Lễ hạ thủy tàu khu trục mới của Trung Quốc tại xưởng đóng tàu Giang Nam (Jiangnan), Thượng Hải, ngày 28/06/2017.
Quân đội Trung Quốc hôm nay 28/06/2017 có thêm một khu trục hạm mới tự sản xuất thuộc loại hiện đại nhất, trong nỗ lực cạnh tranh với hải quân các cường quốc khác tại châu Á.
Chiếc khu trục 10.000 tấn này được hạ thủy tại xưởng đóng tàu Giang Nam (Jiangnan) ở Thượng Hải. Theo Tân Hoa Xã, đây là khu trục hạm thế hệ mới đầu tiên của hải quân Trung Quốc, được trang bị hệ thống phòng không, các loại vũ khí chống hỏa tiễn, chống hạm và chống tàu ngầm.
Global Times cho biết thêm, đây là tàu khu trục đầu tiên thuộc Type 055, cấp tiếp theo của khu trục hạm tên lửa dẫn đường Type 052D vốn nhỏ hơn nhiều. Báo chí Trung Quốc đăng các hình ảnh chiếc tàu mới được phủ những dải băng sặc sỡ bên cạnh lá cờ khổng lồ và các thủy thủ xếp hàng ngay ngắn. Tướng Trương Hựu Hiệp (Zhang Youxia), chủ nhiệm Tổng cục Phát triển Khí tài chủ trì lễ hạ thủy. Khu trục hạm này sẽ được thử nghiệm trước khi cho chính thức hoạt động.
Hãng tin AP dẫn thông cáo của hải quân Trung Quốc nói rằng : « Việc hạ thủy chiếc tàu này mang ý nghĩa là sự phát triển tàu khu trục của Trung Quốc đã đạt đến một giai đoạn mới ». Theo AP, loại khu trục hạm này tương đương với cấp Arleigh Burke (DDGs) của Mỹ.
Reuters nhận định, Trung Quốc sản xuất các chiến hạm với tốc độ nhanh chóng trong nỗ lực hiện đại hóa hải quân – quân chủng đang đóng vai trò ngày càng lớn trong quân đội nước này. Báo chí Nhà nước cho biết hải quân đã đặt đóng 18 tàu chiến, gồm khu trục hạm, chiến hạm và tàu tên lửa dẫn đường trong năm 2016. Hồi tháng Tư, Bắc Kinh đã cho hạ thủy chiếc tàu sân bay đầu tiên tự đóng, dự kiến đến năm 2020 sẽ đi vào hoạt động.
Theo Trung tâm Phân tích Hải quân ở Washington DC, hải quân Trung Quốc với tham vọng bành trướng dự kiến sở hữu 265-273 tàu chiến, tàu ngầm và tàu hậu cần vào năm 2020 ; rút ngắn nhanh chóng khoảng cách với 275 chiến hạm Mỹ có thể triển khai tại Thái Bình Dương.
Bắc Kinh biện minh cần có hải quân mạnh để bảo vệ 14.500 km bờ biển và các tuyến đường hàng hải quan trọng. Tuy nhiên Reuters nhắc lại rằng Trung Quốc yêu sách chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông, còn AP cho rằng Bắc Kinh đang ra sức cạnh tranh với hải quân Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ tại vùng biển châu Á.
TNO - Liên quan đến vụ ông Lê Duy Phong, Trưởng ban Bạn đọc Báo Giáo dục Việt Nam bị bắt giữ, Cơ quan Cảnh sát điều tra thành phố Yên Bái đã triệu tập thêm một số người liên quan là phóng viên.
Ngày 30.6, theo nguồn tin của Thanh Niên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.Yên Bái đã triệu tập một số người liên quan đến vụ án Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
Ngoài ông Vũ Xuân Sáng, Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư tỉnh Yên Bái, Cơ quan Công an đã triệu tập một số phóng viên khác. Trong đó, ngày 29.6, đã làm việc với một phóng viên của Báo Giáo dục Việt Nam. Sau buổi làm việc, phóng viên này đã trở về Hà Nội.
Được biết, Cơ quan điều tra đã làm việc với phóng viên của Báo điện tử Giáo dục Việt Nam về những nội dung, quá trình mà trước đó phóng viên này đã lên Yên Bái để tìm hiểu thông tin về khu dinh thự của nhà ông Vũ Xuân Sáng.
Trước đó, ngày 22.6, tại TP.Yên Bái, ông Lê Duy Phong (32 tuổi, thường trú tại phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội, Trưởng ban Bạn đọc Báo điện tử Giáo dục Việt Nam), bị Cơ quan Công an bắt quả tang nhận 50 triệu đồng từ một doanh nghiệp ở Yên Bái. Ngày 23.6, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.Yên Bái đã có quyết định khởi tố vụ án, bắt tạm giam ông Lê Duy Phong.
Ngày 28.6, tại buổi họp báo thông báo tình hình, kết quả công tác công an 6 tháng đầu năm 2017 của Bộ Công an, đại diện Bộ này đã cung cấp một số thông tin liên quan đến việc khởi tố, bắt giam ông Lê Duy Phong, để điều tra về hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
Trung tướng Đỗ Kim Tuyến, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an) dẫn báo cáo của Công an tỉnh Yên Bái, cho biết, ngày 16.6, phóng viên Lê Duy Phong đã đến Yên Bái gặp ông Vũ Xuân Sáng, Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư tỉnh này, nêu một số vi phạm của Sở và yêu cầu ông Sáng chuyển 200 triệu đồng để bỏ qua các sai phạm, không đăng tải các thông tin lên báo. Sau đề nghị của Phong, ông Sáng không đủ tiền nên đã chuyển cho Phong 100 triệu đồng trước, sau đó chuyển tiếp 100 triệu còn lại. Trưa 22.6, khi Phong đang nhận tiền của một doanh nghiệp trên địa bàn phường Nguyễn Thái Học (thành phố Yên Bái) thì bị cơ quan công an bắt quả tang. Sau khi bị bắt giữ, ông Lê Duy Phong đã thừa nhận việc ép buộc, nhận tiền của Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư Yên Bái.
Tuyên bố của Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Heather Nauert về việc kết án Nguyễn Ngọc Như Quỳnh
Họp báo của Bộ Ngoại giao
Washington, DC 29/6/2017
Tôi quan ngại sâu sắc về các phiên tòa của Việt Nam và việc kết án người được trao Giải thưởng Phụ nữ Quốc tế Can đảm 2017 và blogger ôn hòa Nguyễn Ngọc Như Quỳnh. Cô còn được gọi là “Mẹ Nấm”. Cô đã bị kết án 10 năm tù với buộc tội mơ hồ tuyên truyền chống nhà nước. […]
Hoa Kỳ kêu gọi Việt Nam thả Mẹ Nấm và tất cả các tù nhân lương tâm ngay lập tức và cho phép tất cả cá nhân tại Việt Nam tự do thể hiện quan điểm của mình và tụ họp ôn hòa mà không lo sợ bị trừng phạt. Chúng tôi đã chứng kiến một số bước tích cực về nhân quyền tại Việt Nam trong vài năm qua. Tuy nhiên, xu hướng gia tăng các vụ bắt giữ và kết án các biểu tình ôn hòa kể từ đầu năm 2016 rất đáng lo ngại. Sự tiến bộ về nhân quyền sẽ cho phép quan hệ đối tác Hoa Kỳ-Việt Nam đạt được tiềm năng tối đa.
(PL)- Trong tháng 7 này sẽ đưa ra xét xử một số cán bộ, lãnh đạo của xã Đồng Tâm và cán bộ phòng chuyên môn của huyện Mỹ Đức (Hà Nội) có những sai phạm trong vấn đề quản lý đất đai.
Ngày 30-6, ông Nguyễn Hoài Nam, Trưởng ban Pháp chế HĐND TP Hà Nội, cho biết như trên tại cuộc họp báo về kỳ họp thứ 4 của HĐND TP Hà Nội dự kiến diễn ra vào tuần sau.
Dư cấp phó “do chính sách cán bộ”
Trả lời về việc Sở Nội vụ TP Hà Nội có tám phó giám đốc, thừa bốn người so với quy định, ông Nam khẳng định việc thừa cấp phó ở Sở Nội vụ TP Hà Nội “không phải là do bổ nhiệm”.
Ông lý giải tại thời điểm thực hiện Nghị định 24/2014, Sở Nội vụ đảm bảo đủ số lượng cấp phó theo quy định. “Tuy nhiên, đến năm 2015 (dịp Đại hội Đảng bộ TP Hà Nội lần thứ XVI) và năm 2016 (dịp bầu cử chính quyền các cấp) thì có chính sách phải đủ tuổi để đảm nhiệm vị trí trong 30 tháng. Do vậy, một số lãnh đạo chủ chốt không được tái cử, phải nhận nhiệm vụ khác dù không bị kỷ luật gì” - ông Nam nói và cho biết số phó giám đốc Sở Nội vụ thừa so với quy định “là việc liên quan đến chính sách cán bộ chứ không phải việc bổ nhiệm, đề bạt vượt số lượng theo quy định”.
Trước đó, ngày 26-6, trả lời Pháp Luật TP.HCM, ông Vũ Đức Bảo, Trưởng ban Tổ chức Thành ủy Hà Nội, cũng cho hay trước Đại hội Đảng bộ TP Hà Nội lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2015-2020) có hai trường hợp không đủ tuổi tái cử được điều động về Sở Nội vụ làm phó giám đốc cho đến tuổi nghỉ hưu (dự kiến vào tháng 7-2017).
Trong tháng 7 sẽ xét xử một số cán bộ, lãnh đạo xã Đồng Tâm và phòng ban chuyên môn của huyện Mỹ Đức (Hà Nội) có sai phạm trong vấn đề quản lý đất đai. Ảnh: TRỌNG PHÚ
Sắp xử vụ sai phạm đất đai ở Đồng Tâm
Liên quan đến sai phạm trong quản lý đất đai tại Đồng Tâm, Mỹ Đức, tại cuộc họp báo, ông Nam cũng cho hay trong tháng 7 này sẽ đưa ra xét xử một số cán bộ, lãnh đạo của xã Đồng Tâm và cán bộ phòng chuyên môn của huyện Mỹ Đức có những sai phạm trong vấn đề quản lý đất đai.
Về việc thanh tra toàn diện việc quản lý, sử dụng đất đai khu vực sân bay Miếu Môn (Đồng Tâm, Mỹ Đức), ông Nam nói: “Đồng Tâm là vấn đề rất nóng thời gian vừa qua. Hiện nay thực hiện theo kết luận của Thủ tướng, TP Hà Nội đã chỉ đạo thanh tra và đã chính thức kết thúc cuộc thanh tra do TP yêu cầu thực hiện. Hiện nay đoàn thanh tra đang hoàn thiện kết luận thanh tra. Sau khi có kết luận thanh tra, chắc chắn trong vòng bảy ngày sẽ công bố theo quy định”.
Riêng đối với việc bắt giữ người dân của Công an TP Hà Nội, nguyên do trực tiếp làm bùng phát vụ việc Đồng Tâm, ông Nam cho biết việc này thuộc trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của Bộ Công an. Hiện Bộ Công an đã vào cuộc, đang tiến hành thanh tra. Bộ Công an có trách nhiệm kết luận vấn đề bắt giữ người đó là đúng hay sai.
“Còn trách nhiệm của TP thì hiện nay thực hiện theo chỉ đạo của Thường trực Thành ủy, chúng tôi cũng đang giám sát và theo dõi các bước triển khai theo quy định của pháp luật. Khi nào có kết luận thanh tra thì chúng ta sẽ thực hiện theo kết luận thanh tra. Đúng - sai, ai đúng - ai sai, sai chỗ nào xử lý chỗ đó, kể cả cán bộ mà sai cũng bị xử lý theo quy định của pháp luật chứ không chỉ xin lỗi dân mà được” - ông Nam khẳng định.
Xem xét thông qua đề án cấm xe máy
Kỳ họp thứ 4 của HĐND TP sẽ diễn ra từ ngày 5 đến 7-7 để xem xét nhiều nội dung quan trọng của Hà Nội như: Các báo cáo thường kỳ về nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng, dự toán thu chi sáu tháng đầu năm, nhiệm vụ giải pháp sáu tháng cuối năm; công tác phòng, chống tham nhũng; điều hành của HĐND, UBND TP…
Đặc biệt, HĐND TP cũng sẽ xem xét nghị quyết thông qua đề án “Tăng cường quản lý phương tiện giao thông đường bộ nhằm giảm ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường trên địa bàn TP Hà Nội giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn 2030”. Đề án này sẽ hạn chế, tiến tới cấm xe máy trong nội thành đến năm 2030…
Toàn văn bài diễn từ mà GS Ngô Bảo Châu đọc tại lễ đón tiếp long trọng mà Viện hàn lâm khoa học Pháp vừa tổ chức tuần qua dành cho 13 thành viên nước ngoài mới của viện.
Tuần qua, Viện hàn lâm khoa học Pháp đã tổ chức lễ đón tiếp long trọng 13 thành viên nước ngoài mới mà Viện này đã bầu bổ sung trong đợt cuối năm 2015. Chia sẻ với Thanh Niên từ Pháp, GS Ngô Bảo Châu cho biết trong bài diễn từ (bằng tiếng Pháp) mà GS Châu đọc tại buổi lễ đón tiếp, ông đã nói về một dòng chảy toán học mà các thế hệ nhà toán học trước đó đã khám phá, và giờ đến lượt mình là người tiếp tục tham gia khơi nguồn để dòng chảy được tiếp tục.
Tuần trước, Viện Hàn lâm khoa học Pháp đã tổ chức lễ đón tiếp long trọng 13 thành viên nước ngoài mới mà viện này đã bầu bổ sung trong đợt cuối năm 2015, trong đó có GS Ngô Bảo Châu.
Trên trang blog của mình, GS Ngô Bảo Châu đã chia sẻ toàn văn bài diễn từ bằng tiếng Pháp. Rất nhiều người quan tâm đã bày tỏ mong muốn được đọc bản dịch tiếng Việt bài diễn từ. Đáp ứng sự mong mỏi đó, độc giả Nguyễn Đình Đống, một người hâm mộ GS Ngô Bảo Châu, gửi cho báo Thanh Niên bản dịch của mình.
Chúng tôi trân trọng giới thiệu tới độc giả nội dung bản dịch đã được GS Hà Huy Khoái và chính GS Ngô Bảo Châu hiệu đính:
GS Ngô Bảo Châu đọc bài diễn từ tại lễ đón tiếp các thành viên nước ngoài mới do Viện hàn lâm khoa học Pháp tổ chứcẢNH HOÀNG HỒNG MINH
"Trong bài viết duy nhất của ông đã viết về lý thuyết số “Về những số nguyên tố nhỏ hơn một giá trị nhất định”, Riemann đã ghi dấu ấn cho sự phát triển của lĩnh vực này cho nhiều thế kỷ sau đó. Những số nguyên tố, xuất hiện trong dãy số tự nhiên có vẻ rất phân tán, tuân thủ một quy luật thống kê tự nhiên đơn giản hơn ta tưởng. Riemann đã chứng minh rằng quy luật này, định lý về số nguyên tố, được ấn định bởi vị trí các không điểm của một hàm giải tích duy nhất, hàm zeta.
Ông cũng phát biểu giả thuyết nổi tiếng về vị trí các không điểm mà cho đến ngày nay nó vẫn là điều bí ẩn. Định lý về số nguyên tố sau này đã được Hadamard và de la Vallée-Poussin chứng minh, dựa trên một dạng yếu của giả thuyết Riemann. Trước khi phát biểu giả thuyết của mình, Riemann đã nghiên cứu những tính chất giải tích của hàm zeta, bao gồm phương trình hàm, một sự đối xứng kỳ lạ mà cho đến tận ngày nay nó không ngừng làm ta ngạc nhiên.
Đối với tôi, hình như từ thời xa xưa cho tới nay, nhà toán học luôn đi tìm mối quan hệ khi thì chắc chắn và sáng sủa, khi thì mong manh và bí ẩn giữa thế giới các con số và thế giới hình thể. Hai thế giới này không ngừng tỏa sáng và đồng thời khai sáng chúng ta.
GS Ngô Bảo Châu
Trong luận văn mang tên “Về các giả thuyết nền tảng của hình học”, Riemann đã đưa ra những tư tưởng làm đảo lộn sâu sắc những điều chúng ta hiểu về hình học cùng những tác động tới lý thuyết hấp dẫn.
Sau Riemann, một sắc thái mới được đặt lên các hình thể của vật thể hình học, thường ở số chiều lớn, xóa nhòa những tính chất đặc thù của tam giác hay thiết diện conic.
Chính Riemann có thể đã không nghi ngờ sự tồn tại của các mối liên quan giữa hai lĩnh vực. Những mối liên quan này dần dà được khám phá ra trong thế kỷ 20 và thường mang theo mầm mống của sự phát triển với quy mô lớn lao.
André Weil đã chỉ rõ sự giống nhau hình thức giữa cấu trúc của các số hữu tỷ và cấu trúc của hàm phân hình trên diện Riemann thông qua một hàm hữu tỷ trên một đường cong xác định trên một trường hữu hạn.
Ông đã phát biểu một tương tự của giả thuyết Riemann đối với những đối tượng trên, và chứng minh bằng các công cụ của hình học đại số. Ông đã mạnh dạn phỏng đoán rằng dạng của giả thuyết Riemann đã chứng minh không chỉ giới hạn đối với đường cong, các vật thể hình học chiều bằng 1, mà còn đúng cho chiều tùy ý. Ông đã tiên đoán về sự tồn tại của các lý thuyết đồng điều đối với đa tạp đại số trên trường hữu hạn, mà người ta có thể suy ra tương tự của giả thuyết Riemann từ các tiên đề.
Lý thuyết đồng điều đầu tiên đối với không gian topo đã được Henri Poincaré đưa ra đầu thế kỷ 20. Đó là việc xác định những bất biến mà người ta có thể gán cho các không gian tổng quát, mà trước tiên chắc chắn là loại mặt mà Riemann đã nghiên cứu trong luận văn của mình. Trực giác của Weil, rằng những bất biến topo của thế giới các hình phải được lan truyền tới các đa tạp đại số trên trường hữu hạn, mà chúng mặc nhiên thuộc về thế giới của những con số, vừa mạnh dạn vừa phong phú.
Sự phát triển kỳ diệu của hình học đại số ở giữa thế kỷ 20 dưới ảnh hưởng của Grothendieck đã được thúc đẩy mạnh mẽ bởi việc xây dựng các lý thuyết đồng điều của Weil. Những sự phát triển này đã được đăng quang bởi chứng minh giả thuyết Riemann đối với các đa tạp đại số trên trườn hữu hạn của Deligne vào đầu thập kỷ 70.
Trả lời phỏng vấn Báo Thanh Niên, Giáo sư Ngô Bảo Châu chia sẻ một số quan sát cá nhân về những khác biệt của VN so với thế giới trong việc bổ nhiệm giáo sư.
Langlands giả thuyết rằng các hàm L của ông có thể thác triển giải tích và thỏa mãn một phương trình hàm tương tự như phương trình hàm của hàm zeta. Ông đã liên hệ giả thiết này với các cấu trúc chi phối các biểu diễn tuyến tính của các nhóm Lie.
Ông cũng giả thuyết rằng các hàm L tự đẳng cấu mang trong nó những thông tin số rõ ràng nhất của đối đồng điều Weil của các đa tạp đại số xác định trên trường các số hữu tỷ.
Những giả thuyết của Langlands đã thay đổi sâu sắc việc nghiên cứu lý thuyết số. Đặc biệt, chúng đã tạo sự tăng tiến ngoạn mục của Wiles trong những năm 90 về giả thuyết Tanyiama-Weil đối với đường cong elliptic, đưa tới chứng minh đầu tiên cho định lý cuối cùng của Fermat.
Những năm 90 cũng chứng kiến sự ra đời của một ngành toán học hoàn toàn mới, đó là lý thuyết Langlands hình học, do Drinfeld và Gérard Laumon khởi xướng. Nó là mối liên kết phong phú mới giữa thế giới cụ thể của các con số và thế giới ảo của hình thế hình học.
GS Ngô Bảo Châu và thầy mình, GS Laumon, trong buổi lễ đón tiếp các thành viên nước ngoài mới của Viện hàn lâm khoa học Pháp ẢNH HOÀNG HỒNG MINH
Công trình của tôi, tiếp nối các công trình của Drinfeld và Laumon, đề cập vấn đề mà Langlands gọi là bổ đề cơ bản, một cái tên hàm ý một điều gì ít nhiều mang tính kỹ thuật. Nó nói về những đẳng thức giữa những quỹ đạo tích phân nào đó xuất hiện trong giải tích điều hòa. Khó khăn gặp phải lớn hơn nhiều so với khi ta thoạt nhìn, bởi vì những con số để đo các quỹ đạo tích phân này cho đến nay vẫn chưa tính nổi. Việc giải quyết bổ đề cơ bản dựa trên ý tưởng là đẳng thức giữa những con số bí hiểm này phải quy về việc so sánh giữa những đối tượng hình học nào đó.
Đặc biệt, những vật thể hình học liên quan đến cơ học cổ điển, thí dụ như chuyển động của con quay, mà người ta gọi là hệ khả tích đầy đủ Hitchin, là có khả năng giải thích được bổ đề cơ bản của Langlands.
Đối với tôi hình như từ thời xa xưa cho tới nay, nhà toán học luôn đi tìm mối quan hệ khi thì chắc chắn và sáng sủa, khi thì mong manh và bí ẩn giữa thế giới các con số và thế giới hình thể. Hai thế giới này không ngừng tỏa sáng và đồng thời khai sáng chúng ta.
Khi nhắc tới tên những người nổi tiếng mà nhiều người trong số họ có mặt tại đây, tôi thấy hết niềm vinh dự mà các vị dành cho tôi khi chấp nhận tôi trong cùng hàng ngũ.
Xin cảm ơn đã lắng nghe!"
Ngô Bảo Châu
(Nguyễn Đình Đống dịch, Hà Huy Khoái và Ngô Bảo Châu hiệu đính)
Dans le seul papier qu’il a écrit sur la théorie des nombres “Sur les nombre premiers plus petits qu’une magnitude donnée”, Riemann a imprimé sa marque sur le développement de ce domaine pour des siècles qui suivent. Les nombres premiers dont l’apparition dans l’énumération des nombres naturels paraît si sporadique, suivent une loi de nature statistique plus simple qu’on pouvait s’y attendre. Riemann a montré que cette loi, le théorème des nombres premiers, est dictée par l’emplacement des zéros d’une seule fonction analytique, la fonction zeta. Il a aussi formulé son célèbre hypothèse sur l’emplacement de ces zéros qui reste encore un grand un grand mystère à ce jour. Le théorème des nombres premiers a été démontré plus tard par Hadamard et de la Vallée-Poussin lesquels s’appuient sur une forme faible de l’hypothèse de Riemann. Avant d’énoncer son hypothèse, Riemann a étudié les propriétés analytiques de sa fonction zeta qui incluent une équation fonctionnelle, une symétrie étonnante qui ne cesse de nous hypnotiser jusqu’à ce jour.
Dans sa dissertation inaugurale “Sur les hypothèses qui fondent la géométrie”, Riemann a apporté des idées qui ont profondément bouleversé ce qu’on entend même par géométrie avec des répercussions jusqu’à la théorie de la gravitation. Après Riemann, un nouvel accent est mis sur les formes d’objets géométrique, souvent de grande dimension, au détriment des propriétés particulières d’un tel triangle et des telles sections coniques.
Riemann lui-même n’a peut-être pas soupçonné l’existence de liens entre ses deux mémoires. Ces liens ont été découverts de fil en aiguille cours du vingtième siècle et souvent portaient des germes des développement de grande ampleur.
André Weil a mis en évidence l’analogie formelle entre la structure des nombres rationnels et celle des fonctions méromorphes sur une surface de Riemann par le biais des fonctions rationnelles sur une courbe définie sur un corps fini. Il a formulé l’analogie de l’hypothèse de Riemann pour les dernières et l’a démontrée par les outils de la géométrie algébrique. Avec audace, il a conjecturé que la forme de l’hypothèse de Riemann qu’il a démontrée ne devrait pas être limitée aux courbes, objets géométriques de dimension un mais devrait être valide en n’importe quelle dimension. Il a prophétisé l’existence des théorie homologique pour des variétés algébriques définies sur des corps finis dont on peut tirer l’analogue de l’hypothèse de Riemann des axiomes.
La première théorie homologique pour les espaces topologiques a été inventée par Henri Poincaré au début du vingtième siècle. Il s’agit de définir des invariants qu’on pourrait attacher aux espaces généraux dont le premier est certainement le genre des surfaces que Riemann a mis en évidence dans sa dissertation. L’intuition de Weil que ces invariants topologiques du monde des formes devrait se propager aux variétés algébriques sur les corps finis qui appartiennent a priori au monde des nombres est aussi audacieuse que féconde. Le développement extraordinaire de la géométrie algébrique du milieu du vingtième siècle sous l’égide de Grothendieck a été fortement motivé par la construction des théories homologique de Weil. Ces développements ont été couronnés par la démonstration de l’hypothèse de Riemann pour les variétés algébriques définies sur les corps finis par Deligne au début des années 70.
Un peu avant la preuve des conjectures de Weil par Deligne, Langlands a formulé un ensemble de conjectures dont l’audace rivale et peut-être dépasse celles de Weil. Il a mis en évidence toute une famille de fonctions analytiques, des fonctions L lesquelles seraient attachées au formes automorphes aussi découvertes par Poincaré. Les fonctions L automorphes sont définies par une procédure qui rappelle celle qui donne naissance à la fonction zeta de Riemann et forment la famille naturelle dont la fonction zeta est un membre. Langlands a conjecturé que ses fonctions L ont un prolongement analytique et satisfont une équation fonctionnelle similaire à celle de la fonction zeta. Il a relié cette conjecture aux structures régissant les représentations linéaires des groupes de Lie. Il a aussi conjecturé que les fonctions L automorphes portent en elles le plus clair des informations numériques des cohomologies de Weil des variétés algébriques définies sur nombres rationnels.
Les conjectures de Langlands ont transformé profondément la recherche en théorie des nombres. En particulier, elles ont rendu possible l’avancée spectaculaire de Wiles dans les année 90 sur la conjecture de Tanyiama-Weil sur les courbes elliptiques, aboutissant à la première démonstration du dernier théorème de Fermat. Des années 90 ont aussi été témoins de la naissance d’une toute nouvelle branche des mathématiques, la théorie de Langlands géométrique initiée par Drinfeld et Gérard Laumon. Il s’agit de nouveau un lien fécond entre le monde concret des nombres et le monde abstrait des formes géométriques.
Mes propres travaux, se situant dans la continuité de ceux de Drinfeld et Laumon, portent sur ce que Langlands a appelé le lemme fondamental, un nom qui sous-entend quelque chose de nature un peu technique. Il s’agit des égalités entre centaines intégrales orbitales qui apparaissent dans l’analyse harmonique sur les groupes de Lie. L’étendue des difficultés s’avérait plus grande que ce à quoi on pouvait s’attendre de première vue car les nombres qui mesurent ces intégrales orbitales sont encore à ce jour incalculables. La résolution du lemme fondamental s’appuie sur l’idée que l’égalité entre ces nombres mystérieux devrait résulter de la comparaison entre certaines formes géométriques. En particulier, des objets géométriques reliés à la mécanique classique, en l’occurrence aux mouvements des toupies, qu’on appelle des systèmes complètement intégrables de Hitchin, ont été capables d’expliquer le lemme fondamental de Langlands.
Il me semble que depuis l’antiquité jusqu’à nos jours, le mathématicien est toujours à la recherche d’un lien tant tôt solide et éclatant, tant tôt ténu et mystérieux entre le monde des nombres et celui des formes. Ces deux mondes ne cessent de s’éclairer et nous éclairent par la même occasion.
En rappelant des noms illustres don’t beraucoup a fait partie de cette assemblée, je mesure toute l’honneur que vous m’avez faite en m’admettant en son sein.
Lê Ngọc Sơn - Nghiên cứu bậc tiến sĩ, Đại học Công nghệ Ilmenau, CHLB Đức
Người Đô Thị - 404 là “lỗi” thường gặp của các tờ báo ở Việt Nam, thường được gọi vui là “tứ bất tử”, để chỉ tình trạng một bài báo nào đó bỗng dưng... bất đắc kỳ tử. Đằng sau triệu chứng 404 này liệu có phản ánh một căn bệnh nào đó của xã hội đương đại?
Thế, Quyền, Tiền, và... 404
Việc 404 xuất hiện dày đặc và liên tục trong rất nhiều vụ việc có sự dấn thân của báo chí cho thấy một thực trạng đáng lo ngại về sự can thiệp vào sự chuyên nghiệp của báo chí. Có hai nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này: lỗi chuyên môn, tác nghiệp, bài báo sau khi đăng lên đã được phát hiện các sự cố và buộc phải gỡ bỏ; sự can thiệp của những nhóm lợi ích kinh tế/chính trị, muốn làm sai lệch hoặc che giấu sự thật để đoạt lợi (về tiền bạc, danh dự, trốn tránh trách nhiệm pháp lý). Với những người làm nghề báo lâu năm, đặc biệt là ở cấp quản lý (ban biên tập), thì hầu hết cho rằng lỗi 404 xuất phát từ nguyên nhân thứ hai - sự nhúng tay của một bộ phận nào đó có thế, có quyền, và cả... có tiền.
“Quyền” là thứ mà kẻ nắm trong tay công vụ có thể dùng nó để can thiệp hoặc gây ảnh hưởng đến các tờ báo, hoặc sinh mệnh chính trị của lãnh đạo các tờ báo, hoặc cơ quan chủ quản. “Thế” là những kẻ thân hữu, có sự quen biết nào đó với những nhân vật có quyền lực. Và “tiền” là công cụ của những kẻ tài phiệt, dùng để can thiệp và xé toạc các tờ báo (nếu có cơ hội). Khi sự tác quái của cả “quyền”, “thế” và “tiền” cùng song hành, cộng với sự tiếp tay, thiếu bản lĩnh, thậm chí là bạc nhược của một số tờ báo sẽ là tác nhân gây ra sự “đột tử” những đường link báo chí. Cứ thế, như những cơn mưa kích hoạt “vạt nấm” 404 nảy nở, sinh sôi.
Thực tế, chúng ta đã thấy bên cạnh nhiều tờ báo bản lĩnh, giữ vững tính chiến đấu với tiêu cực, với cái xấu, tham ô tham nhũng, thì vẫn có những tờ báo vì lợi ích của mình đã phải khuất phục trước các thế lực khác. Chuyện một số báo làm sai lệch phát biểu của Thủ tướng, không nhắc đến việc Vincom xây dựng các tòa cao ốc (làm căn hộ và văn phòng) tại khu Triển lãm Giảng Võ ở Hà Nội là một chuyện tương tự như vậy. Người trong nghề biết rõ chuyện có những tập đoàn, doanh nghiệp phân công người phụ trách đi gỡ tất cả các bài báo phản ánh các vấn đề tiêu cực của tập đoàn, doanh nghiệp đó... Trong những trường hợp này, gỡ bài báo là việc bị sỉ nhục đối với báo chí và lý tưởng nghề báo. Một khi đồng tiền đâm toạc tờ báo, có nghĩa đạo đức nghề nghiệp đang bên bờ vực tiêu vong. Với người làm báo chân chính, đạo đức tiêu vong có nghĩa lý tưởng nghề nghiệp chỉ còn là mớ khẩu hiệu tự vuốt ve an ủi tâm hồn.
Sáng tạo không thể dựa trên cấm đoán
Rút bài báo trong trường hợp trên cũng có nghĩa là can thiệp trắng trợn vào sự công chính. Nó là những ví dụ tiêu biểu cho một xã hội mà ở đó sự công chính không được đặt lên trên hết, nơi tiền - quyền, hay mối quan hệ có thể lấn át sự công bằng xã hội. Điều đó làm sâu sắc thêm dấu vết của một xã hội thiếu thốn các chuẩn mực. Mà một xã hội thiếu chuẩn mực (về công chính) sẽ là một xã hội vô vọng với công bằng, phát triển lành mạnh.
Nếu vì một lực lượng quyền lực nào đó can thiệp vào hoạt động báo chí để trục lợi cho nhóm lợi ích, thì việc gây nên các sự cố 404 càng đáng lên án. Trong thời buổi mà bạn đọc ở thế chủ động và thông tuệ hơn, chính 404 gợi ý cho họ về những bàn tay lua xua phía sau sự cố “đường link tự dưng lăn ra chết”. Về lâu dài, việc này tạo ra thế đi thụt lùi của xã hội. Thực tế các nước tiên tiến cho thấy, một xã hội sáng tạo và phát triển dựa trên tự do, chứ không phải chú trọng vào sự cấm đoán. Cấm đoán là hành vi đặc trưng của những kẻ sợ hãi cái mới, mà sợ hãi cái mới có nghĩa là cản bước sự tiến bộ, vì cái mới (kể cả thách thức mới) là yếu tố kích thích sự phát triển.
Những người lạc quan thì tin rằng, rồi cũng sẽ đến một ngày xã hội đạt đến mức phát triển nhất định, mà ở tầm mức đó người ta sẽ ý thức được rằng: không thể vì sợ nắng mà người ta cố đưa tay che khuất mặt trời. Việc đưa tay che lấy mặt trời là những hành động ngô nghê và ngạo mạn, trên hết nó là kết quả của sự vô minh. Những người thích đùa thì ví von rằng, trong khi thế giới đang chạy đua với cách mạng công nghiệp 4.0, thì ở ta muốn “đi tắt đón đầu”, thực hiện đại nhảy vọt lên... 404. Đó là một sự đùa mang lại những tiếng cười ra nước mắt. Thế nên, dù 404 là kết quả của sự chi phối của thế lực kinh tế, hay là sự can thiệp từ nhóm lợi ích chính trị nào đó, thì việc can thiệp vào hoạt động nghề nghiệp của báo chí là một hành động lỗ mãng, cần phải được chặn lại. Nền pháp quyền cần trao cho báo chí các công cụ pháp lý thực chất để tự vệ trước sự can thiệp của các nhóm lợi ích, để báo chí thực hiện tốt vai trò và chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình. Điều đó sẽ góp phần cân chỉnh, cùng tiến lên một xã hội văn minh, phát triển.