Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2017

".. chỉ biết thu vén cho bản thân mình" - Coi như xong!





Khi tôi nói chuyện tình hình đất nước với học sinh thì họ nói là họ quá nhỏ, thiếu kiến thức nên chưa thể bàn, chưa thể lo được, tôi chấp nhận điều đó.
Khi tôi nói chuyện với sinh viên về chuyện đó ( chuyện đất nước) thì họ nói nhiệm vụ của họ lúc này là học để có tấm bằng rồi ra đi làm kiếm tiền, lo cho bản thân và gia đình, chứ bây giờ mà dính vô chuyện chính trị thì bố mẹ buồn, có thực mới vực được đạo, tôi chấp nhận lời giải thích đó.
Khi tôi nói chuyện đó với những người đã tốt nghiệp, đã ra đi làm họ bảo rằng cuộc sống, thu nhập chưa ổn định, rồi họ có những ước mơ, có những kế hoạch riêng, kinh doanh, kiếm tiền, những chuyến đi xa để thấy đó đây, để trải nghiệm cuộc sống...v.v, chuyện chính trị không là mối bận tâm của họ, tôi miễn cưỡng chấp nhận lời giải thích của họ.
Khi tôi nói chuyện đó với những người trang lứa như tôi, ngấp ngé trên dưới 40 rồi đó, đa số những người này đã có một sự trải nghiệm cuộc sống tương đối đầy đủ và dày dạn, có cuộc sống ổn định, sung túc, thu nhập tốt, họ bảo những chuyện đó họ thấy hết, họ biết hết nhưng họ không dám nói công khai, không dám lên tiếng vì sợ bị sách nhiễu, sợ bị làm khó chuyện làm ăn...v.v, họ công khai thừa nhận họ là kẻ hèn luôn, thiên hạ muốn nghĩ sao về họ thì nghĩ.
Khi tôi nói chuyện với những người lớn tuổi hơn nữa ( bậc cha chú), họ bảo giờ họ già rồi, không làm gì được nữa, thôi để lại cho lớp trẻ nó lo, giờ mình ráng sống thêm ít năm nữa rồi lo đoàn tụ ông bà, họ công khai kêu gọi quay lưng lại chuyện chính trị, ai họ làm gì thì để họ làm, mình nói làm gì thiệt thân, một cá nhân có làm được gì đâu mà nói.
Thế đấy, mỗi lớp tuổi đều có lí do để né tránh chuyện chính trị, gánh vác trách nhiệm quốc gia, trẻ thì nhìn trông chờ vào lớp trên, già thì trút lại gánh nặng trách nhiệm cho lớp dưới, mỗi lứa tuổi chỉ biết thu vén cho bản thân mình. Chỉ có đất nước là không ngừng tan nát mà thôi.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Người giàu nhìn thế giới khác người nghèo thế nào



Người giàu biết rằng họ giàu là nhờ hiểu biết nhiều, trong khi người nghèo lại nghĩ đó là do sự thông minh.

Triệu phú tự thân Mỹ - Steve Siebold đã dành 26 năm phỏng vấn những người giàu nhất thế giới và nhận ra họ luôn có tư tưởng và chiến lược khác biệt. Trong cuốn "How Rich People Think" (Người giàu suy nghĩ thế nào), ông đã nêu lên những khác biệt trong tầm nhìn của người giàu với số đông còn lại.

1. Người giàu tin rằng giàu có là quyền cơ bản


...trong khi người bình thường lại nghĩ giàu có là một đặc ân và chỉ có số ít may mắn mới có được.

Người giàu cho rằng họ có quyền trở nên giàu có khi tạo ra nhiều giá trị cho người khác. Điều này chính là động lực để họ tiếp tục làm việc nhằm mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người.

2. Người giàu tin rằng khởi nghiệp là cách nhanh nhất để kiếm tiền

...trong khi người bình thường lại nghĩ khởi nghiệp thật rủi ro.

Sự thật là làm công ăn lương cũng chẳng hề an toàn hơn làm kinh doanh. Doanh nhân luôn có thể chủ động nắm bắt cơ hội và tăng lợi nhuận. Tất nhiên rủi ro là không thể tránh khỏi, nhưng điều đó không làm họ chùn bước.

Trong khi người giàu làm kinh doanh và hưởng lợi nhuận từ đó, người bình thường chỉ trông chờ vào khoản tiền lương ổn định và bỏ lỡ những cơ hội kiếm nhiều hơn. Số đông mọi người chỉ muốn đảm bảo cho mình một cuộc sống bình thường với mức lương khiêm tốn.

3. Người giàu tin rằng họ giàu là vì hiểu biết nhiều


...trong khi người bình thường lại nghĩ người giàu là người thông minh.

Nếu chìa khóa làm giàu là đạt điểm cao ở trường, thủ khoa đại học nào cũng sẽ trở thành triệu phú. Để kiếm tiền, bạn cần sự nhanh nhạy khôn khéo chứ không phải khả năng nhớ siêu phàm và đi thi điểm cao.

4. Người giàu tin rằng làm giàu luôn cần đồng đội

… trong khi người bình thường lại nghĩ làm giàu là nỗ lực cá nhân.

Người thành công luôn tập trung vào việc tìm ra những cộng sự thích hợp để cùng hiện thực hóa ý tưởng của mình. Những thành tựu vĩ đại nhất luôn được tạo nên từ công sức và trí tuệ của nhiều người. Bởi vậy, các mối quan hệ thường có ảnh hưởng tới sự nghiệp của bạn nhiều hơn bạn nghĩ.

5. Người giàu tin rằng kiếm tiền thật đơn giản


...trong khi người bình thường lại nghĩ nó rất phức tạp.

Số đông luôn nghĩ người giàu là những người thông minh hơn, may mắn hơn và được ăn học nhiều hơn. Tất nhiên là điều đó hoàn toàn sai.

Người giàu hiểu rằng tiền sinh ra từ ý tưởng và giải pháp. Giải pháp càng hiệu quả, tiền thu về càng nhiều. Kiếm tiền tuy không dễ, nhưng lại vô cùng đơn giản. Tư tưởng rằng làm giàu thật phức tạp đã lấy đi động lực cố gắng của nhiều người.

6. Người giàu tin rằng tiền kiếm được nhờ đầu óc

… trong khi người bình thường lại tin rằng tiền kiếm được nhờ sức lực và thời gian, và cách duy nhất để kiếm nhiều tiền hơn là làm việc nhiều hơn.

Người giàu hiểu sáng tạo là kỹ năng đắt giá nhất. Rèn luyện trí óc để tìm ra giải pháp cho những vấn đề khó khăn chính là bí quyết để kiếm nhiều tiền.

7. Người giàu tin rằng tiền bạc cho họ tự do

...trong khi người bình thường nghĩ tiền bạc đang kiểm soát họ.

Người giàu nhìn nhận tiền bạc như một công cụ hữu hiệu mở ra nhiều cơ hội cho bản thân và gia đình. Ngược lại, người bình thường lại coi tiền bạc là một gánh nặng và tìm cách phủ nhận tầm quan trọng của nó.

8. Người giàu tin rằng làm việc là vì đam mê


...trong khi người bình thường lại nghĩ làm việc là vì tiền.

Người giàu luôn hiểu rằng làm việc vì tiền là chiến thuật tồi tệ nhất. Đừng chọn công việc cho bạn mức lương cao nhất, mà hãy tìm một công việc cho bạn niềm hứng thú vô tận và dành thật nhiều tâm huyết vào đó để trở thành người xuất sắc nhất. Khi ấy, tiền sẽ tự tìm đến bạn.
VnExpress

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dấu lặng cuối tuần: NÀNG KIỀU THỜI nay:




Thiếu nữ xinh đẹp 15 tuổi “vượt rào” 
cưới chồng Trung Quốc 

Báo Gia Đình
Ngày 1 Tháng 6, 2017 | 11:23 AM 

Cô gái 15 tuổi có ngoại hình xinh đẹp tổ chức đám cưới với 1 thanh niên người Trung Quốc khiến người dân địa phương xôn xao. 

Hai ngày qua, trên các diễn đàn mạng xã hội facebook xôn xao câu chuyện 1 cô gái trẻ xinh đẹp mới chỉ 15 tuổi đã tổ chức hôn lễ với 1 nam thanh niên người Trung Quốc.

Chỉ trong vòng ít giờ, khi câu chuyện trên được đăng tải đã có hàng nghìn bình luận, hàng trăm lượt chia sẻ về câu chuyện trên. Trong đó, nhiều người tỏ ra lo lắng cho cô gái trẻ lấy chồng xa nhà khi tuổi đời còn quá trẻ.

Cô gái 15 tuổi tổ chức đám cưới khiến nhiều người giật mình. Ảnh: Beat

Qua tìm hiểu của PV Báo Gia đình & Xã hội, câu chuyện trên xảy ra ở địa bàn xã Huy Hạ, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.

Trao đổi với chúng tôi vào sáng 1/6, lãnh đạo UBND xã Huy Hạ xác nhận sự việc và cho biết, cô gái trẻ lấy chồng người nước ngoài ngày 31/5 tên là Đinh Thị Y.

Ngay sau khi nắm được thông tin về đám cưới này, chính quyền địa phương đã cử cán bộ hộ tịch, hộ khẩu cùng với công an xã xuống gia đình Y. để kiểm tra. Qua quá trình kiểm tra, xác minh
giấy khai sinh, hộ khẩu thì Đinh Thị Y. đúng là mới chỉ có 15 tuổi.

Chú rể là một thanh niên Trung Quốc.

Giải thích về việc tại sao một cô gái mới chỉ có 15 tuổi lại có thể tổ chức 1 lễ cưới linh đình với người nước ngoài mà không bị chính quyền địa phương ngăn cấm, vị lãnh đạo xã Huy Hạ cho hay, trước khi tổ chức đám cưới cho Đinh Thị Y., gia đình này đã không hề xin chính quyền địa phương bất kỳ thủ tục gì nên lãnh đạo xã không nắm được.

Không chỉ thế, gia đình Y. lại sinh sống trong bản, cách xa trung tâm xã và ngày hôm qua (31/5), khi gia đình tổ chức “cưới chui” cho Y. đã không thông báo địa phương. Đám cưới cũng chỉ diễn ra trong vòng khoảng 3 tiếng nên xã không nắm được.

Nhiều người lo lắng cho tương lai của cô gái trẻ.

“Khi tổ chức lễ cưới, không ai biết cháu Y. chưa đủ tuổi. Vào khoảng 21h đêm qua (31/5), chính quyền xã mới nhận được thông tin và cho kiểm tra. Ngay sáng 1/6, lãnh đạo xã đã tiếp tục cử đoàn công tác xuống làm việc với gia đình cháu Y”, vị lãnh đạo xã cho biết.

Theo lời người dân địa phương, xuất phát của đám cưới này do gia đình hoàn cảnh gia đình cháu Y. khó khăn nên cháu đã đi làm thuê cho 1 nhà máy của người Trung Quốc đóng trên địa bàn Hưng Yên.

Đám cưới diễn ra chóng vánh khiến chính quyền địa phương biết đến can thiệp kịp thời.

Khi làm công nhân ở đây, cháu Y. đã xin ở luôn tại nhà máy. Trong quá trình sinh sống ở đây, con trai của ông chủ nhà máy này và cháu Y. đã có tình cảm với nhau. Bất ngờ họ tổ chức đám cưới vào ngày 31/5 vừa qua.

Lãnh đạo UBND xã Huy Hạ cũng cho hay, sau khi làm việc với gia đình cháu Đinh Thị Y., chiều nay (1/6), chính quyền địa phương sẽ có kết luận chính thức về việc xử phạt hành chính.

Nhật Tân
Một số lời bình:

Tuyến Phạm 15 tuổi mà bụng to như vầy; chính quyền nhớ chỉ phạt hành chính thôi nhá
Nguyễn Dũng Dân Quốc qua mà anh nào dám đụng
Van Nguyen Tội vị thành niên.
Viet Nguyen Kkk chấp nhận lấy thằng DOw đúng là phí đời
Tuyến Phạm Nhà cô ấy nghèo, còn anh ấy thì có thứ cô ấy muốn
Tony Long Nàng Kiều thời cs !
Đoàn Mạnh Tiến 

Nghèo nó hèn mọn thế đấy. Lấy cái thằng Tàu nhin giống thằng điên quá. Rực rỡ
Vu Doan Rồi xong đời em gái này!
Alex Phan Cu Tàu mắc bệnh 'Down' , mk chắc chắn !
Lê Văn Lượng Việt Nam là gái Thúy Kiều. Mỹ đi Nga bỏ Tàu liền xỏ vô
Mac Văn Trang Nó phá luật Vn à? Cha mẹ cô bé và Chính quyền vào hùa bán cô bé này cho trai Tàu, bất chấp pháp luật à? Loạn!  

Thảo Nguyễn Sao không có thông tin tuổi của "chú rể"? Có phải là cưới giùm không?
Ng Kg Cơ quan thực thi pháp luật địa phương có thấy sai phạm pháp luật trong vụ này ko hay đang bận đi dự đám cưới này vậy nhỉ?
Trang Bui Thi Thuy Nhìn thằng tàu xấu trai thiệt..


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Kinh doanh golf: 'Đút túi'... 1 tỷ/ngày


01/06/2017 Golf là môn thể thao được “đóng khung” dành riêng cho giới nhà giàu. Đầu tư, kinh doanh bộ môn này chắc chắn chi phí không nhỏ, nhưng các chủ sân sau đó, hàng ngày kiếm được bộn tiền. Tuy đã có thu nhập khá lớn từ phí sân chơi vào cuối tuần nhưng các chủ đầu tư sân golf còn có một nguồn thu nhập khá lớn khác đến từ việc kinh doanh thẻ hội viên, mà mỗi thẻ bán ra có thể lên tới 1-2 tỷ đồng.

Chơi golf vào ngày thường khoảng1,5 triệu đồng/người,
 giá cuối tuần từ 2-3 triệu đồng/người
Cuối tuần, “hốt bạc”
Xuất hiện trên sân golf phần lớn là các doanh nhân. Ở đây, họ không chỉ được thu được những lợi ích về tinh thần, sức khỏe mà có khi còn có thêm nhiều mối quan hệ, từ đó thu được những lợi ích khó đong đếm về vật chất. Vì thế, câu chuyện phí dịch vụ trên sân nhiều khi không phải là chuyện lớn đối với các golf thủ.

Với đặc thù của đối tượng và thời gian chơi nên hầu như sân golf nào cũng có bảng phân chia giá thời điểm chơi vào ngày thường và cuối tuần phục vụ golf thủ. Theo những bảng báo giá hiện diện trên các website của các sân golf, giá cuối tuần và giá ngày thường chênh lệch lên tới... 200%. Thậm chí, có những sân golf bán loại thẻ một năm không có mục nào ưu tiên cho người chơi vào ngày cuối tuần. Điều này đồng nghĩa với việc, dù có là hội viên, vào những ngày cuối tuần, người chơi cũng được coi như khách vãng lai, phải trả chi phí đắt gần gấp đôi so với hội viên.

Cá biệt có những sân báo giá theo từng ngày, bắt đầu từ thứ 2, có nơi còn đề biển giá theo từng buổi chơi, sáng, trưa, chiều mỗi ngày - đều có mức giá khác nhau. Trong đó giá dành cho khách khác, cho hội viên các cấp cũng khác.


Ví dụ ở sân Đồng Mô (Hà Nội), cứ mỗi ngày sau thứ 2 sẽ cộng thêm 200.000 đồng tiền phí chơi; do vậy, đến ngày cuối tuần, giá chơi các loại hố đã tăng thêm khoảng 70 - 80% so với ngày đầu tuần.

Ngoài ra, ở tất cả các sân, ngoài tiền phí sân chơi (thường là trên 1 triệu vào ngày thường và khoảng từ 2-4 triệu vào cuối tuần, tùy từng sân), khách chơi golf thường phải trả thêm phí caddie và phí đặt caddie, có nơi còn bắt buộc khách phải thuê xe di chuyển của sân khi chơi ở những khu vực quy định (giá thường là 500.000 đồng/xe/buổi). Giá phí cho caddie (nhân viên phục vụ trên sân) cũng chênh lệch nhau khá nhiều, từ 300.000 - 900.000 đồng.

Cụ thể, ở miền Bắc, giá sân trung bình chơi vào ngày thường ở Đại Lải, Chí Linh, Long Biên… vào khoảng 1.700.000 đồng/lần chơi; thấp hơn một chút thì có sân Asean (Thạch Thất, Hà Nội), Flamengo (Vĩnh Phúc) rơi vào khoảng 800-850.000/lần chơi. Cao cấp hơn (với giá dao động trên 2 triệu/lần) là FLC Sầm Sơn, Phoenix (ở Hòa Bình), Sky Lake (Chương Mỹ, Hà Nội), BRG Kings (giới chơi golf vẫn quen gọi là sân Đồng Mô, ở thị xã Sơn Tây, Hà Nội) có giá 3.300.000 đồng/lần chơi.

Cũng theo bảng tính này, vào ngày cuối tuần, giá sân trung bình rơi vào khoảng 2.500.000 đồng/lần chơi; cao cấp hơn sẽ ở mức tiệm cận 3.000.000 đồng/lần chơi và cao cấp nhất sẽ lên tới 4.400.000/lần chơi (sân Đồng Mô). Ở miền Trung, giá chơi golf dao động cũng lớn như miền Bắc và tùy theo việc golf thủ có thẻ hội viên hay không. Cụ thể, giá dành cho khách dao động từ 1.300.000 đồng/lần chơi (sân Cửa Lò) đến 2.900.000 đồng/lần chơi (sân Đà Nẵng) vào ngày trong tuần, cuối tuần sẽ từ 1.800.000 - 4.300.000/lần chơi. Giá cả các sân golf ở miền Nam không chênh lệch quá nhiều, lại khá thấp so với miền Bắc, chỉ ở mức từ 1.000.000 - 1.800.000 đồng/lần chơi dành cho khách chơi trong những ngày trong tuần; ngày cuối tuần từ 1,6 - 2,8 triệu.

Cao cấp như sân golf Long Thành cũng chỉ ở mức 2,9 triệu dành cho khách chơi cuối tuần, 2,2 triệu dành cho hội viên chơi ở sân 36 lỗ (sân có mức giá cao nhất). Tuy nhiên, sân Bluss Hồ Tràm (Bà Rịa Vũng Tàu) lại có giá vượt lên khá cao so với mức chơi trung bình ở miền Nam. Đặc biệt, sân golf này không công khai cụ thể giá trên website nhưng theo nhiều nguồn tin, giá với khách vãng lai chơi ở Hồ Tràm luôn ở mức hơn 4 triệu/lần; còn giá hội viên thì sẽ tùy từng trường hợp, không có giá cố định.

Có khi “đút túi”... 1 tỷ/ngày

Với giá cả và chi phí nêu ở trên, nhiều tính toán cho thấy, với mỗi một người chơi golf, chi phí trung bình cho một năm có thể lên tới 200 triệu đồng. Một chuyên gia chuyên huấn luyện cho các golf thủ cho biết, giá chơi golf ở thế giới không đắt như ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo vị chuyên gia này, hiện Việt Nam đang có khá nhiều sân tập với mức giá khá hợp lý. Và vị này nhấn mạnh, Việt Nam nên xây dựng nhiều sân golf công cộng để phát triển phong trào hơn là đầu tư những sân golf riêng với mức giá luôn cao “ngất ngưởng”.

Theo tiết lộ của một nhân viên chuyên tháp tùng một giám đốc đến các sân chơi golf thì có những ngày cuối tuần, một sân golf có thể đón khoảng 500 - 700 golf thủ cùng chơi, có thời điểm không thể đặt được sân do quá tải.

Như vậy, nếu tính theo ngày, trung bình một ngày một trận, giá ngày thường dao động khoảng 1,5 triệu/người, giá cuối tuần trung bình khoảng 2-3 triệu/trận/golfer, thì số thu nhập mà những ông chủ sân golf thu được có thể lên tới 1 tỷ đồng/ngày. Ngoài ra, doanh thu từ các dịch vụ đi kèm như nhà hàng, khách sạn, bán dụng cụ và quần áo chơi golf..., sẽ góp cho chủ đầu tư một lượng thu nhập không nhỏ.

Tuy đã có thu nhập khá lớn từ phí sân chơi vào cuối tuần nhưng các chủ đầu tư sân golf còn có một nguồn thu nhập khá lớn khác đến từ việc kinh doanh thẻ hội viên, mà mỗi thẻ bán ra có thể lên tới 1-2 tỷ đồng.

(Theo Pháp luật Việt Nam)

http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/thi-truong/kinh-doanh-golf-dut-tui-1-ty-ngay-376021.html


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chiêu thức thoát hiểm cao tay của TT Nguyễn Xuân Phúc


Thủ tướng Phúc không thèm khoác cái bị ăn mày vay nợ truyền kiếp của những người tiền nhiệm khi sang Hoa Kỳ. Ông làm ngược lại tất cả: Ông đến với Mỹ như một đại gia mang theo các Hợp đồng mua hàng hơn chục tỷ đô la. Đó là tiền mà các nhóm lợi ích đang lăm le móc nối với QH để tăng thuế lấy tiền từ nhân dân để làm ăn và chia chác. Đó là tiền của các đai gia. Việc lấy tiền hơn 10 tỷ từ túi đại gia làm món quà diện kiến TT Trum, một doanh nhân thực dụng, cũng là một chiêu thức cao tay và lịch lãm. Các ĐBQH thay mặt nhân dân hãy có tầm nghĩ tầm chơi như Thủ tướng, đừng có ấn nút thông qua thuế môi trường thực chất là trò trấn lột đê tiện của những con bạc cháy túi, sẵn sàng ném vào chiếu bạc quyền lực cả gia đình, hàng xóm và dân tộc, nhân dân.
Chuyến đi của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sang Mỹ được đánh giá là thành công ngoài mong đợi. Nhưng thành công chính không phải là tái cam kết những quan điểm về đối tác toàn diện mà những người tiền nhiệm đã ký với Hoa Kỳ mà chính là những hợp đồng mua những gói hàng khủng lên tới hàng chục tỷ đô-la. 
Các lãnh đạo tiền nhiệm quen vác rá đi xin viện trợ, ODA, với bộ dạng khổ sở gãi đầu gãi tai, giả khổ giả thương dân và vì tương lai con cháu để đi ăn mày, đi vay tiền nướng vào những canh bạc, những vụ trộm cắp tập thể vô tiền khoáng hậu của kẻ tham quyền, lạm quyền và độc quyền từ A đến Z. Thế chấp cho những cuộc vay nợ xuyên thế kỷ đó là những thế chấp về quan điểm và thể chế. Với nơi này kẻ vay nợ xin thế chấp bằng lòng trung thành giang hồ, sống chết với đám cướp biển, cướp đất của dân tộc và nhân loại. Vơi nơi kia, kẻ vay nợ đánh bạc trên lưng nhân dân lại thế chấp bằng những lời hứa suông trả lại quyền sống cho nhân dân mình theo nguyện vọng văn minh trong luật chơi của những người cho vay.

Thủ tướng Phúc không thèm khoác cái bị ăn mày vay nợ truyền kiếp của những người tiền nhiệm khi sang Hoa Kỳ. Ông làm ngược lại tất cả: Ông đến với Mỹ như một đại gia mang theo các Hợp đồng mua hàng hơn chục tỷ đô la. Đó không phải là tiền móc túi của dân mà các nhóm lợi ích đang lăm le móc nối với QH để tăng thuế lấy tiền từ nhân dân để làm ăn và chia chác. Đó là tiền của các đai gia. Cho dù các đại gia này là sân sau của các quan hay là đại gia có thực lực có tâm, có tầm thì việc lấy tiền hơn 10 tỷ từ túi đại gia làm món quà diện kiến TT Trum, một doanh nhân thực dụng, cũng là một chiêu thức cao tay và lịch lãm.

Tổ tiên đã dạy " Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn" , hay nói như các học giả Mỹ nghiên cứu về lãnh đạo là "Phụng sự để trở thành người dẫn dắt". Dùng quyền lực tay trắng để thế chấp, kết nối các nguồn lực xã hội từ những doanh nhân có tầm, có lực, biến thành thiện chí quốc gia, thành hình ảnh một đối tác tiềm năng chịu chơi, chơi đẹp là cách đến Hoa Kỳ đầy tự tin mạnh mẽ của TT Nguyễn Xuân Phúc. Đó là cách " Tay không bắt giặc", " Lấy mỡ nó rán nó" quen thuộc của nhân dân VN.

Hơn 10 tỷ đô la để tạo ra hình ảnh đại gia tiềm năng, khách hàng tiềm năng không chỉ cứu chế độ đang ngắc ngoải vì hết cả tiền, cả lòng dân, trong khi nợ công cao như núi, mà còn là cách mở ra thêm nhiều cơ hội làm ăn với Hoa Kỳ thời Trump làm Tổng thống. Sẽ có những người cho ý tưởng đó của BCT, hay TBT như đã cướp công dìm hàng của CT Chung trong vụ Đồng Tâm biếu không cho lãnh đạo cấp trên.

Nhưng tôi không tin rằng những người lãnh đạo vô cảm, ích kỷ, phớt lờ trước cuộc sống cùng khổ của các dân oan nạn nhân Formosa, vừa đàm phán trên lưng họ, vừa dây dưa tiền bồi thường, vừa đe doạ dàn áp và vu cáo cho dân, lăm le đánh thuế môi trường móc túi dân - lại có được ý tưởng "đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn" và ý tưởng thể hiện tư cách đại gia trong lúc túi hết sạch tiền như vậy. Có thể ý tưởng tạo hình ảnh ngược đó là tư vấn từ Việt Kiều hay từ các trợ lý, chuyên gia trong ngoài nước.

Xin cám ơn những con người thầm lặng đã chung tay kiến tạo nên chuyến đi thành công vớt vát một phần tư thế của Việt Nam.. Các ĐBQH thay mặt nhân dân hãy có tầm nghĩ tầm chơi như Thủ tướng, đừng có ấn nút thông qua thuế môi trường thực chất là trò trấn lột đê tiện của những con bạc cháy túi, sẵn sàng ném vào chiếu bạc quyền lực cả gia đình, hàng xóm và dân tộc, nhân dân.

Đỗ Minh Tuấn
(FB Đỗ Minh Tuấn)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGUYỄN VĂN THỌ, NHỊP CẦU CỦA ĐẢNG NƠI XỨ NGƯỜI


(Các bác Long Beo - Đỗ Đại Gia không tìm thấy trên google, hai bài Đất nước.. và bài về bác Thọ muối. Tôi treo lại đây)

(Mục chân dung nhà văn- Đỗ Trường) 
Trong hình ảnh có thể có: 2 người

Có lẽ, không nơi đâu có sự hình thành hai luồng văn học thật rõ ràng như cộng đồng người Việt ở Đức. Sự khác biệt ấy, không chỉ về tư tưởng, mà còn về cả phương thức sáng tác. Hố ngăn đó, bởi nhiều nguyên nhân, nhưng lịch sử là yếu tố chính tạo nên hai dòng chảy này. Nếu những sáng tác của người Việt (thuyền nhân) vùng phía Tây là sự tiếp nối của văn học miền Nam, thì những sáng tác của người Việt ở miền Đông nước Đức là cánh tay nối dài của nền văn học bác Thỉnh (Hữu Thỉnh), bác Thiều (Nguyễn Quang Thiều) dưới sự dẫn dắt, chỉ đường của đồng chí Đinh Thế Huynh.
Trong bối cảnh ấy, từ trong cộng đồng đã xuất hiện một số cây viết mới. Tuy ở vị thế cũng như tư tưởng khác nhau, nhưng nó đã nói lên được nhiều điều về lẽ sống, con người. Và có thể nói, Nguyễn Văn Thọ là một nhà văn điển hình như vậy. Dù sống ở đất nước tư bản đang giãy chết đã khá lâu, nhưng ông là một trong những tác giả sung sức ở miền Đông nước Đức vẫn kiên định rọi soi tính Đảng vào trong những tác phẩm của mình.
* Hành trình đến với Quyên
Nhà văn Nguyễn Văn Thọ sinh năm 1948 tại Thái Bình, trong một gia đình có cha là họa sỹ khá nổi tiếng. Ông có những năm tháng dài trong quân ngũ. Thời gian này, ông cũng tập tành viết lách, nhưng không để lại dấu ấn. Có lẽ do tài năng, hoặc chưa gặp thời, gặp vận chăng? Sau chiến tranh trở về với nghề muối và mộng văn chương dường như đã tắt ngấm trong ông. Trong khung cảnh đói khát, bần cùng tịt lối không riêng Nguyễn Văn Thọ, mà của chung toàn xã hội đương thời. Là một Đảng viên trung thành, cần mẫn, do vậy ông đã được Đảng giải thoát bằng con đường xuất khẩu lao động tại Đông Đức, với tư cách đội trưởng.
Mấy năm sau bức tường Berlin sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Nga và Đông Âu tan rã, đe dọa nghiêm trọng đến chế độ nơi quê nhà. Những biến động ấy, như những nhát búa gõ vào tâm hồn, làm Nguyễn Văn Thọ bừng tỉnh. Và dường như ông cảm thấy phải có trách nhiệm trước sự tồn vong của chế độ. Vì vậy, Nguyễn Văn Thọ lại tìm đến văn chương, tuyên truyền, gieo niềm tin của Đảng đến đồng bào, không chỉ nơi hải ngoại. Thời kỳ này, ông đã viết khá nhiều truyện ngắn và thơ chủ yếu về dĩ vãng chiến tranh với anh hùng chiến sỹ thi đua, người tốt việc tốt... nhưng vẫn chưa gây được dư luận. Và sau này, nếu không có cặp mắt xanh của Đảng, đưa về với bác Thỉnh, bác Thiều, thì có lẽ, ông vẫn còn lẩn quất đâu đó, chứ không phổng phao, tên tuổi như bây giờ... Qủa thực, văn chương cũng có số phận như con người vậy.
Và từ đây, con đường văn thơ của ông phát tiết, đi đúng đường rày. Tiểu thuyết Quyên là một minh chứng hùng hồn nhất. Sau khi nhận giải thưởng của hội nhà văn, Quyên đã bế thẳng Nguyễn Văn Thọ xông vào lãnh địa điện ảnh, tuyên truyền. Làm ông sướng đến phát khóc.
Vâng! Nhà văn Nguyễn Văn Thọ là người dễ xúc động lắm, khi nghĩ về chiến tranh, nghĩ đến tình thương yêu của Đảng luôn làm ông sụt sùi rơi lệ. Thật chẳng ngoa tẹo nào, có người bảo, cứ đà này, ông sẽ trở thành nhà “khóc học“ chứ chẳng chơi.
Chúng ta hãy đọc lại đoạn trích lời ngợi ca của nhà văn Nguyễn Văn Thọ, nhân lần thứ 80 ngày sinh của Đảng, để thấy rõ tình yêu Đảng trong ông dạt dào biết nhường nào: “...Lịch sử 80 năm Đảng Cộng sản Việt Nam là lịch sử hai lần thiên tài. Một đội quân ban đầu chỉ có gươm, mác, súng kíp và tầm vông, mà hai lần đánh thắng hai đế quốc lớn nhất thế giới: Pháp và Mỹ, hoàn thành sứ mạng, thống nhất giang sơn về một mối. Ở khắp nơi trên thế giới người ta đã biết đến Việt Nam, một dân tộc anh hùng bất khuất và điều ấy một lần mang lại niềm tự hào cho người Việt Nam. Lần thứ hai, khi phe xã hội chủ nghĩa tan rã, nhiều quốc gia tưởng vững mạnh đã sụp đổ, song nước Việt Nam vẫn đứng vững, lại tìm ra giải pháp đổi mới toàn diện để vượt qua những giai đoạn đau khổ nhất sau 4 cuộc chiến tranh, đưa đất nước Việt Nam từ một nước đói nghèo, trở thành một quốc gia có vị thế đáng nể trên thế giới..."
Có nhiều ý kiến và dư luận cho rằng, diễn văn ngợi ca trên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ là thẻ thông hành đưa Quyên đến với điện ảnh một cách tưng bừng, rầm rộ, tốn kém như vậy. Tuy nhiên, tôi nghĩ khác, đường đường là một nhà văn, đời nào bác Thọ lại làm một cái công việc hèn mạt, bẩn thỉu ấy. Nhưng hôm rồi, có ông bạn dí màn hình Ifon vào mặt bảo: Ông không nhìn thấy bác Thọ Muối đang nghiêng mình, suýt bật khóc, trịnh trọng cảm ơn ông Trương Xuân Thanh, trưởng lãnh sự quán sứ quán VN tại Franfurt, người đã đưa Quyên đến với điện ảnh sao?
Điều này, làm tôi phân vân tự hỏi, lẽ nào những ý kiến và dư luận trên là sự thật? Bởi đồng chí Trương Xuân Thanh là Đảng, là chính phủ Việt Nam ở Đức.
Nhưng thôi, điều này không còn quan trọng nữa. Bởi hiện tại, dường như nhà văn Nguyễn Văn Thọ đã trở về Việt Nam được gần Đảng, gần các đồng chí và ôm Quyên của mình. Dù ông vẫn hưởng tiền trợ cấp xã hội hay hưu trí (?) của thằng tư bản được cho là kẻ thù của giai cấp (đỏ).
Trước đây, tôi đã đọc một số truyện ngắn của Nguyễn Văn Thọ, quả thực, văn và tư tưởng của ông không phải là thứ tôi thích. Thời gian sau, tôi đọc Quyên, nhưng đành phải dừng lại chương thứ 7 hoặc 8 gì đó. Gần đây, độp một phát, lại thấy rầm rộ Werbung quảng cáo Quyên và bác Thọ đã ẵm nhau lên phim. Với những lời lẽ đao to búa lớn này, làm cho tôi giật mình. Có lẽ, trước đây mình đã sai lầm, để lọt Quyên chăng? Tôi lọ mọ tìm Quyên và bác Thọ để đọc. Đọc xong, tôi lại thấy tiếc, bởi, giá như đừng đọc hết cuốn sách, có lẽ sẽ còn tia hy vọng hay một chút gì đó còn đọng lại, nhưng đọc xong, thấy trống rỗng, trôi tuột đâu mất rồi.
Hôm chiếu Quyên tuyên truyền trên Berlin, tôi gọi điện hỏi nhà văn Võ Thị Hảo, có đi xem phim không? Chị bảo, có vé mời, nhưng nhân cách của Nguyễn Văn Thọ không đáng để xem, nên chị không đi. Rồi chị xuống giọng: Đỗ Trường cũng đi xem à! Tôi trả lời, không có thời gian, hơn nữa truyện què cụt, có lẽ, phim còn cơm nguội hơn!
Phải nói, tôi là người chưa bao giờ tham gia hội đoàn hay hội họp, có chăng ngày lễ tết, anh em bạn bè riêng tư gọi đến đàn hát cho vui vậy thôi. Nên tôi không va chạm, ít để ý đến những sinh hoạt cộng đồng. Nhưng không hiểu sao, chẳng riêng gì ở Đức, mà ở Ba Lan hay Tiệp… cũng vậy, trong bữa nhậu, tiệc tùng cứ nhắc đến tên nhà văn Nguyễn Văn Thọ, y rằng nghe được những lời bàn cãi. Hôm 28-6 vừa rồi, sinh nhật ông bạn ở câu lạc bộ 100 Erfurt. Bia, rượu vào, người đã tưng tửng, tôi cầm đàn hát ông ổng… rồi lôi cả mấy bài thơ con cóc của mình ra đọc. Có ông bạn cũng ngân ngất, có vẻ khoái, kéo thốc tôi ra, giới thiệu với một bác già, có lẽ đến bảy bó (70). Ông bác nhìn tôi gằm gằm từ đầu đến chân, cảm giác còn kinh hơn cả gặp an ninh VN, gằn giọng như định tiu nhau:
- Các ông viết gì, làm gì cũng được, đừng như Thọ Muối thì buồn lắm đấy!
*Quyên, một tác phẩm què quặt, nặng tính tuyên truyền.
Một tác phẩm văn học nghệ thuật dù có sử dụng bất cứ hình thức, thể loại, vòng vo trừu tượng, siêu hình hay gì gì... đi chăng nữa, rốt cuộc đối tượng vẫn phải là con người gắn liền với xã hội đương thời. Nếu tác phẩm ấy, không đi đến tận cùng của sự thật một cách trung thực, thì nó chỉ là những trang viết què cụt, bệnh hoạn.
Thật vậy, khi đọc Quyên của Nguyễn Văn Thọ, ta thấy thiếu hẳn bối cảnh xã hội Việt Nam đương thời. Và những lý giải, tại sao rất nhiều thành phần trí thức như Dũng, như Quyên cũng như dòng người Việt phải vượt rừng trốn chạy, một cách rất mơ hồ. Thiết nghĩ, việc lấy 40 năm chiến tranh để che đậy, biện giải cho sự đói nghèo, dẫn đến những cuộc di dân của tác giả là đưa tuyên truyền chính trị một cách gượng gạo vào tiểu thuyết. Vâng! Dù tác giả có cố tình che đậy, thì cho đến hôm nay, tức là sau hai mươi năm, sâu bọ vẫn tiếp tục sinh sôi, nảy nở như chính ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang đã nói. Sự thối nát, cũng như hiện tại và tương lai đang đi vào ngõ cụt đó mới chính là nguyên nhân trốn chạy của những Thuyền nhân, Tường nhân, rồi đến Dũng, đến Quyên... là những “Rừng nhân“. Đoạn trích dưới đây, cho ta thấy được sự tuyên truyền nhàm chán ấy: “Vâng, chúng tôi xin ghi nhận! Xin ông (bà) kiên trì chờ đợi phán xét của Tòa án liên bang. Đó là câu nói cuối cùng, rất lịch sự, tràn trề hy vọng, dành cho mọi đối tượng tới từ một xứ sở gần 40 năm với 4 cuộc chiến đẫm máu, đang chuyển mình sang kinh tế thị trường với cả thành công và thất bại.
Như vậy, sở ngoại kiều, suy cho cùng, người ta đều biết tỏng thực chất xin cư trú của người Việt đều là vấn đề cơm áo gạo tiền, chứ chẳng có nguyên nhân nào khác. Họ cũng biết tỏng, sự mong muốn thoát khỏi cảnh đối nghèo đã đẩy bao người Việt tới đây bằng mọi giá đắt, với nhiều con đường khác nhau “(Quyên-nguồn watt.pad.com)
Sự trốn chạy của hàng triệu người sau 30-4-1975, và mấy chục ngàn người Việt từ Đông Âu, từ Việt Nam vượt tường, vượt rừng thoát sang Tây Âu sau năm1989, sách báo và một số nhà nghiên cứu trong nước gần đây cho rằng, đó là hiện tượng di dân. Một lời lý giải đậm tính ngụy biện, cả vú lấp miệng em, đánh tráo khái niệm một cách trắng trợn. Sự đánh tráo khái niệm này, phải chăng nhằm che đậy, xóa nhòa những sai lầm và tội ác của chế độ đã gây ra với chính những người anh em cùng chung giống nòi?
Đọc Quyên, ta có thể thấy, tuyên truyền không chỉ áp đặt trong tư tưởng, mà còn được cài đặt vào từng câu thoại của nhân vật. Vừa tới Đức, chưa biết tiếng, cũng như chưa chạm đến văn hóa và luật pháp nước sở tại, nhưng tác giả đã ấn vào miệng nhân vật Quyên một câu sặc mùi tuyên truyền giả tạo: “- Anh Kumar này. Anh Phi sẽ sống ra sao? Anh ấy vừa ra tù. Một người vừa ra tù, không họ hàng, không bạn thân, không vợ con... Ở nước Đức này, người có án thực khó mà có một cơ hội để có công ăn việc làm tử tế. Anh ấy đang cần chúng ta, như ngày nào em cần ai đó giúp đỡ. Ngày mai chúng ta tới thăm Phi, anh ạ.” ( Quyên- chương 10)
Vâng! Câu nói này, chắc chắn phải đảo ngược lại ở nơi lý lịch hóa con người như ở Việt Nam: Ở Việt Nam, người có án khó mà có một cơ hội để có công ăn việc làm tử tế. Có lẽ, ai đã từng sống ở Đức sẽ hiểu rõ, người Đức không lý lịch hóa con người và khái niệm lý lịch rất xa lạ với họ. Hết tù hết tội, hoàn toàn có cơ hội xin việc làm như những người bình thường khác. Tuy nhiên, người mới ra tù sẽ bị tạm cấm, làm chủ các nhà hàng, công ty, nhà máy trong một thời gian ngắn, luật pháp qui định rõ ràng. Sống và làm việc ở Đức đã 30 năm, chỉ một lần duy nhất tôi phải khai lý lịch, khi vào quốc tịch. Thật ra, lý lịch (Lebenlauf) ở Đức cũng chỉ khai sơ sơ vợ con, học vấn, nghề nghiệp. Tuyệt đối, không có mục cha mẹ, anh em họ hàng như ở Việt Nam. Sống và làm việc lâu năm ở Đức như nhà văn Nguyễn Văn Thọ hiển nhiên phải biết rõ điều này.
Có thể nói, khi viết Quyên, nhà văn Nguyễn Văn Thọ thiếu sự trải nghiệm, với sự quan sát hời hợt dẫn đến không có sự đồng nhất (logic), làm cho hình ảnh trở nên giả tạo. Ta có thể thấy nó ngay những dòng đầu cuốn sách, khi miêu tả Quyên bị hãm hiếp. Một người đàn bà 24 tuổi, trải qua nhiều ngày đói khát, rét mướt, vượt biên trốn chạy đến nỗi chiếc quần cũng trở nên cứng queo, thì dứt khoát mặt phải bạc đi, môi miệng thâm lại hôi hám, đùi, da phải tái choắt đi, nhất là trong hoàn cảnh sợ hãi đến tận cùng, khi bị hiếp dâm. Chứ làm sao mà thon thả, mịn màng, mơn mởn nõn nường, như tác giả miêu tả. Hơn nữa, một kẻ sống giữa rừng bẩn thỉu, lại mùa đông giá rét, củi đốt ám khói cả ngày, làm sao mà tóc nàng đổ xòa trên tấm ga trắng muốt, như trong khách sạn sang trọng bốn, năm sao vậy?
Vâng! Dù có tiểu thuyết hóa, thì những tình tiết, tâm lý, hành động cũng phải có tính logic của nó. Ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây để thấy rõ sự phi logic, thiếu trải nghiệm của tác giả:
“Cô gái vùng vẫy, giằng xé, cắn vào bàn tay thô ráp của gã khi áo ngoài, áo lót lần lượt bị giật tung. Chiếc quần Jeans, sau bao ngày lẩn lút, bươn lội từ Nga, trong rừng thẳm, tuyết dày, đẫm mùi mồ hôi và nước, trở nên cứng queo đến khó cởi vẫn bị lột phắt. Trên nệm, phơi ra cặp đùi trần đang độ thanh xuân, thon thả, mịn màng, mơn mởn nõn nường. Gã đổ người xuống.
Cô gái biết rõ con rắn đã trườn trên da thịt mình, từng centimet. Cô tiếp tục cố oằn lên, nghiêng mình, rãy, chéo đùi. ‘‘Đồ đĩ! Giạng chân ra!” Giọng khàn đanh, lạnh lùng cất lên và tiếp đó, một cái tạt tai giáng sượt phía trái mái tóc. Chiếc cặp nhựa màu nâu văng ra đập vào tường gỗ nghe khô khốc. Mớ tóc cắt ngang lưng, dầy, đen tuyền xõa tung, đổ xòa trên tấm ga trắng muốt. Gã dướn lên, thúc mạnh...” ( Quyên-chương 1, những dòng đầu cuốn sách)
Tôi không rõ, những giải thưởng của Hội nhà văn VN được chia đều cho những vùng miền hay do sự thẩm định yếu kém của hội đồng chấm giải. Hoặc vì những lý do khó nói sau tấm màn nhung, mà những năm gần đây, ta thấy những tác phẩm ẵm giải đều yếu kém về nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật. Tiểu thuyết Quyên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ là một trong những số đó.
Qủa thực, Quyên là cuốn tiểu thuyết có giọng văn khá đơn điệu, bởi cả cuốn sách khá dài, nhưng rất ít ngôn ngữ đối thoại ngắn gọn sinh động của nhân vật. Dẫu biết rằng cuốn sách này, được ra đời từ những truyện ngắn trước đó của ông, với những suy tưởng, độc thoại nội tâm, nhưng đưa ghép vào tiểu thuyết vẫn giữ lời kể của tác giả và từ ký ức của nhân vật. Sự rề rà đó làm cho người đọc có cảm giác mệt mỏi. Cũng từ lý do đó, khi đọc Quyên, chúng ta bắt gặp sự trùng lặp trong hành động, suy nghĩ của nhân vật, cũng như câu văn, đoạn văn thừa và tối nghĩa. Đoạn văn thừa câu, tối nghĩa dưới đây, chứng minh điều đó:
“Năm sắp hết. Sát Noel Quyên có tin vui. Cô nhận được giấy định cư chính thức. Tin ấy làm Kumar bất ngờ, tuy rằng trước đó nửa tháng, mẹ của Kumar gọi điện báo tin rằng, bà đã lo xong thủ tục, giấy tờ sang thăm một người họ hàng ở Anh và sẽ từ Anh sang Đức thăm con trai vào tháng sau” (Quyên -chương 11)
Tôi xin phép nhà văn Nguyễn Văn Thọ thử chữa lại đoạn văn trên. Câu đầu hoàn toàn thừa, có thể loại bỏ, bởi Noel ai cũng biết vào những ngày cuối năm. Từ Sát, ta có thể thay bằng tính từ Gần. Thay từ tuy rằng, bằng từ cùng với, bỏ đi một số từ thừa và đưa sự bất ngờ xuống dưới... Cả đoạn văn độc lập rất tối nghĩa này, có thể rõ ràng, sáng và sạch đẹp hơn chăng?:
“Gần Noel Quyên có tin vui. Cô nhận được giấy cư trú chính thức. Cùng với điện báo từ nửa tháng trước mẹ của Kumar đã lo xong thủ tục, giấy tờ sang thăm họ hàng ở Anh và sang Đức thăm con trai vào cuối tháng, tin này đã làm cho Kumar bất ngờ”.
Và nếu nói, một cuốn sách hay, tự đi bằng hai chân của mình, thì bác Thọ phải cõng Quyên đến thày thuốc Thỉnh, Thiều, để điều trị đôi chân què quặt của nó là vậy.
*Xa lánh cộng đồng, một sự bệnh hoạn trong tâm hồn Quyên
Có thể nói, tình dục đã xuyên suốt tiểu thuyết Quyên. Không biết, là người trải nghiệm hay có trí tưởng tượng một cách tuyệt vời, mà nhà văn Nguyễn Văn Thọ tả những pha tình dục rất thật và trần trụi đến như vậy. Thực ra, nói một cách văn hoa tình dục hay Sex là hương vị của tình yêu, nét đẹp văn hóa. Khi đưa vừa đủ vào tác phẩm văn học, nghệ thuật, nó như một thứ gia vị vậy. Nhưng gần đây, văn học cũng như điện ảnh, một số tác giả đã lạm dụng Sex để câu khách, câu người đọc, làm nó trở nên nhớp nháp, biến dạng.
Viết đến đây, chợt tôi nhớ lại một câu chuyện đã lâu, nhưng nó lại gần với đề tài sex, siếc này: Những hồ, bãi tắm tự nhiên ở Đức, hình như nơi nào cũng dành một khu cho những ai muốn tắm, phơi nắng trần truồng. Ngày mới sang, chúng tôi thấy mới nên khoái, rủ nhau ra hồ (FKK). Đến nơi chẳng thằng nào đủ dũng khí cởi quần áo, trần như nhộng giống những người xung quanh. Mặc nguyên quần áo thấy kỳ, nên chúng tôi giả vờ đến Imbiss mua bia, lai rai. Tắm chán, đói, các cô mười sáu, mười bảy, mảnh mai, thon thả đến các bà sồn sồn, tồng ngồng lên mua đồ ăn. Chà chà... trắng, vàng, hồng, rực cả một góc trời, nhìn như một bầy thiên nga đang hạ thế. Ấy vậy, chỉ một vài lần chúng tôi chán, không còn hứng thú ra bãi tắm nữa. Mùa hè năm 1988 có đoàn công tác của Bộ Nông Nghiệp, do thứ trưởng Nguyễn Thiện Luân và GS-TS Nguyễn Ngọc Kính dẫn đầu sang công tác, công teo gì đó, nhờ chúng tôi đưa đi. Có bác hăng lên, mang theo cả ống nhòm, đứng núp từ bụi cây xa “mục sở thị”. Đúng một lần như vậy, rồi không thấy bác nào nhắc, nhờ đưa đi bãi tắm tiên nữa. Từ đó, tôi rút ra một điều, những cảnh trần trụi, kịch đường tầu như vậy đã làm giảm mất sự tò mò, khám phá lâu dài. Hơn nữa, nó không thích hợp với nếp suy nghĩ, tâm hồn, văn hóa sinh hoạt của người Việt và những nước Á Châu, chịu ảnh hưởng lâu đời của Phật giáo, nho học.
Như vậy có thể thấy, do quá lạm dụng tình dục, nên Quyên luôn luôn được miêu tả trong những hoạt động sinh lý, hoặc nghĩ về tình dục, có rất ít những tình huống văn hóa để nhân vật này biểu lộ Việt tính của mình. Tuy nhiên, hai lần tác giả đưa ra tình huống văn hóa, thì Quyên đã làm người đọc thất vọng. Đó là hành động tụt quần trả ơn Phi bằng tình dục và đặc biệt hơn khi Quyên và Kumar đã thành một gia đình 8 năm. Khi mẹ Kumar từ Anh sang, Kumar đã bàn bạc, đưa Quyên tạm lánh vài ba ngày, để anh thuyết phục mẹ. Nhưng Quyên cương quyết từ chối, bộc lộ tính ích kỷ, nếu không muốn nói là phũ phàng, rồi dẫn con bỏ đi tìm Hùng. Việc để Quyên đột ngột đưa hài cốt Hùng về Việt Nam theo tôi là kiêng cưỡng, dẫn dắt, xử lý rất non tay của tác giả.
Do chưa thực trải nghiệm, nên nhà văn Nguyễn Văn Thọ viết về tị nạn và công việc liên quan đến công tác xã hội chưa được thuyết phục. Có thể nói, tất cả các trại tị nạn trên nước Đức ngoài những nhân viên xã hội, phiên dịch ra còn có khá nhiều các hội đoàn, hoặc cá nhân thiện nguyện giúp đỡ các đồng hương mới đến.
Điều này, tôi là người tị nạn đã trải nghiệm qua thực tế, từ trại Spandau Tây Berlin đến trại Ingelheim những ngày cuối năm 1989. Sau này, qua lại các trại người Việt tị nạn ở Halberstadt và Halle, tôi thấy, chỗ nào người tị nạn cũng nhận được sự giúp đỡ như vậy, bất kể người đó là ai và từ đâu đến.
Ta có thể thấy, người Việt thường tìm về, sống co cụm vào từng khu và tình người cùng hoàn cảnh xa quê hoàn toàn khác, xa lạ với những gì trên trang văn. Dẫu biết rằng, không đem cái thật của ngoài đời soi rọi vào tiểu thuyết. Nhưng bối cảnh hay hành động nhân vật trong tình huống cụ thể dứt khoát phải như thật.
Trong bối cảnh như vậy, nhưng tác giả đã cường điệu hóa, đẩy Quyên vào hoàn cảnh như tuyệt vọng, ngay trước cả những đồng hương của mình và luôn luôn có những suy nghĩ và hành động tách rời, lìa xa họ: “Cô phải đi thôi. Cô không nên nấn ná ở đây. Có thể tới Sở Ngoại kiều, trình bày thật hoàn cảnh của cô, để chuyển trại. Cách xa đây hai ba trăm cây, nghe nói có một trại nữa, heo hút trong một cánh rừng, ít người Việt Nam. Càng ít người Việt càng tốt. Cô nghĩ như thế rồi nhắm mắt đếm. Lát sau Quyên chìm trong giấc ngủ.“ (Quyên-chương 7)
Có thể nói, Nguyễn Văn Thọ đã miêu tả thành công không chỉ một nhân vật Quyên với những hoạt động tình dục và độc thoại nội tâm, dù trong bất kể hoàn cảnh nào. Nhưng ông đã thất bại về xây dựng nhân cách cũng như văn hóa ứng xử của Quyên.
Trên đây là những suy nghĩ chủ quan của cá nhân tôi về văn thơ, cũng như con người nhà văn Nguyễn Văn Thọ. Không biết đúng sai thế nào, nhưng gấp (cuốn) Quyên lại, dường như chỉ còn đọng trong tôi, một nhà Sex học, tình dục học tài ba Nguyễn Văn Thọ.
Leipzig ngày 10-7-2015
Đỗ Trường


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Năm, 1 tháng 6, 2017

Ý nghĩa của sự kiện Quảng trường Thiên An Môn

Nguồn: John Delury, “Tiananmen Square Revisited”, Project Syndicate, 20/05/2009.
Biên dịch: Nguyễn Thị Hồng Thư | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Việc xuất bản cuốn hồi ký bí mật đuợc ghi âm của nhà cải cách Đảng Cộng sản Trung Quốc thất thế Triệu Tử Dương, người đã nỗ lực “xóa bỏ căn bệnh của hệ thống kinh tế Trung Quốc từ gốc rễ” và qua đời trong lúc bị quản thúc tại gia vì những nỗ lực ấy, đang khơi lại cuộc tranh cãi về những di sản phức tạp của các cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989.
Thực sự, khi mà Trung Quốc đang phủ bóng lớn hơn bao giờ hết lên nền kinh tế thế giới thì thật đáng để nhớ lại rằng vào tháng 6 này của 20 năm trước, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã gần như sụp đổ. Làn sóng biểu tình tụ hợp tại Thiên An Môn năm đó đặt ra một nguy cơ mang tính sống còn đối với đất nước được dẫn dắt bởi Đảng Cộng sản này, nhà nước được sinh ra 40 năm trước đó bởi Mao Trạch Đông.
Nguy cơ đó đến từ 2 hướng: từ bên trong những thang bậc cao nhất của giới lãnh đạo Đảng, nơi mà những khác biệt tư tưởng về cải cách đã chia rẽ Bộ Chính trị, và từ những người dân thành thị, với sinh viên Bắc Kinh là những người tiên phong, vốn đứng lên trong một cuộc nổi dậy cởi mở và hòa bình để chống lại thẩm quyền của nhà nước.
Ngạc nhiên thay, Đảng bước ra khỏi cuộc khủng hoảng trong sự đoàn kết tập trung quanh tầm nhìn của Đặng Tiểu Bình về một “nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, và lấy lại tính chính danh trong mắt người dân thành thị thông qua việc thực hiện tầm nhìn đó. Đảng đã phục hồi sự thống nhất trên nền tảng của hội nhập toàn cầu, tăng trưởng theo định hướng thị trường, những thành tích đạt được mà không có sự can thiệp bởi “Nữ thần Dân chủ” của các sinh viên, nhưng đem lại lợi ích vật chất hữu hình cho các cư dân thành phố.
Không nghi ngờ gì khi mà quá trình phát triển đô thị, đầu tư, và tăng trưởng GDP đã tăng tốc trong suốt những năm 1990, nhưng đồng thời cũng làm gia tăng khoảng cách giữa những người thành thị “thắng cuộc” và người nông thôn “thua cuộc”. Năng lượng phản kháng vốn từng tiếp sức trong một thời gian ngắn cho sự kiện Quảng trường Thiên An Môn nay đã tiêu tan khỏi các thành phố và lan rộng ở nông thôn. Trong giai đoạn khởi đầu đầy hào hứng của các cuộc biểu tình đòi dân chủ năm 1989, có hơn 80.000 sinh viên diễu hành trên các đường phố Bắc Kinh yêu cầu chính quyền phải đáp ứng các nhu cầu của người dân nhiều hơn. Đến năm 2005, đã có hơn 80.000 vụ biểu tình đông người được báo cáo trên khắp cả nước, nhưng phần lớn lại không diễn ra ở các thành phố phồn thịnh vùng duyên hải, và chắc chắn là không phải ở các trường đại học tinh hoa của quốc gia.
Suốt 20 năm qua, những công nhân bị mất việc làm, những nông dân bị mất đất, các học viên Pháp Luân Công, và những người dân giận dữ của Tây Tạng đã tổ chức các cuộc biểu tình. Tuy thế, không hề có những cuộc biểu tình của những người thành thị do sinh viên dẫn đầu như những cuộc biểu tình tại Thiên An Môn năm 1989.
Thời kỳ kinh tế phất lên dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Giang Trạch Dân và người kế vị, Hồ Cẩm Đào, đã hướng sự nổi loạn của giới trẻ vào khởi nghiệp và sự thành đạt trong nghề nghiệp chuyên môn, và điều đó đã chỉ khả thi vì Đặng Tiểu Bình đã ngăn ngừa giới lãnh đạo Đảng rạn nứt trong suốt những cuộc biểu tình của sinh viên cuối những năm 1980 và phản ứng dữ dội của những thành phần bảo thủ vào đầu những năm 1990. Khi những cuộc biểu tình bắt đầu, người kế vị do Đặng Tiểu Bình chọn lựa, Thủ tướng Triệu Tử Dương, đã mong muốn sử dụng làn sóng quần chúng nhân dân như một đòn bẩy nhằm thúc đẩy cải cách thị trường mạnh hơn, và có thể cả cải tổ chính trị. Nếu Trung Quốc có một Mikhail Gorbachev của riêng mình thì đó có thể là Triệu Tử Dương.
Đặng Tiểu Bình đã ủng hộ Triệu Tử Dương tự do hóa nền kinh tế, mặc dù điều này đã tạo ra nhiều kết quả tốt xấu khác nhau trong năm 1988 và 1989, với tình trạng lạm phát tăng vọt và sự âu lo về kinh tế lan tràn. Nhưng Đặng Tiểu Bình, người đã chịu những “vết sẹo” từ những năm tháng của chủ nghĩa Mao mà đặc biệt là sự hỗn loạn do Cách mạng Văn hóa, đã không muốn dung thứ cho sự bất ổn chính trị. Và sự khoan dung đối với những người biểu tình của Triệu Tử Dương đã khiến Bộ Chính trị chia thành hai phe khác nhau. Vì vậy Đặng đã để Triệu trở thành “con mồi” cho những lãnh đạo bảo thủ trong Đảng.
Phe cứng rắn đã chiến thắng sau đợt đàn áp. Trong mắt họ, sự hỗn loạn của năm 1989 là minh chứng cho thấy “cải tổ và mở cửa” sẽ dẫn tới thời kỳ hỗn loạn và sụp đổ. Đặng tạm thời rút lui, để những người theo chủ trương kế hoạch hóa tập hợp xung quanh đảng viên kỳ cựu Trần Vân (Chen Yun) làm chậm lại tiến trình thị trường hóa và khắc phục sự cô lập của quốc tế đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau sự kiện Thiên An Môn.
Nhưng sau đó, với chuyến “Nam tuần” nổi tiếng của ông vào năm 1992, Đặng Tiểu Bình đã dẫn đến sự thất thế của phe bảo thủ phản đối thị trường. Tại thành phố Thâm Quyến đang phát triển bùng nổ, với camera truyền hình quay trực tiếp, Đặng Tiểu Bình đã chỉ thẳng ngón tay lên trời, khiển trách Đảng của ông ta: “Nếu Trung Quốc không thực hành chủ nghĩa xã hội, không tiếp tục ‘cải tổ và mở cửa’ và phát triển kinh tế, không cải thiện mức sống của nhân dân, thì dù hướng đi của chúng ta là gì chăng nữa, thì cũng sẽ là đường cùng.”
Sau khi miễn cưỡng thanh trừng những người chủ trương cải cách vào năm 1989, thì năm 1992 Đặng Tiểu Bình đã nắm lấy cơ hội để loại bỏ những người theo chủ trương kế hoạch hóa, đưa vào người anh hùng tân tự do của Trung Quốc, Chu Dung Cơ, nhằm khởi động lại cỗ máy kinh tế. Đặng đã phán đoán tâm thế đất nước một cách sắc sảo: người dân đã sẵn sàng để được bảo rằng “làm giàu là vinh quang”. Giới lãnh đạo mới của Đảng những năm 1990 và 2000 không nao núng trước con đường mà Đặng đã vạch ra: đều đặn mở rộng cải cách thị trường, tích cực tham gia vào thương mại quốc tế, đô thị hóa quy mô lớn và phát triển thành thị, và toàn tâm toàn ý cho sự thống nhất của Đảng.
Vào ngày 4 tháng 6, ngày các binh lính của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc quét sạch các sinh viên và những người ủng hộ họ khỏi Quảng trường Thiên An Môn, được phương Tây ghi nhớ như là một ví dụ bi kịch về bạo lực nhà nước được sử dụng để đàn áp những công dân tay không tấc sắt, và là một tượng đài kỷ niệm cho những khao khát bị kìm nén về tự do và dân chủ của người dân Trung Quốc. Nhưng, trong con mắt lạnh lùng của lịch sử, làn sóng của năm 1989 và hậu quả của nó cuối cùng có thể được xem như là một “thời khắc Machiavelli” của Đảng Cộng sản Trung Quốc, khi mà Đặng Tiểu Bình đối diện thời khắc sinh tử của chế độ, và thấy được điều gì là cần thiết cho sự tồn tại của nó: Sự thống nhất của Đảng dựa trên sự tăng trưởng của thành thị.
Bằng cách tái thống nhất giới lãnh đạo Đảng và tái xây dựng mối đoàn kết giữa Đảng và người dân thành thị, cơn khủng hoảng đã củng cố sự cai trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc, và làm tăng tốc quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc. Trong tác phẩm kinh điển Bàn về cách mạng (On Revolution) của mình, Hannah Arendt đã quan sát một cách bi quan rằng “bất kỳ tình huynh đệ nào của con người cũng đều có khả năng đã được nuôi lớn từ sự tương tàn lẫn nhau, bất kỳ tổ chức chính trị nào mà con người đạt được cũng đều bắt nguồn từ cội rễ tội ác của nó.” Theo cách nhìn này, Quảng trường đẫm máu vào sáng ngày 4 tháng 6 có lẽ là nơi đã khai sinh ra một nước Trung Quốc hậu cách mạng.
John Delury là giám đốc Dự án China Boom Project tại Hội Châu Á, New York.
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2017/06/02/y-nghia-su-kien-quang-truong-thien-mon/#sthash.hHjzo15f.dpuf


Phần nhận xét hiển thị trên trang