Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 22 tháng 6, 2017

Trần thuật từ Cối Xay Gió


LỜI BÌNH CỦA GIANG NAM LÃNG TỬ
Chao ôi một công dân đến văn phòng Bộ Tư Pháp nộp đơn khiếu nại của công dân mà phải dở bộ Luật ra để chỉ dẫn cho công chức Bộ TP. Chuyện hài thế kỷ 21 ở một nước “pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
“Cối xay gió” là hình ảnh mỉa mai của nhà văn Miguel De Cervantes miêu tả anh hiệp sĩ Don Quijote đánh nhau với cối xay gió vì tưởng nó là con quỉ. Vung giáo đánh nó, nó bật lại khiến anh gãy giáo, bị thương lăn kềnh. “Cối xay gió” là hình ảnh cái  tiến bộ của thời đại Phục Hưng nhưng anh hiệp sĩ nghĩ nó là con quỉ.
GNLT
 
Luật sư Đăng Mạnh
Sáng thứ hai ngày 19/06/2017, với tư cách là người đại diện theo sự ủy quyền của Giáo Sư Phạm Minh Hoàng, tôi đến trụ sở Bộ Tư Pháp – Văn phòng tiếp công dân tại địa chỉ số 12 Chu Văn An, Hà Nội để trực tiếp nộp đơn khiếu nại về quyết định tước quốc tịch Việt Nam đối với Giáo Sư Phạm Minh Hoàng do Chủ Tịch nước ký.
 .
Tiếp tôi tại văn phòng tiếp công dân là một nữ công chức trẻ tuổi, sau khi xem lướt qua đơn, cô ấy đề nghị tôi ngồi chờ để gọi cho nhân viên thuộc Vụ Hộ tịch, Quốc tịch và Chứng thực ra để tiếp. Khoảng năm phút sau, cô ấy trở ra và trả lời rằng Vụ Hộ tịch, Quốc tịch và Chứng thực từ chối tiếp vì không có thẩm quyền. Tôi bèn trưng ra Nghị định 78/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, trong đó, tại mục 7 điều 26 quy định rằng khiếu nại về vấn đề quốc tịch thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ Tư Pháp và yêu cầu cô ấy nhận đơn khiếu nại.
 .
Cô ấy mượn của tôi văn bản Nghị định 78/2009/NĐ-CP trở vào gọi điện thoại vào trong, lát sau, cô ấy ra trả lời rằng quả thật cơ quan cô ấy có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nhưng không có chức năng nhận đơn khiếu nại ! Tôi lấy làm lạ hỏi : “Cơ quan không nhận đơn khiếu nại thì lấy đâu ra khiếu nại mà giải quyết !?”, cô ấy bối rối chốc lát rồi trả lời chống chế : Khi nào cơ quan khác nhận đơn chuyển đến Bộ Tư Pháp thì cơ quan cô ấy mới giải quyết khiếu nại ?! Tôi định tranh luận thêm nhưng nhìn cái bụng bầu vượt mặt, cộng với thái độ bối rối của cô ấy tôi thấy thật bất nhẫn nếu cứ định “dồn” cô ấy vào chân tường bằng trích dẫn luật pháp…
 .
Ngay tại đấy, tôi điện thoại nhờ một văn phòng thừa phát lại đến lập vi bằng cho việc tôi đến Văn phòng tiếp công dân để nộp đơn khiếu nại nhưng không được tiếp nhận. Có lẽ ban đầu họ nghe chưa rõ việc nên hăm hở đến ngay tức thì, nhưng khi đến nơi biết rõ ý định của tôi, họ liền thối chí và từ chối. Họ giải thích điều mà chúng tôi cũng đều hiểu rõ với nhau “Anh thông cảm, văn phòng thừa phát lại bên em thuộc sự quản lý của Sở Tư Pháp, mà Sở Tư Pháp thì cũng trực thuộc ngành dọc của Bộ Tư Pháp, nên bên em không thể lập vi bằng kiểu này với Bộ Tư Pháp được…”.
 .
Tôi đành trở vào thông báo miệng với cô công chức trẻ tuổi rằng sẽ ngồi lỳ ở phòng tiếp công dân cho đến khi nào đơn của tôi được tiếp nhận ! Cô ấy liền nhấc điện thoại gọi vào trong. Chốc lát, tôi thấy các bảo vệ liên tục đảo ra vào chỗ tôi ngồi để quan sát… Đến tầm 11h30 thì có một nam công chức bước vào, người này nhã nhặn hỏi việc, nhận đơn của chúng tôi, ghi các thông tin vào sổ trực rồi ra vẻ đã xong việc. Tôi yêu cầu cấp biên nhận nhận đơn thì người này nói họ ra nhận đơn giúp mà thôi, người giữ biên nhận hiện không có mặt ở cơ quan ?!
 .
Tôi nghĩ, có cố gắng hơn thì kết quả cũng không thể hơn thế.
 .
Chúng ta đang sống trong một quốc gia có luật pháp, nhưng luật pháp nằm trong tay người có quyền thì nó sẽ được hành xử theo ý chí họ muốn, đương nhiên, họ không thể thỏa mãn ý chí của cá nhân nếu điều đó gây khó khăn cho họ… Điều này nhất quán với sách giáo khoa mà họ dạy trong trường luật: Luật pháp là vũ khí của giai cấp thống trị!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc?


Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1- Đồng hóa tự nhiên, tức quá trình dân tộc A trong giao tiếp với dân tộc B, do chịu ảnh hưởng lâu dài của B mà A tự nhiên dần dần mất bản sắc của mình, cuối cùng bị B đồng hóa; đây là một xu hướng tự nh

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành
Tiếng ta còn thì nước ta còn!

Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1- Đồng hóa tự nhiên, tức quá trình dân tộc A trong giao tiếp với dân tộc B, do chịu ảnh hưởng lâu dài của B mà A tự nhiên dần dần mất bản sắc của mình, cuối cùng bị B đồng hóa; đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2- Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc nhỏ yếu hơn chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của một dân tộc lớn mạnh hơn; đây là một tội ác.

Đồng hóa dân tộc chủ yếu diễn ra dưới hình thức đồng hóa văn hóa, trong đó chủ thể đồng hóa thường là một nền văn hóa mạnh và tiên tiến (như đông dân hơn, kinh tế phát triển hơn, đã có chữ viết, có các hệ tư tưởng), đối tượng đồng hóa thường là nền văn hóa yếu và lạc hậu hơn. Đồng hóa ngôn ngữ là công cụ đồng hóa văn hóa thông dụng nhất, quan trọng nhất, hiệu quả nhất. Một dân tộc bị mất tiếng nói mẹ đẻ của mình và phải nói tiếng của một dân tộc khác thì không còn giữ được bản sắc dân tộc nữa.
Trong lịch sử, các nền văn hóa yếu thường bị nền văn hóa mạnh đồng hóa. Thời cổ, Trung Quốc là quốc gia đông người nhất và có nền văn minh tiên tiến nhất châu Á. Nền văn hóa Hán ngữ của họ có sức đồng hóa rất mạnh. Dân tộc Hồi ở phía Tây nước này, ngày xưa dùng chữ A Rập, sau nhiều năm giao lưu với người Hán cũng toàn bộ dùng chữ Hán và nói tiếng Hán. Ngay cả các dân tộc nhỏ nhưng mạnh về quân sự, sau khi thôn tính và thống trị Trung Quốc được ít lâu cũng bị nền văn hóa Hán ngữ đồng hóa.
Thí dụ dân tộc Mãn sau khi chiếm Trung Quốc và lập triều đại nhà Thanh đã lập tức tiến hành đồng hóa dân tộc Hán: cưỡng bức đàn ông Hán phải cạo nửa đầu và để đuôi sam, phải bỏ chữ Hán mà chỉ dùng chữ Mãn làm chữ viết chính thức trên cả nước. Nhưng đến giữa đời Thanh, tức sau khoảng 100 năm thì tiếng Mãn cùng chữ Mãn đều biến mất, từ đó trở đi người Mãn chỉ dùng tiếng Hán và chữ Hán, nghĩa là họ lại bị đồng hóa ngược bởi chính nền văn hóa của dân tộc bị họ cai trị lâu tới 267 năm!
Các nước đế quốc thực dân sau khi chiếm thuộc địa đều cưỡng chế đồng hóa ngôn ngữ dân bản xứ, quá trình này diễn ra khá nhanh, nhìn chung sau 5-6 thế hệ (mỗi thế hệ 25 năm), tiếng nói của người bản xứ đã bị thay bằng ngôn ngữ của nước cai trị. Đầu thế kỷ XV, Brazil bị Bồ Đào Nha chiếm, chẳng bao lâu tiếng Bồ trở thành ngôn ngữ chính thức duy nhất của người Brazil. Nhiều thuộc địa Pháp ở châu Phi như Bénin, Togo, Sénegan… dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính duy nhất. Năm 1918 nước ta bắt đầu dạy tiếng Pháp ở lớp cuối tiểu học, 10-20 năm sau toàn bộ học sinh trung học cơ sở trở lên đến trường đã chỉ nói tiếng Pháp, giáo viên chỉ giảng dạy bằng tiếng Pháp. Nếu cứ thế dăm chục năm nữa thì có lẽ Việt Nam đã trở thành nước nói tiếng Pháp.
Thế nhưng sau hơn 1.000 năm bị bọn phong kiến người Hán thống trị và cưỡng bức đồng hóa, dân tộc Việt Nam vẫn không bị Hán hóa, vẫn giữ nguyên được nòi giống, tiếng nói và phong tục tập quán.
Đây quả là một điều kỳ diệu có lẽ chưa dân tộc nào khác làm được. Đáng tiếc là chưa thấy nhiều người quan tâm nghiên cứu vấn đề này, một thành tựu vĩ đại đáng tự hào nhất của dân tộc ta (nói cho đúng là của tổ tiên ta thôi, còn chúng ta bây giờ thua xa các cụ).
Vì sao tổ tiên ta có thể làm được kỳ tích ấy ? Có người nói đó là do dân ta giàu tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, xã hội có cơ chế làng xã bền chặt, v.v… Nói như vậy có lẽ còn chung chung, nếu đi sâu phân tích tìm ra được nguyên nhân cụ thể thì sẽ giúp ích hơn cho việc phát huy các truyền thống quý báu của dân tộc ta. Thực tế cho thấy tổ tiên ta giành được thắng lợi chống đồng hóa không phải bằng đấu tranh vũ trang mà chủ yếu bằng tài trí.
Xin nói thêm rằng chính người Trung Quốc cũng rất quan tâm vấn đề này. Chúng tôi đã thử nêu lên mạng Bách Độ (Baidu) của họ câu hỏi “Vì sao Trung Quốc thống trị Việt Nam hơn 1.000 năm mà Việt Nam không bị đồng hóa?”
Từ hàng triệu kết quả, có thể thấy đa số dân mạng Trung Quốc đều có chung một thắc mắc lớn: Vì sao bị Trung Quốc thống trị lâu thế mà người Việt Nam vẫn không nói tiếng Trung Quốc? Nói cách khác, họ coi đồng hóa ngôn ngữ là tiêu chuẩn đồng hóa quan trọng nhất và đều thừa nhận Trung Quốc đã không đồng hóa nổi Việt Nam. Họ tỏ ra tiếc nuối về sự kiện Việt Nam sau hơn 10 thế kỷ từng là quận huyện của Trung Quốc, từng dùng chữ Hán hàng nghìn năm mà rốt cuộc lại trở thành một quốc gia độc lập, dùng chữ Latin hóa, ngày nay là nước chống lại mạnh nhất chính sách xâm lấn Biển Đông của Bắc Kinh.
Do hiểu biết Việt Nam rất ít, thậm chí hiểu sai, hầu hết dân mạng Trung Quốc không tìm được lời giải thắc mắc trên, kể cả người tỏ ra am hiểu lịch sử nước ta. Họ nêu các lý do:
– Văn hóa Việt Nam có trình độ Hán hóa cao(?), người Việt rất hiểu và không phục Trung Quốc;
– Việt Nam ở quá xa Trung nguyên, khí hậu nóng, quan lại người Hán ngại sang Việt Nam làm việc, đã sang thì chỉ lo làm giàu, không lo đồng hóa dân bản xứ;
– Các nhân vật tinh hoa Trung Quốc như Lưu Hy, Hứa Tĩnh, Hứa Từ, Viên Huy (劉熙、許靖、許慈、袁徽) chạy loạn sang Việt Nam đã giúp nước này có nền văn hóa không kém Trung Quốc;
– Người Hán di cư đến Việt Nam đều bị người bản xứ đồng hóa v.v…
Nói chung họ đều chưa thấy, hay cố ý lờ đi nguyên nhân chính là ở tài trí của người Việt.
Nhưng họ nói người Việt Nam hiểu Trung Quốc là đúng. Do sớm hiểu rõ ý đồ thâm hiểm của phong kiến người Hán muốn đồng hóa dân tộc ta nên tổ tiên ta đã kịp thời đề ra đối sách. Cụ thể là đã tìm ra cách giữ gìn được tiếng nói của dân tộc mình trong quá trình bị bọn thống trị người Hán cưỡng bức học chữ Hán.
Mấy nghìn năm sau, một học giả lớn của dân tộc ta tóm tắt bài học lịch sử này trong một câu nói rất chí lý: “Tiếng ta còn thì nước ta còn!
Sau khi chiếm nước ta (203 tr. CN), Triệu Đà đã ép buộc dân ta học Hán ngữ, nhằm đồng hóa họ bằng ngôn ngữ. Có lẽ đây là thời điểm muộn nhất chữ Hán vào nước ta.[1] Sách “Việt giám Thông khảo Tổng luận” do Lê Tung viết năm 1514 có chép việc họ Triệu mở trường dạy người Việt học chữ Hán.[2] Về sau, tất cả các triều đại người Hán cai trị Việt Nam đều thi hành chính sách đồng hóa. Triều nhà Minh còn tìm cách tiêu diệt nền văn hóa của ta, như tiêu hủy toàn bộ các thư tịch do người Việt viết, bắt nhân tài, thợ giỏi người Việt sang Trung Hoa phục dịch.
Như vậy, dân tộc ta buộc phải chấp nhận học chữ Hán từ rất sớm (trước Triều Tiên, Nhật Bản nhiều thế kỷ). Do hiểu biết người Hán nên tầng lớp tinh hoa người Việt đã nhanh chóng nhận ra nếu cứ học như thế thì cuối cùng tiếng Việt sẽ bị thay bằng tiếng Hán, dân ta sẽ trở thành một bộ phận của Trung Quốc.
Vậy cha ông ta đã dùng cách nào để giữ được tiếng nói của dân tộc trong hơn 1.000 năm bị cưỡng bức học và dùng chữ Hán cũng như phải tiếp thu nhiều yếu tố của nền văn minh Trung Hoa?
Vấn đề này rất cần được làm sáng tỏ để từ đó hiểu được truyền thống quý báu của dân tộc ta. Dưới đây chúng tôi xin mạo muội góp vài ý kiến nông cạn, nếu có sai sót mong quý vị chỉ bảo.
Đọc chữ Hán bằng tiếng Việt: Một sáng tạo xuất sắc của tổ tiên ta
Chữ viết hình vuông là một phát minh lớn của nền văn minh Trung Hoa, được người Hán chính thức sử dụng từ đời nhà Thương (thế kỷ 16 đến 11 tr. CN), ngày nay phổ biến được gọi là chữ Hán.
Thực ra trong hơn 2.000 năm kể từ ngày ra đời, thứ chữ viết ấy chỉ được người Hán gọi là chữ  (tự) hoặc văn tự 文字. Đến đời Đường (thế kỷ VII) cái tên 漢字 (Hán tự, tức chữ Hán) mới xuất hiện lần đầu trong sách Bắc Sử 北史 do Lý Diên Thọ biên soạn.[3] Sau đó người Nhật và người Triều Tiên cũng gọi thứ chữ này là Hán tự: tiếng Nhật đọc Kanji, tiếng Triều Tiên đọc Hantzu. Cho tới nay Bộ Giáo dục Đài Loan vẫn chỉ gọi là Quốc tự 國字.
Vì thứ chữ ấy khi vào Việt Nam còn chưa có tên nên tổ tiên ta bèn đặt cho nó cái tên là chữ Nhovới ý nghĩa là chữ của người có học, bởi lẽ Nho  là từ dùng để gọi những người có học. Dân ta gọi người dạy chữ là thầy đồ Nho, bút và mực họ dùng để viết chữ là bút Nho và mực Nho.[4]
Đây quả là một điều độc đáo, bởi lẽ Hán ngữ xưa nay chưa hề có khái niệm chữ Nho; tất cả từ điển Hán ngữ cổ hoặc hiện đại và các từ điển Hán-Việt đều không có mục từ Nho tự 儒字 với ý nghĩa là tên gọi của chữ Hán.
Có thể suy ra: Việt Nam thời xưa không có chữ viết (hoặc đã có chữ Việt cổ nhưng chưa hoàn thiện, chưa diễn tả được các khái niệm trừu tượng), vì thế khi tiếp xúc với chữ Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã nhận thấy đây là một phương tiện cực kỳ hữu ích dùng để truyền thông tin được xa và lâu, không bị hạn chế về khoảng cách và thời gian như cách truyền thông tin bằng tiếng nói, do đó họ đã sớm nghĩ tới việc mượn thứ chữ này làm chữ viết của dân tộc ta.
Muốn vậy dân ta phải biết chữ Hán, một thứ ngoại ngữ. Làm cho dân chúng học và dùng được một ngoại ngữ là việc hoàn toàn bất khả thi ở thời ấy. Hơn nữa chữ Hán cổ khó đọc (vì không biểu âm), khó viết (vì có nhiều nét và cấu tạo phức tạp), khó nhớ (vì có quá nhiều chữ), thuộc loại chữ khó học nhất trên thế giới.
Nói chung, mỗi chữ viết đều có một âm đọc; không ai có thể xem một văn bản chữ mà không vừa xem vừa đọc âm của mỗi chữ (đọc thầm hoặc đọc thành tiếng). Mỗi chữ Hán đều có một âm tiếng Hán; muốn học chữ Hán tất phải đọc được âm của nó. Viết chữ Hán khó, tuy thế tập nhiều lần sẽ viết được, nhưng do khác biệt về hệ thống ngữ âm, người Việt nói chung khó có thể đọc được các âm tiếng Hán.
Ngoài ra Trung Quốc là một nước rộng lớn, đông dân; cho tới trước nửa cuối thế kỷ 20 cả nước vẫn chưa thống nhất được âm đọc của chữ. Loại chữ này chỉ thể hiện ý nghĩa, không thể hiện âm đọc, cho nên nhìn chữ mà không biết cách đọc. Người dân các vùng xa nhau thường đọc chữ Hán theo âm khác nhau, thậm chí khác xa nhau, vì thế thường không hiểu nhau nói gì. Các thứ tiếng địa phương ấy ta gọi là phương ngữ, người Hán gọi là phương ngôn (方言); Hán ngữ hiện có 7 phương ngữ lớn, nhiều phương ngữ nhỏ (次方言).
Không thống nhất được âm đọc chữ Hán là một tai họa đối với người Hán. Với người nước ngoài học chữ Hán cũng vậy: khi mỗi ông thầy Tàu đọc chữ Hán theo một âm khác nhau thì học trò khó có thể học được thứ chữ này.
Để có thể học được chữ Hán mà không cần đọc âm tiếng Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã sáng tạo ra một giải pháp xuất phát từ ý tưởng: nếu người Hán khác vùng có thể tự đọc chữ Hán theo âm riêng của vùng, thì ta cũng có thể đọc chữ Hán theo âm riêng của người Việt.
Muốn vậy, mỗi chữ Hán được tổ tiên ta quy ước đọc bằng một (hoặc vài, tùy chữ Hán gốc) âm tiếng Việt xác định có gốc là âm chữ Hán — ngày nay gọi là âm Hán-Việt, nghĩa là mỗi chữ Hán đều được đặt cho một (hoặc vài) cái tên tiếng Việt xác định, gọi là từ Hán-Việt.
Thí dụ chữ  được đặt tên là chữ Thủy, âm đọc thủy khác với âm đọc shuẩy của người Hán. Chữ , tiếng Hán đọc sưa, ta đọc sắcThủy và Sắc là từ Hán-Việt, cũng là âm Hán-Việt của .
Âm/từ Hán-Việt được chọn theo nguyên tắc cố gắng bám sát âm Hán ngữ mà tổ tiên ta từng biết.[5] Như chữ , âm Hán và âm Hán-Việt đều đọc chung, tức hệt như nhau; chữ , Hán ngữ đọc hái, ta đọc Hài, gần như nhau. Nhưng hầu hết chữ đều có âm Hán-Việt khác âm Hán. Như 集 âm Hán là chí, ta đọc Tập ;  giú, ta đọc Nho. Có chữ âm Hán như nhau mà âm Hán-Việt có thể như nhau hoặc khác nhau, như  và , âm Hán đều là thúng, từ Hán-Việt đều là Đồng ; nhưng  và , âm Hán đều là xi, lại có hai từ Hán-Việt khác nhau là Hệ và Tế. Chữ Hán có hai hoặc nhiều âm thì có thể có một, hai hoặc nhiều âm/từ Hán-Việt, như  có hai âm Hán là tâu và tu, lại chỉ có một âm/từ Hán-Việt là Đô ;  có hai âm Hán shảo và shao, cũng có hai âm/từ Hán-Việt là Thiểu (trong thiểu số) và Thiếu (trong thiếu niên).
Thứ chữ Hán đọc bằng âm Hán-Việt này được dân ta gọi là chữ Nho. Vì đọc chữ bằng tiếng mẹ đẻ nên chữ Nho trở nên dễ học đối với người Việt: chỉ cần học mặt chữ, nghĩa chữ và cách viết văn chữ Hán mà không cần học phát âm cũng như học nghe/nói tiếng Hán. Vì thế thời xưa ở nông thôn nước ta không hiếm người 6-7 tuổi đã biết chữ Nho.[6] Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) 12 tuổi đỗ Cử nhân, 16 tuổi đỗ Hoàng giáp (Tiến sĩ). Người không biết chữ cũng có thể học truyền miệng các tác phẩm ngắn có vần điệu, như Tam Thiên Tự.[7]
Người biết chữ Nho có thể xem hiểu các thư tịch chữ Hán, viết văn chữ Hán; tuy không nói/nghe được tiếng Hán nhưng vẫn có thể dùng bút đàm để giao tiếp bình thường với người Hán. Chỉ bằng bút đàm chữ Nho, Phan Bội Châu giao tiếp được với các nhà cải cách Trung Quốc và Nhật Bản, đưa được mấy trăm thanh niên Việt Nam sang Nhật học quân sự chính trị, chuẩn bị về nước đánh đuổi thực dân Pháp.
Cần nhấn mạnh: vì âm/từ Hán-Việt không thể ghi âm hầu hết từ ngữ tiếng Việt cho nên cách đọc chữ Hán theo âm Việt hoàn toàn không thể biến tiếng Việt thành một phương ngữ của Hán ngữ,[8] và dân ta vẫn hoàn toàn nói và nghe bằng tiếng mẹ đẻ.
Chữ Nho chỉ dùng để viết mà thôi, và chỉ được giới tinh hoa (trí thức và quan lại người Việt) dùng trong giao dịch hành chính, ngoại giao, lễ tiết, chép sử, giáo dục, thi cử, sáng tác văn thơ. Còn ở Trung Quốc, những người nói một trong các phương ngữ tiếng Hán đều có thể dùng chữ Hán để ghi âm được toàn bộ tiếng nói của phương ngữ ấy, nghĩa là họ có thể dùng chữ Hán để ghi âm tiếng mẹ đẻ.
Dĩ nhiên cách đọc tiếng Việt chỉ có thể làm với chữ Hán, là loại chữ biểu ý (ghi ý), chứ không thể làm với chữ biểu âm (ghi âm). Ngày nay âm/từ Hán-Việt của mỗi chữ Hán có thể dễ dàng viết ra bằng chữ Quốc ngữ (một loại chữ ghi âm), nhưng ngày xưa, khi chưa có bất kỳ loại ký hiệu nào ghi âm tiếng nói, tổ tiên ta chỉ có thể truyền khẩu. Thế mà lạ thay, việc dạy chữ Nho đã được mở rộng, ở thời Nguyễn là đến tận làng, có thể suy ra tỷ lệ người biết chữ Hán của dân ta cao hơn Trung Quốc!
Chỉ bằng cách truyền miệng mà người Việt thời xưa đã tạo ra được một bộ từ Hán-Việt tương ứng với bộ chữ Hán khổng lồ — bộ chữ này trong Tự điển Khang Hy (1716) có hơn 47 nghìn chữ; Tiêu chuẩn Nhà nước Trung Quốc GB18030 (2005) có 70.217 chữ; Trung Hoa Tự hải có 85.568 chữ Hán.
Quá trình tiến hành Việt Nam hóa phần ngữ âm của chữ Hán kéo dài trong hàng nghìn năm, là một thành tựu văn hóa vĩ đại. Có thể phỏng đoán đó là một quá trình mở, do nhiều thế hệ người Việt thực hiện, thể hiện sức sáng tạo bất tận của tổ tiên ta.
Nhật và Triều Tiên cũng mượn dùng chữ Hán, nhưng họ tự đến Trung Hoa nghiên cứu đem chữ Hán về dùng chứ không bị ép dùng từ sớm như ta. Họ cũng đọc chữ Hán theo âm bản ngữ của dân tộc mình — giải pháp do người Việt nghĩ ra và thực hiện trước họ nhiều thế kỷ.
Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Nguyễn Tài Cẩn nói: “Cách đọc Hán Việt là một tài sản của riêng dân tộc ta. Có dùng nó khi đọc Đạo đức kinh, Kinh Thi, Sở từ… thì mới phù hợp với thói quen dân tộc, tiện lợi cho dân tộc. Theo ý chúng tôi, dùng cách đọc Hán Việt ở những trường hợp này là một điều hết sức phù hợp với khoa học. Đọc theo lối Hán Việt thì dễ hiểu hơn, bởi lẽ ngay trong tiếng Việt đã có khá nhiều tiếng Hán Việt quen thuộc, chỉ đọc lên, nghe được, là hiểu được; đọc theo lối Hán Việt thì cũng thuận tai hơn… ”.[9]
Đúng thế. Thí dụ từ 社會, người Anh biết Hán ngữ đọc shưa huây, người Anh không biết Hán ngữ khi nghe âm đọc ấy sẽ chẳng hiểu gì; còn người Việt biết Hán ngữ đọc “xã hội”, người Việt không biết Hán ngữ nghe đọc sẽ hiểu ngay nghĩa của từ; âm “xã hội” thuận tai, dễ đọc dễ nhớ hơn âm shưa huây. Rõ ràng cách đọc Hán-Việt thật tiện lợi cho người Việt. Trong bài sau, chúng tôi sẽ nói thêm về vấn đề này.
Ngày nay mỗi chữ Hán trong tất cả các từ điển Hán-Việt đều phải ghi kèm từ Hán-Việt tương ứng. Hán-Việt Tự điển của Thiều Chửu có kèm Bảng tra chữ theo âm Hán-Việt, dùng tra chữ Hán rất tiện và nhanh hơn tra theo bộ thủ. Người có sáng kiến làm Bảng này là bà Nguyễn Thị Quy (1915-1992), em ruột Thiều Chửu, khi bà lần đầu xuất bản Tự điển nói trên tại Sài Gòn năm 1966.[10]
Như vậy, bằng cách đọc chữ Hán theo âm tiếng Việt, tổ tiên ta đã thành công trong việc mượn chữ Hán để dùng làm chữ viết chính thức của dân tộc mình và gọi nó là chữ Nho. Sự vay mượn này chẳng những không làm cho tiếng Việt bị biến mất mà còn làm cho nó phong phú hơn rất nhiều, trở thành một ngôn ngữ cực kỳ linh hoạt, có thể tiếp nhận và Việt hóa hầu như toàn bộ từ ngữ mới xuất hiện trong tiến trình phát triển của loài người toàn cầu.
Chữ Nho khác chữ Hán ở phần ngữ âm: nó là chữ Hán được đọc bằng âm tiếng Việt chứ không đọc bằng âm tiếng Hán như chữ người Hán dùng. Nói cách khác, chữ Nho là chữ Hán đã được Việt Nam hóa phần ngữ âm; còn về tự dạng và nghĩa chữ thì cơ bản như chữ Hán của người Hán. Vì thế có người gọi chữ Nho  chữ Hán-Việt.
Rõ ràng nó là chữ của người Việt Nam, đã Việt Nam hóa phần ngữ âm, không thể coi là chữ của người Hán. Chữ Nho là chữ viết chính thức của dân tộc ta trong hơn 2.000 năm, kể từ thời điểm muộn nhất là bắt đầu thời Bắc thuộc cho tới khi được thay thế bằng chữ Quốc ngữ cực kỳ ưu việt, được chính các nhà Nho tiên tiến tán thưởng và đi tiên phong ủng hộ sự phổ cập Quốc ngữ.
Cách đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt đã đáp ứng nhu cầu giao tiếp bằng bút đàm giữa quan lại cấp thấp người Việt với quan lại cấp cao người Hán, khiến cho bọn thống trị người Hán vẫn thực thi được quyền lực cai trị dân bản xứ. Hơn nữa, cách đó làm cho việc phổ cập chữ Hán trong người Việt trở nên dễ dàng, tức đáp ứng yêu cầu dạy chữ Hán của các vương triều người Hán. Vì vậy chúng không còn lý do cưỡng chế dân ta phải học nghe/nói tiếng Trung Quốc.
Cách đọc chữ Hán như trên đã có tác dụng không ngờ là làm cho người Hán dù có cai trị Việt Nam bao lâu thì cũng không thể tiêu diệt nổi tiếng Việt và Hán hóa được dân tộc ta. Có thể là khi bắt đầu sáng tạo cách đọc ấy, tổ tiên ta chưa nghĩ tới điều đó, nhưng rốt cuộc sáng tạo xuất sắc này đã giúp dân tộc ta tránh được nguy cơ bị người Hán đồng hóa. Đây là một thành công vĩ đại!
Đáng tiếc là hiện không thấy có thư tịch nào ghi chép ai nghĩ ra và thời điểm nào xuất hiện cách đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt. Có thể cho rằng sáng kiến đó ra đời khi chữ Hán bắt đầu vào nước ta, tức muộn nhất là khoảng thế kỷ 2 – 1 tr.CN.
Có ý kiến cho rằng cách đọc Hán-Việt bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán đời Đường, cụ thể là Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng hai thế kỷ 8, 9.
Nếu hiểu ý kiến này theo nghĩa đến đời Đường mới xuất hiện cách đọc Hán-Việt thì e rằng khó có thể giải đáp câu hỏi: vậy thì trong thời gian khoảng ngót 1000 năm trước đó người Việt đọc chữ Hán bằng cách nào? Đến đời Đường, người Hán đã thống trị Việt Nam được hơn 9 thế kỷ, quá thừa thời gian để họ hoàn toàn đồng hóa người Việt bằng văn hóa, ngôn ngữ, khi ấy tiếng Việt đã bị biến mất, sao còn có thể xuất hiện cách đọc Hán-Việt?
Phải chăng nên hiểu ý kiến trên theo nghĩa: đến thời Đường, cách đọc Hán-Việt được hoàn thiện nhờ học tập Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng thế kỷ 8 – 9.
***
Có thể kết luận: dân tộc Việt Nam tồn tại được và không bị đồng hóa sau hơn 1.000 năm chịu sự thống trị của một quốc gia liền kề có nền văn hóa lớn mạnh là nhờ đã phát huy bản lĩnh trí tuệ của mình, thể hiện ở chỗ sáng tạo được biện pháp đọc chữ Hán bằng tiếng Việt, qua đó đã vô hiệu hóa chủ trương đồng hóa ngôn ngữ của các triều đại phong kiến Trung Hoa.
Có những người Hán đã nhận ra bản lĩnh trí tuệ ấy của người Việt.
Năm 987, nhà Tống cử Lý Giác李覺 đi sứ sang Hoa Lư, Việt Nam, được hai vị Quốc sư Khuông Việt và Pháp Thuận đón tiếp, đàm phán các vấn đề quốc gia đại sự và họa thơ. Khi về nước, Lý Giác tặng vua Lê Đại Hành một bài thơ, trong có câu: “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu 天外有天應遠照”, nghĩa là: “Ngoài trời này còn có trời khác, nên nhìn thấy”. Nói cách khác, thế giới này đâu phải chỉ có một mặt trời Trung Hoa mà còn có mặt trời Việt Nam!
Câu thơ cho thấy Lý Giác đã bước đầu nhận ra bản lĩnh trí tuệ của người Việt. Đúng thế, tổ tiên ta thật vô cùng tài giỏi, nếu không thì còn đâu giang sơn tươi đẹp này!
Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.
—————————
[1] Nói là “muộn nhất” vì còn có các quan điểm như: chữ Hán vào VN qua con đường giao thương hoặc truyền bá tôn giáo từ lâu trước khi nước ta bị Triệu Đà chiếm; VN đã có chữ viết từ đời Hùng Vương (Hoàng Hải Vân: Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động).
[2]宋代中越文学交流述论 có câu 黎嵩 “越鑑通考總論” viết : 趙佗 “建立學校,導之經義。由此已降,四百余年,頗有似類” .
[3] Bài 汉字名称的来由 (http://blog.sina.com.cn) và một số bài khác có viết: Từ  Hán tự  漢字 xuất hiện sớm trong Bắc sử, quyển 9 [biên soạn xong năm 659]. 汉字一词早出自《北史》卷九本纪第九, “章宗一”:“十八年,封金源郡王.始习本朝语言小字, 及汉字经书,以进士完颜匡、司经徐孝美等侍读”. Từ Hán tự xuất hiện nhiều trong sách Kim sử 金史 (năm 1345) đời Nguyên. Ở đời nhà Thanh (1644-1911), thời kỳ đầu do chữ viết chính thức của chính quyền không phải là chữ Hán mà là chữ Mãn (满文) nên phải dùng tên gọi chữ Hán 漢字 để chỉ loại văn tự truyền thống của người Hán, nhằm phân biệt với chữ Mãn.
[4] Có ý kiến nói do thời bấy giờ thứ chữ đó được dùng để dạy dân ta học Nho giáo 儒教 nên dân ta gọi nó là chữ Nho. Nhưng Nho với nghĩa “người có học” xuất hiện trước rất lâu, sau đó mới dùng chữ ấy vào từ Nho giáo để gọi học thuyết của Khổng Tử. Cùng lý do ấy, chữ Khổng có trước khi Khổng Tử ra đời.
[5] Khó có thể biết đó là âm tiếng địa phương nào ở TQ. Trong đó có những âm tiếng Quảng Đông, như nhất, nhì, shập, học chập khi đọc các chữ  一,二,十,學習 (âm Hán-Việt đọc nhất, nhị, thập, học tập).
[6] Thí dụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) 8 tuổi học chữ Nho, 13 tuổi văn hay chữ tốt, 24 tuổi đậu Giải Nguyên, 28 tuổi đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ. Phan Bội Châu (1867-1940) 6 tuổi học ba ngày đã thuộc lòng 1440 chữ Nho trong Tam Tự Kinh. Trần Gia Minh tác giả sách Huyền thoại Kim thiếp Vũ Môn 5-6 tuổi đã học chữ Nho truyền khẩu từ người ông mù lòa.
[7] Do nhà Nho Đoàn Trung Còn sáng tác, là một bài vè dài, mỗi câu hai âm, đọc lên có vần điệu dễ nhớ.
[8] Năm 1867, G. Aubaret trong cuốn Grammaire annamite từng sai lầm nhận định: “Tiếng bình dân nói trong vương quốc An Nam là một phương ngữ của tiếng Trung Quốc” (trích dẫn theo Phạm Thị Kiều Ly trong “Ghi âm tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ”, sách “Tiếng Việt 6”, Nxb Tri Thức, 2015).
[9] Nguyễn Tài Cẩn : Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt.
[10] Dẫn theo Lê Quốc Trinh, con trai bà Quy và là người trực tiếp tham gia làm Bảng tra này.
 http://nghiencuuquocte.org

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tin tức nóng 22-6-2017


Quan chức Mỹ - Trung gặp mặt về vấn đề Triều Tiên
Lãnh đạo ngoại giao và quốc phòng Mỹ - Trung hội đàm để tìm cách thúc ép Triều Tiên từ bỏ chương trình hạt nhân và tên lửa.
Tại Đối thoại Ngoại giao và An ninh Mỹ - Trung ở Washington, Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson cùng Bộ trưởng Quốc phòng Jim Mattis ngày 21/6 gặp nhà ngoại giao hàng đầu của Trung Quốc là Dương Khiết Trì và tướng Phòng Phong Huy, Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc.
Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết cuộc họp tập trung vào các biện pháp để tăng áp lực với Triều Tiên, đồng thời nhắc đến các vấn đề như chống khủng bố và tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, theo Reuters .
Mỹ dự kiến ​​thúc giục Trung Quốc hợp tác để tăng cường biện pháp trừng phạt quốc tế đối với Triều Tiên. Mỹ và các đồng minh muốn áp đặt lệnh cấm vận về dầu và lệnh cấm hãng hàng không và lao động Triều Tiên ở nước ngoài, tuy nhiên các biện pháp này đã bị Trung Quốc và Nga phản đối.
Các cuộc đàm phán diễn ra một ngày sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump nói rằng nỗ lực của Trung Quốc trong việc thuyết phục Triều Tiên kiềm chế chương trình vũ khí đã thất bại.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 21/6 nói rằng Bắc Kinh đã nỗ lực không ngừng để giải quyết căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên, không phải do áp lực từ bên ngoài mà là vì Trung Quốc là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế và việc giải quyết vấn đề hạt nhân là vì lợi ích riêng của họ.
Lần cuối Triều Tiên thử nghiệm bom hạt nhân là vào tháng 9 năm ngoái, nhưng họ đã tiến hành nhiều vụ thử tên lửa và tuyên bố sẽ phát triển một tên lửa hạt nhân có khả năng tấn công vào đất liền Mỹ.
Ông Trump đã có những tuyên bố cứng rắn với Triều Tiên sau cái chết của Otto Warmbier, sinh viên Đại học Virginia qua đời vào ngày 19/6, người từng bị Triều Tiên giam giữ trong 17 tháng. Tổng thống Mỹ ngày 20/6 gọi điều xảy ra với Warmbier là "một sự ô nhục".
Cựu đại sứ Mỹ ở LHQ nói 'cần trừng phạt Bắc Hàn'
Bill RichardsonBản  ảnhKYODO NEWS
Ông Bill Richardson gặp báo chí tại Bắc Kinh sau chuyến thăm đến Bình Nhưỡng tháng 1 năm 2013: ông từng đóng vai trò đặc sứ của Hoa Kỳ để đàm phán với Bắc Hàn
Cựu Thống đốc bang New Mexico và cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc, ông Bill Richardson vừa có phát biểu đề nghị Hoa Kỳ có biện pháp trừng phạt Bắc Hàn "vì cái chết của Otto Warmbier".
Trả lời BBC News, ông Richardson, nguyên là nhà đàm phán của Hoa Kỳ với Bắc Hàn, xác nhận ông đã trao đổi rất nhiều lần trong năm qua với quan chức nước cộng sản Đông Bắc Á mà không nghe họ nói gì về tình trạng của Otto Warmbier "đã bị hôn mê".
"Phải một năm sau tôi mới được biết chuyện đó."
Không giấu vẻ bực bội, ông Richardson lên án Bình Nhưỡng về cái chết của sinh viên 22 tuổi, Otto Warmbier:
"Đây là một vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, cách họ che dấu, kiểu dùng thuốc ngủ, và họ có thể đã tra tấn cậu ấy."
"Họ đã không chạy chữa cho cậu ấy, để Otto hôn mê hơn một năm."
Ông Richardson, người từng có vị trí cao cấp trong Đảng Dân chủ Hoa Kỳ cũng phê phán chính quyền Barack Obama đã không tiết lộ chuyện sinh viên Otto Warmbier bị Bắc Hàn cầm giữ.
Otto Warmbier: Chuyến du lịch sinh mạng ở Bắc Hàn
Bản thân ông Richardson từng được bổ nhiệm chức bộ trưởng trong chính phủ Obama nhiệm kỳ đầu, nhưng nay ông lại khen chính quyền của đảng Cộng hòa:
"Tôi muốn ca ngợi chính quyền của Tổng thống Donald Trump đã vào cuộc mạnh mẽ, để buộc Bắc Hàn phải trả Otto Warmbier về."
Đi tour vào thăm Bắc Hàn hồi tháng 12/2015, Otto Warmbier bị bắt vài tháng sau ̣đó và bị xử tù.
Ngày 13/06, Otto Warmbier được trả về Hoa Kỳ sau 17 tháng bị giam cầm ở Bắc Hàn.
Nhưng anh trở về trong tình trạng hôn mê, không còn khả năng giao tiếp và não bị tổn thương nặng.
Một tuần sau, Warmbier qua đời.
Gia đình người sinh viên ở Cincinnati, Ohio, lên án "cách đối xử tra tấn tàn nhẫn khủng khiếp" mà họ nói anh phải chịu trong thời gian ở Bắc Triều Tiên.
Đánh hay không đánh?
Hiện Hoa Kỳ đang xem xét các khả năng tiếp cận vấn đề Bắc Hàn và cái chết của Otto Warmbier có thể góp thêm sự ủng hộ của một phần dư luận Mỹ cho một giải pháp mạnh mẽ mà Tòa Bạch Ốc đang nghiên cứu.
Về biện pháp quân sự, gần đây nhất, Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis đã trình bày trước Quốc hội "một bức tranh u ám", theo các báo Hoa Kỳ hôm 16/06.
Kim Jong-un ảnhGETTY IMAGES
nÔng Trump vừa nhắn trên Twitter rằng "Trung Quốc không kiềm chế nổi" chế độ của ông Kim Jong-un
Trả lời dân biểu Tim Ryan về chuyện Hoa Kỳ có sẵn sàng lâm chiến để ngăn Bắc Hàn phát triển vũ khí nguyên tử hay không, ông Mattis nói:
"Cuộc chiến sẽ nghiêm trọng hơn những gì chúng ta thấy về sự tàn khốc với con người năm 1953, sẽ có pháo kích hàng loạt vào thủ đô của nước đồng minh, một trong những đô thị có mật độ dân số lớn nhất thế giới."
Trong câu nói đó, ông đề cập đến Seoul có 25 triệu dân.
Nhưng ông Mattis khẳng định "cuối cùng thì chúng ta sẽ thắng".
Cũng tin liên qua, chính quyền của ông Trump, hoặc ít ra là riêng ông, bày tỏ thái độ hết nhẫn nại với Trung Quốc mà Washington trông đợi sẽ giúp "kiềm chế Bắc Hàn".
Hôm Thứ Ba 20/06, ông Donald Trump lại nhắn trên Twitter rằng "nỗ lực của Trung Quốc để kiềm chế Bắc Hàn "hóa ra đã không có hiệu quả gì".
Tuần này, Bộ trưởng James Mattis có cuộc họp cao cấp với ông Dương Khiết Trì, Ủy viên Quốc vụ viện của Trung Quốc để bàn về an ninh Đông Bắc Á.
Để thị uy với Bình Nhưỡng, Hoa Kỳ vừa cử hai phi cơ ném bom siêu thanh B-1B Lancers bay ngang bán đảo Triều Tiên hôm 20/06.
B-1B LancerảnhGETTY IMAGES
Hai B-1B, phi cơ ném bom siêu thanh của Mỹ xuất kích từ sân bay Osan, Nam Hàn để lên bầu trời thị uy - hình minh họa
Các báo Mỹ viết rằng đây là chuyến bay "cảnh cáo" Kim Jong-un sau cái chết của Otto Warmbier.
Một số nhà bình luận tin rằng việc tấn công ồ ạt hoặc đổ bộ vào Bắc Hàn là "khó xảy ra" nhưng việc oanh kích các địa điểm cụ thể thì có thể là phương án Washington xem xét.
Elon Musk tuyên bố đưa 1 triệu người lên sao Hỏa
Quá trình này được thực hiện bằng hệ thống các tên lửa Falcon do công ty SpaceX của Elon Musk phát triển.
Ông chủ Amazon sắp giàu nhất thế giới, chỉ kém Bill Gates 5 tỷ USD
Trong một bài phát biểu hồi tháng 9 năm trước tại Mehico, CEO Elon Musk của Tesla đã đặt ra tầm nhìn về việc loài người sẽ định cư trên sao Hỏa. Theo đó, sẽ có 1 triệu người được đưa lên sinh sống tại hành tinh đỏ như một giải pháp dự phòng cho sự sống trên Trái đất.
Chi phí để đưa mỗi người lên đó sẽ chỉ khoảng 100.000 - 200.000 USD/người. Và công ty SpaceX của Elon Musk sẽ là người đưa ra các giải pháp thực tế để hiện thực hóa điều đó.
Mới đây, trong một bài viết được đăng trên tạp chí khoa học New Space, vị CEO của Tesla đã mô tả một cách cụ thể và chi tiết hơn dự án đang được thực hiện của mình. Theo Musk, việc sử dụng tên lửa để đưa người lên vũ trụ sẽ giúp giảm bớt chi phí đến hàng nghìn lần. Bài báo này cũng mô tả thiết kế của mẫu tàu vũ trụ khổng lồ mà ông này đang ấp ủ xây dựng. Con tàu này sẽ có tên Hear of Gold hay Trái tim của Vàng.
So với bài phát biểu trước đây, Elon Musk đã đề cập một cách rõ ràng hơn tới việc làm thế nào để có thể chi trả chi phí cho quá trình phát triển và hoạt động của một chiếc tên lửa khổng lồ. Elon Musk đã vạch ra một quá trình bao gồm 4 giai đoạn để có thể giúp loài người định cư trên sao Hỏa. Ông cũng tiến hành giải thích về việc làm sao để tạo ra nhiên liệu và không khí nhằm duy trì sự sống trên hành tinh này.
Bồn chứa nhiên liệu khổng lồ dùng cho dự án tàu vũ trụ của SpaceX.
Trong phát biểu mới nhất của mình, Musk cũng tiết lộ sự tồn tại của một bồn chứa nhiên liệu khổng lồ dùng cho hoạt động của tàu vũ trụ. Chiếc bình này đã được chế tạo và thử nghiệm thành công vào tháng 11 vừa qua. Nó được chế tạo hoàn toàn từ sợi cacbon, loại vật liệu rất nhẹ và bền chắc.
Trước đó, SpaceX của Elon Musk đã thành công trong việc hạ cánh một tên lửa sau khi đưa nó ra ngoài không gian. Đây là một bước tiến quan trọng bởi nó sẽ giúp giảm bớt hàng tỷ USD chi phí do có thể tận dụng được những chiếc tên lửa nhiều lần. Hãng này cũng đang loay hoay tìm câu trả lời cho sự cố phát nổ của chiếc tên lửa Falcon 9 tại Florida cách đây ít tháng.
SpaceX của Elon Musk đang nỗ lực phát triển Falcon Heavy. Đây là một hệ thống phóng tên lửa lớn hơn bao giờ hết. Bên cạnh đó, trong một bài đăng mới đây trên Twiiter, Elon Musk cho biết một tên lửa mới với trọng lượng siêu nhẹ sẽ có thể được SpaceX cho cất cánh vào tháng 9. Nếu tất cả đều đúng theo kế hoạch, Falcon Heavy có thể đưa 2 hành khách bay quanh mặt trăng vào năm 2018. Họ không cần là các phi hành gia chuyên nghiệp, họ chỉ cần trả tiền cho trải nghiệm của mình.


Phần nhận xét hiển thị trên trang