau, bố có ăn được miếng nào đâu? Ông bảo cháu bớt một tý nấu cho ông bát cháo, nó vằn mắt :“ Nhà này không có thói nước lọ cơm niêu, ăn ma ăn mọi, có gì cả nhà cùng ăn, đừng có vẽ chuyện”
Vậy thì ông ở với vợ chồng nhà nó sao được?  Ông đành dọn đi chỗ khác. May mà gần nhà ông có cái nhà gianh cũ của vợ chồng một anh nghiện siđa mới chết, còn bỏ không, ông nói khó với bố mẹ anh ta cho ở nhờ.
Vợ anh này từ khi chồng chết, chán đời đi đâu biệt tích.. Tình cảnh như thế, người ta  chẳng khó dễ với ông làm gì.
Ông ở một mình, đúng là nước lọ cơm niêu, hôm nào khoẻ khoẻ thì tự nấu lấy ăn, hôm nào mệt thì đi ăn quán.
Được cái may, quán xá bây giờ mở rộng, muốn cơm có cơm, muốn cháo có cháo, không như ngày nào, có tiền trong túi mà chịu nhịn đói.
Ông không dám mua nhiều, làng xóm bây giờ loạn lắm, đề đóm, cờ bạc nên xểnh cái gì ra là mất cái đấy. Chổi cùn, rế rách con nghiện nó cũng không tha! Thôi thì cứ mua ít một, hết lại mua.
Vì thế ngày nào cũng phải lếch thếch đi chợ.
Cầu trời cho mạnh chân khoẻ tay, chả biết sống chết lúc nào,  đến đâu thì đến!
Ông ngồi dưới tán của cây keo ven đường mà nghĩ lẩn thẩn bấy nhiêu chuyện..  Hai hàng nước mắt tự dưng tràn qua mặt, xuống miệng mặn chát. Chưa bao giờ ông cám cảnh như lúc này.
Người đời thường ao ước sống lâu trăm tuổi. Nhưng sống lâu như thế mà cảnh ngộ như thế này thì sống để làm gì?
Chợt có chiếc xe con đỗ ngay trước mặt. Ông chưa hiểu chuyện gì, đã thấy một người trên xe to béo, phốp pháp, cổ đeo cà vạt đỏ, nhảy xuống. Người đó đi lại phía ông ..
Khách lạ nhìn ông rất lâu, nét mặt anh ta đầy vẻ lưỡng lự, như không tin ở mắt mình. Anh ta đã phải mất mấy tiếng đồng hồ chạy xe vòng vòng hỏi thăm và được người ta chỉ đến chỗ này, chẳng lẽ..?
Ông giáo Thuần cũng ngạc nhiên không kém. Lâu lắm rồi có ai nhìn ông như thế đâu? Với nhiều người, cả đến vợ con ông, đã lâu ông không còn tồn tại trên đời.
Nhưng mà biết đâu được? Sống đến tuổi này, ông biết đời người thật lắm chuyện bất ngờ.
Biết đâu một học trò nào đó của ông ngày trước, bây giờ thành đạt, nhớ đến thầy? Một anh “Va xi li” nào đó thăm thày giáo cũ, như bài văn ông từng giảng cho học trò ngày nào? Hay một nhà từ thiện muốn ra tay giúp đỡ người có hoàn cảnh cơ nhỡ một cách trực tiếp, không muốn qua trung gian vì sợ tiền của mình bỏ ra không đến tay người cần cứu trợ?
 Thoáng qua trong đầu ông bao nhiêu giả thiết. Ông định hỏi, chưa kịp mở miệng, người kia lên tiếng:
- Cháu hỏi không phải, cụ có phải là cụ Thuần không ạ?
- Vâng, chính tôi đây, nhưng ông là ai mà lại hỏi thăm tôi?
Người đó vội ôm chầm lấy ông:
- Chú Thuần ơi ! Cháu là Nhân con bố Thìn đây. Sao chú ra nông nỗi này? Cháu về quê, người ta kể chú thím ở trên này đàng hoàng lắm cơ mà ?
Ông giáo đẩy người khách lạ ra một chút để nhìn rõ mặt, chịu, ông chưa đến nỗi lú lẫn nhưng không thể nhận ra anh ta là ai? Nhưng tên người anh ta vừa nhắc đến ông làm sao quên được?
 Dù đã năm mươi năm trôi qua, ông vẫn nhớ. Người ấy là anh trai ông, dù có lâu hơn thế cũng không thể quên .. Nhưng nghe nói ông ấy chết từ lâu rồi cơ mà? Cái vóc dáng người trước mặt ông, cả giọng nói như có cái gì giống nhau lắm, thôi đúng rồi ..
Hai chú cháu ôm nhau khóc, đứng lặng hồi lâu. Một già một trẻ, người sang trọng, kẻ bần hàn.
Người cháu nhắc lại câu vừa ban nãy đã hỏi:
- Sao chú lại ra thế này hả chú?
Ông giáo cười, nụ cười đẫm nước mắt :
- Chuyện dài lắm cháu ạ! nói một lúc không hết được. Chỉ tại chú vô phúc, vợ hỏng, con hư mới ra nông nỗi .. Thôi bây giờ vào nhà chú cái đã, chú kể cho con nghe sau, ai lại đứng giữa đường, giữa chợ thế này ?
Người cháu đỡ ông lên xe, ông không quên mang theo cái túi xách lem luốc, anh ta đỡ lấy, giở ra xem: miếng đậu phụ trắng nhợt đã vỡ nát, trộn lẫn gói bún đã nguội ngắt từ bao giờ. Anh bảo ông bỏ lại, ông chần chừ tiếc rẻ, một lúc sau mới chịu vất xuống rãnh nước đang chảy ri rỉ ven đường.
Trước khi nổ máy cho xe chạy anh ta bảo :
-  Chú không thể về nhà với bộ dạng thế này được! Bây giờ chú đi với cháu, cháu thuê khách sạn ngoài thành phố, đêm nay chú cháu ta nghỉ ngoài đó. Cháu có mua quần áo biếu chú đây, muốn gì chú cũng phải tắm rửa, thay đồ, mai mới về. Chú là nhà giáo kia mà, ai lại ăn mặc như thế này?
Ông giáo bảo :
- Không cần như thế đâu, “quen sợ dạ, lạ mới sợ áo quần”, ở đây người ta lạ gì chú? Chú cứ mặc như thế này là được rồi. Gặp được cháu là chú mừng rồi!
Anh ta nhất định không nghe, cho xe chạy thẳng ra thành phố. Đi ngang qua nhà mình, ông chỉ cho người cháu thấy ngôi nhà xây của mình, ngôi nhà hai tầng sơn màu vàng nhạt, núp dưới tán cây nom đâu có đến nỗi nào?
 Người cháu có vẻ không hiểu những gì đã xảy ra cho người ruột thịt của mình, anh ta chỉ chau mày, không hỏi, cho xe chạy nhanh hơn .

***

Nhà ông phó chủ tịch, kiêm trưởng ban công an thị trấn hôm nay có việc lớn. Xe lớn xe nhỏ đậu thành bãi dài, người ta phải cử cả đội thanh niên bảo vệ tay đeo băng đỏ để hướng dẫn xe vào nơi canh giữ. Người ra vào tấp nập, loa đài inh ỏi. Các bà các cô mặc áo dài, môi son, tay cầm xắc nhỏ.
Các ông mặc com lê, cà vạt, giày da mới.
Đám thanh niên càng nhiều màu vẻ, đương nhiên cả những cô cậu ăn mặc kỳ quặc, tóc xanh, tóc đỏ mà thường ngày ông phó chủ tịch không ưa.
 Nhưng hôm nay những việc ấy chẳng ai để tâm đến nữa, đang trong ngày vui mà!
Hai dãy nhà bạt lớn dựng trên bãi đất hôm qua còn trồng ngô, đã lên râu vừa được phá bỏ, san đầm phẳng phiu .
Một chiếc Phông lớn được căng ở rạp chính có hàng chữ mạ vàng “ Lễ mừng thượng thọ cụ Đăng Minh Thuần tám mươi tuổi”. Phía bên trái có bức ảnh ông giáo Thuần chụp bán thân ở tuổi năm mươi, Phô tô sốp kiểu mới, chỉ hao hao giống người thật ngoài đời. Nhưng chuyện ấy không sao, “ Nghệ thuật luôn là thứ làm cho con người ta đẹp thêm lên, có khi còn hơn hẳn đời thường”! Khi treo bức ảnh này lên, mọi người tranh cãi bảo là nó không giống mấy, để treo bức khác, anh cu Ất đã bảo thế và giữ nguyên chủ ý của mình.
Ai cũng cho thế là phải, mà cụ Thuần khi ở tuổi năm mươi cũng đẹp lắm chứ, ai chả có lúc già? Tranh cãi làm gì cho mất công?
Tám người con của cụ, không thiếu một người. Anh cả đang là giám đốc công ty tư nhân có một cái tên rất lạ “ Khai thác tiềm năng và phát triển văn hoá Dân tộc”. Công ty anh đang sưu tầm các loại nhạc cụ ở địa phương về làm mẫu, rồi chế tác mới để kinh doanh.
Thời Du lịch được nâng lên thành ngành công nghiệp không khói, những thứ ấy đang được ưa chuộng. Các Video ghi hình hát then, hát lượn, cả ca trù, hát hầu đồng cũng là mặt hàng bán rất chạy. Vì thế mà công ty ngày càng phát triển.
 Hai người em trai đứng kề bên. Ai cũng nét mặt hớn hở, cười nói ân cần bắt tay, đón tiếp khách. Cô gái út là chủ trang trại nuôi đà điểu thay mặt chị em gái đứng ngoài cửa tươi cười hướng dẫn khách vào bàn ngồi. Các cô còn lại người nào việc nấy, vui như ngày hội!
Mà đúng là ngày hội thật, không phải ngày hội làm gì có nhiều hoa tươi, nhiều tiếng cười, nhiều đèn sáng rực rỡ như ngày hôm nay?
Anh Ất được ban tổ chức cử làm MC. Buổi lễ chưa chính thức khai mạc, trong khi chờ đợi anh đang hát một bài nghe rất chi mủi lòng:
“ Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn .. mà chảy ra ..
Là người.. sống ở trên đời .. biết nhớ công cha mẹ,.. mới là người hiền nhân ..
Vì đâu anh nên người tài ba?
Hãy nhớ công sinh thành
Vì Người mà có ta ..a..a”
Tiếp đến là tiết mục chào mừng của các cháu trường mầm non mà cô con gái thứ hai của cụ giáo làm hiệu trưởng. Các cháu mặc đồng phục nom xinh xắn, bó hoa ôm trước ngực, vẻ mặt trong sáng hồn nhiên, ca vang bài “ Cháu yêu bà”. Bài hát tuy không phù hợp lắm vì đây là mừng thọ cụ ông, nhưng mà không sao. Tấm lòng con trẻ, ai lại bắt bẻ bao giờ?
Ông chủ tịch thị trấn hôm nay đích thân thay mặt chính quyền cơ sở, sau lời giới thiệu của anh cu Ất, ông thong thả, bước dõng dạc lên bục có cài sẵn Micơrô, ông dõng dạc tuyên bố khai mạc buổi lễ, hàng tràng vỗ tay vang dội. Người ta để ý thấy cụ giáo Thuần rơm rớm nước mắt khi nghe ông nêu quá trình công tác, cống hiến của cụ trong sự nghiệp “trồng người” của địa phương.
Một cụ đại diện cho người cao tuổi lên nêu lại quá trình giống hệt vị chủ tịch thị trấn một lần nữa, chỉ thêm sau đó cụ đọc tặng một bài thơ có nhan đề là:
“ Niềm vui lúc tuổi già” .
 Bài thơ tương đối dài, đại ý là khi người ta về già, người ta nên để cho đầu óc thanh thản, chả tội gì mà lo, chả tội gì mà buồn, quên tuổi tác, quên oán thù và quên bệnh tật, ủng hộ con cháu nó làm công việc xã hội, đừng phàn nàn gì nữa.
Cuộc đời nó thế, con cháu mình nó thế.. Nghĩ ngợi, thắc mắc cũng chẳng giải quyết được việc gì!
Một vị ở trên tỉnh về, vị này đang có cương vị quan trọng nên nói năng kiệm lời.
Vị cám ơn thày giáo cũ, tri ơn công dạy dỗ của thày nên mình mới có ngày hôm nay!
Lại hàng tràng vỗ tay vang dội!
Đáng lẽ như các buổi lễ khao thọ khác, cụ giáo cứ việc ngồi yên một chỗ để mặc cho người ta tán thưởng, chúc tụng mình.
Nhưng trong hoàn cảnh riêng của mình, cụ cảm thấy không nói, không được. Tay cầm mic của cụ run run, cụ cố trấn tĩnh như ngày nào đứng trên bục giảng:
-Kính thưa các cụ, các ông các bà, các vị quan khách đại diện cho các ban ngành của tỉnh, của huyện, của thị trấn .. Tôi vô cùng xúc động trước những tình cảm tốt đẹp của tất thảy quý vị và bà con lối xóm đã dành cho tôi .. Quá trình tham gia công tác xã hội của tôi cũng đạt được một số thành tích. Ban nãy ông chủ tịch thị trấn và cụ hội trưởng hội người cao tuổi đã nói rồi. Tôi xin không nhắc lại nữa. Tôi muốn nói như một chuyện tâm tình với tất cả mọi người có mặt hôm nay ở đây. Có thể sắp tới đây, tôi sẽ phải xa mọi người mãi mãi.. Tôi có người cháu con anh trai tôi, đang định cư ở nước ngoài. Cháu muốn đưa tôi về trông nom từ đường họ Đặng của tôi ở dưới quê, vì hiện nay không có ai có thể làm tốt việc này hơn tôi được..
Vài người ở dưới xì xào :
- À thì ra thế, chả trách có lễ mừng thọ này.. Chắc là ông cháu bỏ tiền ra khao thọ cho chú đây chứ đám con ông ấy nếu muốn thì đã làm từ lâu rồi.
- Suỵt, bé cái mồm chứ, đèn nhà ai rạng nhà ấy, nói thế đến tai ..
- Thì có ai nói sai gì đâu?
- Thôi để yên xem ông cụ còn nói gì nữa kìa.
Giọng cụ giáo nghe chừng đã mệt :
- Làm người ai cũng có lúc thế này, lúc thế khác. Thường thì người ta “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa đạy lại”. Tôi thì lại muốn sòng phẳng, thành thật với chính bản thân mình. Tôi cũng không tốt hẳn như mọi người nghĩ đâu. Cũng có lúc cho vay nặng lãi, rồi thương người vô lối như trường hợp cái bà ở dưới phủ Đoan. Hôm nay bà ấy tôi cũng mời, không hiểu vì sao bà ấy không đến. Con người ta đến già thì dở, tôi cũng không phải thần thánh gì, mà bảo sáng suốt mãi được, nhưng lại hay xen kẽ vào công việc xã hội của con cái, nên các con tôi nó ghét. Nhân tiện đây bố xin lỗi các con, tính bố các con không lạ, quan liêu cửa quyền, lợi dụng chức vụ để cầu lợi cho mình là bố không ưa. Có sai là sai ở cái khác chứ không mắc những cái này ..
Đến đây ông phó chủ tịch không chịu được nữa, ông vội chạy lên bục đỡ cụ giáo xuống: “ Bố mệt rồi, bố xuống nghỉ đi, mọi người đang vui”. Cụ giáo nhìn anh con trai thứ cười nhạt: “ Con không muốn thì bố không nói nữa, bố cũng đành thôi vậy”!
Không biết do bị dừng lời đột ngột, hay do cao tuổi không đủ sức ngồi thêm nữa, cụ nhờ người đưa vào trong nghỉ. Hai môi mím chặt, mắt ươn ướt, cụ Thuần không nói thêm lời nào ..
Ngoài rạp, giọng Ất vẫn nói lanh lảnh :
- Vì tuổi cao, sức yếu đáng lẽ cụ giáo còn tâm sự với chúng ta đôi ba câu chuyện trước lúc cụ về xuôi, nhưng do sức khoẻ cụ đã dừng lời .. Một lần nữa thay mặt ban tổ chức cám ơn những lời chí tình của cụ, kính chúc cụ sống lâu trăm tuổi! Sau đây ban tổ chức xin giới thiệu ..
Ông con cả ghé tai bảo ông phó chủ tịch:
- Chú vào xem bảo bọn nó có gì cho mang lên đi, không lôi thôi nữa!
Một lát sau cỗ được bưng lên. Chưa có đám nào cỗ làm to, sang, trọng như đám này!
Người cháu “Việt Kiều yêu nước” nhìn thấy tất cả, nhưng anh ta ngồi im, không nói gì ..
Tiếng hò dô “trăm phần trăm” vang trời.. Bỗng đâu cô gái út hốt hoảng chạy ra ghé tai anh Việt kiều yêu nước:“ Hỏng rồi, anh vào trong nhà xem thế nào?”. Vị Việt kiều phốp pháp vội chạy vào. Ông giáo mắt trợn ngược, trừng trừng toàn lòng trắng. Khóe mép ông xùi bọt trắng như nước miếng cua buổi trưa nắng. Vị thất sắc bảo đứa em:
- Cô ra cho dừng ngay lại, ông nhà mình nguy rồi!
Cô gái út vội chạy ra. Ngoài rạp ồn ào như chợ vỡ. Đang rượu tưng bừng, ngất ngây con gà tây..
Làm sao dừng lại được bây giờ?
                                 





Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

Thơ của bạn:


BỌN TỞM

Ngẫm người xưa mà nể.
Thúc Tề và Bá Di
Nhường nhau mãi ngôi báu
Không được, cùng bỏ đi.

Sau, hai người lên núi,
Chỉ sống bằng lá cây,
Ghét nhà Chu, thà chết,
Không ăn thóc nước này.

Có người nói, cây lá
Thuộc đất Chu Vũ vương.
Hai ông không ăn nữa,
Rồi chết, nghĩ mà thương.

Giờ ta, cứ nói thẳng,
Chẳng ai nhường ngôi nhau.
Đồng chí, anh em đấy,
Mà oánh nhau vỡ đầu.

Còn cái bọn bên dưới,
Bọn quan tham, mị dân,
Chúng không chỉ ăn thóc,
Còn ăn đất, ăn phân.

Còn có một bọn nữa,
Bọn có chữ giả mù,
Giả câm điếc, lặng lẽ
Ăn bổng lộc nhà Chu.

Bọn này khôn lắm đấy,
Khôn hơn chúng ta nhiều.
Khi thời cuộc thay đổi,
Theo gió, chúng đổi chiều.

Ai muốn, tôi xin cá,
Mà những một ăn mười,
Rằng lúc ấy bọn chúng,
Hăng hái hơn mọi người,

Chúng chửi bọn đã chết,
Mà chửi to, rất to,
Và rằng chúng dân chủ,
Suốt đời vì tự do.

Giờ thì chúng, xin lỗi,
Bận “chuyên môn” hàng ngày.
Thế đấy, các bác ạ.
Rất tởm là bọn này.

Hà Nội, 12. 7. 2012
  • Lữ Thứ Còn có một bọn nữa,
    Bọn có chữ giả mù,
    Giả câm điếc, lặng lẽ
    Ăn bổng lộc nhà Chu



Sống Cuộc Đời đáng sống...
Ý nghĩa không nằm trong ký ức của bạn, 
nhưng trong ký ức của những người yêu thương bạn.
Ý nghĩa nằm trong “Ai nhớ bạn? về việc gì? trong bao lâu ?”.

Sống một cuộc đời có Ý Nghĩa, đó không phải là Sự Tình Cờ. 

Đó không phải là Hoàn Cảnh, mà là Sự Lựa Chọn.

Sống Cuộc Đời ĐÁNG SỐNG

Sẵn sàng hay không,
một ngày nào đó tất cả đều sẽ đến điểm cuối.

Sẽ không còn bình minh,
không còn phút,
không còn giờ,
không còn ngày.

Mọi thứ bạn lượm lặt,
dù cất trong kho hay đã quên mất,
đều sẽ sang tay người khác.

Tài sản,
danh vọng
và quyền lực phù du của bạn
sẽ tàn lụi vào hư không.

Bạn có gì,
hay ai nợ bạn,
cũng thành vô nghĩa.

Thù Hằn,
Cay Đắng,
Bực Tức,
và Ghen Tị của bạn cũng sẽ biến mất.

Mọi Hy Vọng,
Tham Vọng,
Kế Hoạch,
và Dự Tính của bạn cũng sẽ tiêu tan.

Thắng hay Bại,
đã từng rất quan trọng với bạn, rồi sẽ phai mờ.

Bạn từ đâu đến, hay đã sống bên phía đường nào,
rốt cuộc cũng sẽ thành vô nghĩa.

Bạn đẹp hay thông thái, điều đó sẽ thành vô nghĩa.
Giới tính và mầu da của bạn cũng không thành vấn đề.

Vậy điều gì có ý nghĩa?
Làm thế nào để đo lường giá trị những ngày sống của bạn?

Ý nghĩa không nằm trong cái bạn mua, nhưng trong cái bạn xây;
không nằm trong cái bạn lấy, nhưng trong cái bạn cho.

Ý nghĩa không nằm trong thành công, nhưng trong tầm quan trọng.
Ý nghĩa không nằm trong điều bạn học, nhưng trong điều bạn dạy.

Ý nghĩa nằm trong từng hành động chân thật, nhân ái, hay hy sinh,
làm cho người khác được phong phú, mạnh mẽ, và muốn theo gương của bạn.

Ý nghĩa không nằm trong khả năng, nhưng trong nhân cách của bạn.
Ý nghĩa không nằm trong bao nhiêu người bạn biết,
nhưng trong bao nhiêu người sẽ thấy mất mát khi bạn ra đi.

Ý nghĩa không nằm trong ký ức của bạn,
nhưng trong ký ức của những người yêu thương bạn.

Ý nghĩa nằm trong “Ai nhớ bạn, về việc gì, trong bao lâu”.

Sống một cuộc đời có Ý Nghĩa, đó không phải là Sự Tình Cờ.

Đó không phải là Hoàn Cảnh, mà là Sự Lựa Chọn
yenleviet


( Bạn bảo là vui ư? ): Giải thưởng

- A lô, anh Dưỡng đấy à? Anh khỏe không, hôm trước thấy anh trên truyền hình sôi nổi lắm. Anh đúng là nhà doanh nghiệp thành đạt... à này anh ơi, tới đây thành phố tổ chức cuộc thi thơ viết về chủ đề ca ngợi bến Cảng quê hương đấy anh tham gia dự giải nhé!
- Tôi có biết gì về thơ phú mà tham dự giải thưởng, anh em người ta cười vào cái mặt tôi à?
- Anh yên tâm đi, chỉ có ta mới ta thôi, anh cư làm mấy câu, vớ vẩn cũng được đã có BBT "Thẩm mỹ lại toàn phần 99%".
- Giải thưởng gì mà dễ hơn cả lên giường thế, cũng là một cái thú để thích, lên giường còn phải cởi, đằng này chỉ cần viết nhắng nhít mà cũng được vinh danh. Tôi môke.
- Anh đồng ý nhận một giải nhé! Anh đóng góp với chương trình kinh phí gọi là nước lôi quà cáp cấp trên.
- Mẹ nó chứ, biết ngay là tiền... Bao nhiêu?
- Tùy tâm anh ạ!
- Bao nhiêu cứ nói mẹ nó ra cho người ta còn chuẩn bị đang lúc suy thoái kinh tế lại bày đặt giải thưởng thơ phú về vợ con nó lại chửi cho mà nghe.
- Anh yên tâm chắc chị nhà sẽ vinh dự vì có chồng là "nhà thơ nhớn".
- Tôi thích chơi trội hơn người chứ tôi cần đếch gì thơ. Thôi mai tôi chuyển cho ông 3 triệu được chưa?
- Ba triệu thì anh nhận giải khuyến khích nhé!
-Mẹ nó chứ giải thưởng gì mà đắt gần bằng em gái bán cái ngàn vàng lần đầu tiên thế...

Đặng Tân NHân (Coppi từ báo người đưa tin)

Tu lieu xa hoi- Phan II

Targoviste, Rumani, thứ hai 25 tháng 12, 1989
11 giờ 45 sáng. Hai chiếc trực thăng quân sự đáp xuống trại lính tại thị trấn Targoviste, cách thủ đô Bucharest 120 km về phía bắc. Đây là một thị trấn ảm đạm, chuyên sản xuất thép, xây dựng theo thiết kế thô kệch được các nhà độc tài cộng sản từ Stalin trở đi ưa chuộng.
Từ chiếc trực thăng lớn, xuất hiện sáu tướng lĩnh quân đội mặc quân phục mới cáu, trĩu nặng giây tua vàng và huy chương. Theo sau là ba sĩ quan cấp dưới thuộc Bộ Tham mưu Quân đội Rumani, và một nhóm bốn nhân viên dân sự khác.
Một người, có vẻ cao cấp nhất, bắt đầu lớn tiếng ra lệnh ngay khi phái đoàn đáp xuống, sau chuyến bay dài 30 phút từ thủ đô. Đó là ông tướng đầu bạc, 53 tuổi, Victor Stanculescu, đại diện của chính phủ lâm thời Mặt trận Cứu nguy Tổ quốc. Vào lúc này, chính phủ mới vẫn chưa kiểm soát được toàn cõi Rumani.
Sáng hôm đó, tướng đầu bạc được lệnh thi hành một nhiệm vụ khẩn cấp, cần một ít tế nhị nhưng thật nhiều thô bạo, đó là tổ chức cuộc xét xử Nicolae Ceausescu, nhà độc tài đã cai trị Rumani gần một phần tư thế kỷ, và vợ ông ta, bà Elena.
Mới ba ngày trước, ông bà đã phải bỏ chạy khỏi thủ đô, trong khi quần chúng phấn khích đón mừng cách mạng. Chỉ vài giờ sau, họ đã bị bắt và giam giữ tại trại lính ở Targoviste trong khi số phận của họ được quyết định tại Bucharest.
Lực lượng trung thành với Ceausescu, mật vụ Securitate, vẫn đang chiến đấu để đưa ông trở lại vị trí Chủ tịch. Chính quyền cách mạng, lúc đó chưa được củng cố, cuối cùng đã quyết định phải nhanh chóng đưa Ceausescu ra xét xử để chứng minh cho dân chúng cả nước Rumani biết ai đang thực sự nắm quyền.
Ông tướng đổi chiều
Stanculescu được chọn để thi hành nhiệm vụ dọn dẹp này. Cao ráo, lịch lãm, ông được biết đến như một người khéo léo, tinh khôn. Trong chế độ cũ, tới tận ngày 22 tháng 12, ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, cũng là một người bạn lâu năm của gia đình Ceausescu, một thực khách thường xuyên tại Cung Chủ tịch, và là một trong những nịnh thần chủ chốt trong triều đình Ceausescu. [Ngày 22 tháng 12, Stanculescu lên làm Bộ trưởng Quốc phòng, thay Tướng Milea vừa chết. Ông là người khuyên Ceausescu thoát thân bằng trực thăng.]
Ông rất nhanh nhạy thấy được gió đã đổi chiều, và là một trong những sĩ quan quân đội cao cấp đầu tiên về phe cách mạng. Ngoài khả năng thức thời nhạy bén, ông còn có tài tổ chức công việc kỹ lưỡng. Ông mang theo từ Bucharest các thẩm phán, công tố viên và luật sư biện hộ cần thiết cho phiên xét xử. Stanculescu cũng tận tình quan tâm đến những chi tiết khác: Trên chiếc trực thăng thứ hai vừa đáp là toán lính dù từ một đơn vị tinh nhuệ, được chọn cẩn thận vào sáng hôm đó để làm đội xử bắn. Và trước cả khi thủ tục pháp lý diễn ra, ông tướng cũng đã cẩn thận chọn xong địa điểm xử bắn – một điểm dọc theo bức tường nhìn ra khoảng sân rộng của trại lính. [1]
Phòng xử và luật sư
‘Phòng xử án’ được chuẩn bị vội vã trong một hội trường tồi tàn với tường màu gỉ sắt. Năm chiếc bàn mặt nhựa được xếp lại với nhau làm bàn cho thẩm phán. Chỗ dành cho bị cáo là hai chiếc bàn và ghế được đặt trong góc phòng. Một khung cảnh nhếch nhác, thiếu hẳn vẻ trịnh trọng thường thấy trong những sự kiện quan trọng như thế này, nhưng theo cách nhìn của Tướng Stanculescu như thế cũng đã đủ.
Quá giữa trưa một chút, khi phái đoàn từ Bucharest bước vào phòng xử, hai bị cáo đã ngồi sẵn ở đó, có hai lính canh đứng kèm hai bên.
Mới ba ngày trước, Nicolae và Elena Ceausescu còn là cặp vợ chồng được khiếp sợ nhất và căm ghét nhất nước. Họ có quyền sinh sát với hơn 23 triệu dân Rumani. Họ điều hành một đất nước công an trị tàn bạo nhất Châu Âu. Truyền hình và báo chí trong nước hàng ngày đều phải ca tụng họ như những á thần thực sự.
Nhưng giờ thì họ hiện nguyên hình là một cặp vợ chồng già, cáu kỉnh, lẫn lộn, mệt đừ, sợ hãi, hay rì rầm cãi vặt. Họ mặc đúng bộ quần áo đã mặc lúc bỏ trốn khỏi thủ đô. Ông thì áo khoác dài bằng dạ màu đen, bên trong là bộ vét xám đã nhàu, nhìn ông như già hơn tuổi 71 của mình. Bà Elena, lớn hơn ông một tuổi, mặc áo khoác nâu vàng cổ lông thú, thêm chiếc khăn lụa xanh choàng đầu, che một phần tóc bạc.
Sáng hôm đó ở Bucharest, luật sư có tiếng Nicu Teodorescu đang ăn điểm tâm ngày Giáng sinh với gia đình thì nhận được cú điện thoại của trợ lý tân Chủ tịch Ion Iliescu, ông được Mặt trận Cứu nguy Tổ quốc yêu cầu trở thành luật sư bào chữa cho Ceausescu. Ông trả lời rằng đây sẽ là “một thử thách rất thú vị”. Sau khi suy nghĩ một lúc, ông đồng ý.
Lần đầu tiên ông gặp vợ chồng bị cáo là trong ‘phòng xử’ ở Targoviste, và chỉ có 10 phút để tư vấn cho hai thân chủ. Cuộc gặp không được như ý. Với quá ít thời gian để chuẩn bị nội dung bào chữa, ông cố gắng giải thích cho hai thân chủ rằng cơ hội tốt nhất để tránh bản án tử hình là lấy cớ mất trí. Đề nghị này bị bác bỏ lập tức. Teodorescu kể lại: “Khi tôi đề nghị như vậy thì họ, nhất là bà Elena, nói rằng như thế là dựng đứng câu chuyện quá đáng, làm họ thấy bị sỉ nhục nặng nề… Sau đó, ông bà từ chối luôn sự giúp đỡ của tôi.’ [2]
Phiên tòa
Khoảng 1 giờ chiều, ‘phiên tòa’ bắt đầu. Có năm thẩm phán quân sự, đều là các vị tướng mang quân phục, và hai công tố viên quân sự. Phiên tòa được xem là công khai vì có một sĩ quan thuộc cấp quay phim sự kiện này, nhưng anh được lệnh chỉ ghi hình các bị cáo mà thôi, không được quay cảnh nào có thẩm phán, công tố viên hay luật sự biện hộ.
Phiên xử kéo dài 55 phút. Nhà độc tài bị lật đổ đã trả lời với vẻ hằn học trong hầu hết buổi xét xử. Thỉnh thoảng, ông cầm chiếc mũ dạ đen đặt trên bàn trước mặt đưa lên, rồi ném mạnh xuống như để nhấn mạnh điểm nào đó. Bà ít biểu cảm hơn, hay nhìn chằm chằm vào khoảng không trước mặt. Thỉnh thoảng hai người cầm tay nhau và thì thầm, họ luôn gọi nhau là “mình ơi”.
Không có chứng cớ bằng văn bản nào được trưng ra chống lại họ, cũng không có nhân chứng nào được mời. Ngay từ đầu, Ceausescu đã bác bỏ quyền xét xử của phiên tòa. Ông lặp đi lặp lại rằng: ”Tôi chỉ công nhận Quốc hội mở rộng và đại diện của giai cấp công nhân. Tôi sẽ không ký bất cứ gì, không nói bất cứ gì! Tôi từ chối trả lời câu hỏi của những kẻ đã xúi giục cuộc đảo chính này. Tôi không phải là bị cáo. Tôi là Chủ tịch Nước Cộng hòa. Tôi là Tổng Tư lệnh của các người! Mặt trận ‘Phản bội’ Tổ quốc ở Bucharest… đã tiếm đoạt quyền hành!”
Các công tố viên đọc lời buộc tội. Ceausescu làm mặt nghiêm suốt thời gian cáo buộc:
CÔNG TỐ VIÊN: Đây là những tội ác chúng tôi cáo buộc ông bà, và yêu cầu tòa án xử tử hình cả hai người:
  1. Tội diệt chủng.
  2. Tội tổ chức hoạt động vũ trang chống lại nhân dân và nhà nước.
  3. Tội phá hoại tài sản và dinh thự công cộng.
  4. Tội phá hoại nền kinh tế quốc gia.
  5. Tội tìm cách bỏ nước ra đi với số tiền hơn 1 tỉ đô-la Mỹ, trong các tài khoản ở ngân hàng nước ngoài.
Các bị cáo có nghe không? Mời đứng dậy.
CEAUSESCU: (vẫn ngồi) Tất cả những điều đó đều dối trá. Tôi không công nhận tòa án này!
CÔNG TỐ VIÊN: Ông có biết mình đã bị loại khỏi chức vụ… Chủ tịch nước hay không? Các bị cáo có biết mình đang bị xét xử với tư cách là hai công dân bình thường không?
CEAUSESCU: Tôi sẽ không trả lời những kẻ đã tiến hành cuộc đảo chính này, với sự hậu thuẫn của các tổ chức nước ngoài. Nhân dân sẽ chống lại bọn phản bội!
CÔNG TỐ VIÊN: Tại sao ông làm những việc vừa kể, đưa nhân dân Rumani đến tình trạng ô nhục như hiện nay… Ông đại diện đất nước mà sao ông lại làm cho đất nước đói khổ?
CEAUSESCU: Tôi từ chối trả lời câu hỏi. Tôi không công nhận các người! Tất cả những lời buộc tội đều dối trá… Tôi nói cho các người nghe, chưa bao giờ trong lịch sử Rumani đất nước lại tiến bộ như vậy. Chúng tôi đã xây trường học, đảm bảo có bác sĩ, đảm bảo có mọi thứ cần thiết cho cuộc sống có nhân phẩm!
CÔNG TỐ VIÊN: Hãy nói cho chúng tôi nghe về số tiền ông chuyển qua các ngân hàng Thụy Sĩ?
CEAUSESCU: Tôi không trả lời câu hỏi của một băng đảng dám đứng ra đảo chính!
Elena kiềm chế hơn, phần nhiều im lặng, chỉ trừ khi công tố viên hỏi: “Người dân Rumani chúng tôi thì không có thịt mà ăn. Vậy mà con gái bà lại dùng cân bằng vàng để cân thịt mua từ nước ngoài về, thế là sao?” Bà bức xúc la to: “Các anh dám ăn nói như thế à?” Có một lúc, Ceausescu lên tiếng: “Làm cho xong vụ này đi” và nhìn vào đồng hồ. [3]
Tuyên án
Toà ngừng họp chỉ trong 5 phút để nghị án. Ceausescu không chịu đứng dậy lúc các thẩm phán trở lại phòng xử.
Khi tuyên đọc bản án tử hình và tịch thu toàn bộ tài sản của hai vợ chồng bị cáo, không ai, kể cả chủ tọa phiên tòa lẫn công tố viên, nhìn thẳng vào họ. Họ im lặng, có vẻ như muốn kháng án.
Chiếu theo luật pháp Rumani, bản án tử hình chỉ được thi hành sau 10 ngày được ban hành, dù bị cáo có kháng án hay không. Nhưng luật sư biện hộ Teodorescu đã không nêu lên điều này trong phiên tòa. Rất có thể là Ceausescu, dù đã kết án tử hình vô số người, không hề biết đến chi tiết này trong luật pháp. Nhưng dù sao thì đó không phải là một ngày đẹp trời để nói chuyện pháp lý.*
Công lý đã được thực thi một cách sơ sài, cẩu thả và thô vụng. Trong phòng xử, tay của Ceausescu bị trói sau lưng bằng dây. Ceausescu vẫn giữ được vẻ trịch thượng và khá bình tĩnh trong vài phút cuối cùng. Ông nói: “Kẻ gây ra cuộc đảo chính có thể bắn bất cứ ai họ muốn. Kẻ phản bội sẽ phải trả lời cho hành vi của mình. Rumani sẽ sống và sẽ biết về sự phản bội của các người. Thà là chiến đấu trong vinh quang còn hơn sống như nô lệ!” Elena thì khóc và la hét, đay nghiến đến cùng. Gần như hoảng loạn, bà thét lên: “Không được trói chúng tôi! Thật xấu hổ, nhục nhã! Tôi nuôi các anh như mẹ. Sao các anh lại làm thế?!”
Pháp trường, “Đ. mẹ mày!”
Họ được áp tải đi khoảng 40 mét dọc theo hành lang dẫn đến khoảng sân rộng trong trại lính. Lúc bị dẫn đi, người lính trói tay họ lúc nãy nói: “Bây giờ, ông bà gặp rắc rối to rồi!” Elena gào vào mặt anh: “Địt mẹ mày!”[i]* Còn Ceausescu thì bắt đầu hát Quốc tế ca.
Họ dường như không có ý niệm là cuộc hành hình sẽ diễn ra lập tức, cho đến khi họ ra tới khoảng sân. Lúc đó, ông bà thực sự hoảng hốt. Bà thét to với ông: “Im đi Nicu! Hình như họ sắp giết mình như giết chó. Không tin được!” Lời cuối cùng của bà là: “Nếu giết thì hãy giết chúng tôi chung với nhau.”[4]
Đội xử bắn đã sẵn sàng khi phiên xử diễn ra được một nửa. Tám lính dù, được chính Stanculescu tuyển chọn và được bay từ Bucharest đến, không biết nhiệm vụ của mình là gì cho đến khi họ có mặt ở Targoviste. Ba trong số được chọn để thực hiện hành vi cuối cùng, đó là: Dorin Varlan, Octavian Gheorghiu, và Ionel Boeru. Trang bị súng tự động AK-47, họ đứng cạnh bồn hoa chờ cặp vợ chồng đi vào sân.
Lệnh dành cho người xử bắn là không được bắn Ceausescu ở vùng trên ngực. Vì ông phải được nhận diện qua hình chụp sau khi chết. Không có lệnh tương tự dành cho bà Elena. Đội hành hình đưa vợ chồng Ceausescu đến đứng trước bức tường, ông bên phải, bà bên trái. Trông họ thật thảm hại.
Gheorghiu sau này kể lại: “Bà nói họ muốn chết chung, nên chúng tôi đặt họ đứng cạnh nhau, rồi bước sáu bước lui và sau đó nổ súng. Không ai ra lệnh bắn, họ chỉ nói làm sao cho nhanh! Tôi bắn bảy viên đạn vào ngực ông và bắn hết số còn lại trong băng đạn vào đầu bà.” Ông thì oằn người ra sau, sụp đầu gối xuống đất. Bà thì đổ qua một bên. [5]
Hỗn độn liền diễn ra. Gần như toàn bộ số binh lính tại căn cứ hôm đó đều chứng kiến cuộc hành hình. Ngay khi đội xử bắn làm xong nhiệm vụ thì mọi người trong sân có súng bắt đầu bắn xối xả vào hai xác chết, cho đến khi chỉ huy căn cứ, Trung tá Mares, ra lệnh ngưng bắn. Nhiều năm sau đó, vẫn còn dấu vết của hàng trăm phát đạn trên bức tường trong sân và trên khung cửa sổ cách mặt đất khoảng ba mét.
Danh ảo, xác thực
Hai xác chết được gói trong vải bạt, được chở về thủ đô bằng trực thăng, với sự canh gác của toán lính dù đã hành quyết họ.
Sau đó, xác được đưa xuống sân bóng nơi tập luyện của đội bóng đá Steaua Bucharest, nằm ở ngoại ô phía tây nam thành phố. Trong một diễn biến rợn người, xác của họ bỗng bí mật dời đi nơi khác trong đêm. Các đội tìm kiếm phải lục lọi toàn bộ khu vực suốt đêm, trước khi tìm thấy xác vào sáng hôm sau đang nằm gần một mái che trong khu vực sân thi đấu. Điều gì xảy ra cho hai xác chết trong mấy giờ này đến nay vẫn còn là bí ẩn.
Ngày hôm sau, họ được chôn tại nghĩa trang Ghencea gần đó. Khi chết, hai ông bà được đặt nằm cách nhau 50 mét, tách biệt bởi một lối đi, và được đặt tên mới. Người ta lấy hai thập giá gỗ trơn rồi vẽ vội bằng sơn tên giả của hai ông bà. Nhà độc tài một thời làm người dân khiếp sợ Ceausescu giờ mang tên Popa Dan, còn vợ ông thì mang tên Enescu Vasile.
 ___________
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ
1. Victor Stanculescu, trích bài báo ‘Nu Va Fie Mila, au 2 miliarde lei in count’ (‘Không cần thương xót, chúng có 2 triệu lei trong ngân hàng’), đăng trên Jurnalul National, Bucharest, 22 tháng 11, 1990
2. John Sweeney, The Life and Evil Times of Nicolae Ceasusescu (NXB Hutchinson, London, 1991), tr. 157-8
3. Văn bản phiên tòa, đăng trên Romania Libera, Bucharest, 25 tháng 1, 1990
4. Như trên
5. Jurnalul National, Bucharest, 18 tháng 12, 2006
Nguồn: Victor Sybestyen, Revolution 1989, The Fall of The Soviet Empire, Pantheon Books, New York, 2009
Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh &pro&contra
Bài liên quan:
Ảnh: Nicolae và Elena Ceausescu trước khi bị xử bắn. Ảnh: dpa

* Chánh án phiên tòa hôm ấy, Đại tá Gica Popa, được nhiều người biết như một cận thần của Ceausescu. Ông 57 tuổi, cũng có chiếc bụng phệ, là bạn thân của em trai nhà độc tài, tên Ilie, lúc đó đang làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Vào ngày 1 tháng 3, 1990, tức chưa đầy ba tháng sau phiên tòa kể trên, Popa tự sát bằng súng, một vụ tự sát còn nhiều bí ẩn. Nguyên nhân cái chết vẫn chưa được làm rõ. Popa không phải là loại người bị lương tâm cắn rứt vì cách điều hành phiên tòa kể trên, hoặc xấu hổ vì  mối quan hệ quá khứ với giới cận thần vây quanh Ceausescu. Vào lúc ông tự sát, ông đang là đối tượng của cuộc điều tra về một loạt những cáo buộc hình sự, bao gồm từ tội biển thủ công quỹ đến giết người. [Sybestyen]
[i] Nguyên văn “Go fuck your mother.”