Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2017

ĐỘC LẬP: KHÔNG CHỈ ĐUỔI LŨ CƯỚP NƯỚC MÀ CÒN PHẢI ĐUỔI CÁI NÔ LỆ RA KHỎI ĐẦU


Cao Huy Thuần
T



.
Tại Lễ trao giải văn hóa Phan Châu Trinh lần thứ X diễn ra vào tối 24.3, giải Vì Sự nghiệp Văn hóa – Giáo dục được trao cho Giáo sư Cao Huy Thuần vì những đóng góp to lớn và sâu sắc cho sự nghiệp văn hóa và giáo dục Việt Nam. Người Đô Thị Online giới thiệu lược trích diễn từ nhận giải Giáo sư Cao Huy Thuần. Tựa do Người Đô Thị đặt.
.
Tôi rất vinh dự được Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh trao giải thưởng “Vì sự nghiệp văn hóa và giáo dục” năm 2017. Đây là một bất ngờ đối với tôi, vì vinh dự này quá lớn đối với việc làm quá nhỏ của tôi. Tôi lại là người ở xa, luôn luôn có mặc cảm vui buồn không được trực tiếp cùng chia, ấm lạnh không được trực tiếp cùng cảm với bạn bè anh em trong nước: thiếu sự sống trực tiếp ấy, hai chữ “sự nghiệp” không khỏi làm tôi áy náy. Tôi đành nghĩ: khi trao giải thưởng này cho người ở xa, các anh chị trong Hội Đồng muốn nói rằng văn hóa là văn hóa, văn hóa Việt Nam là văn hóa Việt Nam, không có văn hóa Việt kiều, cũng như không có quốc tịch Việt kiều.
Có lẽ câu nói vừa rồi của tôi là một câu nói đùa để che giấu cảm động. Nhưng quả thực, đó là một câu nói tâm tình, bởi vì có khi người ở xa cảm thấy mình là Việt Nam hơn lúc ở gần. Ở gần thì ai cũng giống ai. Ở xa thì thường xuyên thấy mình khác với xung quanh. Chính cái khác đó tạo ra cái mà ta gọi là bản sắc, bản sắc văn hóa, bản sắc dân tộc. Người ở xa không phải chỉ tha thiết với bản sắc như một khái niệm trừu tượng. Người ở xa thấy mình ăn, mặc, thương, ghét, nói, cười với cái bản sắc ấy cụ thể như cái bóng đi theo cái hình.
Tôi biết tôi động đến một khái niệm khó định nghĩa. Có người nói đó là một khái niệm không khoa học. Có người nói đó là một khái niệm ý thức hệ. Tuy vậy, có ai dám nói rằng không có bản sắc? Có ai không tự đặt ra cho mình câu hỏi đầu tiên: “tôi là ai?” Câu hỏi đặt ra là vì có “tôi” và có “người khác”. Không có “người khác” thì không có “tôi”. Rồi tôi lại tự hỏi: tôi là tôi vì tôi nhìn tôi như thế, hay tôi là tôi vì như thế người khác nhìn tôi? Nếu tôi nhìn tôi qua cái nhìn của người khác, phải chăng có người khác giữa tôi với tôi? Câu hỏi ấy chảy máu trong lòng người ở xa. Tôi xa tôi rồi chăng?
Câu hỏi ấy cũng cần chảy máu trong lòng một dân tộc khi dân tộc ấy vọng ngoại. Khi dân tộc ấy không còn thấy cần thiết phải đặt ra câu hỏi “tôi là ai?”. Khi dân tộc ấy không biết mình là khác. Khi dân tộc ấy nhập nhằng giữa tôi và người. Tôi khác anh: bản sắc bắt đầu tự định nghĩa với khẳng định quyết liệt ấy. Với chữ “khác”. Khác! Như một tiếng quát. Quát vào mặt kẻ nào muốn đồng hóa. Như một tiếng sấm. Sấm trong lịch sử. Nổ trong Bình Ngô Đại Cáo:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Nước non bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Cái gì là cốt lõi trong cái “khác” đó? Văn hiến. Văn hóa. Và cái gì là cốt lõi trong văn hóa? Phong tục. Anh đừng đem Khổng Mạnh ra để nói với tôi rằng tôi giống hệt anh, tôi là con đẻ của anh. Anh cũng đừng đem chữ viết ra để nói rằng tôi nhân chi sơ là sờ vú anh. Văn hóa của tôi không phải là văn hóa của anh bởi vì phong tục của tôi không phải là phong tục của anh. Và thế nào là phong tục? Là cách sống. Văn hóa là cách sống. Là cách ăn cách mặc. Là nước mắm. Là tiếng ru em. Là ca dao. Là lễ hội. Là chùa chiền. Là làng xóm. Là thói quen. Là ký ức chung. Là ý thức tập thể. Là tất cả những gì liên quan đến đời sống của một dân tộc, vật chất cũng như tinh thần. Nói “phong tục” là lấy cái khác nhất của Đại Việt so với chàng kia mà nói, chứ “phong tục” chính là “văn hiến” đã đại cáo ở trên. Và văn hiến ấy, Đại Việt ta đây đã có “từ lâu”, nghĩa là đã đi vào lịch sử, nghĩa là đã truyền lại đời này qua đời kia, truyền từ khi nhà ngươi tưởng đã nuốt sống ta trong ngót ngàn năm dằng dặc.
Trên thế giới, không có một nước nào so được với Đại Việt về cái rễ văn hóa sâu thẳm ấy. Châu Âu muốn so với ta? Châu Mỹ muốn so với ta? Có nước nào trong các bạn đẻ ra được, duy trì được, củng cố được, truyền thừa được, ấp ủ được một cái trứng văn hóa trong suốt ngàn năm đồng hóa trước khi có bờ cõi? Bản sắc là cái gì nếu không phải là cái trứng kỳ lạ ấy? Cho đến thế kỷ 18, các bạn ở châu Âu mới thấy xuất hiện cái tư tưởng rằng văn hóa là cái “tinh yếu” (“essence”) dính chặt vào một dân tộc, và từ đó mỗi dân tộc có một “thần khí” (“génie”) riêng biệt, khác với các dân tộc khác. Nhưng lúc đó các bạn đã có bờ cõi, đã thành lập xong cái mà lịch sử gọi là Etat-Nation, dân tộc nào có Nhà nước ấy. Trong bờ cõi đã phân chia ranh giới địa dư, các bạn mới xây dựng dân tộc văn hóa song song với dân tộc chính trị. “Dân tộc nào có bờ cõi ấy” và “dân tộc nào có văn hóa ấy”, hai tư tưởng đó củng cố lẫn nhau.
Nghĩa là lúc đó các bạn chưa có một văn hóa dân tộc, các bạn phải lần hồi xây dựng văn hóa đó, khác với Đại Việt đã có cái trứng văn hóa từ lâu trước khi nở ra thành rồng Thăng Long. Cho nên chúng tôi không phải đợi cho đến thế kỷ 18, 19 mới quan niệm, như các tư tưởng gia ở Đức, văn hóa là cái “hồn” của mỗi dân tộc, là “Volksgeist”. Định nghĩa chính xác cái “hồn” ấy là gì, đúng là khó. Nhưng khó, không có nghĩa là phủ nhận cái “hồn”. Bởi vì không có hai dân tộc nào cùng có một văn hóa giống hệt nhau. Nếu có tình trạng đó thì cả hai chỉ có thể hợp thành một dân tộc. Vì vậy, vì mỗi văn hóa có một sắc thái đặc biệt, văn hóa quyết định bản sắc của mỗi dân tộc. “Tát cạn văn hóa ra khỏi một dân tộc – nghĩa là tát cạn ký ức và sắc thái độc đáo ra khỏi dân tộc đó – tức là giết chết dân tộc đó”. Tôi mượn câu nói ấy của Milan Kundera.
Đất nước độc lập, không phải chỉ đuổi lũ cướp nước là xong. Phải đuổi cái nô lệ ra khỏi cái đầu. Bạo lực có thể đạp đổ bạo lực. Nhưng bạo lực nào cũng có khuynh hướng thay thế bạo lực cũ để thống trị bằng cách nô lệ hóa cái đầu.
Với cái “hồn” ấy, tôi hiện hữu, tôi là tôi. Tôi nhận máu huyết từ trong đó. Tôi thở với hơi thở ấy. Nhưng cái đầu của tôi dạy rằng văn hóa là một khái niệm động, vừa như thế, vừa biến chuyển với thời gian. Không văn hóa nào sống biệt lập, tách biệt với các văn hóa khác. Chung đụng, tiếp xúc với nhau, các nền văn hóa ảnh hưởng lên nhau, mỗi cái “tôi” của văn hóa này phải vừa canh chừng để đừng bị “cái khác” làm biến chất, lại vừa bị quyến rũ bởi “cái khác” khi nhận ra “cái khác” có những ưu điểm mà mình không có, cái “tôi” của mình có những nhược điểm mà mình cứ gối đầu lên ngủ, bất kể nhục vinh. Và như vậy, tôi vừa là con cháu của Nguyễn Trãi, vừa là con cháu của Phan Châu Trinh. Của Phan Châu Trinh khi Tây Hồ rơi vào thân phận Việt kiều, làm “người Việt ở nước ngoài”. Nhưng chính nhờ ở nước ngoài mà ông chạm mắt vào “cái khác” và ông thấy cái nô lệ nằm ngay trong văn hóa.
Tôi mượn một câu của anh Vĩnh Sính, người bạn học giả mà tác phẩm từng được giải Phan Châu Trinh: “So với những trí thức cùng thời, kể cả Phan Bội Châu, tinh thần yêu nước của Phan Châu Trinh có điểm nổi bật là rất bén nhạy về điều hay cái lạ ở nước ngoài cũng như về những nhược điểm về văn hóa và xã hội mà con người Việt Nam cần khắc phục”. Từ đó mà bật ra phương châm “dân khí”, “dân trí”. Và dân chủ. Và dân chủ. Phan Châu Trinh là sĩ phu đầu tiên hô hào dân quyền. Huỳnh Thúc Kháng nói thế. Anh Vĩnh Sính tiếp theo: “Bởi vậy, khi đọc lại những lời Tây Hồ viết vào đầu thế kỷ trước, ta vẫn nghe sang sảng tựa hồ như tiên sinh đang đăng đàn diễn thuyết đâu đây”.
Các cá nhân xuất sắc được tôn vinh tại Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh lần X. Ảnh: TA
Tôi đang nghe sang sảng bên tai những Lư Thoa, những Mạnh Đức Tư Cưu, những Vạn Lý Tinh Pháp, những Khai Sáng Thế Kỷ, những Tuyên Ngôn Nhân Quyền. Những tư tưởng mới làm choáng ngợp cái đầu rạng đông của Phan Tây Hồ. Chỉ giới hạn trong quan niệm về dân tộc mà tôi đang nói đây, tôi nghe sang sảng, như tiên sinh đã nghe, định nghĩa bất hủ của Renan, trong đó vừa có Nguyễn Trãi của tôi, vừa có Phan Châu Trinh của thời đại mới, vừa có quá khứ vừa có hiện tại, vừa có Herder của Lãng Mạn Đức, vừa có Rousseau của “Khế ước xã hội”:
“Dân tộc là một linh hồn, một nguyên tắc tâm linh. Hai yếu tố, thật ra chỉ là một, tạo nên linh hồn ấy, nguyên tắc ấy. Yếu tố thứ nhất nằm trong quá khứ, yếu tố thứ hai nằm trong hiện tại. Yếu tố thứ nhất là cùng có chung một gia tài kỷ niệm phong phú, yếu tố thứ hai là sự thỏa thuận hiện tại, ý muốn cùng sống, hoài bão cùng tiếp tục khai triển gia tài chung đã nhận. Con người không tự nhiên mà thành người. Một dân tộc, cũng như một cá nhân, là thành quả của một quá khứ lâu dài làm bằng nỗ lực, bằng hy sinh, bằng tận tụy. Thờ kính tổ tiên là chính đáng hơn tất cả; chính tổ tiên làm chúng ta thành ra chúng ta. Một quá khứ anh hùng, những vĩ nhân, vinh quang, đó là cái vốn xã hội trên đó ta tạo dựng một ý tưởng dân tộc. Cùng có những vinh quang chung trong quá khứ, một ý chí chung trong hiện tại, đã cùng nhau làm nên những công việc to lớn, vẫn còn muốn làm như thế nữa: đó là những điều kiện thiết yếu để là một dân tộc. Hy sinh đã làm càng cao, khổ sở đã chịu càng lớn, thương yêu càng nhiều. Ta thương cái nhà mà ta đã xây và đã truyền lại. “Ta bây giờ là hình ảnh của cha ông ngày trước; ta ngày mai sẽ là hình ảnh của cha ông ngày nay”, câu hát đó của dân Sparte ngày xưa đơn giản như thế nhưng tóm tắt được thế nào là tổ quốc”.
Và đây là hiện tại được nhấn mạnh. Hiện tại mà Phan Châu Trinh hoài bão qua hai chữ “dân quyền”:
“Như vậy, một dân tộc có một quá khứ, nhưng tóm gọn trong hiện tại bằng một sự việc cụ thể: thỏa thuận, ý muốn tiếp tục cùng sống chung được biểu lộ rõ ràng. Dân tộc là một cuộc bỏ phiếu hồ hởi hằng ngày”.
Dân tộc là linh thiêng, bởi vì trong lòng mỗi người dân đều có cái “hồn” của tổ tiên, nhưng dân tộc chỉ trường tồn trong hiện tại, trong tương lai, khi chính người dân, chứ không phải một ai khác trên cao xanh, cùng nhau thỏa thuận về vận mệnh của đất nước. Sự thỏa thuận ấy, tất nhiên biểu lộ bằng lá phiếu, và lá phiếu chỉ là lá phiếu khi trung thực. Không có trung thực thì không có thỏa thuận.
“Một cuộc bỏ phiếu hồ hởi hằng ngày”. “Un plébiscite de chaque jour”: lịch sử nước Pháp ghi khắc câu nói ấy. Lịch sử của các nước tiến bộ văn minh cũng ghi khắc câu nói ấy. Bởi vì câu nói ấy chứa đựng tất cả tinh túy của một văn hóa, một văn minh không riêng của một dân tộc nào mà chung cho cả mọi dân tộc. Vì câu nói ấy, vì tinh túy trong ý nghĩa của nó, mà Phan Châu Trinh khác Phan Bội Châu. Đất nước độc lập, không phải chỉ đuổi lũ cướp nước là xong. Phải đuổi cái nô lệ ra khỏi cái đầu. Bạo lực có thể đạp đổ bạo lực. Nhưng bạo lực nào cũng có khuynh hướng thay thế bạo lực cũ để thống trị bằng cách nô lệ hóa cái đầu. Phan Châu Trinh đã đi trước thời đại bằng lời lẽ thống thiết kêu gọi phải thắp sáng cái đầu của người dân. Bởi vì thời độc trị của vua chúa đã qua rồi.
Cái nguyên tắc mà Renan gọi là “tâm linh” (“spirituel”) không có gì là siêu hình cả, trái lại rất cụ thể. Đó là người dân. Mỗi người dân. Mọi người dân. Mỗi người dân nắm vận mệnh của mình và của dân tộc mình. Bằng thỏa thuận. Như thỏa thuận khi ký một hợp đồng. Dân tộc là linh thiêng, bởi vì trong lòng mỗi người dân đều có cái “hồn” của tổ tiên, nhưng dân tộc chỉ trường tồn trong hiện tại, trong tương lai, khi chính người dân, chứ không phải một ai khác trên cao xanh, cùng nhau thỏa thuận về vận mệnh của đất nước. Sự thỏa thuận ấy, tất nhiên biểu lộ bằng lá phiếu, và lá phiếu chỉ là lá phiếu khi trung thực. Không có trung thực thì không có thỏa thuận. Nhưng chữ “plébiscite” của Renan không có nghĩa tầm thường của một cuộc trưng cầu dân ý. Bởi vì trưng cầu dân ý cụ thể là con số: 51%, 65%, 70%, vân vân. “Plébiscite”, trong cái nghĩa của Renan, không phải đo bằng con số. Đo trong lòng người, người dân nào cũng biết đo và đo rất chính xác, trung thực.
Siêu hình chăng? Cam đoan không. Cứ hỏi mỗi người Việt Nam có biết đo không, câu trả lời sẽ rất giản dị. Đừng dối nhau làm gì, có thời chúng ta đã từng nghe: cái cột đèn cũng muốn đi. Và bây giờ lại nghe nói: ai có chút tiền đều một chân trong chân ngoài. Một dân tộc sống với cái đầu hoài nghi, cái chân bỏ phiếu, là một dân tộc đang tự thắp nhang cho mình, làm mồi cho cú vọ. Nếu ai có chút tiền đều muốn đưa con ra ngoài để học rồi để ở lại, thì tim đâu để máu chảy về? Thì đâu còn định nghĩa được tôi là ai? Thì lấy người khác làm mình. Thì đâu là “dân khí”? Cái “hồn” nằm ở đâu?
Ngoại xâm trước mắt đâu phải chỉ lấn đất lấn biển. Nó lấn cái đầu. Cái đầu ấy, ngoại xâm muốn ta giống nó. Nó rất sợ ta khác nó. Nó muốn ta giống nó bằng văn hóa, bằng ý thức hệ. Nó sợ ta khác nó với Phan Châu Trinh. Bởi vì chỉ cần ta định nghĩa ta là Phan Châu Trinh, ta có cái đầu văn hóa mở ra với những chân trời khác, những bình minh khác cùng sáng lên hai chữ “dân quyền”, chỉ cần thế thôi, chỉ cần cái đầu văn hóa ấy thôi, vận mệnh của đất nước Việt Nam sẽ đổi khác về mọi mặt, bắt đầu là mặt chiến lược. Vì sao? Vì định nghĩa ai là bạn ai là thù bắt đầu từ đâu nếu không phải là từ anh khác tôi, tôi khác anh của Nguyễn Trãi?
Chỉ cần thế thôi, một bước ấy thôi, dân tộc chờ đợi từ thời Phan Châu Trinh. Chỉ cần một câu trả lời với Renan: Vâng, đúng thế, dân tộc là sự giao thoa của hai thỏa thuận song song: thỏa thuận giữa người dân với nhau cùng sống cùng chết trên cùng mảnh đất của tổ tiên; thỏa thuận giữa người dân với chính quyền để cùng nhau đảm đương việc nước. Một bước. Cả vận mệnh nằm trong một bước. Bước đi! Cái “tôi” của ngày nay, cái “ta” kiêu hùng, cả tổ tiên nằm trong môt bước.
Nhà văn Nguyên Ngọc đại diện Hội đồng Khoa học Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh trao giải cho các cá nhân đoạt giải. Ảnh: T.A

Trong tâm tình trên đây của tôi về dân tộc, tôi xin được kết thúc, rất ngắn, với chút tâm tình về đạo Phật của tôi, vì hai tâm tình chỉ là một, hòa quyện vào nhau trong toàn bộ chữ viết của tôi. Có lần trả lời cho báo Lao Động, tôi nói: tất cả những gì tôi viết đều là thư tình, tình thư tôi gửi về quê hương, dù khi nói về đời, dù khi nói về đạo. Có một con chim bị đâm gai, nằm chảy máu dưới một bông hoa trắng, và hoa trắng đã thành hoa hồng. Đó là hoa hồng tôi hiến tặng cho đất nước của tôi từ xa.
Dân tộc tôi, nếu muốn định nghĩa về bản sắc của mình, không thể không nói đến đạo Phật. Vì đạo Phật thiết yếu như vậy cho sự sống còn văn hóa của dân tộc tôi, nếu chùa chiền biến chất trong một hiện tại đầy hoài nghi về văn hóa và giáo dục này, nếu đạo Phật cũng héo hon theo, thì cái hồn của quá khứ cũng tủi, mà hiện tại cũng bơ vơ bản sắc. Như một con én không để mất mùa xuân, tôi không muốn thấy đạo Phật của dân tộc tôi bị lão hóa với thời đại kim tiền, tôi muốn đạo Phật của tôi vẫn là nhựa sống của tuổi trẻ, của các bậc cha mẹ, của mọi gia đình. Nhựa ấy muôn đời vẫn thế, vẫn còn đấy, nhưng để làm cho nó chảy trong cành tươi, con chim nhỏ bị gai đâm chỉ còn biết chảy máu theo mà thôi, trong chữ viết.
Trung thành với đạo Phật của tôi, trung thành với dân tộc của tôi, tất cả những gì tôi viết, dù là nước mắm, dù là tương chao, dù là văn hóa, dù là giáo dục, đều nhắm đến một lý tưởng, lý tưởng của Phan Châu Trinh: Tiến Bộ. Đừng tưởng đạo Phật không cần tiến bộ. Không tiến bộ thì xa lìa đời sống. Còn dân tộc, khỏi nói, không tiến bộ thì thế giới đạp lên xác pháo. Nhưng đạo Phật biết một cái rất quý nói trong kinh Pháp Hoa: một viên ngọc giấu trong áo cũ. Áo cũ phải thay, viên ngọc vẫn giữ. Dân tộc của tôi, nghẹn ngào mà nói, có ngọc quý mà không giữ, lấy cuội của người làm ngọc của mình, gắn lên vương miện.
Thôi, tôi xin kết luận thôi. Tôi định nghĩa thế nào đây về tôi? Tôi là ai? Dân tộc tôi là ai? Là gì? Là thế nào? Nếu không định nghĩa được bằng khẳng định, thôi thì ta tạm định nghĩa bằng phủ định: Tôi không phải như thế này, tôi đáng lẽ phải là thế khác. Dân tộc tôi xứng đáng hơn thế này. Dân tộc tôi chưa xứng đáng với tổ tiên.
Cao Huy Thuần
Nguồn: nguoidothi

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TA LÀ...MUÔN NĂM


Trương Tuần


Em ơi có anh chống lưng
Em lên chót vót... miễn đừng bỏ anh
Xe sang, nhà cửa đã đành
Còn bao nhiêu bậc công danh tót vời
Anh đây chẳng kém ông Trời
Vẫn trong sạch vẫn sáng ngời hồng chuyên
Trong tay sẵn có đồng tiền
Lời xưa "Dĩ thực vi tiên" em à
Giữ cho anh cái nuột nà
Cùng nhau lên đỉnh...ta là muôn năm...!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Một kiểu ăn vạ, thương vay khóc mướn


KIM VÂN (nhà báo)

Mấy bữa nay mình cứ thấy nhiều người share trên fb những bức ảnh bậc tam cấp Starbucks, khách sạn 5 sao bị đập, cảnh người dân bắc thang, bắc ghế vào nhà hay rút tiền máy ATM, v.v.. rồi khoái chí chửi chính quyền. Không chỉ là cá nhân trên fb mà ngay cả các bài báo của nhiều tờ có tên tuổi cũng thế. Thực sự mình không hiểu tư duy...

Mình thấy những cách làm đối phó như là bắc ghế, bắc thang sau khi bậc tam cấp lấn đất công bị phá bỏ chẳng khác nào hành vi ăn vạ. Đứa con nít hư, đánh nhẹ nó một cái là nó cũng khóc rống lên để người xung quanh cảm thấy nó bị oan ức lắm. Nhưng con nít thì đã là một lẽ. Toàn những người giàu (có nhà mặt tiền là không phải dạng vừa), rồi thì khách sạn, cafe sang chảnh, ngân hàng, v.v..

Nếu đã sai phạm thì xử lý là đúng rồi, sao phải giở trò khóc lóc, ăn vạ ra như thế. Họ hoàn toàn có thể xây lại bồn hoa, bậc tam cấp và đặt lại máy ATM vào sâu bên trong đất của mình mà, sao cứ phải lấn chiếm đất công thì mới chịu? Mấy người rút tiền nữa, thiếu gì máy ATM mà cứ phải đến cái máy bị phá bậc tam cấp mà rút cho khổ vậy? Không có khách rút tiền thì ngân hàng sẽ phải tự khắc phục thôi.

Mà cũng có thể bản thân người vi phạm không ăn vạ, một vài ngày sau sẽ cải tạo thôi, nhưng không ít người lại thích "thương vay khóc mướn". Mình nghĩ mãi không ra nguyên cớ. Là vì tiếc của do phần lấn chiếm được xây kiên cố, tốn kém quá? Hay lo nhóm khách sạn, ngân hàng, nhà hàng kia không có tiền để sửa sai?

Nhiều người bình luận rằng thành phố trở nên tan hoang như bị đánh bom thì quả là ấu trĩ. Chỉ cần ốp lát lại một tí, chắc khoảng nửa ngày là tất cả lại thẳng thắn, sạch sẽ ngay thôi. Nếu như những người đó có ý thức tôn trọng pháp luật từ đầu thì đâu đến nỗi phải chịu cưỡng chế như thế.

Có người còn lấy câu chuyện của ông Lý Quang Diệu ra để so sánh, nhưng mấy ai hiểu để có được một Singapore như hiện nay thì đảo quốc ấy cũng phải trải qua một cuộc đại phẫu mà không ít cá nhân phải chấp nhận đi vào khuôn khổ, tức là chấp nhận từ bỏ lợi ích cá nhân. Lúc đấy dân Việt mình có ở đó chứng kiến đâu mà biết.

Việt Nam mình xuề xòa quen rồi, còn có cả câu "một trăm cái lý không bằng một tí cái tình", cho nên mới lấn chiếm, mới hàng quán đầy vỉa hè. Vừa thích giống Sing, lại vừa thích ngồi vỉa hè ăn vặt thì làm sao được. Phải chọn lựa thôi. Nói thật mình cũng thích hàng rong, nhưng nếu phải chọn thì mình thích được nhìn nhận văn minh như Sing, như châu Âu, như Mỹ chứ không phải là được tôn vinh ẩm thực đường phố. Bản thân cái chữ "ẩm thực đường phố" thì nó vẫn giá trị ở chữ "ẩm thực" chứ không phải "đường phố", tức là không phải hàng rong.

Có người bảo dẹp hàng rong đi rồi thì lấy gì sống. Làm mình nghĩ đến một câu chuyện. Có gia đình nọ rất nghèo. Cả nhà chỉ trông vào con bò sữa, hằng ngày vắt sữa của nó đi bán nhưng không đủ ăn vì quá đông con. Có hai thầy trò kia một lần tá túc qua đêm. Biết được hoàn cảnh gia chủ, ông thầy đêm đó lẳng lặng cầm dao đâm chết con bò. Cả nhà sau đó oán thán kẻ đã triệt đường sống của họ. Nhưng rồi sau đó họ vẫn phải kiếm kế sinh nhai, mỗi người đều động não suy nghĩ và rồi họ trở nên khá giả. Hàng rong của người VN cũng giống con bò thôi.

Kim Vân
(Theo Facebook Kim Vân: https://www.facebook.com/vuthikimvan/posts/10155109850623058)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ham cái 'bánh vẽ': Đại gia Hà thành ôm hận ở Đà Nẵng


Vũ Trung - Phước Nguyên 




























VNN - Nhiều chủ đầu tư, đặc biệt là các đại gia Hà Nội, từng xem dự án đất nền tại Đà Nẵng là “con gà đẻ trứng vàng”. Thế nhưng, giờ không ít người đang ôm hận vì trót ôm đất nền tại những dự án “bánh vẽ” của các "ông lớn".

"Chết tiền" vì dự án “bánh vẽ”

Hàng loạt dự án đất nền “bánh vẽ” tại khu vực cầu Thuận Phước bỏ hoang từ nhiều năm nay, trở thành những khu đô thị “ma” không người ở.

Ngay tại dự án Khu phức hợp đô thị thương mại dịch vụ, do Thành Đạt làm chủ đầu tư, là khu đất rộng mênh mông bỏ hoang.

Dự án của một "ông lớn" cũng nằm bên chân cầu Thuận Phước. Cách đây nhiều năm, dự án “bánh vẽ” này được đầu tư 1.600 tỷ đồng, quy mô 1.311 lô đất nền, 283 căn biệt thự cùng bốn khu nhà chung cư dành cho người thu nhập thấp và hoàn thành trong thời gian hai năm kể từ ngày khởi công.

Khởi công xong, chủ đầu tư công khai mở bán từ 400-500 triệu đồng/lô đất nền,... Rồi sau đó, dự án không triển khai, dẫn đến việc khiếu kiện kéo dài nhiều năm của người mua đất.

Ở Đà Nẵng hiện có rất nhiều dự án bị bỏ hoang như thế sau khi khởi công. Người mua đất nền quá ảo tưởng vào thị trường bất động sản nơi đây nên “mắc bẫy” giới đầu tư và lệ thuộc vào người mua đến từ Hà Nội.

Anh Lê Đức Linh - một người dân ở Duy Xuyên, Quảng Nam - kể, cách đây hơn 2 tháng, nhờ được đền bù đất của một dự án ở Khu đô thị Nam Hội An, anh có hơn 4 tỷ đồng. Có số tiền lớn trong tay, anh quyết định ra Đà Nẵng xuống tiền mua 2 lô đất tại một khu đô thị sinh thái ở Đà Nẵng với giá hơn 4 tỷ đồng.

Khi mua xong có người đến hỏi mua lại với giá 4,5 tỷ đồng, tưởng đất đang lên anh không bán. Nhưng cách đây 1 tuần thấy giá đất hạ, anh rao bán lại, nhưng người mua sau khi xem đất chỉ trả giá 3,5 tỷ đồng.

Trường hợp như anh Linh không hiếm. Đã có người chấp nhận bán lỗ để trả nợ ngân hàng. Chuyện lỗ xem như học phí phải trả cho bài học kinh doanh của mình.

Chết vì đầu cơ, thổi giá

Đầu năm 2017, phụ trách truyền thông một “ông lớn” đang đầu tư dự án tỷ đô tại Đà Nẵng, khẳng định, dự án của công ty đang triển khai có đến hơn 80% nhà đầu tư là người Hà Nội.

“Trước khi quyết định đầu tư tỷ đô vào dự án, ông chủ đã hướng đến đối tượng khách hàng chính là người Thủ đô vì mức độ “chịu chơi” của các đại gia Hà thành. Vì thế, mọi hoạt động liên quan đến dự án như giới thiệu, chào bán đều tổ chức tại Hà Nội, dù dự án này được triển khai tại Đà Nẵng”, anh này nói.

Tháng 4/2016, tại buổi gặp gỡ báo chí tại Hà Nội, ông Matthew Powell - Giám đốc Savills Hà Nội, chia sẻ: 70-75% khách hàng của dự án The Point - Khu biệt thự sân golf thuộc Danang Beach Resort giai đoạn 2 - là người Hà Nội, 5% khách hàng là người nước ngoài, còn lại là khách hàng ở các tỉnh thành khác.

Ông Matthew Powell cho biết, kể từ lần mở bán các dự án đầu tiên vào năm 2009, người Hà Nội luôn là khách hàng chủ yếu của Savills.

Xu hướng người Hà Nội “đổ tiền” vào thị trường bất động sản Đà Nẵng khiến nhều chủ đầu tư và nhà phân phối tập trung “mũi nhọn” vào những khách đến từ Thủ đô.

Bằng chứng là hàng loạt các dự án được chủ đầu tư mang ra chào bán tại Hà Nội, rất ít dự án chào bán tại Sài Gòn hay Đà Nẵng - nơi dự án đang triển khai.

Tổng giám đốc một sàn giao dịch lớn tại Đà Nẵng (đề nghị không nêu tên), cho hay, từ đầu năm 2016, tỉ lệ người Hà Nội quay lại các dự án bất động sản chiếm hơn 60% tổng số giao dịch của công ty và đang có xu hướng tăng dần trong những tháng đầu năm 2017.

Trong khi đó, năm 2015, tỷ lệ mua của người Hà Nội qua sàn giao dịch này là 50%, 2014 chỉ chiếm khoảng 30%. “Có thể do hiệu ứng pháo hoa và APEC nên từ đầu năm 2017, khách hàng đến từ Hà Nội ngày càng nhiều. Thậm chí, có những ngày chúng tôi chỉ tiếp khách đến từ Hà Nội”.

Các chuyên gia bất động sản nhận định, với cơ cấu khách hàng như vậy, thị trường bất động sản Đà Nẵng rất có khả năng lại đổ vỡ.

Cách đây hơn 5 năm, CBRE từng thông tin 80% số người mua đất nền ở Đà Nẵng là đến từ Hà Nội hoặc khu vực phía Bắc. Khi đó, ông Marc Townsend - Giám đốc điều hành công ty, dự báo, ngay sau khi tăng trưởng nóng, thị trường nhà đất Đà Nẵng sẽ trở về với hiện trạng thực của nó, sau đó rơi vào khủng hoảng như trì trệ, vắng bóng nhà đầu tư, giá nhà đất tụt dốc không phanh,...

Do đó, nếu các nhà đầu tư vẫn mải mê với BĐS Đà Nẵng mà không tỉnh táo, dễ rơi vào “ma trận” đầu cơ, thổi giá của giới đầu cơ thì khả năng “ôm hận” vì đất là điều có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vì sao gọi Sơn Trà là “mắt thần Đông Dương”?


HỮU KHÁ

TTO - Những ngày gần đây, dư luận quan tâm đến việc các công trình xây dựng mọc lên ở bán đảo Sơn Trà, trong đó có nhắc đến vị trí của Sơn Trà là “mắt thần Đông Dương”. Vì sao bán đảo Sơn Trà có tên gọi này?

Cùng với hệ thống núi non của Hải Vân ở phía bắc (thuộc Thừa Thiên - Huế), bán đảo Sơn Trà ở phía nam (thuộc Đà Nẵng) vây lại thành hình cánh cung tạo nên một vịnh biển mang tên Vũng Sơn Trà. Vì vị trí như vậy nên Sơn Trà như một tấm bia che chắn cho Đà Nẵng.

Sơn Trà có gần 4.000ha rừng, núi Sơn Trà cao gần 700m. Bán đảo là nơi đóng quân của nhiều doanh trại quân đội.

Đặc biệt, trên đỉnh Sơn Trà có trạm rađa nằm ở độ cao 621m so với mực nước biển, được mệnh danh là “mắt thần Đông Dương” với bán kính quan sát của hệ thống lên đến hàng trăm kilômet. Tầm quét sóng có thể vươn ra cả khu vực Đông Dương.

Hiện nay, trạm rađa kiểm soát không lưu và cảnh báo sớm trên bán đảo Sơn Trà có nhiệm vụ cảnh giới và theo dõi không lưu của toàn bộ vùng nước Biển Đông, bao trùm lên toàn bộ vịnh Bắc Bộ và không phận của Lào, Campuchia. Với vị trí này, trạm rađa trên bán đảo Sơn Trà trở thành “mắt thần” của Trung tâm Cảnh báo sớm và điều hành tác chiến đường không trên toàn bộ Biển Đông và bầu trời Việt Nam.

Đề cập đến Sơn Trà, đại tá Thái Thanh Hùng - nguyên chủ tịch Hội Cựu chiến binh TP Đà Nẵng - nói: “Ai cũng biết núi Sơn Trà có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, ở thời điểm này chúng ta nên đặt ra câu chuyện Sơn Trà hết sức khách quan, có nghiên cứu kỹ lưỡng trong bối cảnh đất nước thời điểm hiện tại.

Nếu bây giờ chúng ta yêu cầu phải giữ nguyên vẹn núi Sơn Trà cho mục đích an ninh quốc phòng không thì không được. Bởi vì việc quy hoạch núi Sơn Trà bao giờ cũng song song đảm bảo được hai yếu tố là phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng”.

Theo đại tá Hùng: “Khu vực nào quy hoạch là đất quốc phòng đã được Bộ Quốc phòng phê duyệt, các đơn vị chức năng phải giữ nghiêm ngặt. Còn khu vực nào kết hợp được giữa phát triển kinh tế với quốc phòng thì cũng nên làm.

Với những vị trí bình thường, nên cho đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, quan trọng là làm sao mọi hoạt động ở đó phải được kiểm soát chặt chẽ, hạn chế tối đa ảnh hưởng đến hệ sinh thái rừng”.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ai trải thảm quan lộ cho “hot girl xứ Thanh”?

Bình Minh 


Dân Trí - Trong một thời gian ngắn, bà Trần Vũ Quỳnh Anh, Trưởng phòng Quản lý nhà và thị trường bất động sản, đã được lãnh đạo Sở Xây dựng ưu ái, bổ nhiệm làm lãnh đạo sai quy định. Đứng đầu Sở Xây dựng thời điểm đó là ông Ngô Văn Tuấn, hiện nay là Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa.

Thông báo kết quả thanh tra số 197/VP-THKH ngày 30/3 của Văn phòng UBND tỉnh Thanh Hóa cho hay, việc bổ nhiệm bà Trần Vũ Quỳnh Anh, giữ chức vụ Phó trưởng Phòng rồi lên Trưởng Phòng Quản lý nhà và thị trường bất động sản - Sở Xây dựng Thanh Hóa là sai hàng loạt quy định, trong đó vi phạm rất nhiều quy định về tiêu chuẩn, trình độ. Tuy nhiên, trước đó, lãnh đạo Sở Xây dựng Thanh Hóa đã ban hành văn bản về tiêu chuẩn chức danh mà lờ đi các quy định này.

Cụ thể, ngày 18/4/2014, Giám đốc Sở Xây dựng Thanh Hóa thời điểm đó là ông Ngô Văn Tuấn (hiện ông Tuấn giữ chức Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa) ban hành QĐ số 1634/QĐ-SXD bổ nhiệm bà Trần Vũ Quỳnh Anh giữ chức Phó trưởng phòng Quản lý nhà và thị trường bất động sản.

7 tháng sau, ngày 7/11/2014, Giám đốc Sở Xây dựng lại ban hành QĐ số 6216/QĐ-SXD bổ nhiệm và Quỳnh Anh lên chức Trưởng phòng Quản lý nhà và thị trường bất động sản.

Việc bổ nhiệm “thần tốc” từ nhân viên lên phó phòng rồi trưởng phòng đối với bà Trần Vũ Quỳnh Anh được kết luận là đã vi phạm hàng loạt quy định.

Cụ thể, tại mục c, Khoản 2, Điều 4, Quyết định số 1138/2002/QĐ-UB ngày 16/4/2002 của UBND tỉnh Thanh Hóa ban hành Quy chế bổ nhiệm công chức, viên chức lãnh đạo đã quy định rõ, để nắm giữ chức vụ trưởng, phó phòng như của bà Quỳnh Anh cần có “thời gian công tác ở lĩnh vực mình phụ trách về chuyên môn nghiệp vụ ít nhất từ 3 năm trở lên”, “có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên”; “đã qua lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý nhà nước”. Tuy nhiên, đến thời điểm được bổ nhiệmbà Quỳnh Anh chưa đủ các điều kiện trên.

Đáng lưu ý, ngày 26/7/2013, nghĩa là ngay trước khi bổ nhiệm bà Quỳnh Anh lên chức phó phòng, người đứng đầu Sở Xây dựng lúc đó đã ban hành Quyết định số 2180/QĐ-SXD ngày 26/7/2013, quy định tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình bổ nhiệm chức danh trưởng phòng, phó phòng thuộc sở, nhưng không đưa vào nội dung văn bản này tiêu chuẩn: Trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên và chứng chỉ nghiệp vụ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên. Điều này là không đúng quy định tại Quyết định số 1138/2002/QĐ-UB của UBND tỉnh Thanh Hóa.

Không những được bổ nhiệm làm Phó phòng rồi Trưởng phòng trong một thời gian ngắn, bà Quỳnh Anh còn tiếp tục được quy hoạch chức Phó Giám đốc Sở Xây dựng giai đoạn 2015-2020 tại thời điểm năm 2014.

Dư luận đặt câu hỏi: Tại sao người đứng đầu Sở Xây dựng lúc bấy giờ lại có những sai sót nghiêm trọng như vậy trong việc bổ nhiệm cán bộ? Đây là sai sót nghiệp vụ hay phải chăng ông Ngô Văn Tuấn đã cố tình lờ quy định để ưu ái cho bà Quỳnh Anh? Nếu đúng có sự ưu ái, "lót đường" thì nguyên nhân vì đâu? Liệu có ai còn đứng sau sự ưu ái kỳ lạ này? Dư luận rất cần Thanh Hóa làm rõ, đưa ra được những câu trả lời thỏa đáng.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

‘Hot girl’ thăng tiến và chuyện lương lậu ở chốn quan trường


>> Vì sao nhà báo, BTV Lê Bình bị “đuổi” khỏi VTV?
>> "Thủ tướng đã lường trước được sự nhạy cảm trong công tác cán bộ"
>> Phó Tổng Thanh tra Chính phủ nói tài sản cán bộ không phải bí mật quốc gia


Đoàn Đạt
MTG - Không phải thời bao cấp nhưng có đến 2/3 số sinh viên mơ ước khi ra trường được đi làm công chức. Còn những cuộc thi tuyển công chức thì có đến hàng vạn người dự thi. Chưa kể đến những chuyện chạy chỗ, chạy chức khá phổ biến hiện nay. Làm nhà nước có gì “ngon” mà ai nấy đều mê?

Câu hỏi trên người viết lấy “cảm hứng” từ câu hỏi của một cán bộ ngành công an mấy năm trước là: “Ngoài đường có gì vui mà cảnh sát giao thông cứ thích ra đường?”. Câu trả lời là: “Ngon chứ!”, như “gương” của “hot girl” Thanh Hoá, người chỉ đi làm nhà nước có hai năm thôi đã từ một nhân viên hợp đồng lên đến chức trưởng phòng thuộc sở Xây dựng tỉnh Thanh Hoá và có tài sản khá “khủng”.

Đi làm nhà nước bây giờ, lương lậu thế nào mà có vẻ ai ai cũng sống khoẻ, sống nhàn, sống yên ổn. Do lương cao ư? Không hề. Thống kê năm ngoái cho thấy lương trung bình của người lao động chỉ là 6,03 triệu đồng. Có những công việc lương khởi điểm chưa đến hai triệu, như nghề giáo, nhưng đã có thông tin chạy một chỗ dạy lên đến hàng trăm triệu đồng.

Thế nên, ai cũng hiểu một điều rằng hầu hết mọi người đi làm nhà nước bây giờ đều sống nhờ vào “lậu” hơn là lương. Một cuộc khảo sát của Thanh tra chính phủ Việt Nam kết hợp với tổ chức Ngân hàng thế giới năm 2012 cho biết có đến 79% viên chức nước ta hưởng lợi từ những nguồn thu nhập không thuộc quy chế. Mới đây, Tổ chức minh bạch thế giới (TI) công bố chỉ số Cảm nhận tham nhũng thì Việt Nam đứng hạng 112/168 thế giới.

Hiện nay cả nước đang có khoảng 2,8 triệu viên chức, tức trung bình 40 người dân đang “cõng” một ông, bà viên chức. Nói hình tượng như đại biểu quốc hội Đỗ Văn Đương thì: “Bốn ông nông dân cõng một ông công chức, lại ông công chức béo thì chết!”. Không chỉ lạm phát công nhân viên, quan trường cũng phát triển tới mức tột đỉnh, như một sở ở Hải Dương có 46 biên chế thì có đến 44 đã là quan!

Đi làm nhà nước mà cũng “đông, vui, hao” như nguyên tắc của… dân nhậu. Trước đây, nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng nói: “70% lao động làm việc trong khu vực nhà nước nhưng chỉ tạo ra 15% GDP là không đạt”. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thời còn làm phó thủ tướng cũng đã chỉ ra trong bộ máy nhà nước có một phần ba viên chức “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”.

Thời bao cấp, đi làm nhà nước chủ yếu là phục vụ, do thu nhập khá thấp. Lúc đó viên chức còn tự hào với danh vị là “đầy tớ” của nhân dân, hoặc chấp nhận cuộc sống đạm bạc, hoặc “chân trong chân ngoài”. Đến thời mở cửa thì nền kinh tế thị trường cuốn hút lao động ra phía khu vực tư nhân. Đến nay, sau hơn 30 năm đổi mới, đang có một dòng chảy ngược với xu hướng thị trường cuốn hút lao động về khu vực nhà nước. Vì sao?

Vì sao mà khu vực nhà nước bây giờ thu hút được cả những “hot girl” như ở Thanh Hoá? Có phải như dân gian thường nói là “đất lành chim đậu”? Khu vực nhà nước bây giờ đã đủ hấp dẫn để thu hút được cả những tài năng như “thần đồng ngoại ngữ” Vũ Minh Hoàng, người được bổ nhiệm siêu tốc là phó vụ trưởng?

Không như khu vực tư nhân, động cơ của những người đi làm ở khu vực công quyền có ba loại:  thứ nhất là phục vụ xã hội, thứ hai là kiếm sống như bao nghề khác, còn thứ ba có lẽ là để “kiếm chác”. Ở các nước phát triển như Mỹ, những người làm cho nhà nước thường có động cơ loại một, loại hai, bởi muốn “kiếm chác” là điều không dễ. Như tổng thống Donald Trump của Mỹ, ông ra ứng cử, được bầu và làm tổng thống với lương chỉ một đô la tượng trưng mỗi năm, thậm chí phải từ bỏ công việc kinh doanh của một tỉ phú.

Ở nước ta, lương và đãi ngộ của khu vực công quyền còn thấp, thế nhưng vẫn có nhiều người theo đuổi ước mơ được làm công chức? Vì tinh thần phục vụ chăng? Nếu thế thì nước ta đâu có đứng hàng thứ hai châu Á về tham nhũng? Nếu thế thì làm sao thu hút được các “hot girl”, “hot boy” như ở Thanh Hoá, ở Cần Thơ ra làm quan?

Chuyện “quan trường và mỹ nữ” thường lắm điều phức tạp. Cũng còn may là nhan sắc của “hot girl” ra làm quan ở Thanh Hoá chỉ ở mức tầm tầm, chưa lộng lẫy như… Ngọc Trinh.


Phần nhận xét hiển thị trên trang