Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2017

Vũ Thị Thục Nương: Nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc Việt Nam


Tác giả: Vũ Ngọc Phương
Trong thời Bắc thuộc lần nhất tính từ năm 177 Tr.CN khi Triệu Đà xâm lược nước Âu Lạc sát nhập vào Nam Việt, sau đến năm 111 Tr.CN nhà Tây Hán diệt họ Triệu đưa Việt Nam vào thuộc Hán cho tới năm 39 sau Công Nguyên của thời kỳ này có ghi nhận các cuộc nổi dậy của người Việt. Sử sách Trung Quốc có ghi lại các cuộc nổi dậy trong một số năm của người Việt đã khiến nhà Hán phải điều động quân đội từ vùng Kinh Sở  xuống đàn áp. Các cuộc nổi dậy nhỏ lẻ này không đủ mạnh và rộng khắp để đánh thắng được sự thống trị của Nhà Tây Hán. Sau khi Lưu Tú dẹp loạn Vương Mãng và lập nhà Đông Hán, chính sách Hán hóa của Quang Vũ Đế Lưu Tú đối với người Việt càng hà khắc.
Phần nhiều quan lại từ Nhà Tây Hán, Đông Hán đều khắc nghiệt, tham lam, vơ vét các của quý ở Giao Châu như vàng, ngọc trai, long trả, tê, voi, đồi mồi, hương sạ, gỗ quý,… rồi xin đổi đi làm quan nơi khác. Đã thế sưu thuế nặng nề nên người Việt thường xuyên nổi dậy làm loạn. Đến năm Giáp Ngọ ( năm 34 sau CN – năm Kiến Võ thứ 10), vua Đông Hán Quang Vũ đế sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định bản tính rất bạo ngược nên chính lệnh càng thêm hà khắc. Tô Định lại thêm tham bạo, cướp giết nhiều người Việt. Trước cuộc Đại khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm Kỷ Hợi (39 sau CN), tại Giao chỉ đã có nhiều cuộc nổi dậy trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng, lớn nhất và tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Tiên La, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình của Bà Vũ thị Thục Nương.
Sự nghiệp
Bà Vũ thị Thục Nương là Nữ Tướng văn võ song toàn, chí khí rất lớn. Bà đã dấy binh khởi nghĩa trước Hai Bà Trưng. Sau này khi Hai Bà Trưng truyền hịch khởi nghĩa có cho sứ giả về mời Bà Vũ thị Thục Nương. Bà nhận tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng và được Hai Bà Trưng giao cho quyền đứng đầu, thống lĩnh các Nữ Tướng của Hai Bà Trưng. Ngày 17/3 năm Quý Mão ( năm 43 sau Công Nguyên) trong trận chiến cuối cùng chống Mã Viện thống lĩnh hàng chục vạn quân Đông Hán, Bà và các nữ binh đã quyết chiến đến cùng không để giặc bắt và tử tiết khi mới 26 tuổi.
Thần phả, nhiều đạo sắc phong và truyền kỳ dân gian đều thống nhất ghi rằng: Bà Vũ thị Thục Nương sinh vào giờ Dần ngày Rằm tháng Tám năm Bính Sửu (Năm 17 sau CN) tại Phượng Lâu, nay là Phường Phượng Lâu – Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ (Nguyên xưa là đất Phong Châu, Hùng Vương đóng kinh đô Văn Lang ở đấy. Thời Tần đặt làm Tượng Quận, Đời Hán thuộc quận Giao chỉ) .Trước Công Nguyên, nơi đây là cố đô nước Văn Lang độc lập. Gần 2.000 năm qua, tại Phượng Lâu, Việt Trì, Phú Thọ và các đền thờ Bà ở vùng đồng bằng Bắc bộ đều có Lễ lớn kỷ niệm ngày sinh Thánh Mẫu Vũ thị Thục Nương. Trong tất cả các phong tục thờ Thánh và Thần linh ở Việt Nam, đây là một hiện tượng rất đặc biệt – Lễ sinh nhật duy nhất được nhân dân làm hàng năm chỉ có riêng với Bà Vũ thị Thục Nương.
Bà là con gái Nhà giáo Vũ Công Chất, ông còn là thầy thuốc, ngày nay ở Phú Thọ có đền thờ ông là một trong những thầy giáo Việt dậy chữ Khoa Đẩu là chữ Việt cổ thời bấy giờ. Chi họ Vũ Công vốn định cư ở tả ngạn sông Lô mà dấu tích, thư tịch cổ còn ghi Thủy Tổ họ Vũ gốc Việt Thường là các Cụ Vũ Công Bách – Cao Minh Đại Vương và Vũ Công Điền – Cao Sơn Đại Vương ( Hai cụ được thờ ở khắp nước Việt Nam, hai Cụ là bậc Thượng đẳng Phúc Thánh, tượng thờ ngồi hai bên tả, hữu của Đức Tản Viên Sơn Thánh). Sau Chi Họ Vũ Công dời sang cư trú ở hữu ngạn sông Lô đối diện quê cũ. Tại đây, các đời tiếp theo có Nhà giáo thầy thuốc Vũ Công Chất. Mẹ bà Thục Nương là Bà Hoàng thị Mầu, cả hai vợ chồng thân sinh ra Bà Thục Nương đều là người gốc Việt Thường. Sinh thời Bà Vũ thị Thục Nương là một người phụ nữ có nhan sắc tuyệt vời, đoan trang, trung hậu, đảm đang, văn hay võ giỏi nên hiệu là Ngọc Hoa Công chúa. Từ nhỏ, Bà vừa học nghề thuốc, luyện võ và đi chữa bệnh trong dân gian do hai Cụ Thân sinh truyền dậy. Khi 16 tuổi, Bà còn dạy dân phát triển nghề nông, sáng tác những bài hát dân ca và truyền dậy hát đối, hát xoan, hát đúm vẫn còn truyền lại đến nay ở vùng Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Bà cùng với hai cụ thân sinh còn chỉ bảo dân thời ấy quần tụ lại để xây dựng, phát triển Xã – Thôn Việt trong vùng Phong Châu từ những năm đầu thế kỷ I sau Công Nguyên.
Thời ấy, bên kia sông Bạch Hạc ở xã Nam Chân có chàng trai rất có tài đức là Phạm Danh Hương, vào cuối mùa thu năm Quý Tỵ ( năm 33 sau Công Nguyên), đã đặt lễ Nạp Thái (Lễ Chạm ngõ)được hai Thân sinh và Bà nhận lời, theo Lễ là 6 tháng nên chờ đến đầu mùa Thu năm Giáp Ngọ ( năm 34 sau CN) thì làm lễ Thân Nghinh ( Lễ rước dâu). Năm ấy, Bà vừa 17 tuổi.
Không may, liền bên Châu Bạch Hạc có một Quan lang giầu sang quyền thế nhất vùng đã nhiều lần mang lễ vật lớn xin cưới Bà đều bị từ chối, khi biết ông bà Vũ Công Chất và Hoàng thị Mầu cùng Bà Thục Nương đã nhận lễ với Phạm Danh Hương, Quan lang Bạch Hạc vô cùng tức giận liền súc siểm, bầy mưu xui Tô Định vừa nhận chức Thái Thú để chiếm đoạt Bà. Tô Định được mưu, bèn giả làm khách buôn đến tận nơi chiêm ngưỡng dung nhan Bà thấy như Tiên Nữ giáng trần, khi trở về quân doanh liền sai tướng đem quân bắt Cha Bà – ông Vũ Công Chất và chồng chưa cưới là Phạm Danh Hương tới trị sở Giao Châu bắt phải từ hôn và dâng Bà cho Tô Định. Dụ dỗ hàng tháng trời không được, Tô Định đã dùng cực hình ép buộc cũng không được nên đã giết cả hai người. Tô Định thân cầm quân tới vây bắt Bà. Được tai mắt dân ở Châu Bạch Hạc báo tin, đang đêm cả hai mẹ con trốn chạy rồi thất lạc. Bà cầm kiếm phá vây, chạy thoát ra bờ sông Bạch Hạc, nhẩy xuống được thuyền độc mộc, tay chèo, tay kiếm xuôi dòng sông Nhị Hà ( sông Hồng)mà về đến vùng đất ven biển lúc đó ( nay là huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) thì men theo nhánh sông nhỏ (nay là sông Luộc) mà vào. Thời kỳ này nước biển đã rút nhưng vùng đất của tỉnh Thái Bình vẫn còn là vùng đất nước lợ với những cánh rừng lớn bạt ngàn và ven biển là rừng sú, vẹt rất hiểm trở nên chưa bị quân Đông Hán chiếm đóng. Bà chèo thuyền theo nhánh sông Luộc vào sâu đến đất Tiên La thì dừng lại lên bờ vào ẩn náu làm tiểu đồng trong chùa Tiên La. Ngày ngày quét dọn sân chùa, đêm đêm luyện võ. Khi đã quen với lương dân vùng Tiên La, Bà vừa dậy học, vừa dùng thuốc Nam chữa bệnh cho dân. Được dân mến mộ, Bà dậy dân trồng trọt, chăn nuôi,… như thế đến năm Bính Thân ( năm 36 sau CN) thì cho người tin cẩn tìm đón được mẹ Bà về Tiên La phụng dưỡng.
Sau mấy năm, Tiên La trở thành vùng trù phú, dân Việt khắp nơi về cư ngụ, khai khẩn đất hoang dẫn nước ngọt về trồng lúa. Thấy dân đã đông, lòng người đã thuận.  Mùa Xuân, tháng Giêng năm Đinh Dậu (năm 37 sau CN) Bà dựng cờ khởi nghĩa trên gò Kim Quy. Nghe lời hiệu triệu của Bà, người Việt khắp nơi đã nô nức kéo về theo Bà. Sau hơn một trăm năm Bắc thuộc, chính sách Hán hóa đã làm cho số dân là nam giới trong người Việt sụt giảm, vì thế binh sỹ của Bà tuyển chọn cũng toàn là con gái, vừa luyện tập binh pháp, vừa trồng trọt chăn nuôi để có lương cho quân trở nên đội quân rất tinh nhuệ. Mẹ Bà là Hoàng thị Mầu cũng ở trong quân lo việc phân phát binh lương và chữa bệnh, chữa thương cho tướng sỹ. Vừa chiêu binh mãi mã, vừa dậy dân khai khẩn đất hoang,…. chỉ mấy năm Tiên La trở thành một vùng trù phú, binh lực ngày một mạnh. Bà cầm quân tiến đánh quân Đông Hán, mở rộng vùng tự trị của người Việt ngày một rộng lớn sang đến huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, các huyện Ninh Giang, Thanh Miện tỉnh Hải Dương, Tiên Lữ, Phủ Cừ tỉnh Hưng Yên ngày nay.
Nhiều lần quân Đông Hán kéo quân sang đánh đều bị đội quân Nữ binh tinh nhuệ do Bà thống lĩnh đánh cho thua trận rút chạy khỏi các vùng đất của người Việt.
Tô Định ngày càng bạo ngược, chính trị tàn ác, dân Việt đã oán giận chồng chất. Năm Kỷ Hợi ( năm 39 sau CN, Nhà Đông Hán, vua Quang Vũ Lưu Tú, năm Kiến Vũ thứ 15) Tô Định lại giết Thi Sách Quận Châu Diên, Phủ Vĩnh Tường ( nay là Vĩnh Yên) . Vợ Thi Sách là Trưng Trắc ( quê ở làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên)  là con gái Lạc Tướng Mê Linh cùng với em là Trưng Nhị cất quân khởi nghĩa. Hai Bà Trưng cho sứ giả sang mời Bà hội quân cùng đánh Tô Định.
Bà Vũ thị Thục Nương cùng đội Nữ binh hưởng ứng, cùng các Nữ tướng của Hai Bà Trưng đánh bại quan quân Đông Hán. Tô Định chạy thoát về Quảng Châu. Bà Vũ thị Thục Nương đã cùng các Nữ Tướng khác trong đội quân của Hai Bà Trưng giải phóng cả một vùng duyên hải của Giao chỉ Bộ ( gồm miền Bắc Việt Nam, vùng Lưỡng Quảng và quận Hải Nam bây giờ) . Chỉ trong năm Kỷ Hợi ( 39 sau CN) đến mùa xuân năm Canh Tý ( 40 sau CN), Tất cả dân Việt cùng đại quân của Hai Bà Trưng hạ được 65 thành trì, quan quân Đông Hán phải bỏ chạy qua sông Trường Giang về phương Bắc.
Sau khi đã giành lại bờ cõi, Hai Bà Trưng lên ngôi xưng là Trưng Nữ Vương lấy quốc hiệu là Đại Việt. Trưng Nữ Vương xác lập quyền tự chủ của người Việt, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Trưng Nữ Vương xét công trạng có phong cho Bà Vũ thị Thục Nương làm Uy Viễn Đông Nhung Đại Tướng quân – xếp hạng công đầu. Nhưng Bà xin trả lại quan ấn cùng với đội Nữ Binh trở về Tiên La, Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vừa rèn quân lại vừa làm ruộng và chăn nuôi. Tại Tiên La, Bà tiếp tục  chữa bệnh cho dân bằng thuốc Nam ( Thời Hùng Vương là Bộ Lục Hải, đời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc Giao Chỉ).
Năm Tân Sửu ( năm 41 sau CN)  vua Quang Vũ nhà Đông Hán lại sai Mã Viện là danh tướng lúc bấy giờ làm Phục Ba Tướng quân, Phó tướng là Phù Lạc hầu Lưu Long, cùng với Lâu thuyền Tướng quân là Đoàn Chí kéo mấy chục vạn quân tinh nhuệ chia làm hai đường thủy, bộ sang đánh nước Đại Việt của Trưng Nữ Vương. Ngay khi cánh quân bộ của Đông Hán do Phó Tướng Lưu Long vượt sông Trường Giang tiến về phía Nam đã bị đội Tiền quân Việt do Nữ Tướng Phật Nguyệt đón đánh dữ dội. Phật Nguyệt Công chúa được Trưng Vương phong giữ chức Thao Giang Thượng Tả Tướng thuỷ quân, Chinh Bắc Đại tướng quân, Tổng trấn Động đình và Trường Sa.
Một Nữ tướng có tên là Hoàng Thiều Hoa – Tả tướng Chinh Bắc Tướng quân lĩnh đạo Trung quân trấn giữ Nam Hải. Tướng Đào Hiển Hiệu chỉ huy tiền quân Việt từ Trường Sa rút về Nam đã đóng lại ở Thiên Đài, bắc Ngũ Lĩnh. Khi thấy đại quân Lưu Long tiến vào, quân Việt không chịu lui quân, tất cả đã ở lại tử chiến, khiến quân Hán chết mấy vạn quân mới đi qua được ải Thiên Đài. Ngày nay trên Thiên Đài, núi Đại Minh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, ở bên ngoài miếu thờ Đào Hiển Hiệu – tướng của Hai Bà Trưng cùng một nghìn quân sỹ đã quyết tử tại cửa ải độc đạo hiểm yếu tại Bắc núi Nam Lĩnh để ghìm chân đại quân Đông Hán do Lưu Long làm Phó tướng, vẫn còn đôi câu đối khắc trên đá: “Nhất kiếm Nam hồ kinh Vũ-đế/Thiên đao Bắc lĩnh trấn Lưu Long”. Nghĩa là : “Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động-đình làm kinh sợ vua Vũ đế (Ý nhắc đến sự kiện nữ tướng Phật Nguyệt của Hai Bà Trưng đón đánh Mã Viện ở phía Nam hồ Động-đình. Vũ đế là Hán Quang Vũ nhà Đông Hán)/ Một nghìn tay đao Bắc Lĩnh giữ Lưu Long”.
Bà Vũ Thị Thục Nương lúc đó là Đốc lĩnh toàn quân trấn giữ Giao Chỉ ( Vùng miền Bắc đến miền Trung Việt Nam ngày nay) đã cùng các nữ  tướng của Hai Bà Trưng chia quân đón đánh quân Đông Hán. Nhưng thế quân Đông Hán quá lớn, sau nhiều tháng giao tranh, các cánh quân Hai Bà Trưng lần lượt tan vỡ. Hai Bà Trưng chạy về đến xã Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc tỉnh Sơn Tây thì thế bức quá, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông tự tận, bấy giờ nhằm ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão (năm 43 sau CN).Tướng Đô Dương chỉ huy một đội quân thua chạy về đến huyện Cư Phong ( nay thuộc vùng Thanh Hóa) thì ra hàng quân Đông Hán.
Trên cả đất Giao chỉ, còn lại vùng duyên hải là quân Đông Hán chưa chiếm được (nay là duyên hải miền Bắc Việt Nam). Tại đây,  đội Nữ binh tinh nhuệ của Bà Vũ thị Thục Nương cố thủ tiếp tục cầm cự ở vùng Lục Hải ( Thái Bình ngày nay)  khi đó là vùng sình lầy và rừng ngập mặn. Thấy vậy, Mã Viện cho đại quân Đông Hán tất cả kéo đến vây kín mấy vòng cả trên bộ lẫn dưới sông biển. Sau 39 ngày bị vây hãm, quân của Bà hết lương, tướng sỹ cầm binh khí ngắn đánh giáp công quyết tử không còn một người nào. Quân Đông Hán cũng bị chết rất nhiều.
Ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão ( năm 43 sau CN), Bà Vũ thị Thục Nương tay cầm mộc, tay cầm kiếm, một mình một ngựa xông vào tả xung hữu đột chém giết quân Đông Hán như vào chỗ không người, sau gần một ngày quyết chiến, đến chiều tối Bà một mình một người một ngựa phá được vòng vây, giặc đuổi theo không kịp. Khi Bà chạy về đến Gò Kim Quy (bây giờ chính là nơi dựng đền Tiên La, nay là thôn Tiên La nơi có địa giới giáp danh hai xã Đoan Hùng và Tân Tiến, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), người và ngựa đều kiệt sức. Mình đầy thương tích nặng, Bà xuống ngựa rồi tự vẫn không để giặc bắt. Dân quá xót thương chôn giấu thi hài của Bà cùng ngựa chiến tại gò Kim quy rồi xóa hết dấu tích không cho giặc biết. Giặc lùng tìm gắt gao nhiều tháng nhưng không thấy phải rút hết. Dân đã dựng một đền thờ bằng tranh tre trên mộ Bà, nhiều đời sau mới thay bằng gỗ và đá. Gương tiên liệt trung trinh của Bà được loan truyền khắp trong dân Việt lúc bấy giờ, bởi vậy gần hết các Nữ Tướng còn lại của Hai Bà Trưng cũng đều noi gương ấy mà tự vẫn khi đang lẩn trốn không để cho giặc Đông Hán bắt.
Bà Vũ thị Thục Nương là một trong những Nữ Anh Hùng chống ngoại xâm đầu tiên của Dân tộc Việt Nam
Công đức của Bà sâu dầy, uy linh hiển hách đến mức Bà được dân Việt tôn thờ là Thượng Đẳng Phúc Thánh, Tối linh, Tối cao. Tương truyền trong tâm linh người Việt Nam là Bà hiển linh kiêm cả ba ngôi vị Thánh Mẫu Thượng Thiên, Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Thánh Mẫu Thoải Phủ trong trong Đạo Thánh Mẫu Việt Nam. Những nơi đặt đền thờ Bà, dân chúng đều được yên bình. Vì thế mà lịch sử của Bà rõ và chi tiết. Sau khi Bà Vũ thị Thục Nương tử tiết hiển linh, nhân dân nhớ thương Bà đã lập đền thờ chính của Bà tại xã Tiên La, Huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đến nay đã trải qua gần 2,000 năm khói hương không bao giờ dứt.
Ngày nay, ngay trong hậu cung đền Tiên La vẫn còn mộ Bà và con ngựa chiến đã cùng Bà xông pha chiến trận. Sau đền Tiên La, Thái Bình, suốt một giải các tỉnh duyên hải Bắc Bộ cũng đều có đền thờ Bà có tên là Tiên La Hải Phòng, Tiên La Nam Định,…Trải gần hai nghìn năm qua, năm nào cũng đều có tế lễ, nhân dân nói rằng hàng năm vào ban đêm của ngày chính kỵ, trên nóc hậu cung rực sáng một vầng hào quang. Khắp các nơi trên đất nước Việt Nam đều có thờ Thánh Mẫu là ngôi vị tối linh sau khi Bà hóa, lớn nhất là ở Phủ Dầy, tỉnh Nam Định. Tuy nhiên, tại Đền Tiên La Thái Bình là nơi có mộ của Bà (Kim thân) vẫn được coi là nơi linh thiêng bậc nhất.
Lịch sử Việt Nam ghi rõ tháng 2 năm Đinh Hợi ( 1287) khi 30 vạn quân Nguyên Mông  lại sang xâm lược nước ta: ” Ô Mã Nhi đuổi theo (vua Trần) không kịp, đem quân trở về qua Long Hưng ( Phủ Tiên Hưng – Huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay) biết ở đấy có Chiêu Lăng, là lăng tổ nhà Trần, bèn sai quân phá nát cả đi”.Trong khi lăng, mộ vua Nhà Trần cách đấy có hơn 1 Km đường chim bay là Đền Tiên La, Hưng Hà rộng lớn uy nghi, nhưng quân Nguyên Mông không hề đụng đến Đền, đến mộ của Bà. Sang thế kỷ XIII, quân Nhà Minh sang chiếm đóng nước ta 20 năm, phá tất cả đền, chùa, bia, sách, bắt giết thanh niên, trẻ con là con giai,… cũng không dám đụng vào Đền và mộ của Bà tại Tiên La – Thái Bình. Dân gian truyền tụng là do Uy Linh Bà vô lượng nên không thế lực nào dù độc ác hung tàn đến đâu ở cõi trần gian không thể xâm phạm được.
Đạo Thánh Mẫu Việt có ba ngôi thể hiện cho ba sức mạnh siêu nhiên là Thượng Thiên Thánh Mẫu quản về Lửa, Thượng Ngàn Thánh Mẫu quản về núi rừng trên đất và đất, Thượng Thoải Thánh Mẫu quản về Nước cùng tất cả các hiện tượng mưa, bão, lũ lụt, sông, biển. Đó là ba hiện tượng kỳ vĩ là Lửa – Đất – Nước thể hiện sự sinh và diệt của của vũ trụ và trái đất.
Qua nhiều tài liệu về Thần phả, Thần tích, Sắc phong của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam và các Dã Sử đều có viết Bà Vũ thị Thục Nương sau khi hóa hiển linh là Thánh Mẫu kiêm quản Tam Tòa trong Đạo Thánh Mẫu. Các sắc phong đều ghi Bà có Thánh hiệu: Ứng Võ Anh Uy Dũng Bảo quốc, Trung chính, Thượng đẳng Phúc Thánh, Tối linh, Tối Uy. Thánh Mẫu hiệu Ngọc Hoa công chúa Vũ thị Thục Nương kiêm quản 3 Ngôi cao nhất tại Tam Tòa của Đạo Thánh Mẫu.
Trong Dân gian còn truyền tụng Bà có hàng chục bài chầu văn lưu truyền trong dân gian ca ngợi Thánh tích, công đức của Bà khi cử hành Thánh Lễ Đạo Mẫu Việt Nam. Trong đó có bài văn chầu giống như trường ca dân gian đã kể lại khá đầy đủ Thánh tích của Bà với những tư liệu lịch sử xác đáng. Bản trường ca sử thi này được cho là đã do các Danh Nho Bắc Hà  trong các cuộc khởi nghĩa Văn Thân Việt Nam chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX viết nên, đã được truyền khẩu trong dân gian Việt như sau:
VĂN CHẦU THÁNH MẪU BÁT NÀN TƯỚNG QUÂN
 Hàng năm Mười bẩy tháng Ba,
Ai về đến huyện Hưng Hà
Tới thăm Lễ Hội tên Bà Thục Nương
Chuyện xưa kể vào đầu thế kỷ,
Sau Công Nguyên ở xứ Giao Châu,
Cố đô Việt mấy nghìn năm trước,
Nước Việt Thường lại đến Văn Lang,
Vua Hùng cùng với Thục Vương Tây Âu Lạc
Dẫn đầu quân Đại tướng Tuần Tranh,
Cùng danh tướng Vũ Công Bách, Vũ Công Điền
Chống nhà Tần năm chục vạn quân
Diệt Đồ Thư giữ yên nước Việt
Xây Cổ Loa nơi cũ Việt Thường
Triệu Đà dùng kế hiểm sâu
Xui con Trọng Thủy làm chồng Mị Châu
Nỏ thần mất lẫy bị quân cướp thành,
Nước Âu Lạc mất,
Lại thuộc quyền Nam Vương
Đến khi Tây Hán tìm đường tiến sang,
Dân nước Việt chịu bao tầng áp bức,
Lặn biển sâu mò ngọc tìm trai,
Vào sâu rừng tìm bắt tê ngưu
Vàng bạc, gỗ thơm, hương liệu quý, …
Phải tìm cho bằng thấy mới xong,
Rồi gom hết lại cho phường xâm lăng

Người dân Việt không còn tuấn kiệt
Khấn Trời xin được Thánh giáng lâm
Năm mười bẩy ngày Rằm tháng Tám,
Đúng canh Dần, Tiên Chúa giáng sinh,
Một Nàng Công chúa xuống trần
Sinh vào họ Vũ ở miền Phượng Lâu
Ở vùng đất cổ Phong Châu
Cha là Công Chất từ lâu đức dày
Mẹ họ Hoàng tên tự Thị Mầu
Đặt tên con gái là nàng Thục Nương
Mười sáu tuổi sắc soi gương nước,
Vẻ xinh tươi mặt ngọc ánh đào
Thướt tha sắc diện nhường nào,
Tây Thi còn thẹn, sánh sao cho bằng
Phận gái đẹp nhưng tài văn võ
Lại đoan trang bao  việc đảm đang,
Khi đến tuổi trăng Rằm có lẻ,
Đã bao người dạm hỏi,
Biết sao trả lời.
Còn có kẻ giầu sang cậy thế,
Ép cha nàng để cưới Thục Nương
Vừa hay sính lễ đến nhà,
Có chàng tuấn kiệt Phạm Hương hỏi nàng.
Lời ước hẹn sang xuân Loan Phượng
Ai cũng mừng tuyệt thế giai nhân
 Ngờ đâu sự biến bất thần
Quan tham Tô Định kéo quân tức thì,
Bắt cha cùng với bắt chàng,
Thoái hôn để cướp lấy Nàng Thục Nương
Thà một chết quyết không hàng giặc,
Đã quyết không cho giặc cướp nàng
Than ôi, cơ sự nhỡ nhàng
Chưa xong lời nói lưỡi gươm cắt rồi.
Thương thay số phận của người trung lương
Giặc kia cường bạo không thường
Quân vây quanh khắp một vùng Phượng Lâu
Truy cho bằng được bắt nàng Thục Nương
Giặc đâu ngờ nàng cao võ nghệ
Tuốt gươm nàng phá vòng vây
Đang đêm thoát hiểm sông này,
Thuyền chèo một mái đến miền Tiên La
 Dựng cờ nghĩa Anh tài Vũ dũng
Dân khắp nơi nô nức theo về
Tập binh, mở rộng cõi bờ,
Giáo gươm sáng đất, ánh cờ đỏ mây
Một vùng thoát khỏi đời nô lệ,
Dân ấm no quyết chống bạo tàn
Mấy lần quân giặc kéo sang,
Phải thua rút chạy vì Nàng Tướng Quân
 Thói tham ác việc không dừng
Năm ba mươi chín lại gây thêm thù
Tô Định giết chết chàng Thi Sách
Để răn đe dân Việt lầm than
Vợ Thi Sách là nàng Trưng Trắc
Cùng với em Trưng Nhị xuất quân
Cho người về Tiên La trưng tập
Mời Tướng quân Thục nữ trinh Nương
Cùng chung việc nước, thù nhà
Hai vai gánh vác sơn hà,
Quyết một trận quét đời nô lệ,
Đem máu xương phá bẻ xiềng gông
Xuất quân đánh trận thành công,
 Sáu lăm thành cũ, cõi bờ về tay.
Xét công trạng trong hàng Nữ tướng,
Nàng Thục Nương xếp hạng công đầu
Ban phong hiệu Ngọc Hoa Công chúa,
Đông nhung Đại Tướng toàn quân Hai Bà
Nàng bái tạ xin về chốn cũ,
Cởi giáp binh để lại thường dân
Tiên La bái tạ Phật đình,
Lại lo canh cửi, phận mình Nữ nhi.
 Trưng Nữ Vương hiển vinh công trạng
Kinh đô này thành cũ Mê Linh
Giao châu độc lập từ đây
Danh xưng Đại Việt lần này có yên?
Vua Quang Vũ dẹp xong Vương Mãng
Lại giao quan tập hợp quân lương
Chọn tất cả hùng binh tinh nhuệ
 Lệnh thêm cho Lưỡng Quảng nam chinh,
Thống quân tướng Phục Ba Mã Viện
Phù lạc hầu phó tướng Lưu Long
Chia đường thủy bộ ầm ầm kéo sang
Hai Bà Trưng chia quân đón đánh
Nàng giáp y dẫn đội tiền quân
Dọc ngang chiến trận khói đen chiến bào,
Quân Đông Hán bạt ngàn đồi núi,
Sức quân đông mạnh mấy quân mình,
Trong vòng trận thế đao binh
Đến khi sức kiệt gieo mình xuống sông
Hai Bà đã vào trong đất Mẹ,
Trôi về đến bến Đồng Nhân,
Nhân dân thương vớt lập thờ tại đây.
Tướng Đô Dương cũng đã theo hàng giặc kia,
Toàn quân còn có mình nàng lĩnh binh,
Rút quân về giữ Thái Bình.
Sau khi triệt phá binh dân Việt
Mã Viện đưa quân vượt sông Hồng
Đông Nhung Đại Tướng Bát Nàn,
Còn trăm quân sỹ trong vòng giặc vây
Nàng đâu tiếc tấm thân đài các
Vốn là  dòng Nữ phiệt Trâm Anh
Một phen nợ Nước, thù Nhà
Ba chín ngày quyết xông pha,
Lương binh đã hết đoản đao giết thù,
Nữ binh giữ tiết trinh tuẫn tiết,
Trong hàng quân đã chết hết rồi.
Oai phong hùng khí còn nàng,
Tả xung hữu đột một mình xông pha,
Giữa rừng gươm giáo sáng lòa
Vung gươm giặc đổ đất hòa máu tươi.

Chuyện xưa kể xiết bao đau xót,
Vũ thị Thục Nương Đại Tướng Đông Nhung
Chiến bào thắm máu hồng liệt nữ,
Ánh chiều xuân sáng đỏ một vùng,
Tiên La, ngày ấy oai hùng,
Ánh chiều bảng lảng sáng bừng bóng gươm
Giặc kinh hãi rẽ ra trốn chạy
Một mình nàng cưỡi ngựa truy phong,
Phút giây đã vượt muôn trùng giặc vây
Ngựa phi đến cây tùng cổ thụ,
Nơi này xưa Đại tướng qua chơi
Giờ đây trở lại máu tươi đẫm mình,
Nàng vẫn quyết không cho giặc bắt,
Tuốt gươm kề tuẫn tiết cho xong
Một dòng máu đỏ lên trời,
Hỡi ôi, thân xác hóa người nghìn thu.
Nàng thầm gọi:
Mẹ ơi có biết, lúc này con đã thác về Trời.
Đông Nhung Liệt nữ ở đời
Chết thiêng chiến trận tuổi đời thanh xuân!
Uy linh nàng hóa về Trời,
Thành ngôi Thánh Mẫu để đời nhớ thương!
Dân gian dựng đền thờ nơi cũ,
Hai nghìn năm nghi ngút khói hương
Tôn Bà Vũ thị Thục Nương,
Đông nhung Đại tướng lên hàng Thượng Thiên,
Những người đã hóa về Trời,
Trong hàng bất tử để đời tôn vinh,
Bà hiển linh về nơi trần thế, thăm chúng sinh, cứu khổ dân mình
Những người được đức ân tình
Vẫn thường thấy rõ Bà trong tháng ngày
Trung trinh, Thanh thoát, Thánh linh,
Bà đi dạo khắp non xanh, sóng ngàn,
Bóng Bà muôn dặm trời cao,
Giảm bao cảnh khổ nỗi đau cõi đời
Bà đưa Xuân đến muôn nơi,
Như Bà mãi trẻ, Xuân tươi chẳng già!
Đến lại nơi xưa Bà tuẫn tiết,
Hai nghìn năm mộ phủ hoa tươi,
Khói hương không dứt mây trời,
Nhớ Tiên giáng thế,
Nhớ Người cứu dân,
Nhớ buổi ấy nước nhà độc lập
Nhớ công lao, ơn đức của Bà,
Nhớ ngày mười bẩy tháng ba
Là ngày kỵ giỗ giờ Bà hóa thân,
Ngày Mười Ba tháng Giêng Âm lịch,
Trời mưa phùn tịch mịch vào Xuân
Mịt mù khói tỏa màn sương,
Mái đền thấp thoáng còn vương ánh chiều
Tiếng chuông đồng vọng đâu đây,
Tiếng ngân thánh thót như dây tơ vàng.
Chúng con xin được vào cung lễ Bà,
Bà ngồi tĩnh lặng như trong Phật đài
Lâm râm khấn xin Bà phù hộ,
Trong phút giây tưởng thấy Bà cười,
Nhẹ nhàng Bà bảo:
Con ơi,
Sửa lòng thanh sạch,
Thì đời con nhẹ bước trần gian
Tổ ban cho phép tu thân,
Để con không bị trầm luân kiếp này
Nghe lời Bà dậy sâu xa,
Xin thưa, con hiểu, từ rày cố hơn.
Xin Bà một chút chứng tâm,…!
—————-
Vũ Ngọc Phương là Chủ tịch Trung ương Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân Lực – Nhân Tài Việt Nam 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc trở về với sự cai trị độc tài


Nguồn: Minxin Pei: “China’s Return to Strongman Rule”,  Foreign Affairs, 1 November 2017
Người dịch: Huỳnh Hoa
Ý nghĩa việc thâu tóm quyền lực của Tập Cận Bình
Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu trong chính trị Trung Quốc. Vào ngày 24 tháng 10, khi đại hội toàn quốc lần thứ 19 của đảng Cộng sản Trung Quốc hạ màn, các đại biểu của đảng đã sửa đổi điều lệ của tổ chức này để thiêng hóa một nguyên tắc ý thức hệ có vai trò dẫn dắt mới: “Tư tưởng Tập Cận Bình” (Xi Jinping). Ít có nhà quan sát nào biết chính xác học thuyết này dẫn tới cái gì – đó là một tập hợp vô hình vô ảnh những ý tưởng về duy trì nhà nước độc đảng của Trung Quốc và chuyển hóa đất nước thành một cường quốc toàn cầu – nhưng đa số đều lập tức nắm được cái biểu trưng chính trị trong sự ra đời học thuyết này. Đảng Cộng sản đã đề cao những đóng góp về ý thức hệ của nhà lãnh đạo Trung Quốc lên ngang tầm với những đóng góp của Mao Trạch Đông (Mao Zedong) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping), hai lãnh tụ đảng Cộng sản Trung Quốc duy nhất có ý tưởng được thánh hóa như vậy.
Đây mới chỉ là dấu hiệu đầu tiên rằng ông Tập đã giành được một thắng lợi chính trị quan trọng tại đại hội đảng. Quy mô thực sự của chiến thắng của ông trở nên rõ ràng vào ngày hôm sau, khi các đại biểu đảng chọn ra các ủy viên mới của ủy ban thường vụ bộ chính trị, cơ quan quyết định cấp cao nhất của Trung Quốc. Ông Tập lấp đầy cái ủy ban bảy người này bằng những người trung thành với ông, tất cả đều quá già để có thể có cơ hội lên thay vị trí của ông trong đại hội đảng lần tới vào năm 2022. Kết quả là ông Tập sẽ cai trị 15 năm nữa và có thể lâu hơn.
Tuy có vẻ rất vững mạnh, giờ đây ông Tập phải có đủ vốn chính trị để bảo đảm một nhiệm kỳ kéo dài trong tư cách lãnh tụ Trung Quốc. Trong thực tế, ông sẽ cần thực hiện lời cam kết tái cân bằng và làm cho bền vững đà tăng trưởng kinh tế và tái cơ cấu hệ thống tư pháp của Trung Quốc.
Sự gia tăng quyền lực của ông Tập
Trong số bảy ủy viên thường trực bộ chính trị khóa trước của đảng Cộng sản Trung Quốc, chỉ hai người còn tại nhiệm: ông Tập và người phó của ông, thủ tướng Lý Khắc Cường (Li Keqiang). Năm ủy viên khác của cơ quan này là người mới và bốn trong số họ là thân tín của ông Tập.
Lật Chiến Thư (Li Zhanshu), nhân vật thứ ba và mới của đảng, đã gây dựng một tình bạn thân thiết với ông Tập hơn 30 năm về trước và là chánh văn phòng của ông Tập trong nhiệm kỳ đầu của ông, từ năm 2007. Một thuộc hạ trung thành khác, ông Triệu Lạc Tế (Zhao Leji) sẽ là người chỉ huy mới của công cuộc chống tham nhũng, đóng vai người canh tay chủ lực thực hành chỉ thị của ông Tập. Người lãnh đạo cũ của cơ quan này, ông Vương Kỳ Sơn (Wang Qishan) đã giữ vai trò người xoay chuyển trong việc giúp ông Tập loại bỏ các đối thủ và củng cố quyền lực trong nhiệm kỳ đầu.
Nhiều nhà quan sát Trung Quốc đã nhận ra hai gương mặt mới và khác trong ủy ban thường vụ, ông Vương Hỗ Ninh (Wang Huning) và Hàn Chính (Han Zheng), là thành viên của cái gọi là Nhóm Thượng Hải – một nhóm đầu sỏ câu kết với cựu chủ tịch Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) – một lối suy nghĩ nhằm đặt nghi vấn về lòng trung thành của hai ông này đối với ông Tập. Nhưng cách đánh giá như vậy là không chính xác. Ông Vương đã từng là cố vấn chính về ý thức hệ cho cả ba đời lãnh tụ đảng – ông Giang, ông Hồ Cẩm Đào (Hu Jintao) và ông Tập – và không có khả năng ông ta sẽ gắn bó với nhóm của ông Giang để gây nguy hiểm cho mối quan hệ với ông Tập sau khi nhóm ông Giang đã bị tiêu hao nhiều vì đòn phép chống tham nhũng của ông Tập. Ông Hàn cũng vậy, ông ta là người có năng lực, một nhà kỹ trị điềm tĩnh không có sự trung thành vĩnh viễn với Nhóm Thượng Hải. Thực ra, khi ông Tập làm bí thư Thượng Hải trong các năm 2006-2007 thì ông Hàn đã là thị trưởng thành phố và là cánh tay mặt của ông Tập. Ủy viên thứ bảy trong ủy ban thường vụ là ông Uông Dương (Wang Yang), một người có quan hệ với Nhóm Đoàn Thanh niên đối lập. Ông Uông sẽ trở thành lãnh đạo của hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (Chính hiệp) – một cơ quan tư vấn của đảng.
Ông Tập cũng thành công trong việc lấp đầy bộ chính trị 25 thành viên bằng những đồng minh của mình. Có ít nhất 11 trong số 15 thành viên mới của bộ chính trị nằm trong nhóm của ông Tập. Kết quả là, giờ đây ông có thể giành tới 18 phiếu trong bộ chính trị. Các quyết định của ông sẽ được bộ chính trị và ủy ban thường vụ phê chuẩn với số phiếu áp đảo, từ đó sẽ có quyền lực phi thường. Hơn thế nữa, các đồng minh của ông Tập trong bộ chính trị, một số người còn khá trẻ, sẽ là những ứng viên mạnh để được đưa vào ủy ban thường vụ trong đại hội đảng lần thứ 20 vào năm 2022.
Thắng lợi chính trị lớn lao nhất mà ông Tập giành được tại đại hội là sự chấm dứt thông lệ của đảng, theo đó một nhà lãnh đạo mới sẽ được chính thức đề bạt ít nhất 5 năm trước ngày nhận chuyển giao quyền lực. Truyền thống này có từ năm 1992, khi ông Đặng chọn ông Hồ làm người kế tục ông Giang mười năm trước ngày ông Hồ đảm nhiệm chức vụ. Tương tự như vậy năm 2007 đảng đã chọn ông Tập làm người kế nhiệm ông Hồ. Thông lệ này làm giảm rủi ro tranh giành quyền kế tục trong đảng và giúp thực thi quy định không chính thức về giới hạn số nhiệm kỳ của các lãnh đạo cấp cao nhất là hai nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Nhưng đảng chưa bao giờ pháp chế hóa những truyền thống này trong điều lệ của mình và một lãnh đạo đương nhiệm muốn tìm cách kéo dài sự cai trị của mình sẽ luôn có thể chấm dứt các truyền thống đó nếu như có đủ quyền lực.
Đây rõ ràng là trường hợp của ông Tập; ông và các đồng minh của ông đã đi những nước cờ xuất sắc để thoát ra khỏi tiền lệ. Trước tiên, vào mùa thu năm 2016, đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức phong ông Tập là “lãnh tụ hạt nhân” (core leader) của đảng, khiến ông là lãnh tụ duy nhất từ thời ông Đặng tự mình có được cái danh hiệu đáng thèm muốn ấy và gửi một thông điệp cho các nhân vật cao cấp khác rằng vị trí của ông Tập là bất khả xâm phạm. (Ông Giang cũng được làm core leader nhưng do ông Đặng phong, còn ông Hồ không bao giờ nhận được danh hiệu này). Vài tháng sau đó, vào tháng Giêng năm nay, các đặc vụ an ninh Trung Quốc đã bắt cóc nhà tài phiệt Tiểu Kiến Hoa (Xiao Jianhua) tại một căn hộ trong khu Four Seasons ở Hong Kong. Vụ bắt cóc nhằm ngăn chặn những thách thức tiềm tàng đối với kế hoạch của ông Tập: là nhà tài phiệt cung cấp tiền bạc cho nhiều lãnh đạo chóp bu Trung Quốc, ông Tiểu có khả năng nắm giữ nhiều thông tin có thể dùng để buộc tội một số đối thủ của Tập.
Tháng Bảy, Tập có thêm một động tác nữa: ra lệnh bắt giam bí thư đảng thành phố Trùng Khánh Tôn Chính Tài (Sun Zhengcai) về tội tham nhũng. Vụ hạ bệ ông Tôn có nhiều ý nghĩa, một phần vì ông này kết giao với nhóm ông Giang và còn vì ông này còn trẻ đến mức nếu để cho ông ta yên thì ông ta sẽ là một người kế nhiệm hợp lý của ông Tập. (Ủy viên bộ chính trị nói chung phải dưới 55 tuổi thì mới đủ điều kiện xem xét làm người kế tục tương lai). Giờ đây sau khi ông Tôn đã bị loại bỏ thì chỉ còn một ủy viên bộ chính trị có tuổi đủ trẻ để có thể làm người kế nhiệm ông Tập vào năm 2022: cựu bí thư tỉnh Quảng Đông Hồ Xuân Hoa (Hu Chunhua). Nhưng ông Hồ 55 tuổi này vừa rồi không được đề bạt vào ủy ban thường vụ bộ chính trị, rõ ràng ông ta không đủ điều kiện để kế nhiệm ông Tập vào năm 2022 nữa. Ông Hồ có khả năng sẽ được bố trí chức phó chủ tịch nặng tính tượng trưng vào tháng Ba năm tới.
Với ít sự lựa chọn như vậy, ông Tập sẽ có cái cớ hoàn hảo để trì hoãn việc đưa ra quyết định ai là người sẽ kế nhiệm ông. Sự thống trị của ông trong bộ chính trị và ủy ban thường vụ sẽ giúp ông có đủ quyền lực để làm như vậy, bảo đảm cho ông có thêm nhiệm kỳ lãnh đạo thứ ba tại đại hội kế tiếp của đảng vào năm 2022.
Ông Tập sẽ sửa đổi điều lệ đảng và hiến pháp Trung Quốc để hợp pháp hóa sự kéo dài quyền lực của ông. Chẳng hạn như ông có thể đảm nhiệm vị trí chủ tịch đảng – khôi phục một chức vụ đã bị bãi bỏ trong điều lệ đảng – và khởi động lại việc tính thời gian lãnh đạo đảng của ông. Còn đối với giới hạn hai nhiệm kỳ ở chức vụ chủ tịch nhà nước Trung Quốc (thường được nói tới “chức chủ tịch” (presidency) trong tiếng Anh nhưng để phù hợp ra phải dịch là “chức chủ tịch hội đồng” (chairmanship)) nó có thể được thay đổi chỉ với một sự điều chỉnh về ngữ nghĩa: các quan chức có thể sửa đổi hiến pháp Trung Quốc để chức danh chính thức của ông Tập trở thành “chủ tịch” (president). Bằng việc bảo đảm thêm hai nhiệm kỳ 5 năm mới với tư cách người đứng đầu cả đảng và nhà nước, ông Tập sẽ có thể cầm quyền cho đến tận năm 2032.
Pháp trị
Những câu hỏi lớn nhất về kỷ nguyên mới của Trung Quốc đều xoay quanh chương trình của ông Tập. Ít ai kỳ vọng ông Tập sẽ trở thành nhà cải cách chính trị do những cuộc đàn áp xã hội dân sự và quyền tự do internet trong suốt nhiệm kỳ đầu của ông. Nhưng những người lạc quan tin rằng, quyền lực tối cao mới giành được của ông Tập sẽ khiến ông được tự do theo đuổi những cuộc cải cách khác nữa, giới thiệu các cải cách kinh tế thân thiện với thị trường và tái cơ cấu hệ thống tư pháp Trung Quốc để bảo vệ quyền tư hữu và thúc đẩy phát triển một cách hiệu quả hơn.
Trong thực tế, ít có điều gì cho thấy rằng một làn sóng mới về cải tổ kinh tế đang hình thành. Ông Tập đã thủ đắc quyền lực to lớn trong suốt nhiệm kỳ đầu, năm 2013 ông đã đưa ra kế hoạch đầy tham vọng nhằm đại tu nền kinh tế Trung Quốc để “[cho phép] các lực lượng thị trường đóng một vai trò quyết định” như kế hoạch đã công bố. Nhưng từ ngày đó, ông chỉ làm được vài bước tiến rất khiêm tốn. Nhờ chính sách tiền tệ lỏng lẻo, mô hình tăng trưởng do đầu tư thúc đẩy và được tín dụng tiếp nhiên liệu vẫn đứng vững, góp phần nâng tỷ lệ nợ so với tổng sản lượng GDP của Trung Quốc từ mức 215% năm 2012 lên 242% năm 2016. Và mặc dù các doanh nghiệp nhà nước nợ nần đầm đìa của Trung Quốc đang trì kéo nền kinh tế quốc gia, chúng vẫn có một vị trí đặc biệt trong tầm nhìn tương lai của ông Tập. Tháng 7-2016, ông lập luận rằng các doanh nghiệp này cần phải trở nên “mạnh hơn, tốt hơn, lớn hơn, không có sự dè dặt nào”.
Niềm tin của các nhà lãnh đạo Trung Quốc vào các chính sách hiện hành là một lý do khác để các nhà quan sát không nên đặt quá nhiều hy vọng vào cải cách kinh tế. Mặc dù đã có những lời cảnh báo rằng nợ nần không chống đỡ được sẽ dẫn tới sụp đổ tài chính, nhưng Bắc Kinh vẫn chưa phải trả một cái giá đắt cho việc bám chặt vào chiến lược bơm tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng. Thật vậy, hoạt động kinh tế gần đây của Trung Quốc – tăng trưởng GDP chắc chắn sẽ vượt qua mục tiêu chính thức là từ 6,5-6,7% trong năm nay – đã làm sâu sắc thêm niềm tin của các nhà hoạch định chính sách vào mô hình hiện hành.
Cuối cùng, bởi vì tất cả các cuộc cải cách kinh tế mạnh mẽ trong quá khứ đều được thôi thúc bởi những vụ khủng hoảng, những cú sốc nên các nhà quan sát nên giảm nhẹ cái khả năng Bắc Kinh sẽ theo đuổi những sự cải tổ sâu rộng một khi nền kinh tế vẫn đang vận hành tương đối tốt như ngày hôm nay.
Thay vì vậy, ưu tiên chính trị hàng đầu của ông Tập trong tương lai gần rất có thể là cải tổ toàn diện hệ thống tư pháp Trung Quốc, không phải nhắm tới sự thiết lập nhà nước pháp quyền (rule of law) thật sự mà là thực hiện pháp trị (rule by law), theo đó nhà nước sẽ dùng hệ thống tư pháp để duy trì sự kiểm soát về chính trị, xã hội và kinh tế. Nếu như vậy thì kết quả rất có thể là sự đàn áp chứ không phải là sự tiến bộ.
Có ba dấu hiệu cho thấy ông Tập sẽ tập trung vào cải cách tư pháp. Một là, đại hội đảng đã phê chuẩn kế hoạch của ông Tập cải tổ hệ thống tư pháp qua việc thành lập một “nhóm lãnh đạo về quản trị toàn diện đất nước theo luật pháp”, một cơ quan mà ông Tập là người đứng đầu. Thứ đến, ông Tập đã bổ nhiệm tay chân thân tín nhất của ông, ông Lật Chiến Thư, làm chủ tịch Đại hội Nhân dân toàn quốc, tức Quốc hội Trung Quốc, cơ quan lập pháp của quốc gia, sẽ soạn thảo và thông qua các luật lệ thiết yếu cho việc hiện thực hóa tầm nhìn của ông Tập. Cả hai biện pháp này cho thấy rằng, chẳng bao lâu nữa, cải cách tư pháp sẽ nhận được rất nhiều sự quan tâm ở cấp cao. Cuối cùng, ông Tập là người tin tưởng sâu sắc vào truyền thống pháp trị của Trung Quốc và trọng tâm của nhóm lãnh đạo mới về quản trị “toàn diện” phản ánh tham vọng đó.
Như đã thấy, trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, ông Tập đã ban hành một số luật quan trọng nhằm kiểm soát xã hội, siết chặt hoạt động an ninh mạng của Trung Quốc và hạn chế các tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Nhưng để tái xác nhận quyền lực của đảng đối với xã hội và để cung cấp nền tảng pháp lý vững chắc cho chế độ độc tài chuyên chế thì còn nhiều chuyện phải làm. Ví dụ, Trung Quốc có thể áp đặt thêm nhiều hạn chế đối với các tổ chức phi chính phủ nội địa, ban hành những luật lệ mới về giáo dục tư tưởng trong các trường đại học, cao đẳng hoặc viết lại bộ luật hình sự sao cho nó trở thành công cụ ngày càng hiệu quả trong việc trấn áp sự phản kháng trong nước. Mục đích sẽ là biến đổi Trung Quốc từ một chế độ tản quyền hậu toàn trị chủ nghĩa thành một chế độ độc tài chuyên chế được cai trị bởi một đảng Leninist có kỷ luật.
Thói quan liêu
Trong ngắn hạn, các kế hoạch của ông Tập sẽ không gặp nhiều sự phản kháng công khai. Cuộc đàn áp thẳng tay giới bất đồng chính kiến và xã hội dân sự của ông đã có hiệu quả một cách đáng buồn, và đã xóa bỏ mọi mối đe dọa đối với sự cai trị của chế độ trong tương lai gần. Giờ đây, vai trò tối thượng của ông Tập trong đảng Cộng sản đã bao trùm tới mức không thể hình dung được có đồng nghiệp nào của ông dám đứng ra thách thức ông.
Sự phản kháng thật sự đối với tham vọng của ông Tập sẽ đến từ guồng máy hành chính quan liêu to lớn của Trung Quốc. Các quan chức cấp thấp và cấp trung của chế độ, số lượng lên tới hàng triệu người, là những con người có tính tư lợi đầu tiên và cao nhất, và họ quan tâm nhiều tới chuyện gia tăng đặc quyền và của cải của chính mình hơn là thúc đẩy những mục tiêu ý thức hệ trừu tượng. Khi ông Tập giải thể cơ chế chia sẻ quyền lực và bổng lộc từng là đặc trưng của trật tự ở Trung Quốc thời kỳ sau biến cố Thiên An Môn, triển vọng về quyền lực và tiền bạc của những cán bộ trong guồng máy quan liêu này cũng phai mờ dần. Đã không còn những băng nhóm tinh hoa để họ nhập vào, cũng không có nhiều người đỡ đầu để họ phục vụ. Ngày nay, mỗi quan chức đều phải cạnh tranh giành ân huệ của một chế độ do một nhóm duy nhất thống trị, và có rất ít con đường để thăng tiến so với thời kỳ trước khi ông Tập nắm quyền. Tệ hơn nữa, công cuộc trấn áp tham nhũng của ông Tập đã xóa sổ những hành vi hối lộ béo bở, những bổng lộc từng bảo đảm cho lối sống của giới cán bộ trong suốt hai thập kỷ qua. Trừ phi ông Tập bớt nghiêm khắc và cho phép đa số quan chức trong guồng máy được tiếp tục thu vén cho cá nhân họ, lòng trung thành sẽ mất đi sức hấp dẫn của nó.
Tất nhiên phần lớn các cán bộ cấp thấp hơn sẽ không từ bỏ đảng Cộng sản hoặc biểu lộ công khai sự bất mãn của họ. Thay vì vậy họ sẽ làm những gì mà guồng máy quan lại Trung Hoa đã làm trong hàng ngàn năm qua: phản ứng một cách thụ động với những mệnh lệnh từ cấp cao nhất. Mục tiêu của những cán bộ này là làm cho ông Tập phải nhận ra giá trị của họ và tưởng thưởng cho họ một cách tương xứng, có thể bằng cách chấm dứt cuộc trấn áp tham nhũng và yêu cầu thắt lưng buộc bụng. Cách thức duy nhất để đạt được điều này là thông qua sự tránh né, dối gạt của hệ thống quan liêu, làm chậm lại vòng quay của guồng máy hành chính và làm trì trệ cỗ máy kinh tế của Trung Quốc nhằm thu hút sự chú ý của ông Tập. Cho dù quyền lực của ông Tập có sâu rộng đến đâu thì nó cũng bị xói mòn nhanh chóng nếu tăng trưởng kinh tế bị trì trệ vài năm và giới quan chức Trung Quốc biết rõ điều đó.
Ông Tập không phải là nhà lãnh đạo đầy quyền năng đầu tiên của Trung Quốc phải đối mặt với guồng máy quan liêu cứng đầu cứng cổ. Ông Mao cũng đã đương đầu với một thách thức tương tự vào đầu thập niên 1960, khi ông nghĩ rằng các cán bộ đảng không có đủ nhiệt tình cách mạng. Một trong những động cơ để ông Mao phát động cuộc Cách mạng Văn hóa là sử dụng khủng bố của đám đông để đưa guồng máy quan liêu vào kỷ luật và phục hồi tinh thần cách mạng.
Nhưng ông Tập không phải là người tin tưởng vào các phong trào quần chúng và ông cũng không có cái uy tín tuyệt đối của ông Mao, người có thể huy động hàng trăm triệu thường dân Trung Quốc vào một hành động chung. Thay vì vậy, ông Tập phải tìm cách mở rộng phạm vi quyền lực của ông từ cấp ủy ban trung ương xuống tới các tỉnh thành quận huyện. Đó là một công việc nặng nhọc và tốn nhiều thời gian, chẳng hạn như nỗ lực xem xét và tuyển dụng cán bộ có triển vọng ở cấp địa phương.
Nhiều viên chức cấp thấp và cấp trung sẽ gia nhập phe của ông Tập. Nhưng khi cơ sở của ông mở rộng, nó cũng có thể gieo những hạt mầm tranh chấp trong nội bộ đảng. Biết rằng trận chiến kế tiếp để giành quyền lực tối thượng sẽ diễn ra trong 10, 15 năm nữa, khi ông Tập tiến tới ngày ra khỏi quyền lực, những thủ hạ bề ngoài có vẻ trung thành của ông sẽ quan tâm nhiều tới việc xây dựng quyền lực của riêng họ hơn là thực thi chương trình của ông Tập. Đây là chuyện đã xảy ra trong thời Cách mạng Văn hóa: sau khi Mao diệt xong các đối thủ thì những thủ hạ trung thành của ông ta, nhóm Lâm Bưu (Lin Biao) và nhóm Tứ Nhân Bang (Gang of Four) đã nhanh chóng đối địch với nhau vì lo sợ rằng nhóm kia sẽ tự đặt mình vào vị thế nối nghiệp vị chủ tịch già nua ấy.
Trong bàn tay của Tập
Trong những năm tháng sau khi Mao Trạch Đông qua đời, các nhà lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu hiểu rằng, tập trung quyền lực vào tay một nhân vật đơn lẻ có thể gây thảm họa cho đảng. Đó là lý do tại sao những người sống sót sau cuộc Cách mạng Văn hóa đã tập hợp lại trong thập niên 1980 để bảo đảm rằng không bao giờ một lãnh tụ như Mao lại có thể cai trị Trung Quốc. Những sự thay đổi mà nhóm này đưa ra – chẳng hạn như cơ chế lãnh đạo tập thể, những luật lệ không chính thức về sự kế nhiệm, và những sự bảo đảm ngầm về an ninh cho các lãnh đạo cấp cao – đã sinh ra một sự ổn định của giới tinh hoa trước đây chưa từng thấy trong lịch sử của đảng. Chúng cũng giúp cho chế độ tránh được những sai lầm nguy hiểm phát sinh từ sự giao phó quyền lực vào tay một cá nhân.
Các quan chức Trung Quốc dường như đã quên những bài học này. Giờ đây đảng Cộng sản đã quay lại với sự cai trị chuyên chế của một nhà độc tài, tương lai của nó sẽ phụ thuộc phần lớn vào phẩm chất những quyết định của ông Tập. Sẽ có rất ít hạn chế về cách thức ông này đưa ra quyết định. Lần cuối cùng mà đảng có một lãnh tụ với quyền lực không bị kiểm soát như thế thì hậu quả là thảm họa. Chỉ có thể hy vọng rằng, lần này các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết những gì mà họ đang làm – và rằng kết quả sẽ không giống trước.
Nguồn bài dịch: Viet-studies 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ nghĩa dân túy là gì?


Nguồn: “What is populism?“, The Economist, 19/12/2016
Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Donald Trump, tổng thống đắc cử theo chủ nghĩa dân túy của nước Mỹ, muốn trục xuất những người nhập cư không có giấy tờ. Podemos, một đảng dân túy Tây Ban Nha, muốn cho người nhập cư quyền bầu cử. Geert Wilders, chính trị gia dân túy người Hà Lan, muốn xóa bỏ các đạo luật cấm phát ngôn gây thù hận (hate-speech). Jaroslaw Kaczynski, chính trị gia dân túy người Ba Lan, nỗ lực thúc đẩy một đạo luật quy định việc sử dụng cụm từ “các trại tử thần Ba Lan” là bất hợp pháp. Evo Morales, tổng thống dân túy của Bolivia, đã mở rộng quyền trồng coca của nông dân thổ dân. Rodrigo Duterte, tổng thống dân túy của Philippines, đã ra lệnh cho lực lượng cảnh sát tiêu diệt những người bị nghi ngờ là buôn bán ma túy. Các nhà dân túy có thể là các nhà quân phiệt, người yêu hòa bình, người hâm mộ Che Guevara hay Ayn Rand; họ có thể là những người hoạt động vì môi trường phản đối việc xây dựng các đường ống dẫn dầu hoặc những người phủ nhận biến đổi khí hậu và ủng hộ việc khoan thêm dầu. Điều gì khiến cho tất cả những người đó được  gọi là “các nhà dân túy” (populist), và thuật ngữ đó thực sự có ý nghĩa gì?
Thuật ngữ “chủ nghĩa dân túy” (populism) được sử dụng rộng rãi kể từ những năm 1890, khi phong trào dân tuý của Mỹ thúc đẩy người dân nông thôn và Đảng Dân chủ chống lại những người Cộng hòa thường sống ở đô thị hơn. (Nó cũng được sử dụng để đề cập đến phong trào dân túy (narodnichestvo) của Nga vào thế kỷ 19, chủ yếu bao gồm các trí thức tự ghét bỏ tầng lớp mình và đồng cảm với giai cấp nông dân).
Trong những năm 1950, các học giả và các nhà báo bắt đầu áp dụng thuật ngữ này một cách rộng rãi hơn để mô tả tất cả mọi thứ, từ các phong trào phát xít và cộng sản Châu Âu tới chủ nghĩa chống cộng McCarthy của Mỹ và chủ nghĩa Peron (Peronistas) của Argentina. Như Benjamin Moffitt đã giải thích trong cuốn sách của mình, “Sự nổi lên toàn cầu của chủ nghĩa dân tuý” (“The Global Rise of Populism”), một hội nghị tại Trường Kinh tế London vào năm 1967 đã đồng ý rằng thuật ngữ này, mặc dù hữu ích, lại quá rộng để có thể gắn với một cách mô tả duy nhất.
Một số học giả liên kết nó với sự thất vọng về sự sụt giảm của địa vị hoặc tài sản, một số khác lại liên hệ nó với nỗi niềm hoài cổ của các nhà dân tộc chủ nghĩa. Những người khác coi nó như là một chiến lược chính trị, trong đó một nhà lãnh đạo có sức lôi cuốn thu hút công chúng trong khi dẹp các tổ chức qua một bên (mặc dù không phải tất cả các phong trào dân túy đều có một nhà lãnh đạo như vậy). Bất chấp sự mơ hồ đó, việc sử dụng thuật ngữ này ngày càng gia tăng.
Năm 2004, Cas Mudde, một nhà khoa học chính trị tại trường Đại học Georgia, đưa ra một định nghĩa ngày càng có ảnh hưởng. Theo quan điểm của ông, chủ nghĩa dân túy là một “hệ tư tưởng mỏng”, chỉ đơn thuần xây dựng lên một khuôn khổ: một dân tộc trong sạch chống lại một tầng lớp tinh hoa mục nát. (Ông đối lập nó với chủ nghĩa đa nguyên (pluralism), một chủ nghĩa chấp nhận tính hợp pháp của nhiều nhóm khác nhau.) Hệ tư tưởng mỏng này có thể được gắn liền với tất cả các hệ tư tưởng “dày” với nhiều nội dung đa dạng hơn, chẳng hạn như chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa dân tộc, tư tưởng chống đế quốc hoặc chống phân biệt chủng tộc, nhằm giải thích thế giới và biện minh cho những mục tiêu cụ thể.
Ông Kaczynski của Ba Lan, một nhà dân túy dân tộc-tôn giáo, đã vận động cho việc tiếp quản của Nhà thờ đối với các thể chế trong nước từ tay những nhà tự do thế tục trong giới tinh hoa. Ông Wilders của Hà Lan, một nhà dân túy dân tộc-thế tục, yêu cầu đàn áp Hồi giáo (với lý do bảo vệ quyền lợi người đồng tính) và chỉ trích tầng lớp tinh hoa đa văn hóa. Đảng Podemos của Tây Ban Nha, một đảng dân túy vô chính phủ-xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy việc tịch thu các tòa nhà bỏ trống thuộc sở hữu của các ngân hàng và phân phối chúng cho người nghèo, và tấn công tầng lớp tinh hoa (la Casta).
Định nghĩa “hệ tư tưởng mỏng” này về chủ nghĩa dân túy dường như phù hợp tại nước Anh, nơi những người ủng hộ Brexit lên án các chuyên gia, tự gọi mình là “nhân dân” và khoa trương về việc “phá tan giới tinh hoa”. Thật vậy, Brexit dường như thiếu một “hệ tư tưởng dày” thống nhất: những người ủng hộ Brexit có thái độ khác nhau đối với thương mại, chủng tộc, chi tiêu chính phủ và gần như tất cả mọi thứ khác.
Nhưng các học giả khác cảm thấy định nghĩa về hệ tư tưởng mỏng không thể nắm bắt được một số chiều kích. Jan-Werner Müller, một nhà khoa học chính trị tại Đại học Princeton, nghĩ rằng các nhà dân túy được xác định bởi tuyên bố của họ rằng chỉ có họ đại diện cho nhân dân, và rằng tất cả những nhóm khác là bất hợp pháp. Ngoài ra, còn có những khác biệt quan trọng trong nội hàm, chẳng hạn như sự khác biệt giữa các nhóm bao trùm và phân biệt. Chủ nghĩa dân túy phân biệt (exclusive populism) tập trung vào việc loại trừ các nhóm bị kỳ thị (những người tị nạn, người di gan…), và thường phổ biến hơn ở châu Âu. Còn chủ nghĩa dân túy bao trùm (inclusive populism)yêu cầu rằng chính trị phải được mở rộng cho các nhóm bị kỳ thị (người nghèo, các nhóm thiểu số…), và phổ biến hơn ở châu Mỹ Latinh.
Ông Mudde lập luận rằng trong khi hầu hết các tác giả đều ghét chủ nghĩa dân túy, mặt tích cực của nó là ở chỗ nó buộc giới tinh hoa phải thảo luận về các vấn đề mà họ muốn bỏ qua. Nhưng niềm tin của chủ nghĩa dân túy rằng người dân luôn luôn đúng thì lại là tin xấu đối với hai yếu tố của nền dân chủ tự do: quyền của các nhóm thiểu số và nguyên tắc pháp quyền.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

5 lý do TQ không dám dùng KQ trong chiến tranh biên giới 1979 (202)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

MẠNG XÃ HỘI LỢI HAY HẠI?


Trương Huy San ( Huy Đức)
Dữ liệu rất quan trọng cho công tác nghiên cứu và hoạch định chính sách. Nhưng sử dụng các số liệu từ Đức, Hàn Quốc... thậm chí từ Trung Quốc để so sánh với Việt Nam cũng giống như so sánh hai số hạng không cùng đại lượng (mét so với kg).
Người Đức, người Mỹ... sử dụng MXH đôi khi chỉ để đáp ứng những nhu cầu bạn bè trong từng group nhỏ. Người Việt Nam sử dụng MXH ngoài những nhu cầu thông thường, còn là để thực hiện các quyền Hiến định - quyền tự do ngôn luận, bày tỏ chính kiến; quyền làm công tác từ thiện, giúp đỡ người yếu thế. Những quyền mà báo chí nhà nước và không gian chính trị của Việt Nam không có khả năng cung cấp.
Tự do biểu đạt chính kiến quan trọng đến nỗi, tổng thống của một quốc gia tự do như D. Trump cũng phải sử dụng MXH để tuyên ngôn khi ông không còn tin báo chí. Đừng so với Trung Quốc, chỉ trong một quốc gia mà việc người dân chỉ trích lãnh đạo, chỉ trích chính quyền được coi là "văn hoá" thì quốc gia đó mới có cơ may được coi là văn minh, chính quyền của quốc gia đó mới được coi là chính quyền mạnh.
Với những tiến sỹ rừng như ông Trương Minh Tuấn thì tôi không chấp, tôi rất tiếc khi nghe phát biểu của PTT Vũ Đức Đam. Ông có một trí nhớ tuyệt vời, một khả năng diễn thuyết rất thuyết phục, nhưng ông đã mơn trớn các đại biểu có chức có quyền trong quốc hội thay vì giúp phần lớn trong họ nắm được MXH là môi trường sống của thế giới ngày nay. Nó chứa chấp đủ thứ dịch bệnh của loài người nhưng nó cũng giúp chính loài người từng bước loại bỏ các dịch bệnh đó và nuôi nấng từng mầm tích cực.
Chỉ từ khi có internet, Việt Nam mới tốt lên như vậy và chính quyền mới mạnh như vậy (dù bị chỉ trích nhiều hơn, dù nhiều người chỉ trích chính quyền không muốn thế).
Dân trí của Việt Nam như ông nói, chưa bằng Thái và tất nhiên là chưa bằng Đức. Nhưng vì sao. Chưa có một quốc gia nào (tôi không tính Trung Quốc và Bắc Hàn) mà Bộ Luật Hình Sự chứa đựng nhiều điều luật để đe doạ người sử dụng MXH như Việt Nam. Tuy nhiên, các công cụ này chủ yếu nhắm vào những người sử dụng MXH để "nói xấu lãnh đạo và tuyên truyền chống chế độ". Danh dự, nhân phẩm và bí mật đời tư của thường dân, trong thi hành luật, chưa bao giờ được ưu tiên bảo vệ.
Đừng lẫn lộn các khái niệm trong an ninh mạng. Những gì thuộc về bí mật quốc gia phải thuộc trách nhiệm của những người được giao nắm giữ nó. Có thể vận đông ý thức của công dân trừ những vụ việc nhân danh bí mật quốc gia để lén lút chia chác tài sản của dân. Trong thời đại ngày này, quốc gia nào cũng phải có ý thức lập nhiều tầng dữ liệu (cái gì local, cái gì international). Còn thông tin cá nhân thì kể từ khi ta mua vé máy bay, mua hàng trên Alibaba, xin visa... từng cá nhân đã chấp nhận tiết lộ bí mật đời tư của mình, đừng đổ hết cho MXH.
Cũng không nên dùng con số doanh thu quảng cáo 300 triệu USD (như anh Đam nói) hay 100 triệu (như anh Tuấn nói) để kích thích dạ dày quốc hội. Facebook, Google không kinh doanh ở VN, họ kinh doanh toàn cầu. Ngay cả các cường quốc cũng vẫn còn đang phải tranh cãi việc đánh thuế như thế nào. Các nhà cung cấp dịch vụ internet phải tuân thủ luật thương mại điện tử nhưng các quốc gia cũng phải tuân thủ các cam kết "tránh đánh thuế hai lần".
Đành rằng, thu được đồng thuế nào từ con số 300 triệu đó đều tốt. Nhưng chỉ chăm bẵm vào những con số đó là đã để lá che mất rừng. Thử tính, nếu người dân Việt đã bỏ ra 300 triệu USD quảng cáo trên MXH toàn cầu thì doanh thu có đóng thuế cho ngân khố quốc gia phải tăng lên đến nhường nào.
Đành rằng, để MXH phát triển thì việc nhũng nhiễu dân sẽ không còn như chỗ không người nữa; việc đưa con đàn cháu đống vào bộ máy quyền lực sẽ bị săm soi; công trình nghìn tỷ đắp chiếu sẽ không thể che mắt dân cho đến khi mục nát... Nhưng, cầm quyền thì phải nhận ra rằng, MXH không chỉ đang chỉ trích chính quyền - giúp Chính phủ tu sửa để rồi vừa có quyền vừa có dân - mà còn đang chỉ trích những thói hư tật xấu trong xã hội, đang "khai dân trí và chấn dân khí" chứ không chỉ mắng nhiếc nhau. Hãy vì lợi ích bền lâu của Việt Nam, đừng vì những mục tiêu ngắn hạn.
PS: Những ai hay lấy Đức ra làm ví dụ thì nên đoc kỹ cái này!
( Nguồn: FB Trương Huy San)
Đầu đề của Ngô Minh

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đọc một lời mời:


Buổi sáng mình viết dòng stt “Ngày mới nhẹ nhàng”, nhưng thực ra lòng vẫn ngổn ngang bao nỗi. Buồn cho mình, cho cái thân phận người cầm bút. Nó đau lắm, bế tắc lắm. Định ngừng viết để thực hiện cuộc giang hồ, thì gặp bão số 12. Bây giờ quyết tâm mạnh hơn lại sắp bão số 14. Nhưng cơn bão trong lòng mới thực sự kinh khủng. Chẳng lẽ cứ kéo lê những vần thơ rên rỉ? Không. Rên rỉ thế đủ rồi. Ta cần một năng lượng mới cho thơ. Nghĩ thế rồi mình dạo FB, bắt gặp những bài thơ của nhà thơ Thạch Qùy, một nhà thơ đàn anh mà mình ngưỡng mộ. Những câu thơ của ông xói vào tim óc, khiến mình muốn tự lột xác để trở thành một con người khác. Không biết có còn kịp không?
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chùm thơ của nhà thơ, nhà giáo Thạch Qùy.
CUỘC CHIẾN TÙ MÙ
Tôi chiến đấu không bao giờ chiến thắng
Với nỗi buồn lẩn quất trong tôi !
Nhưng nỗi buồn
Là thù hay bạn ?
Tôi hỏi tôi
Tôi không dễ trả lời !
LAU BIÊN GIỚI
Những bông lau trên đỉnh Lão Sơn
Xào xạc lá và phất phơ trong gió
Những bông lau bên cột mốc biên cương
Bao xương trắng và máu người đã đổ ?
Đất nước tôi nhành cây, ngọn cỏ
Cũng nghìn năm xương trắng máu hồng
Những bông lau xạc xào trong gió
Lau trắng nói điều gì ai có nghe không ?
Một giải biên cương núi hiền, sông vắng
Lau trong chiều gió thổi vẫn phất phơ
Nghìn nấm mộ trong nghĩa trang im lặng
Trước ngàn lau bạc trắng ở bên bờ…
MÔI TRƯỜNG
Mưa chẳng ếch kêu
Nắng không chim hót
Mấy chú ve sầu
Mai còn sống sót ?
GỬI CÁC NHÀ VĂN
Hoặc sung vào đội ngũ đi lừa
Hoặc ở lại trong bị lừa đội ngũ
Bên bàn phím nhà văn ngồi gõ chữ
Xin chữ lừa chớ hiện giữa trang văn !
CÁC NHÀ THƠ NỮ
Quỳnh mất lâu rồi
Hương đi tị nạn
Mĩ Dạ bây giờ nhớ nhớ quên quên
Bạn bè tới thăm không gọi được tên
Có sợi len dài hơn cả đời người
Dễ đã mười năm không in thơ trên báo
Dễ đã mười năm tạm biệt Hội Nhà văn
Chiều tà bóng xế
Người đàn bà lặng lẽ
Tiếp tục
Ngồi đan...
(*) Người đàn bà ngồi đan - Tên tập thơ của Ý Nhi
ĐÓI
Tớ nói thật, tớ có tài nhịn đói
Nhịn từ thuở thiếu niên qua tuổi trung niên
Bát cơm trắng như giấc mơ cổ tích
Trong chiêm bao thường vẫn hiện lên
Tớ nhịn đói hơn sáu mươi năm có lẻ
Rồi quen đi, không đói nữa ngày nào
Cái cảm giác thèm ăn dần biến mất
Bát cơm trắng ngày nào cũng biến mất khỏi chiêm bao
Giờ nếu bạn mời tớ vào cuộc nhậu
Tớ nể tình ngồi lại, tớ không ăn
Xin bạn hãy cảm thông cho tớ
Cả một đời nhịn đói đã quen thân
Và cũng vậy , tự do, tình yêu và những gì nữa nhỉ...
Với đời sống tinh thần như nước uống, cơm ăn
Nhưng chẳng lẽ, như dạ dày của tớ
Trái tim người đói mãi cũng dần quen ?...
NÓI VỚI CON VƯỢN Ở NIU ĐÊ-LI
Này, con vượn !
Hãy cúi đầu thấp xuống
Thấp xuống đi, thấp xuống nữa, mày ơi
Canh cặn cơm thừa đặt trên mặt đất
Chứ có đâu ở phía trên trời !
MƯA THU
Mời rượu, em không uống
Cà phê, cũng lắc đầu
Thôi thì ta im lặng
Cùng nhìn ra mưa thu...
KHÔNG ĐỀ
Mấy lâu ngồi một xó
Cằm mọc dài cả râu
Cũng muốn đi đâu đó
Nhưng đâu đó là đâu ...?

Phần nhận xét hiển thị trên trang