Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 1 tháng 3, 2013

Tư Liệu

Chùm ảnh: Tranh cổ "cực quí hiếm" về Hà Nội chưa từng công bố.

(GDVN) - Bộ tranh ảnh quí hiếm về Hà Nội này đến nay vẫn chưa được xác định hết danh tính của tập thể thợ vẽ và thợ khắc Việt Nam thời đó.
Bộ tranh khắc và ký họa đặc biệt này có khoảng 4.200 bức vẽ về sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận do nhiều họa sĩ, nghệ nhân Việt Nam thực hiện theo yêu cầu của nhà nghiên cứu người Pháp Henri Oger. Bộ tranh khắc này sau đó được xuất bản với số lượng cực kì hạn chế chưa đầy 60 bản năm 1909.
Hoàng Lâm (Ảnh: Saravan)
 Đó là bộ tranh khắc và ký họa có đến 4.200 bức vẽ về sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận, do nhiều họa sĩ, nghệ nhân VN thực hiện theo yêu cầu của nhà nghiên cứu người Pháp Henri Oger cách đây một thế kỷ.
Đến nay, người ta vẫn chưa xác định hết danh tính của tập thể thợ vẽ và thợ khắc VN đã làm việc với Henri Oger để hoàn tất bộ tranh độc đáo trên
Từ điển bách khoa Việt Nam chỉ thấy nhắc đến vài người trong số đó như: Phạm Trọng Hải (quê Hưng Yên), Nguyễn Văn Giai, Phạm Văn Thiêu, Nguyễn Văn Đang (cả ba đều quê Hải Dương).

Bộ tranh đồ sộ này xuất bản lần đầu tiên với tựa Kỹ thuật của người An Nam (Technique du peuple Annammite) vào đúng 100 năm trước (1909) gồm 2 tập khổ lớn và với số lượng rất ít: chưa đầy 60 bản.
Ở nước ngoài, một ít bản hiện được lưu giữ dưới dạng vi phim tại các trường đại học như Johns Hopkins Baltimore, Southern Illinois Carbondale, California Berkeley, Cornell (Mỹ); ở Thư viện nghệ thuật và khảo cổ học ĐH Paris IV, Sorbonne (Pháp); ĐH Keio (Nhật Bản)...
Riêng ở VN là nơi ấn hành hiện cũng chỉ còn biết đến hai bản: một (không đầy đủ) lưu giữ tại Thư viện quốc gia Hà Nội và một bản khác (tương đối tốt) tại Thư viện Khoa học tổng hợp TP.HCM.



 Bộ tranh khắc và ký họa đặc biệt này có khoảng 4.200 bức vẽ về sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận do nhiều họa sĩ, nghệ nhân Việt Nam thực hiện theo yêu cầu của nhà nghiên cứu người Pháp Henri Oger. Bộ tranh khắc này sau đó được xuất bản với số lượng cực kì hạn chế chưa đầy 60 bản năm 1909.
Bộ tranh khắc cực quí hiếm này đã có lúc tưởng chừng như tuyệt tích
.Mỗi bức tranh miêu tả lại một hoạt động nghề nghiệp khác nhau của người Hà Thành và các vùng lân cận
Người phụ nữ buôn thúng bán bưng Hà Thành khi xưa
Hình ảnh phụ nữ xưa ở Hà Thành
Những hình ảnh quen thuộc về cuộc sống thường nhật của người dân Hà Thành thế kỷ XIX
Đến nay, danh tính những người thợ tham gia vào việc sản xuất ra bộ tranh khắc đặc biệt này gần như không thể xác định được
Những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống của người dân Hà Thành đầu thế kỷ XIX
Những vật dụng quen thuộc của người dân Hà Thành

Từ đời sống thường nhật đến những ngày lễ lạt của người Hà Thành và các vùng phụ cận đều được tái hiện rất sinh động và đầy đủ
Thợ thủ công Hà Thành ngày xưa
Một ít bản tranh khắc đặc biệt về cuộc sống của người Hà Thành đầu thế kỷ XIX hiện đang được lưu giữ dưới dạng vi phim tại các trường đại học như Johns Hopkins Baltimore, Southern Illinois Carbondale, California Berkeley, Cornell (Mỹ); ở Thư viện nghệ thuật và khảo cổ học ĐH Paris IV, Sorbonne (Pháp); ĐH Keio (Nhật Bản)...
Trong mỗi bức tranh khắc đều có nhiều hoạt động nghề nghiệp khác nhau
 Với số lượng hơn 4.200 bản vẽ và khắc, những hình ảnh về cuộc sống của người dân Hà Thành được tái hiện rất rõ rệt. Các dụng cụ thường dùng trong cuộc sống và dùng cho các thợ thủ công được ghi dấu lại nguyên bản từ dao rựa, cân, búa, quạt, đàn nhị...
Bức vẽ thể hiện cuộc sống và những thú chơi tao nhã của người Hà Thành xưa như chọi gà, chơi chim, đánh tổ tôm...
Trong mỗi bản khắc hoặc bản vẽ về Hà Nội thế kỷ XIX đều có rất nhiều chi tiết khác nhau
Nghề mây tre đan của các vùng phụ cận Hà Nội và tác dụng của các sản phẩm
Bức vẽ miêu tả cảnh bán thịt, tráng bánh, giã gạo, đơm cá
Bản khắc ghi lại cuộc sống ở Hà Thành khi xưa từ những người dân lao động đến người giàu có, địa chủ khi xưa
Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận
Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận
Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận
Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận
Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận
Tranh dân gian và những hình ảnh về đời sống trong thời phong kiến
Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận
Sinh hoạt nghề nghiệp trên khắp đường phố Hà Nội cùng các vùng phụ cận
_________________

Trang Tin QS- NTD

Trung Quốc sẽ gây chiến tranh vào lúc nào?

Dạo gần đây, trên các phương tiện thông tin truyền thông, chúng ta liên tục thấy sự sôi nổi ở vấn để biển Đông, cũng như sự hung hăng của Trung Quốc. Đôi lúc chúng ta nghĩ rằng chiến tranh đã rất cận kề. Rồi chúng ta tự hỏi, nó có khả năng diễn ra hay không? Bao giờ nó diễn ra? Diễn ra như thế nào?
Bài viết của độc giả Nightmoonlight ( moonlightofthenight@gmail.com) gửi tới REDS.VN.
Trung Quốc sẽ gây chiến tranh vào lúc nào? Vì sao?
Trung Quốc sẽ gây chiến tranh vào lúc nào? Vì sao? 
__________________________________________

Khoảng thời gian 2020 – 2050

Theo tôi, đây là thời gian vàng cho Trung Quốc động binh. Trong thời gian này, Trung Quốc có một số điều kiện tương đối thuận lợi, và họ sẽ phải tận dụng triệt để nếu muốn đạt được mưu đồ xâm lược của mình, vì tấn công trước hoặc sau khoảng thời gian này thì Trung Quốc sẽ lâm vào rắc rối lớn.
Dưới đây là các lí do khiến Trung Quốc sẽ động binh trong giai đoạn 2020 – 2050:
Vấn đề tài nguyên: cái lí do gây chiến này ai cũng biết rồi, Trung Quốc hiện đang khát tài nguyên hơn cả, thứ đầu tiên Trung Quốc cần là dầu mỏ để bôi trơn nền kinh tế đang phát triển nóng và nhanh như vũ bão, sau đó là các loại tài nguyên khác.
Nhìn vào sự phát triển của Trung Quốc ngay hôm nay làm ta nhìn thấy không gì hơn ngoài một nước tư bản trong giai đoạn đầu, (khi còn là tư bản thực dân cướp đất giành tài nguyên như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha). Trữ lượng dầu mỏ ở Biển Đông, ai cũng biết là đủ sức nuôi sống nền kinh tế Trung Quốc trong khoảng 40 năm sau, số lượng cá ở biển Đông đủ nuôi sống đám ngư dân ở phía Nam Trung Quốc một thời gian dài.
Đây là một trong những điều kiện cần để Trung Quốc tiến hành chiến tranh với bất kì nước nào trên biển Đông, chứ chưa phải là điều kiện thuyết phục chúng ta về mốc thời gian trên cho lắm.
Vấn đề dân số: thực ra hơi khôi hài khi lấy vấn đề này ra nói, nhưng đây lại là vấn đề rất lớn để Trung Quốc gây chiến. Thậm chí nó còn quyết định luôn việc tại sao phải đánh trong giai đoạn này mà không phải giai đoạn khác. Tại sao thế?
Tỷ lệ dân số đông và trong 10, 20 năm tới tính từ năm 2012 thì lại càng đông theo hướng tiêu cực, vấn đề chênh lệch giới tính giữa nam và nữ rất nghiêm trọng, dân số già hóa dần, an sinh xã hội sẽ trở thành gánh nặng.
Vậy làm sao để giải quyết vấn đề dân số sẽ già này mà không có lối thoát này? Đó là … giết chết bớt đi trước khi họ kịp già. Nhưng làm sao giết dân một cách hợp pháp? Cách hợp pháp nhất là …đẩy ra chiến trường! Và mốc thời gian 2020-2050 là khoảng thời gian tốt để giết bớt một thế hệ ở Trung Quốc và bắt đầu một thế hệ mới cân đối hơn.
Vấn đề chính trị: Lần này, nếu có chiến tranh, Trung Quốc sẽ không để xảy ra những cuộc tranh cãi lớn trong nội bộ chế độ lãnh đạo như năm 1979 nữa, sự tranh cãi về vấn đề tấn công một đồng mình chung ý thức hệ Cộng sản, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ không để lập lại.
8 năm tính từ năm 2012 có lẽ là quá đủ để Trung Quốc loại hẳn những đối thủ chính trị có tư tưởng thân đồng minh cùng ý thức hệ (VD như Việt Nam và Trung Quốc chung ý thức hệ cộng sản, nói thật chứ theo quan điểm cá nhân tôi thì Trung Quốc chẳng “cộng sản” chỗ nào cả!) để thay lên một đội ngũ nắm quyền là những kẻ có tham vọng “chinh quốc, bình thiên hạ” để phục vụ cho tham vọng bành trướng của mình.
Điển hình trong số đó là vụ thanh trừng Bạc Hy Lai đang xôn xao dư luận, kẻ đang lên như diều gặp gió ở Trung Quốc , gần như chắc chắn sẽ có chân trong bộ chính trị Trung Quốc .
Ông ta là người thế nào? Có phải là người yêu quý láng giềng và sẵn sàng cãi nhau trong bộ chính trị Trung Quốc để giảm áp lực chiến tranh lên láng giềng không? Câu trả lời là không biết, nhưng có lẽ ông sẽ là trở ngại, sẽ là cái loa phát thanh đứng đầu trong các luồng ý kiến chống đối chiến tranh mà Tập Cận Bình sẽ phát động trong tương lai.
Khi nội bộ Trung Quốc đã không còn những kẻ chống đối thì rõ ràng là rất gọn đường cho Trung Quốc đưa ra quyết sách tấn công tùy thích.
Vấn đề sức mạnh quân sự: Trung Quốc năm 2012 bây giờ đã có gì nào? Một mớ tàu cà tàng, gần chục con tàu đổ bộ 071 tự đóng, một mớ tàu ngầm thế hệ cũ khởi động cứ như bò rống và 1 cái xác vỏ cũ rích mang tên Thi Lang làm tàu sân bay nhưng vẫn còn thiếu … cáp hãm phanh.
Và cũng như một tướng Trung Quốc đã phát biểu: “Tàu sân bay, Trung Quốc cần bao nhiêu sẽ có!” Thế nên tới thời điểm 2020, Trung Quốc có lẽ cũng đã “nhái” xong mấy sợi cáp hãm phanh, đóng xong vài tàu sân bay, ít nhất cũng phải kha khá chừng vài chục con, tệ lắm là 3 đến 5 con tàu phục vụ cho mục tiêu không tốt đẹp gì của mình.
Đấy là mới kể về hải quân, chưa nói gì về năng lực chống tiếp cận, hay không quân cả, Trung Quốc sẽ có thể hoàn thành tên lửa Dongfeng 21, 31 gì đó và J-20 máy bay tàng hình chôm công nghệ của Mỹ ít ra cũng có thể nhấc cánh bay thật, chứ không chạy dưới đường băng để chụp ảnh nữa!
Trung Quốc sẽ phải tấn công trong giai đoạn này là vì để càng lâu thì Việt Nam, Philip, Mỹ dưới kia càng mạnh, càng xây được thêm nhiều công xưởng, máy móc, vũ khí, củng cố quân đội và cả nền kinh tế. Còn Mỹ cũng sẽ đưa ra nhiều kế sách mới làm suy yếu Trung Quốc. Cho nên, Trung Quốc phải chọn một mốc thời gian nào mà tương quan sức mạnh giữa họ và các nước kia có lợi nhất để phát động chiến tranh.
Vấn đề cuối cùng: quan trọng nhất: tham vọng bành trướng, tâm lý của người Hán suốt 3000 năm nay, tại sao lại là bành trướng xuống hướng Nam mà không phải nơi nào khác?
Nhắc lại lịch sử cũ, cách đây vài ngàn năm, khi mà trong vô số các bộ tộc du mục phương bắc những bộ tộc nhỏ yếu đã hợp lại thành tộc Hoa Hạ (đây là lý do vì sao lại gọi là người Hoa, hay Trung Hoa), sau đó bắt đầu hướng Nam, thôn tính giành đất của các bộ tộc yếu thế, hiền lành, gốc nông nghiệp phía Nam, rồi tràn qua bờ sông Dương Tử, tức sông Trường Giang, thôn tính các tộc Việt gọi chung là Bách Việt, sau đó đổi tên tộc thành dân tộc Hán! Còn ở xa bên phương Nam chỉ còn sót lại duy nhất các tộc Nam Việt, chính là chúng ta ngày nay.
Các bạn có tự hỏi tại sao lại hướng Nam mà không phải là hướng Bắc, hướng Đông, hường Tây không? Tại vì tâm lý từ xa xưa của tộc Hán, vốn là một tộc du mục hiếu chiến như bao tộc khác, nhưng lại là một trong những tộc du mục yếu nhất ở phương Bắc nên không dám đấu lại các tộc hùng mạnh khác. Đó cũng là lí do lí giải câu hỏi tại sao nhà Hán vốn hùng mạnh thế mà khi Thành Cát Tư Hãn xâm lược lại nhanh chóng thất bại dẫn đến việc lập ra nhà Nguyên-Mông,
Thành Cát Tư Hãn mạnh chỉ là một mặt của vấn đề, mặt còn lại là tâm lý của tộc Hoa Hạ vốn đã sợ thua Mông Cổ từ lâu nên khi đụng trận đã sớm thất bại. Và vì sợ hướng Bắc nên cứ lấn riết xuống phương Nam, dần tạo thành THÓI QUEN HƯỚNG NAM – một trong những lí do lớn (bên cạnh sự tham lam, mong bành trướng, và hiếu chiến) khiến quyết tâm chiếm Việt Nam và Đông Nam Á của Trung Quốc là lớn hơn bao giờ hết.
***
Trên đây là 5 lí do sẽ dẫn đến việc Trung Quốc sẽ tấn công trong khoảng thời gian 2020 – 2050. Tuy nhiên, tương lai là bất định. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chiến tranh trượt ra khỏi mốc 2020 – 2050 mà tôi dự báo mà xảy trước hoặc sau đó? Dưới các phân tích tiếp theo của tôi.

Nếu chiến tranh xảy ra ở mốc trước 2020

Có một số lí do, rất có thể xảy ra, dẫn đến việc Trung Quốc tiến hành chiến tranh trước năm 2020.
Bản tính nóng vội của Trung Quốc. Trong lịch sử lẫn văn hóa của mình, Trung Quốc luôn luôn là kẻ nóng vội, đó là một trong những lí do mà trong các cuộc chiến thời xưa giữa Việt Nam -Trung Quốc, người phương Bắc luôn là kẻ gây chiến trước và cũng vì nóng vội nên luôn là kẻ thất bại.
Trung Quốc quá tự tin về tiềm lực quân sự của mình. Trung Quốc phải thừa hiểu rằng nuốt được Việt Nam thì tiếp theo Mỹ, Nga sẽ không để Trung Quốc yên. Mớ tàu chiến của Hạm đội Nam Hải trước 2020 vẫn chưa thể coi là đủ để thách thức sức mạnh của Mỹ.
Các cuộc chiến tranh ở Trung Đông cũng có thể là một nhân tố khiến Trung Quốc nổi điên lên đẩy mạnh chiến tranh ở Biển Đông để giành nguồn kiểm soát dầu mỏ bù cho nguồn dầu bị kẹt ở Trung Đông, chưa kể họ sẽ đánh để cứu đồng minh Iran, làm Mỹ phải căng quân ra 2 mặt trận.
Từ một cuộc va chạm nho nhỏ ở biển Đông, do sự thiếu kiềm chế hoặc hành xử không khôn ngoan của một trong các bên, có thể sẽ làm bùng nổ một cuộc xung đột lớn.
Những hành động “thái quá” của Mỹ, Philippine, thậm chí là Việt Nam ở khu vực biển Đông có thể khiến Trung Quốc “nổi điên” và đưa ra quyết định tấn công.
Nếu chiến tranh xảy ra trong giai đoạn này thì điều gì sẽ xảy ra? Trung Quốc chưa đủ thực lực, làm thế nào mà trong 8 năm tới có thể đóng đủ tàu sân bay để xưng hùng xưng bá với Mỹ ở Biển Đông? Đánh một nước sẽ đánh động toàn bộ các nước khác, làm thất bại đến hàng chục năm “ẩn mình chờ thời”, “trỗi dậy hòa bình”, hay “giấu đi ánh hào quang, duy trì sự bí ẩn”.
Còn với riêng Việt Nam – đất nước án ngữ tuyến đường vận chuyển dầu và nguyên liệu từ Trung Đông và Châu Phi đến Trung Quốc, nếu Trung Quốc chưa đủ sức mạnh để“đấm một phát chết luôn” thì đừng dại mà đụng vào, bởi một cuộc chiến kéo dài sẽ kéo sập nền kinh tế và đời sống xã hội Trung Quốc.

Nếu chiến tranh xảy ra ở sau mốc 2050

Đến lúc này, dân số đã quá giá, thế mạnh lớn nhất của Trung Quốc lại phản tác dụng, làm suy yếu nền kinh tế, tạo gánh nặng lên an sinh xã hội, giảm sức chiến đấu của quân đội, Trung Quốc sẽ suy vong nếu tiến hành chiến tranh.
Về mặt kinh tế, Trung Quốc phát triển quá nhanh, quá nóng nên không bền vững. Không có gì đảm bảo rằng 4 thập niên nữa Trung Quốc sẽ ổn định được nền kinh tế phát triển bền vững và đều đặn. Nội việc bây giờ phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu dầu mỏ là đã thấy kinh tế Trung Quốc không ổn định rồi. Rồi sự chêch lệch quá mức trong thu nhập giữa các tầng lớp cũng dần đẩy những bất bình đẳng xã hội đi xa hơn, càng làm giảm sự đoàn kết của người dân Trung Quốc nếu có chiến tranh.
Trong khoảng thời gian đó, không biết quân đội nhân dân Việt Nam đã xây được mấy chục cái nhà máy sản xuất tên lửa Kh-35UE, và Yakhont, mua biết bao nhiều tàu ngầm và hoàn thiện cơ sở hạ tầng hải quân trên khắp lãnh thổ, cũng như đẩy mạnh đầu tư vào vũ khí chống tiếp cận?.
Philippinescũng thế, Mỹ lại càng ghê gớm hơn thế. Không ai chịu đứng yên ngồi nhìn Trung Quốc phát triển vũ khí để đánh mình cả. Tóm lại, sau năm 2050, cơ hội chiến thắng của Trung Quốcchẳng còn được bao nhiêu.
NIGHTMOONLIGHT – Theo Reds.vn

Thứ Tư, 27 tháng 2, 2013

Le hoi

Mo ban mot so viec, moi pa con xem tam trang cong dongf:

Ôi, dân tôi

Coi cái ảnh này mình thấy thất kinh. Thật không còn cái gì thiêng liêng nữa, con người thô thiển, thực dụng, trắng trợn đến thế này sao? Phật nào độ trì cho chúng sinh như vậy.

Trách người, không trách phật. Nhưng chốn cửa thiền đã hết cả tôn nghiêm. Và giờ đây đâu chỉ chùa Bái Đính mới như thế. Nghĩ mà buồn.


Ảnh lấy từ trang facebook cùa Quach Dinh Dat chiều 22.2.2013

Nguyễn Thông




Cải cách chính trị đã để muộn mất 37 năm


nguyen trung“Cải cách chính trị đã để muộn mất 37 năm… Không cải cách chế độ chính trị và hệ thống nhà nước hiện hành, không cải cách và tổ chức lại ĐCSVN, Hiến pháp được sửa đổi hay Hiến pháp mới dù được viết hay như thế nào cũng sẽ là vô nghĩa, thậm chí sẽ chỉ càng gây thêm hiểm họa mới cho đất nước”- Bức thư ngỏ đặc biệt của cựu Đại sứ VN tại Thái Lan, cựu thành viên Ban nghiên cứu thờiThủ tướng Phan Văn Khải, cựu thành viên Viện nghiên cứu phát triển IDS Nguyễn Trung gửi Quốc hội, Chính phủ và ĐCSVN về sửa đổi Hiến pháp. Trong thư, ông còn nêu đề nghị toàn thể Bộ Chính trị khóa XI hết nhiệm kỳ này phải rời chính trường, không được tham gia vào bất kỳ cấp ủy nào của Đảng dù ở địa phương hay trung ương.
Thư ngỏ
 Hà Nội, ngày 19-02-2013
Kính gửi
-        Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam,
-        Toàn thể Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt nam,
-        Chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Kính thưa,
Tôi là Nguyễn Trung, 78 tuổi, trú tại 10(60A) ngõ 45A, phố Võng Thị, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội. Với tư cách là một trong những người tham gia Kiến nghị của 72 nhân sỹ trí thức về việc sửa đổi Hiến pháp [1] (gọi tắt: Kiến nghị 72),  xin được phép trình bầy một số suy nghĩ của tôi liên quan đến việc sửa đổi Hiến pháp đang được lấy ý kiến nhân dân cả nước
Một là, tôi nghĩ rằng sau 37 năm độc lập thống nhất, lần đầu tiên đất nước lại đứng trước nhiều nguy cơ lớn. Đó là:
-        Cuộc khủng hoảng toàn diện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa hiện nay đất nước đang lâm vào khoảng một thập kỷ nay trầm trọng đến mức đe dọa sự mất còn chế độ chính trị và Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN). Điều này cũng có nghĩa cuộc khủng hoảng này đe dọa nghiêm trọng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phải báo cáo tình hình này trước cả nước tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Bộ Chính trị nhận trách nhiệm về mình và đã xin lỗi trước cả nước và toàn Đảng.
-        Chủ nghĩa thực dân mới siêu cường Đại Hán đang trở thành vấn đề của cả thế giới – đặc biệt là đối với khu vực Biển Đông, uy hiếp trực tiếp các nước tại đây; đồng thời căng thẳng đang leo thang với nguy cơ có thể xảy ra chiến tranh trên Biển Đông. Sự lũng đoạn của Trung Quốc đối với các nước láng giềng – đặc biệt ở Đông Nam Á – đã tới mức nguy hiểm, trong đó có Việt Nam với tính cách là chướng ngại vật tự nhiên đầu tiên mà Trung Quốc nhất thiết phải khuất phục trên đường vươn ra đại dương.    Cần nhìn thẳng vào sự thật là sự lũng đoạn mọi mặt của Trung Quốc hiện nay trên thực tế đã đặt Việt Nam lọt thỏm vào vòng kiềm tỏa nhiều mặt của Trung Quốc. Không ít ý kiến trong nhân dân cho rằng về nhiều mặt Việt Nam trên thực tế đã trở thành một chư hầu kiểu mới của chủ nghĩa thực dân mới siêu cường Đại Hán.
-        Hệ thống chính trị của Việt Nam có quá nhiều bất cập để có thể cùng một lúc giải quyết 3 vấn đề lớn nóng bỏng đang đặt ra cho đất nước: (1)cần ổn định kinh tế để tìm đường đi vào một thời kỳ phát triển mới, nhưng hiện nay vẫn chưa có kế sách khả thi nào, nguy cơ kinh tế rơi xuống đáy sâu hơn nữa vẫn là thường trực; (2)chế độ chính trị tha hóa và quá yếu kém; tình hình đã đến mức vô hiệu hóa nhiều nỗ lực cứu chữa đã bỏ ra, tiếp tục kìm hãm sự phát triển của đất nước; trong khi đó hệ thống chính trị vẫn tiếp tục lún sâu hơn nữa vào độc tài toàn trị, để xảy tay có thể dẫn đến đổ vỡ; (3)đất nước vừa cần một sức mạnh bên trong làm nền tảng cho chính sách đối ngoại, vừa cần một đường lối đối ngoại độc lập tự chủ để đứng vững được trong tình hình căng thẳng và rất nhạy cảm hiện nay – đặc biệt là trên Biển Đông; song hiện nay cả hai đòi hỏi này cho mặt trận đối ngoại đều chưa có.
Có thể nói, những yếu kém của đất nước trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế và khu vực – nhất là hiện tượng leo thang gây căng thẳng của Trung Quốc, đặc biệt là trên Biển Đông  – đang uy hiếp nghiêm trọng độc lập chủ quyền và kìm hãm sự phát triển của đất nước ta.
Hai là toàn bộ tình hình nêu trên đã được hàng nghìn ý kiến cảnh báo trong những kỳ chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ X và lần thứ XI của ĐCSVN, rất tiếc rằng không được lãnh đạo lắng nghe và tiếp thu.
Trong những ý kiến cảnh báo ấy, ý kiến quan trọng nhất là nhận định cho rằng nguyên nhân cơ bản của tình hình đất nước hiện nay là sự tha hóa và bất cập của toàn bộ hệ thống chính trị, bắt đầu từ Đảng. Nhận định này kết luận: Tình hình đòi hỏi phải thực hiện một cuộc cải cách chính trị triệt để và toàn diện để mở lối ra cho đất nước. Song trong thực tế, đòi hỏi vô cùng quan trọng này chẳng những bị gạt đi, mà toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước trong gần một thập kỷ vừa qua ngày càng tiếp tục lún sâu vào bảo thủ, giáo điều, quan liêu; tệ nạn tiêu cực và tham nhũng ngày càng nặng; các quyền tự do dân chủ của nhân dân ngày càng bị xâm phạm. Chính thực trạng này là nguyên nhân gốc làm cho những năm vừa qua là thời kỳ phát triển xấu nhất, nguy hiểm nhất trong suốt 37 năm độc lập đầu tiên của đất nước.
Nói riêng về ĐCSVN, những năm vừa qua cũng là thời kỳ quyền lực Đảng phạm nhiều sai lầm và có nhiều hiện tượng hư hỏng, suy đồi chính trị và đạo đức nhất kể từ khi thành lập.
Ba là, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã phần nào nhận ra thực trạng nguy hiểm nêu trên của đất nước và của Đảng, nhưng lại bất cập không dám nhìn thẳng vào toàn bộ sự thật, do đó chưa nhìn ra được nguyên nhân gốc là lỗi của hệ thống chính trị và của những quan điểm sai lầm của Đảng trong đường lối chính sách xây dựng và bảo vệ đất nước.
Với cách nhìn sự thật phiến diện như vậy, Hội nghị Trung ương 4 lấy tự phê bình và phê bình kiểm điểm cá nhân là phương thức giải quyết mọi sai lầm và yếu kém hay là bước đột phá đầu tiên; trong khi đó tiếp tục giữ nguyên và xiết chặt hơn nữa hệ thống chính trị theo hướng tăng cường “đảng hóa”, với mục đích tăng cường khả năng đối phó của Đảng với sự bất bình chính đáng đang ngày càng tăng trong nhân dân về mọi vấn đề của đất nước. Điển hình nhất của tình trạng “xiết” này là những hiện tượng: tăng cường “19 điều cấm trong Đảng”, sự kìm kẹp chưa từng thấy đối với trên 700 báo chí các loại của hệ thống chính trị (được gọi là báo chí “lề phải”), xuất hiện cái gọi là “đội ngũ dư luận viên” chưa hề có ở một quốc gia dân chủ nào, thẳng tay trấn áp đối với những người bất đồng chính kiến và đối với những cuộc biểu tình của nhân dân bảo vệ biển đảo của tổ quốc… v… v…
Cũng với cách nhìn sự thật theo kiểu tránh né nguyên nhân gốc như vậy. Hội nghị Trung ương 5 và 6 sau đó lấy chống tham nhũng là mặt trận chính. Quyết định này sai lầm ở chỗ (a)chủ yếu nhằm vào xử lý vụ việc, chứ không phải nhằm vào sửa lỗi hệ thống là chính, (b)đặt vấn đề chống tham nhũng lên trên mọi vấn đề cấp bách khác quan trọng hơn nhiều, nghĩa là rất cảm tính và thiên lệch – ví dụ như vấn đề ổn định kinh tế vỹ mô, trả lại các quyền tự do dân chủ của dân để thực hiện được chủ quyền của nhân dân cho phát huy sức mạnh nội lực, vấn đề tạo ra sự công khai minh bạch trong đời sống mọi mặt của đất nước, đòi hỏi trả lại vai trò phải có cho nhà nước pháp quyền để cả nước – bao gồm cả Đảng – phải tuân thủ pháp luật… Với 2 sai lầm lớn như vậy trong việc đặt ra vấn đề chống tham nhũng, lại thực hiện trong tình trạng Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị có quá nhiều tiêu cực và yếu kém, nên đến nay kết quả thực hiện các nghị quyết của các Hội nghị Trung ương 4, 5, 6 liên quan đến chủ đề này có nhiều biến tướng rất đáng lo ngại, đến nay có thể nói là thất bại. Chính đồng chí Tổng bí thư không dưới một lần gián tiếp nhưng đã phải công khai thừa nhận như vậy.
Hơn nữa, trong khi tập trung mũi nhọn vào chống tham nhũng một cách phiến diện như vậy, đã xảy ra một số sự việc, một số phát ngôn rất thiếu cân nhắc, thiếu trách nhiệm (đôi khi có cả thứ ngôn ngữ mang đặc tính “anh chị”) của một số người có trọng trách… Những hiện tượng này hình như cho thấy câu chuyện đang diễn ra không phải chỉ có việc chống tham nhũng, mà còn là biểu hiện bên trong của những động cơ, những hiện tượng “đánh nhau”, “đối phó với nhau”… không thèm đếm xỉa đến tác động như thế nào đối với  kỷ cương, sự uy nghiêm và mối an/nguy của quốc gia. Những hiện tượng này hoàn toàn không được phép xảy ra với những chính khách chân chính!
Qua các Hội nghi Trung ương 4, 5 và 6, quyền lực của Đảng đang tự mình tiếp tục làm mất thêm uy tín của Đảng và gây thêm nhiều khó khăn nguy hiểm cho đất nước. Đơn giản bởi lẽ “nhóm” nào thắng thì đất nước cũng thua; vì hệ thống chính trị có quá nhiều sai lầm và quyền lực của nó vẫn được bảo toàn nguyên vẹn, thậm chí đang được “xiết” thêm. Trong khi đó trí tuệ và nguồn lực mọi mặt của đất nước không được tập trung vào xử lý những vất đề cấp bách nhất của đất nước; xảy ra quá nhiều hiện tượng “vạch áo cho người xem lưng” làm ảnh hưởng đến an ninh và thể diện quốc gia. Toàn bộ tình hình nhạy cảm này chỉ tăng thêm cơ hội cho sự lũng đoạn của Trung Quốc…
Tình hình mọi mặt hiện nay của đất nước đã đi tới thời điểm không thể trì hoãn cuộc cải cách chính trị toàn diện. Bối cảnh quốc tế vừa đòi hỏi, thách thức, cũng vừa tạo ra những thuận lợi chưa từng có cho một cuộc cải cách chính trị để xây dựng nên một thể chế chính trị dân chủ cho Việt Nam. Đất nước ta hiện nay lại đang đứng trước yêu cầu bức thiết phải sửa đổi Hiến pháp và thực tế đang cho thấy Hiến pháp 1992 dù sửa thế nào cũng không thể đáp ứng những đòi hỏi phát triển mới của đất nước; vì những lẽ này, xây dựng một Hiến pháp mới phù hợp là bước khởi đầu đúng đắn cho tiến hành cải cách chính trị.
Bốn là, tôi xin trình bầy một số điểm chính về cải cách chính trị, với tất cả mong muốn thiết tha ĐCSVN không được trốn tránh – (1)vì lẽ: Đảng nợ nhân dân nhiệm vụ lịch sử sau khi đất nước đã được độc lập thống nhất, đó là xây dựng một thể chế chính trị dân chủ để thực hiện những quyền và hạnh phúc của nhân dân như đã ghi trong Tuyên Ngôn Độc Lập 02-09-1945; và (2)còn vì lẽ: ĐCSVN cần tranh thủ cơ hội cuối cùng này để tự giải phóng chính mình khỏi sự nô lệ của quyền lực, giành lại vai trò lãnh đạo dựa vào tính tiền phong chiến đấu của mình như ĐCSVN đã từng có một thời trong cộng đồng dân tộc suốt giai đoạn kháng chiến cứu nước, để trên cơ sở này phấn đấu trở thành đảng cầm quyền trong hệ thống nhà nước pháp quyền dân chủ.
Dưới đây là một số ý kiến cụ thể:
1. Kết thúc Hội nghị Trung ương 6, Bộ Chính trị đã nhận lỗi trước nhân dân và trước toàn Đảng về trách nhiệm đã để cho đất nước gặp nhiều khó khăn và lâm vào hoàn cảnh bị uy hiếp như hôm nay, đã tự giác tuyên bố sẵn sàng nhận kỷ luật của Đảng. Cá nhân tôi đánh giá cao việc nhận lỗi này. Tuy nhiên, tôi xin đề nghị Bộ Chính trị tự đặt ra cho mình mức kỷ luật là: Toàn thể Bộ Chính trị khóa XI hết nhiệm kỳ này sẽ thôi không tham gia vào bất kỳ cấp ủy nào của Đảng dù ở địa phương hay trung ương.
Toàn thể Bộ Chính trị khóa XI cam kết trước cả nước và toàn Đảng sẽ dẹp hết sang một bên mọi khúc mắc riêng tư với nhau, một lòng cùng nhau trong suốt thời gian còn lại của nhiệm kỳ khóa Đại hội XI này đem tất cả tinh thần và nghị lực với ý thức trách nhiệm cao nhất phát huy trí tuệ cả nước và toàn Đảng để
(a)tháo gỡ những khó khăn cấp bách nhất,
(b)thực hiện thắng lợi giai đọan đầu của cuộc cải cách chính trị;
(c)xây dựng được Hiến pháp mới và thiết lập được thể chế của nhà     nước pháp quyền dân chủ.
2. Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN khóa XI cũng phải cùng chịu trách nhiệm với Bộ Chính trị khóa XI về tình hình đất nước hiện nay, cần nhận lỗi trước toàn dân và toàn Đảng. Với tinh thần này, và đồng thời đáp ứng yêu cầu đem lại cho Đảng sức sống mới, toàn thể các đảng viên đã tham gia 2 khóa là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng sẽ thôi không tham gia vào danh sách bầu cử hay tự ứng cử vào BCHTƯ khóa XII nữa; và từ đây trở đi hình thành nguyên tắc không đảng viên nào được tham gia BCHTƯ quá 2 nhiệm kỳ, xóa bỏ hẳn cái “lệ”sống lâu lên lão làng. Từ đây tạo cơ hội thay đổi hoàn toàn việc tổ chức và xây dựng Đảng cho đúng với đòi hỏi phấn đấu trở thành đảng cầm quyền trong một thể chế chính trị dân chủ của nhà nước pháp quyền.
 3. Bộ Chính trị khóa XI huy động trí tuệ cả nước và tận dụng kinh nghiệm các nước đi trước cũng như khai thác mọi thành quả của văn minh nhân loại, phát huy bằng được chủ quyền và quyền năng của nhân dân, dấy lên tinh thần đoàn kết – hòa giải dân tộc, cùng nhau xây dựng thành công Hiến pháp mới cho một nước Việt Nam là tổ quốc muôn vàn yêu quý và là quê hương độc lập – tự do – hạnh phúc của mọi người dân Việt Nam. Nước ta sẽ cùng dấn thân với cả loài người tiến bộ cho hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển, tất cả cho con người và vì quyền con người.
Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ căn cứ vào Hiến pháp mới do dân định này, để xây dựng và tổ chức lại đảng mình, để có được khả năng, ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo trong xã hội dân sự, để từ đó phấn đấu được nhân dân lựa chọn (qua bầu cử trung thực) làm đảng cầm quyền theo những đòi hỏi và quy định của nhà nước pháp quyền (đặc biệt là những quy định về tự do bầu cử, tự do ứng cử và về sự tuyển chọn công chức của nhà nước pháp quyền).
Hiến pháp mẫu 2013 kèm theo Kiến nghị 72  rất đáng được đưa ra thảo luận rộng rãi trong nhân dân; cần khuyến khích có thêm một vài hiến pháp mẫu như thế và trao đổi công khai mọi ý kiến đóng góp khác nhau cho vấn đề Hiến pháp để nhân dân dễ so sánh, đối chứng.., qua đó tối ưu hóa sự lựa chọn của nhân dân.
Xin lưu ý: Chủ quyền tối cao của quốc gia thuộc về nhân dân, kể cả ĐCSVN cũng phải phục tùng và tuân thủ; vai trò lãnh đạo của ĐCSVN phải được thể hiện ở chỗ tạo mọi điều kiện để nhân dân thực hiện đầy đủ chủ quyền này. Đảng phải coi nội dung lãnh đạo như thế là nhiệm vụ tối cao và thiêng liêng nhất của mình trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
4. Đề nghị Quốc Hội, Bộ Chính trị và Chính phủ giao nhiệm vụ cho trên 700 báo chí của toàn bộ hệ thống chính trị tìm hiểu, nắm vững những kiến thức tiên tiến nhất của văn minh thế giới về hiến pháp, nhằm tổ chức học tập và quảng bá rộng rãi trong cả nước và trong toàn Đảng những kiến thức mới về xây dựng một chế độ chính trị dân chủ dựa trên kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự. Toàn bộ nguồn lực trí tuệ của cả nước cần được huy động cho việc nâng cao dân trí, nâng cao khả năng của nhân dân thực hiện chủ quyền của mình đối với đất nước và đối với chế độ chính trị, cổ vũ nhân dân tham gia xây dựng Hiến pháp mới, coi đây là nhiệm vụ đầu tiên đặt nền móng cho toàn bộ quá trình cải cách chính trị của đất nước.
Đồng thời Quốc hội, Bộ Chính trị và Chính phủ thả hết những người bất đồng chính kiến đang bị tù tội, chỉ thị cho các cấp và các địa phương phải tôn trọng mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và sự công khai minh bạch phải được bảo đảm trong mọi lĩnh vực của đời sống đất nước.
Cải cách chính trị cần được xem là một quá trình thường trực, lâu dài, để luôn luôn đổi mới, và cần được tiến hành song song – vừa là cứu cánh, vừa là tiền đề – với sự nghiệp canh tân đất nước.
5. Đề nghị Quốc hội, Bộ Chính trị và Chính phủ huy động trí tuệ cả nước, đăc biệt là cố sao mời gọi được trí tuệ của các trí thức có tầm nhìn và tâm huyết với đất nước, hình thành một chiến lược tổng thể và thiết kế các bước đi của một cuộc cải cách chính trị triệt để, nhằm thay đổi đất nước toàn diện và sâu sắc, sao cho quá trình cải cách này diễn ra một cách hòa bình, hài hòa, kinh tế ổn định và có hướng phát triển mới, đồng thời tiếp tục nâng cao vị thế đối ngoại của đất nước. Rất đáng tham khảo kinh nghiệm của Myanmar cho cuộc cải cách chính trị này ở nước ta – đặc biệt là những kinh nghiệm về phát huy chất xám của trí thức, kinh nghiệm thiết kế trình tự và tiến độ rất hợp lý các bước đi, sự lồng ghép các bước đi… trong quá trình thực hiện dân chủ, để vừa giữ được ổn định, vừa từng bước tháo gỡ khó khăn và phát triển kinh tế, tiến hành được cải cách hệ thống nhà nước pháp quyền, đồng thời nâng cao vị thế quốc tế để gìn giữ an ninh quốc gia.
Trong cải cách, cũng như trong khắc phục những sai lầm trên mọi phương diện kinh tế và chính trị, cần chú trọng quan tâm đến khắc phuc những lỗi hệ thống và những yếu kém vỹ mô là chủ yếu; cố gắng thực hiện tối đa nguyên tắc khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, không hồi tố; đồng thời nỗ lực hết mức thực hiện hòa giải, cố tránh hết sức có thể việc hình sự hóa các vấn đề… Tất cả nhằm giảm xuống mức thấp nhất mọi tổn thất và đổ vỡ mới, phòng ngừa phát sinh những rạn nứt mới có thể xảy ra trong quá trình cải cách, đồng thời nhờ đó có thể tạo ra sự tin cậy nhau và đồng tâm hiệp lực hướng về phía trước, phát huy tối đa mọi khả năng và nguồn lực cho việc mau chóng chuyển đất nước đi vào thời kỳ phát triển mới.
Hòa giải, khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, không hồi tố, tránh hết mức có thể việc hình sự hóa – đấy là cách mở lối thoát cho những vấn đề bế tắc hay có thể gây xung đột lớn trong quá trình cải cách, để vĩnh viễn khép lại quá khứ, để giảm xuống mức thấp nhất mọi tổn thất, để bảo tồn và chắt chiu mọi nguồn lực cho nhiệm vụ mở ra một giai đoạn phát triển mới của đất nước. Riêng những vấn đề liên quan đến ruộng đất, cần được giải quyết trên cơ sở ưu tiên lợi ích của nông dân.  
Toàn bộ bộ máy nhà nước và các lực lượng vũ trang cần được giữ nguyên trong quá trình cải cách để bảo đảm sự vận hành liên tục và thông suốt mọi hoạt động của quốc gia, điều duy nhất phải thay đổi là toàn bộ bộ máy nhà nước và các lực lượng vũ trang từ nay chịu sự điều hành của Hiến pháp và các cơ quan hiến định. 
Xây phải được đặt ở vị trí quan trọng hơn chống như trình bầy trên trong cải cách chính trị chính là với ý nghĩa: thỏa hiệp chấp nhận sự (đã) trả giá cho thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản hoang dã vừa qua, để từ đây chấm dứt thời kỳ này, để hòa bình và sớm chuyển nhanh một cách hài hòa sang thể chế mới, thời kỳ phát triển mới[2].
Xin lưu ý: Chính quyền của tổng thống Myanmar Thein Sein trong vòng 20 tháng đã hoàn thành được cả 3 việc khó tương tự như ở nước ta là: (1)cải cách chính trị, (2)ổn định và phát triển kinh tế, (3)nâng cao vị thế quốc tế của quốc gia. Đáng chú ý là việc chuyển đổi chính quyền quân phiệt độc tài Myanmar sang thể chế chính trị của nhà nước pháp quyền dân chủ, không tốn một phát súng, không mất một nhân mạng. Nguyên nhân thành công chủ yếu là những người nắm quyền lực cao nhất của đất nước này đã thấy được sự cần thiết và đồng lòng nhất trí tiến hành cuộc cải cách có ý nghĩa sống còn này, huy động được chất xám trong lòng dân tộc theo tinh thần hòa giải cho sự thành công của cải cách. Đấy chính là một cuộc cải cách chính trị tử trên xuống và thành công ngoạn mục, mặc dù đấy mới chỉ là những bước đi đầu tiên trên con đường vạn dặm để tiến tới một Myanmar phát triển.
Nhân đây xin cảnh báo: “Đục nước béo cò”, “cướp cờ”, “nguy cơ xuất hiện Lê Chiêu Thống đời mới” (ví dụ nhân danh bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN…) luôn luôn là những thủ đoạn các con buôn cơ hội đủ mọi chủng loại, dù là trong nước hay nước ngoài, thường xử dụng để kiếm lợi trên tổn thất và xương máu của đất nước ta vào lúc đất nước ta thực hiện bước ngoặt đi vào cải cách. Mong trí tuệ cả nước đừng bao giờ mất cảnh giác!
Tôi xin nhấn mạnh, việc sửa đổi/soạn thảo Hiến pháp mới nhất thiết phải được coi là bước mở đầu và là nền tảng cho toàn bộ quá trình tiến hành cải cách chính trị và cải cách ĐCSVN. Không cải cách chế độ chính trị và hệ thống nhà nước hiện hành, không cải cách và tổ chức lại ĐCSVN, Hiến pháp được sửa đổi hay Hiến pháp mới dù được viết hay như thế nào cũng sẽ là vô nghĩa, thậm chí sẽ chỉ càng gây thêm hiểm họa mới cho đất nước.
Kính thưa Quốc hội, Bộ Chính trị và Chính phủ,
Khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ và vượt lên nỗi sợ, quyết tâm dựa hẳn vào dân, lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay ngồi lại với nhau thì hoàn toàn có thể cùng nhau hội đủ mọi điều kiện trong tay thực hiện thắng lợi một cuộc cải cách chính trị từ trên xuống để đổi đời đất nước và đổi đời chính ĐCSVN trong hòa bình, mở đầu bằng xây dựng một Hiến pháp mới. Chắc chắn cả nước sẽ một lòng sắt đá với tinh thần Diên Hồng đứng đằng sau một quyết định hòa bình đổi đời như thế của lãnh đạo Đảng và Nhà nước! Như thế có gì mà sợ? Chỉ ở Việt Nam mới có tình huống này. Diễn tiến của lịch sử Việt Nam khách quan tạo ra như vậy. Càng để muộn, cơ hội này có nguy cơ lại vuột đi, như ba lần cơ hội lớn đã vuột đi trong gần bốn thập kỷ vừa qua[3].
Xin cứ ngẫm mà xem, trên cả thế giới này, chỉ một mình Việt Nam mới có những điều kiện đặc thù lịch sử dành cho ĐCSVN khả năng thực hiện một kịch bản hòa bình đổi đời như thế, nhất thiết lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay phải có tâm và đủ bản lĩnh nắm lấy! Đó cũng là kịch bản tối ưu duy nhất, đáng mong muốn nhất cho đất nước và kế thừa được truyền thống vinh quang trước đây của ĐCSVN, là trách nhiệm không thể thoái thác của ĐCSVN trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước. Ở các nước khác mà như ta hiện nay sẽ khó có chuyện này, chí ít thì cũng đã phải xảy ra vài ba cuộc “mùa xuân Ả Rập” rồi!.. Tuy nhiên cũng phải nhắc nhở: Sự chịu đựng của nhân dân ta đang ở mức báo động đỏ.
Nếu lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay bạc nhược bỏ lỡ kịch bản hòa bình đổi đời này, một kịch bản sụp đổ như ở Liên Xô vào lúc nào đó, sớm muộn sẽ xảy ra ở nước ta, do chế độ chính trị đang ngày càng mục nát bên trong và không đương đầu nổi những thách thức quyết liệt từ bên ngoài. Khác chăng so với Liên Xô hồi ấy là: Ở Việt Nam sẽ rất hỗn loạn và đẫm máu.
Trong cuộc chiến tranh 17-02-1979, Trung Quốc trong cùng một giờ đã cho khoảng nửa triệu quân ào ạt tấn công toàn bộ tuyến biên giới phía Bắc nước ta; sự việc này cho thấy: Một khi xảy ra sụp đổ chế độ chính trị như thế ở Việt Nam, không loại trừ xuất hiện tình huống vì bất kể lý do gì, quân đội Trung Quốc lúc nào đó sẽ can thiệp… Đất nước ta sẽ đi về đâu?.. Thế rồi sẽ làm sao tránh khỏi nguy cơ vấn đề Biển Đông là chuyện đã rồi như Hoàng Sa?!.. Vân vân và vân vân…
Sự nghiệp đất nước độc lập thống nhất phải hy sinh chiến đấu nhiều thế hệ mới giành được làm sao có thể bảo toàn nếu cứ kéo dài mãi tình trạng đất nước èo uột, lệ thuộc như hiện nay?! Lấy gì giữ vững sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia trong tình hình mới? Giữ đại cục mà nhiều yếu kém thế này liệu đất nước có được yên? Giữ đại cục đến mức nào thì là sự đầu hàng trá hình?..
Câu chuyện ngày càng rõ: Ngày nay giữ nước phải có toàn dân tộc và cả thế giới, chứ không phải là giữ Đảng như đang là đảng hiện nay! Ngày nay giữ nước, đất nước càng phải mau chóng trở thành một quốc gia phát triển!
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước cần nghiêm túc nghĩ lại tất cả! Dứt khoát cần thông qua cải cách chính trị xốc toàn dân tộc đứng dậy phát triển đất nước bền vững, xây dựng Việt Nam là một thành trì bất khả xâm phạm, cùng với cả thế giới gìn giữ hòa bình.
Bí quyết thành công của Cách mạng Việt Nam là: Tinh thần yêu nước Việt Nam đã từng đủ bản lĩnh giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ làm nên Cách mạng Tháng Tám và hoàn thành sự nghiệp giải phóng đất nước, giành lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, tranh thủ được sự hậu thuẫn của cả thế giới cho sự nghiệp vẻ vang này, và đồng thời đã xác lập được cho quốc gia vị trí quan trọng trên trường quốc tế.
Trước những thách thức mới quyết liệt từ bên ngoài, trước những đòi hỏi phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, hơn bao giờ hết Việt Nam cần tiếp tục giương cao ngọn cờ dân tộc – dân chủ với trí tuệ mới,  để xây dựng được đất nước độc lập – tự do – hạnh phúc, để có thể dấn thân cùng đi với cả thế giới. Tinh thần này cần trở thành linh hồn cho một Hiến pháp mới của đất nước bây giờ và mãi mãi về sau.
Bốn cuộc chiến tranh trong vòng một đời người, và biết bao nhiêu thương đau đến hôm nay đất nước vẫn đang còn phải chịu đựng, như thế là quá nhiều rồi! Mà đến hôm nay đất nước vẫn chưa ra khỏi cái nghèo và lạc hậu, có nhiều mặt tiếp tục lạc lõng! Tôi không thể chấp nhận nhân dân ta, đất nước ta lúc nào đó lại một lần nữa sẽ phải trầm luân trong một cuộc bể dâu mới đẫm máu.
Vì vậy tôi cho rằng phải thông qua hòa giải dân tộc để thực hiện cải cách toàn diện, nhờ đó thực hiện sự nghiệp canh tân đổi đời đất nước đến nay vẫn bị bỏ lỡ. Tiến bộ của văn minh nhân loại, của khoa học kỹ thuật và công nghệ, toàn cầu hóa ở nấc thang hiện tại.., tất cả vừa tạo cơ hội, vừa thách thức nước ta phải lựa chọn con đường của phát triển, bắt đầu từ thực hiện tự do, dân chủ.
Đúng ra phải nói thật với nhau cải cách chính trị đã để muộn mất 37 năm rồi – ngay sau khi đất nước độc lập thống nhất, chí ít là muộn 23 năm nay rồi – ngay sau khi chiến tranh lạnh kết thúc và Việt Nam hoàn toàn có thể đứng trên hai chân của mình! Không thể để muộn hơn nữa!
Chính sự chậm trễ này là nguyên nhân gốc làm cho đất nước độc lập mà nhân dân vẫn chưa có tự do, lối ra cho cuộc khủng hoảng đất nước đang lâm vào chưa rõ, mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020 trở thành ảo tưởng.
Chính sự chậm trễ này khiến cho đất nước đang lâm vào tình trạng bị động chiến lược đầy nguy hiểm: Chưa có một tầm nhìn, một lời giải nào thuyết phục cho những thách thức kinh tế và chính trị, đối nội và đối ngoại đất nước đang phải đối mặt trong bối cảnh siêu cường đang lên Trung Quốc trở thành vấn đề của cả thế giới mà Việt Nam ở vào vị trí địa lý tự nhiên, vị trí địa kinh tế và địa chính trị cực kỳ nhậy cảm.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước bây giờ đòi hỏi hơn bao giờ hết phải có toàn dân tộc và cả thế giới, sự chậm trễ này chưa giúp chúng ta trả lời làm như thế nào?!
Vì những lẽ trên, cải cách hệ thống chính trị của đất nước trở thành chuyện sống còn. Đòi hỏi xây dựng Hiến pháp mới đang cho đất nước một cơ hội.
Không có một thế lực nào bên trong hoặc bên ngoài có thể cấm nước ta đi vào một cuộc cải cách chính trị triệt để và toàn diện như thế, chỉ có sự tha hóa của hệ thống chính trị và tình trạng kìm hãm không dám thức tỉnh sự giác ngộ của nhân dân đang cản trở đất nước tiến hành nhiệm vụ này. Tự nhận về mình vai trò lãnh đạo, tại sao ĐCSVN không dám đứng lên tiền phong chiến đấu khắc phục hai trở lực này?
Tuy nhiên, mười bạn của tôi hôm nay, thì có đến chín người nói đòi hỏi ở ĐCSVN hiện nay, đòi hỏi chế độ chính trị này tự mình đổi đời bây giờ là điều không thể. Không ít bạn bè chí cốt và người thân trong nhà mắng tôi tư duy cải cách như thế là kẻ ngu trung, quở trách tôi sao không để cho ngôi nhà đã mục nát sụp đổ quách đi cho nhanh, kéo dài sự đau khổ của đất nước làm gì!?..  Vậy chỉ còn cách những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay hạ quyết tâm vượt qua điều không thể này.
Tôi nghĩ lãnh đạo Đảng và Nhà nước đang đứng trước cơ hội và có trách nhiệm ràng buộc khởi xướng cuộc cải cách chính trị hòa bình đổi đời đất nước và đổi đời chính bản thân ĐCSVN, bắt đầu từ xây dựng một Hiến pháp mới. Hoặc là để vuột mất cơ hội này và mắc tội đối với đất nước? Tôi không thay đổi được suy nghĩ của mình.
Kính thư,
Nguyễn Trung, 10 (60A) ngõ 45 A phố Võng Thị, Phường Bưởi, Quận Tây Hồ, Hà Nội, Đt. 04 38363036

[1] Xin gọi tắt là Kiến nghị 72, ngày 04-02-2013 đã được trao chính thức cho Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
[2] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, tiểu thuyết “
[3] (1)Cơ hội thực hiện hòa giải và thống nhất dân tộc ngay sau 30-04-1975; (2)Cơ hội độc lập đi với cả thế giới sau khi LXĐÂ sụp đổ; (3)Cơ hội đẩy nhanh quá trình bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN và gia nhập WTO.

Bai Blog Phuong Anh

Đọc bài thơ của Thanh Thảo: "Ghi trong ngày 17 tháng 2"

Hôm nay là ngày 17/2. Ba mươi bốn năm trước, vào ngày này, "tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới."

Lúc ấy, tôi mới chưa tròn 19 tuổi, vừa vào đại học. Những ngày ấy, tôi nhớ cả nước sôi sục trong không khí chiến tranh, khó khăn không sao kể xiết, và trên báo, đài truyền hình, phát thanh đâu đâu cũng nghe những bài ca chiến đấu. Những bài hát như "Điệp khúc tình yêu" (Nhớ, nhớ cái hôn đầu tiên anh chưa dành cho em ... nhớ cái hôn đầu tiên là hôn lên đôi mắt người bạn đã hy sinh/ nhớ bản tình ca đầu tiên là hành khúc lên đường ...), "Em vẫn đợi anh về" (Em vẫn đợi anh về như buồm căng đợi gió ... như lòng em khát anh, như đời khát hòa bình ...) là những bài hát tình yêu của lứa tuổi chúng tôi, một thế hệ khổ đau, the lost generation của Việt Nam như tôi vẫn thường nói.

Có một điều mà mọi người Việt Nam đều băn khoăn, là cuộc chiến biên giới phía Bắc với Trung Quốc vào năm 1979 rất ít được đề cập đến trong sách vở và báo chí chính thống của VN, trong khi cuộc chiến với Mỹ thì đã mấy chục năm rồi nhưng năm nào cũng vẫn được nhắc lại đầy đủ, kỹ lưỡng. Chúng ta đều hiểu những khó khăn của nhà nước Việt Nam trong mối quan hệ với người đồng chí lớn Trung Quốc, nhưng lẽ nào sự hy sinh của các chiến sĩ đã hy sinh mạng sống để bảo vệ sự vẹn toàn của đất nước lại có thể bị quên đi một cách dễ dàng như vậy?

Không, thực ra không có ai quên các anh, các chị cả, dù cho truyền thông chính thống có cố tình im lặng đi nữa (xin mở ngoặc: hôm nay trên báo Thanh Niên có một bài rất hay, nhắc về cuộc chiến này http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130217/nhin-lai-chien-tranh-bien-gioi-1979.aspx
 một cách trực diện, một sự dũng cảm đến ... bất ngờ. Hoan hô báo Thanh Niên!).

Tổ quốc và toàn dân luôn ghi công các anh hùng, liệt sĩ chống Trung Quốc xâm lược, cho dù chỉ là lặng lẽ trong lòng, hoặc nói ra bằng lời và đưa ra đến công chúng. Như bài thơ của nhà thơ Thanh Thảo mà tôi vừa tìm thấy trên mạng hôm nay:http://thongcao55.blogspot.com/2013/02/ghi-trong-ngay-17-thang-2.html

Xin mời các bạn cùng đọc, và hãy im lặng một phút để tưởng niệm những người con của Tổ quốc  đã bảo vệ giang sơn Việt Nam của chúng ta.

I

thú thật, có một nhà lãnh đạo Việt Nam

ngày trước tôi không mấy yêu quí:

đó là Tổng bí thư Lê Duẩn

bây giờ biết những điều ngày xưa chưa biết

bỗng thấy quí Ông vô cùng

dù đời Ông không ít sai lầm

thì đó vẫn là lãnh tụ duy nhất chống Trung Quốc bành trướng từ trong máu

người đầu tiên thoát Hán

người nhìn thấy dã tâm của “anh bạn lớn” từ rất sớm

người thề quyết chiến với một triệu rưỡi quân Tàu

ngay lúc họ mới tung chiêu “nạn kiều”


II

tháng 6/1978 tôi có mặt ở bến Nhà Rồng

chờ xem chiếc tàu Trung Quốc đón “nạn kiều”

rất nhiều người đứng trên bến tàu mặt căng thẳng

không biết họ đang nghĩ gì

tôi cũng không biết mình đang nghĩ gì

chỉ biết lúc ấy

chưa ai nghĩ có một ngày 17/2/1979



Lê Duẩn đã nghĩ



vậy mà ngày 17/2/1979

Ông vẫn bất ngờ



III

những ai đã khiến Tổng bí thư ngày ấy bất ngờ ?

trả lời câu hỏi này, là tìm ra kẻ phản bội



IV

chỉ một gã thượng tá Tám Hà chiêu hồi

đủ cho cả đợt 2 Mậu Thân tơi bời



V

xưa nay, tởm nhất là bọn phản bội

nhưng đáng sợ nhất, cũng là chúng



VI

17/2/2013

những “cuộc chiến tranh mềm”

những lệnh miệng khuất lấp từ đâu đó

những ấp ứ trong cổ

báo in sợ viết hai chữ “Trung Quốc” như sợ phỏng lửa

giặc rập rình ngoài ngõ

đêm thanh vắng “người nhái Tàu” trồi lên từ chân sóng Trường Sa

cười dọa và giết

trong nhà cứ ăn nhậu vô tư

nên gọi cái này là gì nhỉ?

Nhà thơ Thanh Thảo kết thúc bài thơ bằng câu hỏi: "Nên gọi cái này là gì nhỉ?" Nhưng thực ra là ông đã trả lời rồi: Đó chính là sự phản bội.

Người Việt Nam vốn vẫn tự hào vì mình là những con người chung thủy. Chúng ta sẽ không bao giờ phản bội. Chúng ta sẽ không quên ngày 17/2.