Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 1 tháng 2, 2018

Ấn Độ đã giới thiệu mẫu tàu tuần tra cao tốc dành cho Việt Nam.

Trên trang web của Công ty Đóng tàu Larsen & Toubro (L&T) của Ấn Độ đã giới thiệu mẫu tàu tuần tra cao tốc dành cho Việt Nam.
Theo đó, trong mục Sản phẩm và Dịch vụ được giới thiệu trên website của L&T — một trong những công ty đóng tàu lớn nhất Ấn Độ đã có hình ảnh được giới thiệu là tàu cao tốc dành cho Lực lượng Biên phòng Việt Nam.
Trước đó, các nguồn tin từ Ấn Độ cho biết rằng công ty L&T đã nhận được hợp đồng trị giá 99,7 triệu USD (nằm trong gói tín dụng mà Ấn Độ cung cấp cho Việt Nam) nhằm thiết kế và đóng mới các tàu tuần tra cao tốc cho Lực lượng Biên phòng Việt Nam.
"Larsen & Toubro (L&T) đã ký hợp đồng với Lực lượng Biên phòng Việt Nam nhằm thiết kế và đóng mới các tàu tuần tra cao tốc tại Ấn Độ cũng như chuyển giao thiết kế và kỹ thuật đi kèm với việc cung cấp thiết bị và vật liệu cho việc tiếp tục đóng các tàu này tại các nhà máy ở Việt Nam," công ty cho biết.
Các tàu tuần tra cao tốc này được đóng cho mục đích tuần tra và bảo vệ lãnh hải, phát hiện các hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu và thực hiện các nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn.
Theo thiết kế thì con tàu được đóng bằng hợp kim nhôm, có chiều dài khoảng 35m và có thể đạt đến tốc độ tối đa 35 hải lý/giờ. Trên tàu được trang bị các thiết bị hàng hải, giám sát cũng như vũ khí tiên tiến.
Tổng giám đốc L&T là ông B. Kannan cho hay hợp đồng này gồm 12 chiếc, dự kiến bàn giao sau 30 tháng.
Nguồn: Thời Đại


Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHẬT KÝ LÝ QUỲ - TỤ NGHĨA SẢNH

NHẬT KÝ LÝ QUỲ - P.1
Vinhhuy Le

Tháng 9 năm 2012, từ Bắc Kinh, nhà xuất bản tiếng tăm chuyên về văn học cổ điển “Trung quốc thư điếm” cho phát hành tác phẩm “Nhật ký Lý Quỳ - Tụ Nghĩa sảnh” của Thương Thổ. Ngay lập tức, quyển sách mỏng chưa đầy 150 trang chữ vuông này làm xôn xao văn đàn đại lục.Thương Thổ chỉ là bút hiệu, chẳng ai biết được tên thật, và thân thế của tác giả cũng rất mơ hồ. Người ta chỉ biết đó là một anh chàng sinh khoảng 198x, sống đâu đó ở miền duyên hải, từng làm công chức, sau chuyển qua xí nghiệp quốc doanh, rồi bỏ về lấy việc sáng tác làm vui.“Nhật ký Lý Quỳ” dựa trên những trải nghiệm của hảo hớn Hắc toàn phong hai búa bặm trợn, qua đó mô tả bản chất các nhân vật Lương Sơn, cùng mối quan hệ bề ngoài thuận thảo nhưng bên trong chứa chan thù nghịch giữa họ với nhau. Vì quyền lợi riêng tư, 108 anh hào sẵn sàng bôi nhọ, chà đạp, hạ nhục và sát hại lẫn nhau, bằng mọi giá và mọi thủ đoạn.Chỉ đọc vài trang, người ta nhận thấy ngay, tác phẩm này tuy kể chuyện thảo khấu nhưng thực ra là phê phán quan trường. Và “Nhật ký Lý Quỳ - Tụ Nghĩa sảnh” đã khơi nguồn cho một trào lưu văn học mới trên toàn đại lục, nhiều tác phẩm thuộc thể loại “tiểu thuyết quan trường” này, như: “Nhật ký Sa tăng”, “Bí sử thiên đình” v.v.… lần lượt ra đời, vạch mặt kể tội bộ máy công quyền từ trên xuống dưới, chẳng chừa một ai.Hai năm sau đó, tháng 7-2016, đáp lại mong chờ của độc giả, Thương Thổ lại tung nốt phần sau của tác phẩm, “Nhật ký Lý Quỳ - Trung Nghĩa đường”, kể tiếp chuyện hậu trường của Lương Sơn kể từ Tống Giang lên làm đảng trưởng. Trong đó, dưới lá cờ “Thế thiên hành đạo” là cả một trường điên đảo xâu xé tưng bừng.Ở Trung quốc, “Nhật ký Lý Quỳ” là hiện tượng gây sốc, nhưng ở Việt Nam, chẳng mấy ai biết tới nó.Kẻ hèn mọn này nhân thấy vận khí nước ta ngày một cuồn cuộn dâng cao như hải triều thịnh nộ. Ngọn cờ chính nghĩa “chống tham nhũng” ngót một phần tư thế kỷ nay liên tục hùng dũng phất phơ, khí thế hừng hực thậm chí biến công cuộc tham nhũng trở thành văn hóa phi vật thể, tạo nên nếp sống mới trong sinh hoạt cộng đồng.Ở xứ ta, cách tốt nhất để chống tham nhũng là phải nắm vững cơ cấu của nó, đặng sống chung với nó trên từng cây số. Về mặt này, “Nhật ký Lý Quỳ” thấm đẫm tinh túy, đầy chất nhân văn, sẽ mang lại nhiều bổ ích thiết thực. Đồng thời, tác phẩm này có thể coi là kinh điển, đáng để các quan chức nước ta gối đầu giường để sống, học tập, tu dưỡng và làm theo; nó sẽ giúp quý ông bà tiết kiệm được nhiều xương máu trên chốn quan trường đầy cạm bẫy, do các đồng chí mình bủa giăng.Nay xin trân trọng dịch, à ha!


NHẬT KÝ LÝ QUỲ - TỤ NGHĨA SẢNH


LỜI NÓI ĐẦU

Hồi nẳm, vì trí nhớ kém, e sẽ quên đi nhiều thứ, tôi bèn ghi nhật ký. Sau đó lại lười biếng nên lần hồi bỏ qua, không viết nữa.
Hôm nay tôi quyết định viết tiếp, vì nghiệm ra rằng: nhật ký không chỉ để nhắc nhở bản thân mình, mà còn có thể dùng nhắc nhở kẻ khác. Chẳng hạn hôm kia, Nụy cước hổ Vương Anh bảo: “Ê, Hắc xì dầu, anh còn thiếu tôi hai mươi lạng bạc, tính chừng nào trả?” Tôi bực dọc hỏi mình thiếu tiền hắn hồi nào? Vương Nụy Hổ cau có nhắc, ngày đó tháng đó năm đó, vì cớ gì đó, tôi mượn hắn hai mươi lạng, chẳng lẽ mau quên vậy sao? Tôi đứng đực ra hồi lâu, gãi đầu gãi tai mãi chẳng nhớ ra manh mối, đành bảo: “À, đợi tôi về tra lại nhật ký coi thử”. Vương Nụy Hổ có phần hồi hộp, hỏi gặng: “Anh ghi cả nhật ký kia à?” “Ừm!”
Buổi tối, tôi đương lật hòm moi tủ tìm cuốn nhật ký thì tên lùn hộc tốc chạy tới, thổ hổn hển: “Hắc xì dầu, thiệt là có lỗi, tôi nhớ lộn, té ra không phải anh nợ tôi!”
Tôi thở phào nhẹ nhõm, phải viết tiếp thôi!
* * *
CHƯƠNG I: LÃNH ĐẠO LÀ LOÀI ĐỘNG VẬT ĐẠO ĐỨC GIẢ

(1) CON CỦA HỖ TAM NƯƠNG GIỐNG AI?

Nhất trượng thanh Hỗ Tam Nương sanh rồi, được đứa trẻ bụ bẫm. Tôi hơi lấn cấn: mới đám cưới hồi tháng hai, mà nay chỉ đầu tháng tám, vụ này ắt ẩn chứa huyền cơ.
Lại hội họp ở Tụ Nghĩa sảnh, vô duyên lãng xẹt, tôi chả ưa mấy vụ họp hành này tẹo nào, nhưng dây mơ rễ má chằng chịt, ra đụng vào chạm, không dự cũng khó ăn nói, mà tới đó lại phải gò bó lễ nghi…
Thiệt là tình, tôi chỉ là tên đường chủ, cán bộ quèn, lương bổng mỗi tháng trơ khấc hai mươi lạng bạc. Vài ngày trước, Phích lịch hỏa Tần Minh mần đám cưới, tôi đã phải ói ra mười lạng. Hắn là cán bộ trung ương cấp sảnh, mừng ít quá sẽ khó coi; huống hồ, chẳng kính thầy chùa cũng nể mặt Phật, sau này có thể tôi sẽ về làm thuộc cấp dưới quyền anh vợ hắn, là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh. Tuy vậy trong bụng không khỏi rủa thầm: thằng Tần Minh mất dạy, cưới vợ bé thôi mà, có cần phải linh đình vậy không? Cầu cho mầy đẻ con không lỗ đít!
Hỗ Tam Nương và Vương Nụy Hổ cũng là đường chủ, cấp bực chỉ ngang tôi. Nụy Hổ võ nghệ làng nhàng, nhân phẩm xí mứng, định bụng mừng hai lạng là vừa. Nhưng tiếng nói của Hỗ Tam Nương coi bộ nặng ký với Tống đại ca, sắp tới lại có đợt luân chuyển cán bộ, lúc này đang giai đoạn nước rút, thôi thì từ bi xả lũ, thí cho mẹ con nhà nó năm lạng vậy!
Còn lại năm lạng phải để dành, bởi nghe đâu ông già của Lãng lý Bạch điều Trương Thuận cũng sắp sửa đứt hơi tới nơi.
Hên hú hồn, tháng này xuống núi ăn hàng trúng mánh, theo quy định trích mười phần trăm huê hồng của sơn trại, chắc mình cũng được chia cỡ mười lạng. Sáng mai phải xin tạm ứng, không thôi là hút gió.
Tiệc tùng long trọng, các huynh đệ đều đủ mặt, ai cũng chẳng tiện tới tay không. Tên lùn hớn hở lắm, bản mặt chành bạnh ra, cười không giống cười, mếu chẳng phải mếu, càng nhìn càng dị hợm. Hừm, chẳng hiểu sao Hỗ Tam Nương lại nhắm mắt ưng tên này, uổng cụm bông lài cắm bãi cứt trâu.
Buổi tiệc xảy chuyện không vui, Thiết tháp thiên vương Tiều Cái với Cập thời vũ Tống Giang lại cự lộn. Chuyện chẳng đáng gì, Tiều thiên vương nói đứa bé giống cha, Tống đại ca thì bảo là giống mẹ. Tào lao, đi tranh cãi ba chuyện ruồi bu, thiệt là quá rảnh!
Cãi nhau một hồi bất phân thắng phụ, cả hai mặt đỏ bầm bầm như gà cồ nứng máu. Chướng một nỗi họ lại quay ra dắt bầy, đốc xúi lũ đàn em phải ra mặt. Báo tử đầu Lâm Xung bèn giả đò say tới bến, đâm đầu lao ra ngoài móc họng ói mửa, Thần hành Thái bảo Đái Tông thì bất thần bị điếc. Công Tôn Thắng, Lưu Đường, ba anh em nhà họ Nguyễn theo hùa Tiều thiên vương; Hoa Vinh, Võ Tòng với Lỗ Trí Thâm thì phụ họa Tống đại ca. Ngô Dụng chẳng hổ danh Trí đa tinh, khen là đứa bé có cái mũi giống cha, cặp mắt giống mẹ, người học thức quả là lẻo lự lắm chiêu!
Tới lượt mình, tôi trầm ngâm ngắm nghía một hồi mới phán: “Sai bét, thằng nhóc này giống mỗ!” Hỗ Tam Nương nổi tam bành, hắt chén rượu vô mặt tôi. Cả đám cười hô hố, vậy là qua truông.
Thiệt ra, thằng nhóc đen thui xấu hoắc, liếc sơ giống hệt Tống đại ca, nhưng mà tôi không dám nói.

(2) RƯỢU SAY LÒI BỔN TÁNH

Rượu thiệt hay, nó giúp người ta quên đi hiềm khích.
Tiều thiên vương uống nhiều rồi, Tống đại ca nốc cũng bộn. Đôi bên trước đó đỏ mặt tía tai, lộn lòng mề chẳng đội trời chung, tưởng nuốt sống đối phương không nhả miếng xương, thoắt cái đã tay nắm vai kề, tâm đắc hàn huyên kỷ niệm thời kháng chiến, thân thương hơn cả anh em cùng máu mủ. Cha chả, trở mặt lẹ như trở bánh phồng, xem ra muốn làm lãnh tụ không phải chuyện dễ!
Vậy là ổn, có thể thả ga uống rồi. Hồi nãy tôi cứ luýnh quýnh: hai bên mà đập lộn, mình biết tính sao cho phải? Tiều thiên vương bự con vạm vỡ, mạnh như trâu cui; Tống đại ca nhỏ téo héo queo, nếu uýnh nhau ắt là lỗ nặng.
Theo lý mà nói, tôi là đệ ruột Tống Công Minh, tất phải ra tay giúp ảnh, mà làm vậy là chọc giận Tiều thiên vương, người ta nắm oai quyền, đì cho một phát thì mình tiêu đời; bằng cứ khoanh tay, thế nào Tống đại ca cũng cho mình là đứa hai lòng…
Tôi bèn nảy ra diệu kế: giả say lăn quay ra là thượng sách. Nhưng vừa ngó xuống chọn chỗ đã thấy Thanh diện thú Dương Chí chui sẵn dưới đít ghế tự hồi nào, hắn vừa chụp chân Hỗ Tam Nương vừa gào rót thêm chén nữa. Mình là đứa khù khờ, màn này khó bì Dương Chí, chi bằng quay qua dộng cho Xích phát quỷ Lưu Đường hai đấm. Hắn là thân tín của Tiều thiên vương, làm vậy có thể tỏ lòng trung của mình với Tống đại ca, mà cũng không đến nỗi đắc tội chủ trại. Chỉ thiệt thòi Lưu Đường, tôi với hắn bạn bè thân thiết, ngặt nỗi đương khi nguy cấp, chẳng hơi đâu đếm xỉa tình nghĩa khê thiu. Được cái tên quỷ tóc đỏ cũng sáng ý, hắn trợn mắt xắn tay áo nhào tới phối hợp liền, hai tụi tôi sắp xáp lá cà thì vừa lúc hai trự kia cũng giảng hòa.
Tiều thiên vương nắm riết Tống đại ca mà lèm bèm: “Hồi nẳm, cướp sinh thần cang, nếu không có hiền đệ báo tin kịp thời thì bọn mỗ đã tiêu tùng. Đệ chính là đại ơn nhơn của Lương Sơn Bạc, ngôi chủ trại này phải nhường đệ ngồi mới xứng”. Tống đại ca lắc đầu lia lịa, ríu lưỡi líu lo: “Bận đó cướp pháp trường Giang Châu, nếu không được lão đại kịp thời kéo anh em tới cứu, e thân này đã thành quỷ không đầu, ghế chủ trại cứ cho anh ngồi mới đáng”.
Mấy vụ này, họ đã lải nhải miết hơn tám trăm lần, thiếu điều quện thành kén lùng bùng đầy lỗ tai. Thần cơ Quân sư Châu Võ thì cười khẩy. Còn tôi cũng biết, đàng sau đó không phải chỉ đơn giản vì hai chữ “nghĩa khí” suông...
Ngô Dụng phe phẩy cây quạt lông chim lộng gió bốn phương, ngâm nga lãng dang: “Ước gì nhà cất muôn gian, Để cho hàn sĩ hân hoan mặt mày”[*]. Bộ dạng, thần thái đó, ngó thiệt là đau lòng, cứ như cha hắn vừa mới chết. Tôi thầm nhủ, người trí thức quả là xạo con bà nó xự. Lũ chúng ta là giặc cướp, nhà cửa dân lành bị bọn ta đốt, đàn bà trẻ con bị bọn ta hiếp giết, ngươi còn ở đó làm bộ độn thêm nhưn cho bánh bao, quân chết bầm! Nhưng lời đó lại chẳng thể thốt ra, bởi dù gì người ta cũng là lãnh đạo.
Cái giống lãnh đạo bẩm sinh đã là động vật đạo đức giả, không thấy Tống đại ca với Tiều thiên vương đó sao: tuy sau lưng, họ vẫn thường hỏi thăm cụ thể ông bà nội ngoại mười tám đời nhau, nhưng ngoài mặt vẫn ân cần thân thiết xưng huynh gọi đệ!
Còn Nhập vân long Công Tôn Thắng vốn là đạo sĩ. Theo lý, người xuất gia không được uống rượu, y ta bèn uống toàn rượu gạo, rồi chống chế rượu gạo chính là rượu chay, nên mình không hề phạm giới. Hừm, những chuyện giết người phóng hỏa y đều đã nhúng tay, vậy mà còn ra vẻ sĩ diện ba mớ râu ria; đã làm đĩ còn muốn tiết hạnh khả phong, thiệt quân điếm thúi! Coi Hoa hòa thượng Lỗ Trí Thâm kìa, cũng xuất gia nhưng người ta đàng hoàng biết mấy, muốn uống rượu là uống, muốn ăn thịt là ăn, có ai cười nhạo hắn đâu?


[*] Thơ Đỗ Phủ, bài “Mái nhà tranh bị gió tốc”:
安得廣廈千萬間 An đắc quảng hạ thiên vạn gian
大庇天下寒士俱歡顏 Đại tý thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan
《茅屋為秋風所破歌》“Mao ốc vị thu phong sở phá 


Dịch nghĩa: Mong sao có được ngàn vạn gian nhà lớn, Để giúp cho hàn sĩ trong thiên hạ đều được vui vẻ.


(3) BA ĐIỀU ĐÁNG XẤU HỔ CỦA DÂN NHẬU


Dân nhậu có ba điều đáng xấu hổ: một là mình nhậu say ôm vợ bạn, hai là vợ uống say ôm bạn mình, và ba là vợ bạn uống say ôm mình.
Điều thứ nhất là kinh nghiệm của Lỗ Trí Thâm. Nghe nói có lần quá chén, hắn níu riết vợ Báo tử đầu Lâm Xung mà lải nhải dây dưa. Lâm Xung đứng kế bên chẳng xen được câu nào, giận tím mặt mày, muốn trở mặt lại e sứt mẻ tình bạn, cuối cùng nhịn hết xiết mới kéo tay áo hắn mà rằng: “Đại sư à, đây là vợ tôi”, chừng đó hắn mới sượng sùng buông tay. Tuy nhiên đó đã là chuyện xưa lắc, hồi họ còn chưa nhảy bưng theo vẹm.
Điều thứ hai là thu hoạch của Một vũ tiễn Trương Thanh: Cừu Quỳnh Anh, vợ hắn, hễ rượu vô gặp trai là quấn. Mỗi lần bị vậy, hắn ngồi ngây ra đó, mặt giận trắng bệch ngó y cái củ cải trắng; vụ này tế nhị, anh em chẳng tiện an ủi, hắn cắm đầu uống rượu mình ên, qua ba vòng xoay tua thì mặt mày bắt đầu đỏ ửng như trái cà chua; tới chừng tan tiệc, hắn quắc cần câu, mặt vàng như trái dưa gang. Lâu ngày chầy tháng, được thiên hạ ban luôn cho ngoại hiệu là “Vườn rau củ”.
Điều thứ ba là tổng kết của Hành giả Võ Tòng. Hắn đẹp trai bảnh tỏn, gái thấy liền ưa, nên thường xuyên bị phụ nữ quấy rầy, trong đám đó có chính chị dâu hắn, và người đàn bà đó đã bị hắn giết. Chân tướng vụ này hắn không hề hé môi, và tất nhiên cũng chẳng ai dám hỏi.
Tôi không có những trải nghiệm tương tự, bởi ba lý do: một là tôi ế vợ, nên miễn được nỗi nhục phải thấy vợ ôm ông bạn mình; hai là tôi uống say toàn ôm gốc cây khóc rống, tuyệt không ôm đàn bà, hay đúng ra là chẳng đàn bà nào dám chịu tôi ôm; ba là nào giờ không phụ nữ nào cả gan ôm tôi, dù trong cơn say, thậm chí dù có say tới bến, lúc nhìn thấy tôi, e là họ cũng phải tỉnh con bà nó rượu.
Tôi chỉ khám phá ra một quy luật: diện mạo đàn ông có tác động lớn tới tửu lượng đàn bà. Tỷ như ngồi cạnh tôi, phụ nữ nào cũng thành anh thư lẫm liệt, giơ thoi xắn áo, uống ngàn chén vẫn tỉnh queo, có khi còn văng vài câu mẹ kiếp; đổi lại nếu ngồi kế Võ Tòng, thì họ mới nhấp hai ngụm là mặt mày đỏ ửng, hết than vãn nhức đầu lại lảo đảo lắc lư y như vong nhập.
Tối nay, Mẫu dạ xoa Tôn Nhị Nương lại quá chén. Váy đỏ xệ lòi nây bụng, con mẻ giẫm một chân lên ghế, phun nước bọt phèo phèo, một hai níu kéo Võ Tòng đòi cụng chén. Võ Tòng lúng túng đỏ mặt, uống cũng dở mà không uống cũng dở... À ha, hóa ra bảnh trai cũng là gánh nặng.
“Cái giống đàn bà, ba ngày không ăn đòn là lộng hành tốc nóc”, đó là lời Vương Nụy Hổ giáo huấn Thái viên tử Trương Thanh. Trương Thanh rầu rĩ cho biết, mình vẫn thường xuyên có đòn, nhưng là bị ăn đòn. Tên Trương Thanh này đúng mạt vận, thế quái nào lấy nhằm con chằn lửa ngựa bà, khiến bỏ nó thì không dám bỏ, mà đánh nó thì đánh không lại, phải ngậm ngùi tội nợ một đời; cỡ gặp tay tôi, đã xáng con vợ bạt tai văng vách.

(4) CƠN THỊNH NỘ CỦA LÂM XUNG

Trong tiệc rượu ồn ào, các anh em thù tạc tưng bừng, riêng Lâm Xung ngồi góc sảnh rót uống mình ên, tôi bèn mò qua cụng chén. Thiệt lòng tôi không mấy ưa tính cách ngọn cỏ đầu tường, gió chiều nào phất phơ chiều nấy của người này. Chẳng qua, ai nấy đều bận rộn, chỉ mỗi hắn đang huỡn; vả lại, nhiều khi hai thằng đàn ông ngồi uống với nhau, đâu cần phải lý do gì.
Lâm Xung tửu lượng ghê hồn, tôi chưa từng thấy hắn say bao giờ. Nhưng hôm nay có khác, hắn ngồi đó, gương mặt lạnh tanh, hai mắt đỏ ngầu, nốc liền tù tì hết chén này qua chén khác, tâm trạng coi bộ không mấy ổn.
Cũng phải, nhìn chim sáo sang sông, mấy ai khỏi chạnh lòng. Hỗ Tam Nương là do hắn đánh bại, chiếu theo luật lệ nghìn đời, nàng phải thuộc về hắn, đôi bên lại trai tài gái sắc vừa đẹp đôi. Dè đâu, lễ vật đã nạp đủ, khăn đỏ cô dâu cũng sắm sẵn, thậm chí râu đã cạo láng, tắm vừa ráo mình, chỉ còn chờ động phòng là bung vách, thì Vương Nụy Hỗ bỗng thọc gậy bánh xe. Tên lùn khóc lóc kể lể với Tống đại ca, rằng Hỗ Tam Nương do hắn bắt đặng, nên phải gả cho hắn. Lâm Xung hồi đó khù khờ chưa biết phải quấy, chỉ bấu víu nhờ vả mỗi một bên là Tiều thiên vương, khiến Tống đại ca đổ quạu duyệt luôn cho Nụy Hổ.
Tội cho Hỗ Tam Nương, lúc mới bị bắt, cô nàng khăng khăng thà chết không cam khuất nhục. Tống đại ca hết mực dỗ dành, bảo là sẽ gả cho vị đầu lãnh võ nghệ cao cường, nhân tài xuất chúng, đã từng giao đấu với nàng. Hỗ Tam Nương tưởng bở là Lâm giáo đầu, mới e thẹn xiêu lòng. Chừng bái xong thiên địa, vào trong buồng cưới mới tá hỏa là tên Vương thấp cẳng. Cừu non sa nhằm hang sói, hối hận đã muộn màng, nàng ngậm ngùi phải vâng duyên phận.
Lâm Xung vốn đã ít nói lại càng lặng lẽ, cả ngày bản mặt ó đâm cứ trơ ra thườn thượt, từ đó hắn càng ít qua lại với Vương Nụy Hỗ. Cũng khó trách hắn, mối hờn bị giựt vợ, dễ vài chén rượu có thể nguôi ngoai.
Lúc này, thấy Vương Nụy Hỗ mặt mày bí xị đi ngang, Lâm Xung chận lại kiếm chuyện: “Nhà có tiệc vui, sao ngó bộ anh rầu rĩ vậy? Bọn này có ăn chùa đâu, mà anh đặt tiệc cũng chỉ mấy món sơ sài, bữa nay kiếm bộn còn gì?”
Vương Nụy Hổ sượng sùng: “Kiếm đâu mà bộn, lỗ sặc gạch đây! Tiền mừng được ngàn lạng bạc, mà vốn đặt tiệc tới hai ngàn mốt!” Lâm Xung vỗ bàn quát: “Nói láo! Rau cải toàn tập tàng, cá mú chài dưới hồ, thỏ thì bắt trong rú, đều là của không vốn, làm gì ngốn tới nhiêu đó tiền?” Lâm Xung hơi lớn tiếng, nên Vương Nụy Hổ giơ ngón tay suỵt nhỏ: “Tiệc là đặt của nhà hàng Tống Thị!” Lâm Xung giằng cạch đôi đũa xuống bàn: “Nhà hàng đứa nào cắt cổ dữ bây?” Tôi giựt cùi chỏ, nhắc nhẹ: “Chủ nhà hàng Tống Thị là Thiết phiến tử Tống Thanh, em ruột Tống đại ca!”
Lâm Xung như bị nhúng qua thùng nước nhuộm, sắc mặt thoắt đỏ liền trắng, hết trắng lại xanh, bao nhiêu nộ khí bỗng chốc tiêu tan, hắn sầm mặt nhiếc móc Vương Nụy Hổ: “Bữa tiệc hôm nay vậy là đáng giá: rau cải tươi non, súp cá bổ dưỡng, thỏ xào thơm ngọt, giá hai ngàn mốt là nới cho anh lắm rồi, có phải vậy không, hả?” Vương Nụy Hổ nửa cười nửa mếu: “Anh nói đúng, thiệt là phải phải!” nói xong, hắn liền chuồn mất.
Hỡi ơi, làm người đã khó, làm giặc cướp càng khó hơn, nhưng muốn làm tên giặc cướp cho ra hồn mới là thậm khó!

(5) TÀI TRÍ BẬC ĐÀN ANH


Đêm đã khuya lắc, tôi vẫn chưa dám ngủ, vì phải chờ cửa Tống đại ca.

Sau khi lên Lương Sơn, hành tung Tống đại ca trở nên chập chờn bất định. Ảnh hiếm khi ngủ ở nhà mình, nửa đêm nếu không qua gọi cửa chỗ tôi thì cũng gõ bên nhà Hoa Vinh hoặc Võ Tòng, mà cũng chẳng khi nào ảnh ngủ yên một chỗ quá hai đêm.
Lạ lắm, nhà Tống đại ca như bị quỷ ám, nếu không thình lình bốc cháy thì cũng bỗng dưng sập tường, thậm chí hôm bữa còn bất thần vọt đâu ra nguyên cặp rắn độc. Tôi thiệt không biết, cha nội này kiếp trước lỡ gây nên tội nghiệt gì!
Chuyện Tống đại ca tới ngủ, tôi miễn ý kiến ý cò. Ảnh không đòi ngủ giường nệm, cũng không lăn ra choán nền gạch, cứ hễ vừa tới là lẳng lặng trèo lên nằm sấp trên xà nhà, còn khoe từ nhỏ đã quen ngủ kiểu vậy. Không biết ảnh quen cỡ nào, sáng ra toàn thấy ảnh nằm lăn mặt đất, lỗ mũi ăn trầu cái đầu xỉa thuốc, ke nhễu lầy nền.
Hồi nãy trong bữa tiệc, tôi hỏi ảnh lát nữa có ghé chỗ tôi không. Tôi chẳng có ý gì sâu xa, chỉ là muốn biết cho chắc đặng thức canh cửa, không thôi tôi đã ngủ thì trời gầm không dậy. Dè đâu câu hỏi bình thường lại làm Tống đại ca chạm nọc, lúc đó mặt ảnh sa sầm, dài thượt như mặt ngựa, sẵng giọng bảo luôn không ghé. Tôi biết ngay là ảnh sẽ tới, bởi lời nói của đại ca luôn mang ý nghĩa trái ngược, nếu nói không ghé là nhất định sẽ ghé, còn nếu dặn ghé thì thì chắc chắn không ghé, tôi biết tỏng điều này từ khuya.
Quả nhiên đúng như tôi đoán, giữa đêm thì Tống đại ca mò tới. Vừa bước vô, ảnh đã cười toét: “Sao hả, Hắc xì dầu, không dè anh đến phải không?” Đại ca đắc ý quá đi, tôi liền dụi dụi đôi mắt, làm bộ kinh ngạc: “Ủa, Tống đại ca, lúc nãy anh nói không tới mà?” Đại ca cười ha hả: “Hư tức là thực, thực tức là hư, hư hư thực thực, quỷ thần không hay; đó mới là cảnh giới tối cao của binh pháp Tôn tử[*]”.
Tôi nhủ thầm trong bụng: “Vậy thì hoặc tôi đây quá thông minh, hoặc là Tôn tử kia quá ngốc”. Bất giác, tôi tự hỏi, phải chăng những khi tôi tưởng mình thông minh, chính là lúc thiên hạ đang giả đò si ngốc?
[*] Tôn tử binh pháp, thiên 6 – Hư thực.




Phần nhận xét hiển thị trên trang

Những loài cây có thể khiến bạn “nhập viện” chỉ với một cái chạm nhẹ

Dn trí 


“Táo biển” là cái tên đáng sợ hàng đầu trong danh sách này. Được biết, cây Táo biển độc đến mức, chỉ một giọt nước mưa lăn nhẹ qua lá của nó, cũng có thể khiến người đứng bên dưới bị bỏng da khi tiếp xúc. Còn nếu vô tình ăn phải trái Táo biển, kết cục xấu nhất có thể xảy đến với nạn nhân chính là… cái chết.

Manchineel là một loài cây thuộc họ Đại kích, thường được tìm thấy trong tự nhiên ở bang Florida (Mỹ), vùng Caribbean và một vài khu vực tại Trung và Nam Mỹ. Với kiểu hình của lá và quả gần giống với cây táo, nó thường được người dân địa phương gọi là “Táo biển”. Trái ngược với cái tên có phần “thân thiện”, Táo biển là một loài thực vật cực độc.
Theo đó, khi ăn phải một trái của cây này, lưỡi và thực quản của chúng ta sẽ nhanh chóng bị phỏng rộp. Thậm chí, lượng chất độc trong một quả Táo biển, trên lý thuyết, đủ để giết chết một người. Không chỉ có quả, nhựa mủ trắng của Táo biển còn có thể gây kích ứng da ở mức độ cao, khi không may tiếp xúc, vì hợp chất phorbol mà nó sở hữu. Sự nguy hiểm của phorbol chỉ thực sự phát tác hết công suất khi trời đổ mưa. Bởi vì, chỉ cần một giọt nước chảy qua lá của Táo biển cũng có thể cuốn theo một lượng phorbol, đủ để làm bỏng rát người đứng dưới tán cây.
Thường xuân độc là một loại thực vật nguy hiểm khét tiếng ở khu vực Đông Bắc Mỹ. Sở hữu hợp chất có tên là urushiol trong gần như mọi bộ phận, cây Thường xuân độc có thể khiến chúng ta đau nhói và kích ứng da ngay lập tức khi chạm vào.Tuy nhiên, thứ khiến Thường xuân độc trở nên thực sự đáng sợ, chính là khả năng bám dính của urushiol. Cụ thể, bất kỳ thứ gì, từ đất, áo quần, vật dụng cho đến giày dép, chỉ cần va quệt nhẹ vào Thường xuân độc cũng dễ dàng bị lây nhiễm urushiol. Do đó, nếu con người vô tình chạm vào các vật dụng “nhiễm độc” này, họ sẽ lãnh ngay hậu quả.
Hogweed là một loài hoa dại xuất hiện nhiều ở châu Âu và một vài khu vực của nước Mỹ. Phần lá và nhựa mủ của Hogweed có chứa một hóa chất gây độc có tên là furocoumarins. Theo các trường hợp đã được ghi nhận, nạn nhân sau khi tiếp xúc với hogweed sẽ bị bỏng rát da “cấp tính”, nếu ánh sáng mặt trời chiếu vào. Thậm chí, cũng đã từng có người bị mù do nhựa của Hogweed bắn vào mắt.
Dù có kích thước vô cùng nhỏ bé nhưng loài cây Cnidoscolus stimulosus luôn khiến các cư dân thuộc vùng Đông Nam Mỹ phải dè chừng. Thậm chí, vì sự nguy hiểm của Cnidoscolus stimulosus, người dân địa phương còn dùng những cái tên đáng sợ để đặt cho loài cây này như “Bỏng mũi” hay “Ngón tay thối rữa”! Hung khí của cây Cnidoscolus stimulosus chính là những sợi lông bao phủ hầu như toàn bộ bề mặt của nó.
Theo đó, chỉ cần một cái chạm nhẹ, hay chẳng may dẫm chân trần vào, những sợi lông này sẽ đâm xuyên qua lớp da, và tiêm vào cơ thể bạn một loại chất độc. Được biết, chất độc của Cnidoscolus stimulosus sẽ gây nhức và ngứa ở cường độ cao cho nạn nhân. Triệu chứng này thường sẽ hết trong vòng 1 giờ đồng hồ. Tuy nhiên, trường hợp nạn nhân bị đau nhiều ngày liền cũng đã được ghi nhận.
Smodingium argutum là tên khoa học của một loài cây độc, sinh sống chủ yếu ở khu vực Nam Phi. Loài cây này trở thành nỗi ám ảnh với người dân địa phương bởi phần nhựa mủ trắng đáng sợ của nó. Theo phân tích của các nhà khoa học, trong nhựa mủ của Smodingium argutum có chứa một hợp chất tên là heptadecyl catechols. Đây là một loại chất có thể gây nên những vết phỏng rộp đau rát, lan ra khắp cơ thể. Đáng sợ hơn, nạn nhân của cây Smodingium argutum có thể phải chịu đựng triệu chứng này trong vài ngày liền.
Thảo Vy
Theo BS

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Giải mã chữ Chăm cổ trên bia đá gần 600 năm




TPO - Các chuyên gia đến từ trường Viễn Đông Bác cổ Pháp đã giải mã được những dòng chữ cổ mà người Chăm viết cách đây gần 600 năm.

Giáo sư Arlo Griffiths và cộng sự nghiên cứu dòng chữ khắc trên bia đá (Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ)

Bia đá khắc họa trận huyết chiến giữa con trai Hercules và quái xàCận cảnh bia đá khổng lồ trong ngôi chùa lớn nhất Việt Nam 


Ngày 31/1, ông Nguyễn Quang Tuệ - Trưởng phòng quản lý di sản văn hóa thuộc Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai cho biết các chuyên gia đến từ trường Viễn Đông Bác cổ Pháp đã giải mã được những dòng chữ cổ mà người Chăm viết cách đây gần 600 năm. 

Theo ông Tuệ, bia đá này nằm ở thôn Tư Lương, xã Tân An, huyện Đắk Pơ, Gia Lai, cao hơn 2m, rộng khoảng 2m. Cả hai mặt bia đá đều có 10 dòng chữ Chăm cổ. Từ khi phát hiện vào năm 2010, Sở đã tìm mọi cách, mời nhiều người nghiên cứu về để giải mã nhưng không đạt. Đến cuối năm 2017, Sở mời chuyên gia từ trường Viễn Đông Bác cổ Pháp là giáo sư Arlo Griffiths đến nghiên cứu. Tối hôm qua (30/1), giáo sư Arlo Griffiths khẳng định đã dịch được toàn bộ số chữ khắc trên đá, tuy nhiên ông cần mang về Pháp để tra cứu lại, rồi sẽ công bố trong thời gian sớm nhất.

“Dòng chữ cổ khắc trên bia đá khi được dịch ra sẽ cho chúng ta thấy được vùng đất này ngày xưa như thế nào, vấn đề về văn hóa, lãnh thổ ra sao. Sau khi có bản dịch này Sở sẽ lập hồ sơ để có phương án bảo tồn. Phải tìm hiểu xem ngoài tấm bia đá này ra còn có dấu vết khác không. Bởi cách đó không xa là tượng đầu rắn Naga nặng khoảng 10kg được Sở phát hiện vào tháng 6/2009”- Ông Tuệ nói.



Có 10 dòng chữ Chăm được khắc trên cả hai mặt bia đá (Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ)




Tấm bia đá có chiều cao và rộng khoảng 2m (Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ)



Tượng đầu rắn Naga hiện lưu ở Bảo tàng Tây Sơn thượng đạo tại thị xã An Khê, Gia Lai (Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ).


Kim Văn

https://www.tienphong.vn/cong-nghe/giai-ma-chu-cham-co-tren-bia-da-gan-600-nam-1238600.tpo

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chương 09

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chương 08

Phần nhận xét hiển thị trên trang

15h00 NGÀY MAI: KHAI MẠC TRIỂN LÃM THƯ PHÁP "NÉT XUÂN"



GIỚI THIỆU TRIỂN LÃM THƯ PHÁP “NÉT XUÂN – ART OF NÔM” 

- Địa điểm: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, 66 đường Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội
- Thời gian: từ 2/2/2018 đến 2/3/2018
- Tổ chức: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam & Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Ngày 2-2-2018, triển lãm và trình diễn thư pháp "Nét xuân – Art of Nôm" sẽ khai mạc
vào lúc 15h00 tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. 
Triển lãm trưng bày gần 50 tác phẩm thư pháp cổ điển và thư pháp tiền vệ của các tác giả, các nhà nghiên cứu thư pháp và văn tự chữ Nôm. Lấy cảm hứng từ bài thơ Nguyên tiêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các tác phẩm thi ca về mùa xuân đất nước của các thi nhân nổi tiếng trong lịch sử như Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Du, …, các tác phẩm thư pháp thể hiện theo các thể chữ Nôm là Triện, Lệ, Thảo, Hành, Khải, … Đây là một nỗ lực tiếp nối phong trào thư pháp Hán Nôm để khơi lại mạch nguồn di sản của văn hóa dân tộc.

Triễn lãm còn có trình diễn thư pháp vào buổi khai mạc, đồng thời cũng dành một không gian riêng cho thư pháp cộng đồng để các nhà thư pháp hướng dẫn các em thiếu nhi thực hành học viết chữ.


THÔNG CÁO BÁO CHÍ 
TRIỂN LÃM THƯ PHÁP “NÉT XUÂN”

Ngày 2-2-2018, triển lãm và trình diễn thư pháp "Nét xuân" sẽ khai mạc vào lúc 16h00 tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, số 66 đường Nguyễn Thái Học. Trước đó, triển lãm sẽ có buổi họp báo vào lúc 15h00. Triển lãm do Viện Nghiên cứu Hán Nôm phối hợp cùng Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam tổ chức, với sự tài trợ của Vietbank.

Triển lãm trưng bày gần 50 tác phẩm thư pháp cổ điển và thư pháp tiền vệ của các tác giả, các nhà nghiên cứu thư pháp và văn tự chữ Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, gồm Ân Xuyên Nguyễn Quang Thắng, Thiền Phong Phạm Văn Tuấn, Hoài An Nguyễn Văn Thanh, Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương.

Lấy cảm hứng từ bài thơ Nguyên tiêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các tác phẩm thi ca về mùa xuân, đất nước của các thi nhân nổi tiếng trong lịch sử như Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Du… các tác phẩm thư pháp thể hiện theo các thể chữ Nôm là Triện, Lệ, Thảo, Hành, Khải, trong đó có một số tác phẩm chữ Nôm Triện, Nôm giáp cốt,… Đây là một nỗ lực tiếp nối phong trào thư pháp Hán Nôm để khơi lại mạch nguồn di sản của văn hóa dân tộc, trong đó nội dung văn chương là duyên cớ sơ khởi cho các xúc cảm giấy bút mực nghiên. Triển lãm chú trọng đến các tác phẩm chữ Nôm- một loại hình di sản văn hóa đã góp phần tạo dựng, hun đúc nên hồn cốt của tiếng Việt.

Các tác phẩm theo phong cách cổ điển được thể hiệu chủ yếu bằng lối chữ Khải, chữ Lệ, chữ Triện, chữ Hành nhằm tạo sự trang nghiêm và gợi nhớ về những nét đẹp vàng son một thuở. Những đôi câu đối xuân trên giấy đỏ nhằm truyền tải cảm xúc và hương sắc của tết cổ truyền. Ví dụ: Non xanh nước biếc tha hồ dạo, Rượu ngọt chè tươi mặc sức say (thơ Hồ Chủ Tịch), Khí dương hòa há có tư ai. Năng một hoa này nhẫn mọi loài, Toan kể chỉn còn ba tháng nữa. Kịp xuân mựa để má đào phai (thơ Nguyễn Trãi).

Các tác phẩm sáng tác theo lối Tiền vệ (Avant-garde Calligraphy, Tiền vệ thư) mượn trên những đường nét của chữ nghĩa để thực hiện những cuộc rong chơi của nghệ thuật (du ư nghệ). Bố cục của các tác phẩm được thể hiện linh động, các nét vung bút phóng khoáng buông bỏ những khuôn mẫu của tờ giấy trắng. Mực tràn bo, và chảy tự nhiên trên bề mặt chất liệu để tạo những ấn tượng thị giác. Ví dụ tác phẩm “Màu trời sông xuân” của Phạm Văn Tuấn và Nguyễn Quang Thắng được viết theo lối trùng điệp đa tầng với mực đa cấp độ. Bức thư pháp chữ Nôm “Hoa cỏ mừng xuân” của Trần Trọng Dương viết theo thể giáp cốt nhưng đã được trừu tượng hóa như một bức tranh với muôn vàn cỏ cây đang cựa động đâm chồi nảy lộc. Bức “Bầu trời thêm xuân” của Phạm Văn Tuấn với kĩ thuật dụng bút “khí vận sinh động” miêu tả một bầu trời đẫm mưa xuân như đang dồn năng lượng cho muôn loài sinh trưởng.

Triễn lãm còn có trình diễn thư pháp vào buổi khai mạc. Tác phẩm thư pháp dài 5m sẽ được biểu diển bởi nhà thư pháp Thiền Phong Phạm Văn Tuấn với nội dung thơ Hồ Chủ Tịch ca ngợi mùa xuân. Triển lãm cũng dành một không gian riêng cho thư pháp cộng đồng để các nhà thư pháp hướng dẫn các em thiếu nhi thực hành học chữ và viết chữ.

Triển lãm bắt đầu từ 2/2/2018 đến 2/3/2018, chỉ nghỉ các ngày mùng 1 đến mùng 3 tết Nguyên đán Mậu Tuất.

Phần nhận xét hiển thị trên trang