Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 22 tháng 6, 2017

Vài lời tản mạn về CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI


*
Tôi từng đọc chân dung các nhà văn đương đại của Xuân Sách, Đỗ Hoàng, Trần Nhương, Hồ Bá Thâm… Con số có tới hàng ngàn, nghe đâu trên ba ngàn khuôn mặt “danh giá” đã được ra lò, trong lúc hiện nay Hội nhà văn Việt Nam tổng thể chỉ có hơn ngàn.
Nay lại được chiêm ngưỡng 99 chân dung nhà văn Việt Nam đương đại của Nguyễn Khôi. Chà chà… Văn tài như “lá rụng mùa thu”, phen này đất Việt Văn Hiến lại bùng nổ nhân tài “đặc biệt” kỳ vĩ đây. Mỗi người mỗi vẻ: Xuân Sách quả là chín rưng rức, tràn trề thăm thẳm, góc cạnh sắc sảo, uyên thâm, uyên bác; Đỗ Hoàng đa năng táo bạo, giọng điệu sàng xê bay nhảy thủy hỏa tương giao; Hồ Bá Thâm dò dẫm dàn dựng, gắng gượng đưa đẩy; Trần Ngọc Sơn đều đều cần mẫn trơn tru tuồn tuột; Trần Nhương tự tin khôn khéo dụng công trau chuốt, công năng dàn trải,… Mỗi ông đều là những vị thủ kho mẫn cán, thu thập hồ sơ tên tuổi tác phẩm quá khứ hiện tại rồi lắp ghép, sắp đặt thành chân dung, thoáng đọc thoảng nghe cũng thỏa mãn cái tò mò, bức xúc nhưng xem kỹ đọc nhiều thì nhàm nhạt, ngấy ngộ... 

Theo tôi, đã là chân dung thì phải lột tả, phác thảo, khắc họa khuôn mẫu, cũng như thợ vẽ thợ ảnh phải đứng ở góc độ, chớp đúng thời cơ mà vẽ, mà chụp cái thần sắc để thành ảnh sống động, khí sắc thăng hoa, rồi mà treo ngắm, thưởng lãm... Còn bác Nguyễn Khôi nhà ta thì sao? Rất tốc độ, thật lòng, thật sự ra công cố sức đôi khi nín thở, dồn hơi, gắng bứt vượt, cố đèo bòng.... Có lẽ bởi cái bóng cái tán của Xuân Sách, cái áp lực của 200 công trình bài bản kỳ khu của Trần Nhương... Và thêm phần tuổi tác sức khỏe nên tác phẩm của bác phần nhiều viết bằng chí năng nên phần dương khí cương cường lộ liễu, nhiều câu na ná, công thức bài bản, xem mặt kể tên, lấy sự kiện sự việc, sự thật các câu chữ số phận của mỗi “nhà” rồi sắp đặt lắp ghép thành “chân dung” nên cứ na ná, trùng lẫn. Ngay cái tít Chân dung 99 nhà văn Việt Nam đương đại đã thấy rầm rộ hoành tráng quá, giá tác giả hạ bút đặt tên Thoáng nét người văn tôi tâm ý hoặc chẳng cần quốc hiệu đương thời bảo lãnh thì sẽ nhẹ nhàng dễ gần dễ cảm hơn. Dù sao tôi cũng vô cùng cảm phục lão thi sĩ, lý do đầu là ở cái tuổi lẽ ra cụ cứ ngự lãm khề khà trà rượu, cháu chắt hầu hạ kính cẩn ấy thế mà cụ vẫn cố dồn công lực phát tiết nội sinh làm nên tác phẩm lưu danh hậu thế. Thứ hai là cụ đã hùng dũng thẳng thắn, khảng khái không kiêng sợ các “đền đài thần thánh” một thời thiêng liêng ngự trị. Thứ ba là từ trái tim nhân hậu, tâm hồn khoáng đạt và sự từng trải, tác giả đủ bản lĩnh dũng cảm dám lên tiếng bảo vệ nhân văn, nhân quyền, nhân phẩm, sự thật và dân chủ. (Đúng ra là phải dẫn chứng cụ thể nhưng vì khuôn khổ bài viết vậy mời bạn đọc tìm đọc tác phẩm của Nguyễn Khôi sẽ rõ/chan-dung-99-nha-van-viet-nam-uong-ai.html.) Thứ tư, tác giả nhân ái, công tâm, giàu tin đỡ lớp trẻ, người chưa có điều kiện, tác phẩm mới lấp ló cánh cửa văn chương hoặc chưa nổi bật, chưa khác biệt đặc biệt… mà viết chân dung văn học thì tiêu chuẩn đầu tiên là phải tìm kiếm, điểm danh, lựa chọn, tuyển chọn những gương mặt đặc biệt khác biệt, hữu danh tài đức, đã có tác phẩm vang dội, gây ảnh hưởng lớn trong xã hội...Mọi sự so sánh đều khập khiễng, soi mói, dòm ngó chê bai thì “chó nó cũng làm được”. Thôi, có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa, chúng ta hãy chúc mừng tác phẩm đã mẹ tròn con vuông, đã thành sách truyền bá, xin “Kính tích tự chỉ.”.
Tôi nhấm nháp thưởng lãm một số chân dung mà tôi khoái trá. Phục nhất, khoái nhất là tài nghệ của lão thi bá, chỉ dùng bốn câu gần như tứ tuyệt nó gò bó khuôn khổ, buộc bốn câu bốn chức năng “khai, thừa, chuyển, hợp”, nếu không đúng đủ bốn chức năng ấy thì bài thơ lễnh loãng, lỏng lẻo, sơ cứng, sáo mòn, nhạt nhẽo, vô hồn, thất sắc, nếu đủ đạt thì bài thơ cựa quậy, run rẩy sống động lồng lộng vô vi, ví như Chân dung số 1 - Tố Hữu: Chỉ cần 4 câu đầu đã đủ đã tuyệt rồi (Tự cho mình là Lành/ mọi người thấy rất dữ/ mác lê bọc bằng thơ/ đã đâm chỉ có tử.), cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều đúng, rất khêu gợi, lột vẽ, khắc chạm rõ khuôn mặt. Sự cố “cây táo ông Lành”, cuộc cải cách “nhân văn giai phẩm”, một chính khách, hung thị chuyên gia Đảng - Bác đã gây nên bao nỗi hận đau sâu lụy cho văn nghệ sĩ. Thế là được rồi, cần gì khổ 2 nữa, nó diễn giải dài dòng, kể lẽ be chắn, thiếu tập trung mất đỉnh điểm. Chân dung số 2 – Chế Lan Viên, câu kết “giấu đi mặt ma chơi”, không hiểu chữ “ma chơi” có sát nghĩa đúng hồn bài “Tháp bai on” của Chế không nhỉ? Nguyên bản là thế này: “Anh là tháp bai on bốn mặt / giấu ba mặt còn đó là anh/ chỉ mặt đó ngàn trò cười khóc/ làm đau ba mặt phía ẩn hình”. Rõ ràng cái câu hợp thứ 4 này toát lên cái ăn năn hối lỗi, dằn vặt về cái thời danh lợi, giá áo túi cơm, đó là cái thiện tâm, phật tính chứ đâu phải là “ma chơi”.
Tiếp theo, tôi xin vỗ tay chân dung mà ông phác thảo tương đối đạt, cụ thể: Chân dung số 6 - Xuân Thủy: Hai câu đầu giản đơn kể nhắc, hai câu sau tuy không vẽ kẻ nhưng nổi bật gương mặt chính khách lịch lãm trí thức, nhân vật đặc biệt góp phần quan trọng làm nên lịch sử dân tộc, khi khúc mắc đã bật, đã phát lời tuyên ngôn bất hủ “Không giam được trí óc”, khẳng định văn nghệ sĩ phải được tự do, không bao giờ bị giam hãm, trói buộc. Đến chân dung thứ 8 - Việt Phương, đã là thi thoại giai thoại một thời. Một nhà thơ nhạy cảm nhạy bén, bản lĩnh hiên ngang cho ra “Cửa mở”: “Đồng hồ Liên Xô tốt hơn Thụy Sĩ... Trăng Trung Quốc sáng hơn trăng nước Mỹ”, “Bao giờ ta đủ tầm cao/ để ta bắt được vì sao trên trời”. Động cham một loạt nguy lụy theo bởi cái thời bao cấp mậu dịch, đồng ca minh họa, bốc thơm tụng ca lừa gạt, Nguyễn Khôi nộ, nỡm: “Ta cái gì cũng hồng/ đich cái gì cũng xám/ Trảm”. Câu kết sắc lẹm. Câu thơ khuyết hậu. “Trảm”, chỉ một câu ấy mà thót tim ớn lạnh, hiện ra bộ mặt lạnh ngắt sám sịt tử khí của cái thời văn chỉ điểm, văn lãnh đạo, thấp kém thô bạo. Nổi bật chân dung vững vàng bản lĩnh Việt Phương.
Chân dung thứ 9 - Hữu Thỉnh. Cái ông lắm người yêu, đầy kẻ ghét, tác phẩm cũng chỉ thường thường bậc trung, viết phục vụ chiến tranh một thời nhưng bảo “xoàng xĩnh lên ngôi” thì hơi quá. Thơ Hữu Thỉnh chẳng xuất sắc cũng đâu đến nỗi kém cỏi mà “xoàng xĩnh” thì hơi oan. “...Ghế cao anh ngồi” thì đúng quá rồi vì sao? Vì anh đã cố công chạy ngược chạy xuôi…. “Điếu văn hót tới đỉnh” chứng tỏ anh cũng phải xuôi ngược lưu tâm cố ý thì mới có “điếu văn hót tới đỉnh”. Riêng cái khoản này, cộng cái ham muốn nỗ lực và say ghế thì ghế anh ngồi cũng xứng thôi.
Tiếp đến Hoàng Cầm. Nói đến Hoàng Cầm là thấy “diêu bông”, “mưa Thuận Thành”, “Hạt mưa chèo bẻo/ nhạt nắng xuyên khoai/ hạt mưa hoa nhài/ tràn đêm kỹ nữ/ hạt mưa sành sứ/ vỡ gạch Bát Tràng... Thuận Thành đang mưa”. Nguyễn Khôi rất khéo dùng thủ pháp “Xê dịch”, chỉ thay đổi một vài con chữ, vị trí, ý tứ của Hoàng Cầm mã đã thấy rõ cuộc đời, số phận Hoàng Cầm hiển hiện ví như câu: “Váy Đình Bảng buông chùng xuống/ đâu thấy lá diêu bông”. Đã đôi lần tôi được hầu rượu nhà thơ Hoàng Cầm, tôi có hỏi: Thưa bác lá diêu bông là gì? Mặt ông chùng xuống, đăm đắm nhìn qua khung cửa... Sau một vại rượu, ông thủng thẳng: Thế ông không đọc, không hiểu câu cuối bài: Từ thủa ấy/ em cầm chiếc lá/ đi đầu non cuối bể/ gió quê vi vút gọi/ ...diêu bông hời.../... ới diêu bông. Hóm quá. Tế nhị tinh vi quá! “Váy Đình Bảng buông chùng xuống/ Đâu thấy lá diêu bông”. Vì không thấy nên ông bị 8 tháng ngồi Hỏa Lò. Hoàng Hưng vì yêu thích, cầm giữ lá “diêu bông” bị 4 năm bóc lịch. Thì “mưa Thuận Thành tầm tã” thì ông đành, ông đã, ông phải, ông lại “ngây ngất ả phù dung”.
Chân dung 14 - Trần Dần. Một tài thơ nổi trội, một nhân cách chân chính nói tiếp qua 2 câu thơ: “Tôi khóc những chân trời.../...Những người bay không có”. Ta nhớ 2 câu thơ nổi tiếng của Trần Dần: “Tôi khóc những chân trời không có người bay/ Tôi khóc những người bay không có chân trời”. Câu thơ ẩn dụ ám ảnh khiến ta liên tưởng tới cái xã hội đương thời... Đời là thế đấy. Người bay thì không có chân trời. Chân trời thì không có người bay. Ôi thương xót cho nền văn học, số kiếp văn nhân của thời đã qua. Trần Dần đau đớn xót xa cho thế sự nhân sinh, ông kiên cường tin tưởng vững chắc vào chân chính làm nên tác phẩm Nhất định thắng... công toi”. Xin thưa! Công không toi đâu. Tài năng và sự can trường hy sinh đã để lại cho đời tác phẩm giá trị. “Cổng tỉnh” đã được giải của Hội nhà văn Việt Nam rồi mà.
Chân dung 15 - Lê Đạt. Lê Đạt là người cùng thời, cùng họa với Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, hoàng Cầm... Thất thời gặp họa lâm nạn, tù túng thiếu thốn lấy thơ làm nỗi sống niềm sống, ông tỉ mẩn kỳ công đắp vẽ mổ sẻ lai ghép, lắp ghép, thử nghiệm, sáng tạo kiểu thơ riêng, ông gọi là “bóng chữ”, người “phu chữ”, âm thầm cần mẫn đẽo tỉa, cấy ghép đã thành công đáng kể, dẫu đã nhiều phen e chề, thất bại. Nguyễn Khôi ở gần cái tuổi thời ấy nên dễ hiểu và đồng cảm, nắm vững giải mã được “bóng chữ” của Lê Đạt nên thấy: “Đẽo/ tỉa bay mất hồn/”, nhưng Nguyễn Khôi vẫn ngờ vực hỏi: “Người chết/thơ còn, hết?/ “Đường chữ” nẻo cô thôn”. Đường chữ là tác phẩm. Câu trên hỏi ỡm ờ thì câu sau giải mã ngay. Thơ Lê Đạt, thấy cái thâm thúy gợi mở của Tàu, cái tích ép của Nhật, cái thực dụng của Mỹ nhưng vẫn mù mờ, ỡm ờ tốc độ súc giác của Lê Đạt. Viết đến đây tôi thấy tôi bị lan man, tản mạn quá. Sao mà đủ tài đủ sức theo đuổi dò mở dòm ngó 99 kho tang bí ẩn huyền ngã… Vậy tự thổi còi thư bút khép lại mà thưa thớt một số vấn đề trong một số chân dung.
Thưa lão thi bá! Ở nhóm mảng tiền bối danh giá có lẽ do đặc điểm khuôn khổ khắt khe gò bó cô đọng của thể thơ tứ tuyệt nên một số chân dung chỉ thấy chân tướng, ví dụ như bài 21 - Xuân Diệu: “Đồng tính” bị đấu tố/ cụt hứng làm thơ tình/ Thôi thì ca “ngói mới”/ đi “nói chuyện thơ mình”. Nguyễn Khôi dùng tác phẩm “Đồng tính” “Ngói mới” “Nói chuyện thơ” để ghép thành bài tứ tuyệt nhưng đấy mới là thơ “tứ” nhưng chưa “tuyệt”, vì đây mới là cái chân tướng, giai đoạn, sắc thái nhất thời của Xuân Diệu chứ đâu phải là cái góc cạnh, khuôn mặt thần thái, hồn vía thơ Xuân Diệu. Hoặc Huy Cận, cái thành công vang dội trường tồn của “Lửa thiêng” và “Mỗi ngày mỗi sáng” thì thi trường và thời gian đã thử thách thừa nhận Huy Cận là nhà thơ cảm quan vũ trụ, có cảm quan nhân sinh quan tuyệt hảo ngất ngất... Sau này gia đình ông có chuyện riêng không hay lắm, Cù Huy Hà Vũ, con trai có quan điểm sống khác, dù sao đó cũng là chuyện của mỗi gia đình chứ có làm tắt “Lửa thiêng” đâu? Còn việc tên đường phố thì có cũng hay, chưa có thì cũng đừng ngạc nhiên, chớ như ai kia đã rút hai câu “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa”, rồi suy diễn, áp đặt, chụp mũ thì chua chát cái sự đời quá. Hoặc 25 - Minh Huệ. Cả đời thơ ông nổi bật bài “Đêm nay Bác không ngủ”. Bài thơ của ông là tấm lòng, tiếng lòng của những người lính cảnh vệ ngưỡng mộ Bác tuyệt đối trung thành, kính trọng yêu thương Bác. Đó là cái tình đồng chí, tình cha con, sao lại “Vợ dí thơ... Tính tìnhBác là Hồ Chí Minh/ Tỉnh tình đâu mà dí”. Có thể tác giả chỉ đùa nỡm chơi chữ vui vui nhưng đọc thấy thô tục vô độ thế nào ấy. Đọc 4 câu số 26 này, tai tôi vẳng lên câu ca dao “Em xinh lời nói cũng xinh/ Em giòn thì cái tỉnh tình tinh cũng giòn”. Hoặc câu vè tếu táo mà Nguyễn huy Thiệp, Bảo Sinh, Bùi Hoàng Tám tranh nhau nhận: “Vợ tôi dở dại dở khôn/ Vợ tôi nó lại dí... vào thơ.”. Đừng để công chúng hiểu lầm bởi các ám ngữ phóng từ tùy tiện này, nhất là với vị lãnh tụ kính yêu.
Chân dung 35 - Phùng Cung. Tác giả hai câu thơ: “Lên đệnh khắp nước cùng non/ Dạt vào ao cạn vẫn còn lệnh đênh.” Vì cái truyện ngắn Con ngựa giá chúa Trịnh mà mắc nạn, bởi bọn “lính gác” văn chương, mấy tay chỉ điểm mong ông bị tù đày. Ra tù, nhờ Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang giúp đỡ cho tập “Xem đêm ra đời” Hậu thế biết cái bản lĩnh tính kiên cường qua bài thơ thể Hai Kư: “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương.”, thì ta thấy cái kiếp bèo bọt của thi nhân “dạt vào ao cạn vẫn còn lệnh đênh” bản lĩnh quật cường, “Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương”. Vâng, giữ giọng, giữ bản lĩnh nhân văn nhân bản thi sĩ, chứ đâu “quất bã chè thành thơ?”!
Chân dung 29 - Bùi Giáng. Tôi không đắc ý với câu “Nghêu ngao giả cuồng điên”. Chữ “Giả” không đạt lắm. Thực thì Bùi Giáng điên điên, điên tình, điên cảnh, điên thơ, điên đời... Thường thì các thi sĩ thiên bẩm thiên tài đồng bóng thăng hoa mà phát thơ. Thơ Bùi Giáng có đặc điểm là bất thường vô thường, (Chân không tới đất, cật không tới trời), lâng lâng ảo ảo, cuồng cuồng say say, nó vô định ma mị lắm. Chính thế mới tạo nên cái “Bùi Giáng”, “Trường phái thơ Bùi Giáng”, không khéo Nguyễn Khôi lại lầm như trường hợp Xuân Diệu nhận định nhầm Hàn Mặc Tử.
Chân dung 43 - Lê Lựu. Đọc chân dung này thì thấy cái chân tướng đời thường, kẻ đường chợ chứ đâu là chân dung một nhà văn Lê Lựu, một Giang Minh Sài (Thời xa vắng), một Núi (Sóng ở đáy sông). Còn cái chuyện tình ái, vợ chồng, gia đình hãy cho qua, hãy phác họa, ký họa, khắc họa những nét đặc biệt, đặc trưng chân dung VĂN HỌC. Hãy hướng tới cái có, cái được, cái đạt, cái đặc biệt nổi trội của nhà văn thì văn chương hơn, nhân ái, hỉ xả hơn.
Chân dung 45 - Chân dung Nguyễn Nguyên Bảy và Lý Phương Liên…
Tiếc quá! Lại ghép hai “Nhà” cùng nhau…Gây phản cảm. Tất nhiên ý tác giả ghép chân dung hai vợ chồng, hai nhà tài năng liền nhau cho thân mật thắm thiết, nhưng gây cho người ta nhìn nhầm thành hai đầu sáu tay…ngộ ngộ. Nói đến Lý Phương Liên phải nói đến “Ca bình minh”, “Tâm sự với Thúy Kiều”. Người ta không quên vụ án “Thúy Kiều” án không án, vì nhà thơ quá nhạy cảm, thông minh mẫn cảm đi trước thời đại…Nguyễn Nguyên Bảy bất tử với tuyên ngôn “Thơ là thơ không phải địa vị người làm thơ” hoặc lương tâm lý trí tư cách đạo đức tư tưởng: “Màu đỏ của máu/màu vàng của da/mỗi chúng ta/là một lá cờ”. Hay sâu xa bất hủ như: “Cháy rồi, cháy hết phần thơm/chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi/rồi màu phẩm nhạt phai đi/dẫu chẳng còn vẫn đứng chân hương”. Tâm tình, dúng nghĩa nhân lễ trí tín quá! Tài hoa bất hủ, bất tử quá quá! Đừng quên những lời thơ gan ruột này là chân dung Nguyễn Nguyên Bảy những “Ca bình minh”, “Tâm sự Thúy Kiều” là tượng đài lồng lộng thăm thẳm mênh mang Lý Phương Liên. Còn “Chàng Tư mã say thơ/mê mùi sen phố cổ/ “chém gió giữa Thủ đô/thơ bạn thơ” rạng rỡ”. Chỉ là bề nổi, chỉ là cái bóng thoảng của hai nhà thơ nổi tiếng này thôi.
Chân dung 47 - Dương Thu Hương. Tôi đã được đọc “Thiên đường mù”, “Đám cưới không giá thú”, “Bên kia bờ ảo vọng”, tôi phục trí óc của bà, tôi quý giọng văn sắc sảo biến ảo đa chiều góc cạnh của bà. Đọc số 47 Dương Thu Hương và 26 Minh Huệ tôi phục và sợ sự tưởng tượng hư cấu lồi lõm góc ngách phù thủy của Nguyễn Khôi. Nhưng vẫn buồn buồn vì những câu “Tức khí mà tắt kinh/Thiên đường mù vẫy gọi/ Chào tỉnh lẻ vĩ nhân”…Đã tắt kinh, thì hết trứng, hết trứng thì làm sao sinh nở được nữa. “Thiên đường mù vẫy gọi” vô vọng quá! “Chào tỉnh lẻ vĩ nhân” hài bi, bi hài quá! Tất nhiên “Thiên đường mù” “Tỉnh lẻ vĩ nhân” là tác phẩm nhưng cũng là con người xã hội, thế thời thời thế…Những câu chữ rất ý tứ góc cạnh (ý tại ngôn ngoại). Nhưng tắt kinh tuy đúng, tuy lạ nằm bên, hiện lên trang giấy khó đọc quá cứ tởm tởm mất vệ sinh…- Tôi lại lan man quá rồi! Trên các trang mạng nhan nhản phất phới lời ca lời bình 99 chân dung rồi, Nguyễn Khôi đã được các nhà uy danh phong “tuyệt vời”, “Thượng thừa ngôn ngữ”, “Thư ký thời đại”… “Xuất khẩu thành chương”… “Nguyễn Khôi sáng ngời…”. 99 gương mặt đã được các nhà bình bàn rất kỹ rất hồn nhiên, các khuôn dung đã lồ lộ quá rõ rồi thôi tôi hết đất miễn bàn. Lẽ ra tôi định bàn tới các nhà thơ chính, phân cao thấp. Nhưng như nói đã quá đủ trên các báo mạng rồi tôi chỉ xin thoáng qua mấy nhà thơ mà tôi có quen biết.
Kính thưa nhà văn Nguyễn Khôi - Văn Thùy không giỏi diễn dị nhân đâu. Có thể thời đầu, đoạn đầu Văn Thùy tập diễn, cố diễn sau bị con “ma thơ” đánh bùa mê thuốc lú thành “dị nhân” xịn đấy, ông gày gò, ông từ bỏ, ông mất mát đúng như bài thơ “Văn Thùy dị nhân” của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã lột tả. Còn “Thấy Bùi Giáng là lủi” Văn Thùy sao dám đấu với Bùi Giáng mà “lủi”. Còn người đời ngộ nhận thì bàn làm gì? Văn Thùy có đôi nét ngoại hình, có dòng thơ lục bát nhuần nhuyễn bắt hơi nhau một chút, ví như câu “khóc người một con” trùng câu trùng ý Bùi Giáng. Cái “điên” của Bùi Giáng đâu có giống cái “bụi” của Văn Thùy. Chính Văn Thùy tự nhận là rơm rác bụi bặm rồi cơ mà. Thôi thì Văn Thùy đã được làng thơ phong “dị nhân” “Thơ bụi” cũng là lẽ tự nhiên thôi chứ “Khéo dán tem “thơ bụi” sao nổi.
Người thứ hai là bạn tôi, là thầy thơ tôi Hoàng Xuân Họa, chân dung 63: “Thơ “trong” ba lô ra trận/Bỏ “trót một thời yêu”/”Chuyện cõi âm lạ lẫm/ Trả đời cho Chí Phèo”. Chân dung này thật 100% nhưng nhạt loãng, tuyền toàng. Cụ thể nghĩa đen, sự thực năm 1970 anh chàng tân binh Hoàng Xuân Hoa yêu thơ say thơ quý phục Ca bình minh của Lý Phương Liên. Anh chép tay cõng trên ba lô đi khắp chiến trường ABC. Qua cuộc chinh chiến ở chiến trường Nam Bắc ở trường đời anh thai nghén chửa đẻ ra “Trót một thời yêu” giọng điệu trăn trở hồn thơ chấp chới gây làn sóng lăn tăn sau chiêm nghiệm từng trải là người trong cuộc chiến, cuộc sống anh cho “Chuyện cõi âm ra đời” vừa hài vừa bi vừa hư vừa thật, nhưng rưng rưng nhưng nhức cho độc giả sau, trước cái xã hội thật như đùa cười ra nước mắt anh sinh ra “Chí Phèo đi dự Fet ti van”. Bác Khôi ơi! Bài viết của bác đúng đủ nhưng vẫn chưa rõ cái thần thái uy quang của Hoàng Xuân Họa mà ngược lại người ta hiểu lầm, tưởng sai về nhà thơ khó tính đa tài đa tật nhiều lắm, nhất là “Trả đời cho Chí Phèo” oan quá, tầm thường quá! Ngộ quá!
Ông bạn thứ ba mà tôi kiêng nể dẫu ít tuổi, chỉ hơn con lớn của tôi bốn tuổi, đó là Đặng Xuân Xuyến, chân dung số 89. Vì sao? Xin thưa. Vào khoảng những năm 1990 - 2000 xã hội mở cửa, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi trói cho văn nghệ sĩ, các nhà văn nhà thơ thậm chí cả các nhà hưu trí nhà bất mãn thất thời đua nhau phấn đấu trở thành thi sĩ văn sĩ đua in ấn các loại văn thơ: “đâu là đôi mắt”, “Như có Bác Hồ”… Thế mà anh bạn trẻ trên tay cầm cái bằng đại học nhân văn xã hội đỏ chóe ngày đêm xem cổ, tiếp kim chiêm nghiệm thực nghiệm cho ra đời hàng loạt đầu sách mới lạ (có thể lên tới hàng trăm đầu sách với nhiều bút danh). Nổi bật gây dư luận nhất là hai tập sách, một là Giới tính và giáo dục giới tính (1997). Nội dung khoa học về đời sống tình dục và giới tính. Anh tiếp thu thành tựu của nước ngoài, kết hợp cái thực tế ở trong nước, nhất là những cái ở ta đang lấn cấn để mà thành sách, giúp người, giúp đời, giải phóng mặc cảm, giải phóng thân thể tự do, hướng tới sống khỏe, sống hạnh phúc nhưng ở giai đoạn đấy anh đi quá sớm nên ăn đòn (bị thu hồi). Tác phẩm thứ 2 là cuốn Tử Vi kiến giải, được viết theo quan điểm chắt lọc những tinh hoa của tiền nhân, của Tử Vi Việt, giúp bạn đọc tiếp cận dễ hơn, đúng hơn về niềm tin tín ngưỡng của người Việt thế nhưng cũng bị nhà chức trách thổi còi “đình bản” nhưng không thu hồi. Sách vẫn được truyền tay tìm đọc, nghe đâu, vẫn được tái bản mấy lần. Đó là cái riêng, khác lạ của một đời văn, một đời người. Vậy có xứng là nhà văn có giọng văn dáng dấp đương thời đương đại không? Ấy là chưa nói anh còn viết một loạt truyện ngắn: Chuyện cu Tố làng tôi, Chuyện của gã Khờ, Kim yêu, Chuyện ngủ... được bạn đọc yêu thích, ngay chính lão thi bá Nguyễn Khôi cũng làm bài thơ 5 đoạn cảm đọc gã Khờ. Lại còn mảng thi ca. Dẫu thơ anh chậm xuất hiện nhưng đã gây ấn tượng bởi cái giọng điệu sắc lạnh, tốc độ, tứ ý ngồn ngộn tự nhiên, đầy tâm trạng, đủ chân thiện mỹ như: Bạn Quan, Quê nghèo, Tôi nghe, Ru con, Tim đau, Mơ trăng, Tình Nở... Nhất là thơ tình đầy trăn trở. Bêlin Xiki nói: “Chỉ cần anh có cái giọng riêng đã đáng là một nhà thơ rồi.”. Vậy mà bác Khôi nhà ta đã nghuệch ngoạc vẽ thế này: “Buôn sách và viết sách/ Vui gà trống nuôi con/ làm tình “cưỡng” không thích/ Thơ như thời trai son.”. Thực quá dễ dãi, quá thô, quá trơn tuột. “Buôn sách”, “gà trống nuôi con”, “làm tình “cưỡng” không thích” thì đâu phải chân dung, phải chăng chỉ là về đời thường chứ đâu là cái hồn cốt, cái chân dung để đời của nhà văn?!
Chân dung 97 - Vũ Từ Trang. Nhà thơ này trắng trẻo đẹp trai điềm đạm. Thơ hay văn giỏi. Anh rất coi thường thơ tôi. Anh thường bảo thơ tôi là thơ con cóc. Vâng. Tôi rất bực mình và tự ái nhưng tiếp cận thơ anh tôi cụt lủi. Thơ anh rất hiện đại nhưng ý tứ gợi mở ám ảnh như bài: Chiếc đồng hồ cũ, Cái ghế, Thăm nơi sơ tán…. Một loạt bài rất hay, không thiếu chất suy tư chiêm nghiệm, triết lý rất Đông Á. Thơ anh và văn anh đăng rất nhiều trên báo trung ương và địa phương, gây nhiều hiệu ứng trong xã hội. Cuốn Phía sau con chữ, chân dung văn học ông viết nhẹ nhàng, chân thật, sống động, có chiều sâu, có bề dầy. Anh là người “vua biết tiếng chúa biết tên”. Ấy thế mà Nguyễn Khôi nhẹ nhàng “vô tư” viết: “Vươn lên từ chủ doanh nghiệp/ Từ chân báo thủ công/ Văn chân dung chân thật/ Thơ ngọt khế sắt đồng”. Thơ Vũ Từ Trang không chỉ ngọt khế sắt đồng, còn có cả chua chát đắng cay tràn trề dân dã, lóng lánh trí thức, ấn tượng cổ kim... Bác Khôi lại cẩn thận đóng vai cán bộ tổ chức, xét lý lịch mấy đời thi nhân, đã khắc họa chưa đạt chân dung thơ văn đã đắc đạo của Vũ Từ Trung.
Người thứ 5 mà tôi biết là Nguyễn Thanh Lâm, chân dung số 86: “Đêm tỏa Hương dương cầm/ Nghe mưa trên mái cổ/ Siêu thoát trong rừng tùng/ Thơ lang thang bát phố.”. Ba câu đầu ít nhiều có hồn vía nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm nhưng câu thứ tư “Thơ lang thang bát phố” thì e không đắt, không hợp với Nguyễn Thanh Lâm, người nặng về tâm linh tĩnh tại. Thơ Nguyễn Thanh Lâm có chất thiền định, nghe mơ hồ bần lâng vô vi thi vị. Với con người điềm đạm cân bằng sâu xa an lạc và dòng thơ du dương cuồn cuộn nồng đậm ấy chẳng bát phố đâu. Vả lại, ông chẳng có tác phẩm nào là “bát phố”, không khéo người ta lại nhầm với ông Bảo Sinh thì nguy.
Đang viết thì chuông điện thoại đổ gấp. Tôi nhấc máy nghe, đầu dây bên kia là giọng của ông bạn thơ tuổi đã cao niên: - “Alo! Ông Hành có được tặng 99 nhà văn đương đại của Nguyễn Khôi không? Có cái bìa 2 lạ lắm. Nhà văn Nguyễn Khôi cưỡi ngựa xem hoa, không biết là ý gì nhỉ?”. Tôi vội mở điện thoại ra xem, quả lão thi nhân vẫn phong độ chững chạc lắm. Áo véc tím hồng, khuôn mặt ngây ngây, mủm mỉm cười, tay phải đút gọn túi áo, tay trái vịn cành đào hoa nở rực rỡ. Tôi vội trả lời: - “Ồ không phải là cưỡi ngựa xem hoa mà là vin hoa đút túi….”.
Định viết thêm nhưng tôi thấy thế cũng đã nhiều nên tạm dừng bút.
Vâng. Thật lòng, tôi cứ tiếc, cứ lẩn thẩn với những suy nghĩ trong đầu: Giá như thi bá Nguyễn Khôi bình tâm tĩnh trí khoan dung hỉ sả nhân ái một chút, tĩnh tâm tận tình mà viết 99 chân dung; giá như thi sĩ Nguyễn Khôi đọc kỹ, đọc ngấm, đọc thấu, đọc trách nhiệm với những tác phẩm của các “chân dung” thì tác phẩm sống động hơn, các chân dung ấy sẽ trường tồn hơn...
Vâng! Cảm phục nhà thơ và cũng rất tiếc thay!
*
Khoan Tế, nh ững ngày đầu tháng 06.2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Đa Tốn, xã Khoan Tế
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
Điện thoại: 0166.467.78.26 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC:

"VĂN HỌC" ĐÃ CHẾT
Đặng Thân
Thực tại những thập niên qua đã phản ánh vô cùng rõ, rằng là, cái gọi là VĂN HỌC như chúng ta hằng tâm niệm, đã chết.
Xin nói ngay nó chết bởi bị cắt tiết. Thần Chết vung ra không chỉ một mà hai lưỡi hái song kiếm hợp bích: Facebook và Viện Hàn lâm Thụy Điển.
Facebook (cùng các mạng xã hội) đã triệt hạ hết “thời gian nhàn rỗi” của hầu hết những người biết chữ, và toàn bộ lực lượng lao động chính. “The Facebook Empire” đã làm cho toàn bộ thần dân của nó quay cuồng trong News Feed và “Like” với đủ thứ đa phần lăng nhăng lít nhít, giải trí tầm phào, ba hoa xít tốc (đủ kiểu đau đẻ, ngứa ghẻ với hờn ghen). Đế chế này hiện đang cầm tù chừng 2 tỷ người, trong đó có 35 triệu người Việt, và đó cũng là lực lượng có “hàm lượng trí thức” dồi dào nhất. 
Phần lớn mọi công dân trong đế chế này hầu như không bao giờ đọc sách văn học xịn, có chăng là chỉ đọc thứ “thơ” và “tiểu phẩm” nhảm nhí, tào lao bí đao. Cái gọi là “văn học Facebook” phải là những văn bản dễ hiểu, dễ nuốt, chửi ầm lên, thường dài không quá 500 từ.

Một lần, tôi hỏi anh bạn người Ireland, lý do nào mà đất nước ông có hơn 4 triệu dân mà sinh ra đến 5 Nobel văn học. Anh ta trả lời, chắc tại Ireland mưa nhiều quanh năm, mọi người phải ngồi trong nhà nên đọc sách nhiều. Ồ, vậy là do trước đây chưa có Internet, chứ bây giờ thì e rằng ở đó có mưa nhiều đến mấy thì văn học nhẽ vẫn lệt bệt như... ai. Xưa kia, văn chương phát đạt, cầu kỳ, phong nhiêu, cũng nhờ ít thông tin, nay do Internet gây “khủng hoảng thừa thông tin” nên ắt người ta không “văn” kiểu ấy được nữa.
Viện Hàn lâm Thụy Điển thì đã làm gì? Từ khi sang thiên niên kỷ mới họ không còn trao Nobel văn học cho những nhà văn xịn và những tác phẩm văn học hư cấu đỉnh cao (theo tiêu chí của giới văn chương “thượng thặng”). Đã lâu, văn giới khắp nơi thường chờ họ liếc mắt tới những là Philip Roth, Haruki Murakami, Milan Kundera, Thomas Pynchon, Ko Un, Javier Marías, Umberto Eco (vừa chết), Don DeLillo… Nhưng không, họ chả hạp với tâm tính Bắc Âu. Không phải là ý chính bài này, nhưng trong những chủ nhân Nobel vừa mới được trao ít năm ngay trong thế kỷ này thôi thì không biết bạn có còn nhớ tên họ hay cuốn sách nào của họ, như là Elfriede Jalinek, Harold Pinter, Jean-Marie Gustave Le Clézio, Herta Müller… chứ chưa thèm nói đến thế kỷ trước (Có điều nghe chừng khốn nạn, ấy là trường hợp khi trao Nobel 2014 cho Patrick Modiano, Thư ký Thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển lúc đó là Peter Englund nhận định: “Patrick Modiano có thể được coi là Marcel Proust của thời đại chúng ta.” Chà, Marcel Proust chính là “kẻ kinh tởm” mà Thụy Điển trước đây cương quyết không trao Nobel!!) Và gần đây, bằng việc trao giải cho một nhà báo (Svetlana Alexandrovna Alexievich) vào năm 2015, và một ca-nhạc sỹ (Bob Dylan) vào năm 2016, ý đồ khai tử văn học của họ dường như đã trở nên lộ liễu. Có người đùa rằng, đó là những giải Nobel “vắn học”. Rất có thể, sắp tới “giải Nobel văn học” sẽ được trao cho bất cứ tác giả nào sản sinh ra những gì có “tính thơ”: nhà thiết kế thời trang, nghệ sỹ thị giác, nhà hoạt động môi trường… Phải chăng, văn học đã từ “kinh điển”  chuyển sang “kinh hãi”?
Một số thực trạng [khác]
Cũng trong văn học, thì không chỉ Nobel, giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 2016 trao cho Viet Thanh Nguyen với The Sympathizer cũng được nhiều người coi “chỉ là” thứ docu-fiction, kiểu tiểu thuyết trinh thám tư liệu. Các độc giả văn học “trí tuệ” đều kêu không nuốt nổi loại văn học này. Họ không thích vì không tìm thấy triết lý hay ho hoặc áng văn kiệt xuất nào cả. Họ có bảo thủ quá không?
Trong giới tinh hoa chóp bu thì hồi cuối thế kỷ trước Tổng thống Mỹ Clinton còn khoe đọc 4-5 tác phẩm văn học xịn (thường là tiểu thuyết) trong một tháng; sang thế kỷ mới Bush con không hề khai ra có đọc văn học hay không; Obama thì có đọc nhưng không biết mấy cuốn một tháng; còn bây giờ thì Trump nói thẳng đó là thứ vô bổ, thời gian đâu mà quan tâm, he he ngài cũng là active member của mạng xã hội, và là đại diện cho trào lưu “văn hóa đọc vắn học” hiện nay.
Còn trong “bình diện văn hóa quốc gia” thì Singapore hiện nay đã loại bỏ hoàn toàn văn học hư cấu ra khỏi nhà trường và xã hội. Một điểm 10 tuyệt vời trendy! Những quốc gia và miền đất có thái độ rõ ràng như Singapore không hề ít. Còn Hong Kong, thì đã được những người “văn hóa cao” coi là xứ culture-free từ lâu.
Nếu tâm tình xã hội đương đại và Viện Hàn lâm Thụy Điển thực sự nhậy cảm, và là “cánh chim báo bão” ngửi ra xu thế mới cho văn chương, thì ta cũng cứ cầu mong cho một nền văn học “cầu kỳ, cao xa” đã từng lừng lẫy kia hãy chết đi. Chắc chắn rằng “văn học đỉnh cao” như người ta vẫn thường quan niệm xưa nay đã chết thật rồi.
Quả thực, văn hóa, văn học và tư tưởng luôn thay đổi và tương tác xoáy xoắn chóng mặt, trong hiện tồn biến động không ngừng. Thế nhưng “quân ta” thì vẫn như thời ở hang Cốc Bó. Chẳng hạn, một câu thơ mà đến BÂY GIỜ nhiều người “ở ta” còn khen hay như “Có đám mây mùa hạ / Vắt nửa mình sang thu” thì quái lạ thật. Nghe xong cứ thấy nó sến sẩm, hũ nút, làm dáng, vô nghĩa, vô sinh. Câu này chỉ có thể chấp nhận là kha khá nếu được làm trước năm 1945, kha khá thôi, chứ lúc đó mà đặt cạnh đám Cận-Tử giáng thế kia thì đã đủ “tự sát” rồi. Sang những năm 1950 thì người ta đã phải viết khác, kiểu như “Đám mây mùa hạ ấy / Chuyển lửa tới mùa thu”. Những năm 1960 thì phải là: “Đang mùa hạ nắng lửa / Mây lừa ta mùa thu”. Những năm 1970, người ta phải viết: “Mùa hạ rừng rực lửa / Chia chác để mà thu”. Vậy những năm 1980, thì là: “Đám mây trần mùa hạ / Vắt cửa mình sang thu”. Những năm 1990: “Mây / Mưa / Gáo dừa / Thủng / Lá khoai môn mùa hạ / Có che / Kín / Hậu môn mùa thu”. Thế thôi, chứ mấy chữ ấy thì không có visa sang chơi thiên niên kỷ thứ ba. Hà cớ gì câu thơ vớ vỉn ấy lại còn sống đến hôm nay nhỉ?? Với những bè lũ không chịu chui ra khỏi hang [Cốc/Pắc Bó], dẫu họ có đông nghìn nghịt, xin đừng nói chuyện văn thơ gì với họ, huống chi là chuyện XU HƯỚNG MỚI.
Nhưng xu hướng mới sẽ là gì?
Thông qua phân tích trên đây và nhìn thực trạng các ngành nghệ thuật, chúng ta có thể thấy rằng trong hội họa hiện nay người ta ưa dùng mixed media, âm nhạc hiện đại cũng thích các loại mixed sound. Cho nên, TREND mới thống đoạt thiên hạ trong văn chương cũng dường như là MIX, tuy nhiên, là phải vào tay “DJ” siêu đẳng, thì cái “mớ” ấy mới “ra chất” được. “Người đọc” nhẽ sẽ quan tâm, nhao vào với những tác phẩm pha trộn đủ thứ với nhau trong một văn bản cũng như diễn ngôn, trên giấy cũng như trên mạng, theo công thức kiểu như: văn xuôi + văn vần + thời sự + báo chí + triết + đạo + thiêng + tục + ba trời + ba xu + âm thanh + thị giác + bác học + bình dân + ly kỳ + tối giản + cao siêu + phàm phu + ảo diệu + thô lỗ + phi thực... Điều quan trọng, các tác phẩm đó, dù có thể gọi là SIÊU VĂN HỌC hay PHI VĂN HỌC gì chăng nữa, thì cũng vừa mang trong mình các đặc tính hiện đại và hậu hiện đại, vừa vượt qua tất cả, và nó THẲNG hơn rất nhiều (“Xọc vào đúng tim đen của Thượng Đế”). Nhưng hãy nhớ, thời này không còn cái quan niệm cách nay hai thế kỷ của Beethoven “a great poet is the most precious jewel of a nation” nữa.
[17/6/17]
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 18-6-17
http://www.viet-studies.com/DangThan_VanHocDaChet.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Từ vụ Đồng Tâm, nghĩ về quá khứ và tương lai



20 tháng 6 2017 - Thông tin mới đây cho biết cơ quan điều tra của Hà Nội đã khởi tố vụ án hình sự hủy hoại tài sản và bắt giữ người trái pháp luật xảy ra tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức. Rất không công bằng khi việc khởi tố được thực hiện khi chưa có kết luận thanh tra vấn đề đất đai tại Đồng Tâm, để xác định xem việc lấy đất của chính quyền và giữ đất của người dân bên nào đúng bên nào sai.

Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM/GETTY IMAGES
Từ sự việc gây xáo động nhân tâm này, nhìn về quá khứ soi xét lại các chính sách giải quyết tranh chấp đất đai trước đây sẽ còn thấy nhiều điều chua chát.

KHÔNG ĐƯỢC KIỆN

Nhìn lại thì thấy nhiều quy định chính sách về giải quyết tranh chấp đất đai rất bất lợi cho người dân, nhiều quy định ngáng trở tước đoạt những quyền pháp lý rất chính đáng hợp pháp của con người.
Ví như khoảng chục năm trước, các quy định pháp luật về đất đai, khiếu nại và tố tụng hành chính đã ràng buộc người bị thu hồi đất không được khởi kiện ngay ra tòa mà phải qua khâu khiếu nại và giải quyết khiếu nại của chính quyền các cấp.
Nếu người dân nộp đơn khởi kiện hành chính đối với quyết định thu hồi đất mà không kèm theo quyết định giải quyết khiếu nại của chính quyền địa phương thì tòa án sẽ không thụ lý.
Trong khi hầu hết các vụ khiếu nại dân đều thua, vì khiếu nại cái quyết định đến cái người đã ban hành ra nó thì làm sao dân thắng được? Các địa phương luôn bảo vệ quan điểm việc làm của họ, làm sao họ lại đi nhận sai, việc khiếu nại gần như vô ích.
Để tránh việc bị kiện, nhiều địa phương khi giải quyết khiếu nại thay vì ban hành quyết định giải quyết khiếu nại thì họ lại ra một văn bản dạng như thông báo hoặc công văn về nội dung giải quyết khiếu nại.
Tòa án a dua theo đó bênh vực chính quyền, gây khó khăn cho người dân không thụ lý vụ án. Họ đòi phải có quyết định giải quyết khiếu nại theo đúng quy chuẩn chứ không chấp nhận văn bản dạng công văn hay thông báo giải quyết khiếu nại.
Đây là một kiểu bắt bẻ về câu chữ và hình thức văn bản, một lối làm việc quan liêu cửa quyền đã gây ra nhiều khốn đốn khốn nạn cho người dân đi kiện và luật sư.
Sau khi những diễn biến tệ hại diễn ra một thời gian và bị nhiều phản đối gay gắt, tòa án tối cao mới ban hành ra một văn bản hướng dẫn yêu cầu tòa án các cấp thụ lý vụ kiện hành chính và chấp nhận coi là hợp lệ các văn bản giải quyết khiếu nại dạng thông báo hoặc công văn mà không nhất quyết phải là quyết định giải quyết khiếu nại.
Nhiều hộ dân canh tác tập thể (hình minh họa)Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionNhiều hộ dân canh tác tập thể (hình minh họa)

KHÔNG GIAO QUYẾT ĐỊNH

Từ hàng chục năm trước và cho đến tận ngày nay, theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ thì khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực đất đai chiếm số lượng lớn nhất trong tất cả các mặt lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong thực tế, nhiều trường hợp chính quyền địa phương nhằm giảm tránh việc bị khiếu nại và phải giải quyết khiếu nại nên đã có nhiều chiêu trò xấu với dân, ví như họ không giao các quyết định thu hồi đất cho người có đất bị thu hồi.
Nhiều trường hợp thu hồi đất, phía chính quyền chỉ công khai một quyết định thu hồi tổng thể và danh sách các hộ có đất bị thu hồi và thông tin về số thửa đất bị thu hồi. Họ không giao quyết định thu hồi đất cho từng hộ gia đình như luật quy định phải thế.
Khi không có quyết định thu hồi đất người dân sẽ gặp khó khăn trong việc khiếu nại và không thực hiện được việc khởi kiện ra tòa hành chính. Vì pháp luật tố tụng hành chính yêu cầu hồ sơ khởi kiện phải có bản sao quyết định hành chính bị kiện.
Đây cũng là một chướng ngại mà người dân và luật sư đã phải chịu nhiều khốn khổ khốn nạn trên hành trình đòi quyền lợi công bằng.
Các văn bản pháp luật về đất đai thì nhiều, có lẽ là nhiều nhất trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội và thường xuyên thay đổi. Ngoài luật đất đai thì còn có nghị định của chính phủ, thông tư của các bộ, quyết định của ủy ban nhân dân cấp tỉnh về chính sách đất đai.
Nhiều văn bản thiết lập những câu chữ dài dòng lằng nhằng ngoắt ngoéo, tạo ra sự rối rắm bùng nhùng mà rồi chót lại hóa ra là cản trở người dân thực hiện các quyền chính đáng của họ.

ĐÃ CẢI THIỆN

Những quy định ngang trái thô thiển khinh rẻ quyền lợi công dân đã được lược giảm đi qua quá trình giải quyết hàng vạn vụ việc khiếu kiện đất đai, trong đó là vô số nỗ lực vô bờ của biết bao người dân mất đất và giới luật tư vấn.
Luật tố tụng hành chính hiện tại cho phép người bị thu hồi đất được quyền khởi kiện trực tiếp ra tòa mà không phải qua khâu khiếu nại hành chính như trước. Việc giao cấp quyết định hành chính của ủy ban nhân dân các cấp cũng được cải thiện do những tiến bộ về cải cách thủ tục hành chính và ngăn ngừa lạm quyền của nhà nước trung ương.
Trước kia các dự án phát triển kinh tế xã hội được lập ra để thu hồi đất có thể được thực hiện bởi ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc cấp tỉnh thì đến nay sau hàng chục năm thi hành đã bộc lộ nhiều sai trái bất cập, nhiều dự án không hiệu quả khả thi.
Cho nên luật đất đai năm 2013 đã giới hạn lại ngoài các dự án phát triển kinh tế xã hội do trung ương quyết định gồm Quốc hội và Thủ tướng chính phủ thì ở địa phương dự án phải do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Đó là những cải thiện theo hướng ngăn chặn sự lạm quyền thu hồi bừa bãi của các địa phương. Nhưng xét cho cùng thì sau một thời gian dài tiêu tán hiện giờ quỹ đất đã eo hẹp không còn cho phung phí được nữa.
Các địa phương cũng đã nhận ra rằng cái quyền được thu hồi đất đã là cái lợi ích lớn nhất mà họ đã có được và cần giữ lấy, những bước trình tự thủ tục thực hiện như thế nào luật đã có quy định thì họ không còn nhu cầu phải vi phạm nữa.
Quyền được thu hồi đất trở thành cứ điểm cuối cùng đem lại lợi ích bất tận mà các địa phương cố thủ tận hưởng, hành lang pháp lý đã rõ cùng với sự tuân thủ nghiêm chỉnh tương đối đã giúp giảm thiểu sự chống đối và tạo ra tính chính đáng hư ảo cho việc thu hồi đất.

HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI

Nếu công bằng thì vụ ở Đồng Tâm phải có kết luận thanh tra rõ ràng xem địa phương thu hồi đất và người dân giữ đất bên nào đúng bên nào sai, để xem hoạt động của chính quyền có phải hoạt động công vụ không và sự chống đối của người dân có phải phòng vệ chính đáng không. Thế mới công bằng.
Nhưng đó có lẽ là nguyện vọng của tương lai, còn thì hiện tại người ta đã làm như đã thấy. Trong tương lai việc cưỡng chế thu hồi chỉ nên được thực hiện sau khi các bên đã khởi kiện ra tòa và có bản án của tòa.
Như thế để đảm bảo cho các bên được đưa ra ý kiến và cơ sở chứng lý để được lắng nghe và công khai đánh giá. Thay cho cái quy trình giải quyết khiếu nại bất công mà kẻ làm sai không bao giờ thừa nhận. Để từ đó phán quyết của tòa có được sự công bằng, giảm đi yếu tố bức xúc chống đối do ý kiến không được lắng nghe và giải quyết thỏa đáng.
Đó là những vấn đề mà tương lai gần luật pháp cần ấn định, để thiết lập quy trình pháp lý công bằng cho giải quyết tranh chấp đất đai.
Xa hơn nữa thì cần loại bỏ cơ chế pháp lý về thu hồi đất, mà phải trưng mua theo giá thị trường khi nhà nước có nhu cầu cho dự án công, dự án tư thì doanh nghiệp phải thỏa thuận mua bán với người dân. Đồng thời với đó là phải công nhận quyền sở hữu tư nhân của người dân đối với đất đai.
Khi đó những quy định pháp lý sai trái xâm phạm quyền sở hữu đất và những quy trình pháp lý bất công trong giải quyết tranh chấp đất đai sẽ chỉ còn là quá khứ.
Bài viết thể hiện ý kiến và lối hành văn riêng của Luật sư Ngô Ngọc Trai, gửi cho BBC Tiếng Việt từ Hà Nội.

Phần nhận xét hiển thị trên trang