Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 27 tháng 3, 2017

Trâu bơi qua sông

Lê văn Thể

        Truyện ngắn                                   
   
       
                - Xin giới thiệu với anh tôi từ miền Bắc vào!                  
                - Có việc gì không anh?
                - Sao không! Lặn lội nữa ngàn cây số vào gặp “Đại văn hào” không nhẽ chỉ nói chuyện phiếm.
                - Anh vui tính nhỉ! Chẳng ai tôn vinh tôi tới tận mây xanh như anh vừa nói
                - Thì là tôi, chính tôi tôn vinh anh. 
                Sau một vài lời xã giao nhạt phèo của một kẻ ưa nịnh mà không biết cách nịnh, anh ta nói lời cầu cạnh:
               - Là thế này, chắc anh biết, chúng ta sắp tổ chức ngày hội thống nhất non sông
               - Đúng, cuối tháng sau.
               - Ấy đấy, tỉnh chúng tôi ra một tập san đặc biệt, góp phần tuyên truyền cho ngày hội thêm phần long trọng và thành công rực rỡ. Chúng tôi xin anh viết cho một truyện ngắn có dính tới đôi bờ Hiền Lương thời đất nước chia đôi. Có đấu tranh, có ta, có địch, có thắng, có bại, ở trong đó thì tuyệt. Truyện phải mới, nghĩa là chưa đăng ở báo chí nào, chưa đưa lên mạng Internet. Chúng tôi xin thù lao anh theo thỏa thuận. Anh viết, tôi đợi ngày mai lấy. Tối mai tôi mang về.
               - Anh làm khó cho tôi rồi. Viết văn phải có hứng, phải có ý tưởng, không như đi cuốc khoai, bổ cuốc xống vồng là bới lên được củ. Tôi lại là nhà văn không chuyên, viết khổ cực và nặng nề như đào hang đập đá, đãi vàng vụn. Ở tỉnh tôi có khá nhiều nhà văn bậc đàn anh, bậc thầy, sao anh không nhờ họ. Họ sẵn có lắm ý tưởng ở trong đầu, có lửa ở trong bụng, nhoáng cái có thể cho anh một truyện ngắn.
               - Không được, chúng tôi đã thống kê danh sách những nhà văn ở tỉnh anh và đã biết anh có nhiều hồi ký, bút ký, tùy bút, viết về dòng sông Hiền Lương và đôi bờ giới tuyến. Anh viết hay và là người trong cuộc. Chúng tôi đã có nghị quyết là phải có bài của nhà văn trong cuộc.
             - Tôi muốn nói với anh rằng những nhà văn  đàn anh của tôi cũng là người trong cuộc, rằng nghị quyết thì dứt khoát phải thực hiện nhưng đó là việc của các anh. Tôi không thuộc nhóm người phải thực hiện nghị quyết.
           - Anh cố gắng giúp cho. Vất vả lắm tôi mới vào được đây. Tiền xe, chúng chi cho tôi bốn trăm ngàn. Tuyến vào đã mất hai trăm tám. Vào, ra, tôi lỗ một trăm sáu chục ngàn. Tiền ăn một bữa, chúng chi cho tôi hai mươi ngàn. Cơm tù trên đường mỗi bữa ba lăm ngàn. Từ việc nhỏ đến việc lớn, chúng dồn tôi vào chỗ khó. Cuối năm, ông trưởng phòng về hưu. Phòng tôi có tới những ba phó…
          - Anh là một trong ba phó đó?
          - Đúng! Anh không giúp tôi cái truyện ngắn, không thực hiện được nghị quyết trong thời điểm này, hoàn toàn bất lợi cho tôi.
          Thấy tôi ngồi thừ ra, anh gợi ý:
          - Anh xem trong số bản thảo cũ có cái nào dùng được cho tôi không?               Ừ nhỉ!Tôi có cả đống bản thảo, đựng đầy một hòm gò bằng ống pháo sáng của máy bay Mỹ. Đó là sản phẩm tồn kho hơn bốn mươi năm cầm bút. Với đối tượng này, việc từ chối sẽ khó hơn lục tìm một cái gì đó cho anh ta mang về.
                                             
                                                   *
                     
             Anh dướn cổ qua vai tôi nhìn chăm chú vào các bản thảo một cách kiên nhẫn.
           - Đây là một truyện ngắn tôi viết khi đang học lớp bốn.
            - Anh cầm bút khi còn là trẻ con?
            - Vâng, dạo ấy tôi đang còn là trẻ con. Đọc truyện của các nhà văn, hứng lên rồi viết. Chú Cảnh biên tập và đăng báo cho tôi một số bài thơ, chính xác là hai bài. Tôi có hứng và viết mãi tới bây giờ nhưng bao giờ cũng là nhà văn không chuyên. Cái truyện ngắn này tôi viết rồi sửa, càng sửa càng thấy không ra gì và cho vào tồn kho. Nó nặng về kể lể, có cái tít rất thật:
                                  
                                      TRÂU BƠI QUA SÔNG

                Chúng tôi là lủ trẻ con chăn trâu ven sông Hiền Lương. Chúng tôi thích thả trâu sát bờ sông vì cỏ có hơi nước lên rất tốt. Chỗ này lại khá xa đồng khoai, đồng bắp của làng, nếu gần, sảnh một tý là trâu ăn hại hoa màu, chúng tôi sẽ bị ăn roi, cha mẹ chúng tôi sẽ bị trừ công điểm hợp tác xã. Nước sông Hiền Lương rất xanh và mát, chơi chán lại nhảy xuống tắm, giặt áo quần trải lên cỏ, lùa trâu về là có áo quần khô. Đó là những năm sáu mươi của thế kỷ trước. Bấy giờ ở miền Nam mặt trận Dân tộc Giải phóng đã ra đời. Chiến sự ở miền Nam đã căng nhưng chưa lan ra miền Bắc. Giữa hai bờ Nam Bắc giới tuyến căng như mặt trống trận, bất kể lúc nào cũng có thể dội lên tiếng súng. Người lớn bảo rằng: Giữ sinh hoạt, làm ăn bình thường, bám đất, bám làng, sẵn sàng chiến đấu. Trẻ con chúng tôi không quan tâm điều đó. Học xong buổi sáng là về thả trâu, rồi ù mọi, đánh khăng, đánh trận giả, vật nhau…chán thì tắm. Tắm sướng lắm. Thi bơi, lặn xuống nắm chân nhau mà kéo, kì hộ lưng nhau, sục vào các gốc cây bắt cá nướng ăn. Thời đó chúng tôi tồ lắm, không khôn như lớp con nít bây giờ. Học lớp bốn rồi mà khi tắm con trai con gái đều trần truồng, tắm chung, thoải mái ôm nhau, xô đẩy nhau, hò hét.
                Đột nhiên con bé Him la lên:
                - Chết cha rồi, trâu bơi qua sông!
                Con trâu đực ghê gớm nhất, của thằng Hào, bất thần nhảy xuống nước xồm xồm nhắm bờ Nam bơi qua. Con trâu này là niềm tự hào của lủ trẻ con làng tôi. Nó to lớn đã đành, hai cái sừng nhọn như hai mũi giáo, xoắn ngược, chỉa về phía trước, nhìn đã thấy ớn. Mỗi lần vào trận chọi nhau, nó không thèm nghênh sừng, trợn mắt. Thái độ khinh khỉnh của nó như muốn nói: Không muốn chết thì cút hết đi, đối thủ của tao  chưa có mặt ở cái huyện này! Quả thật, địch thủ cúi đầu xốc tới. Nó né qua một bên, chọc sừng vào nách. Cú một! Bao giờ cũng cú một. Đối phương bỏ chạy, thân mang một vết toạc lớn, rớt lại những cục máu ở phía sau, không bao giờ dám đối sừng một lần nữa. Lũ trẻ chúng tôi luôn quan tâm tới con trâu chiến này, mỗi buổi đi trâu bao giờ cũng bứt thêm vài ôm cỏ non cho nó. Nó ăn cỏ gần bờ sông, bao giờ chúng tôi cũng đưa những con trâu cái đi ăn riêng ở những bãi xa. Người lớn nói, trâu đực rặp trâu cái nhiều sẽ mất sức. Nó mất sức sẽ không còn là trâu chiến vô địch. Chúng tôi sẽ không được hếch mũi vênh vang với lũ trẻ làng khác.
                Bây giờ nó ào xuống nước, hùng hổ bơi qua sông vì bên ấy có mấy con trâu cái đang ăn cỏ, những chiếc mông béo ngo ngoe. Chúng tôi hớt hải ọ! ọ! Hò lơ! Hò lơ! Gọi nó quay lại. Xem chừng kể cả súng bắn cũng không ngăn được. Dưới nước mà con trâu xốc xốc tới như đang phi nước đại trên cánh đồng hoang. Hu! Hu! Thằng Hào khóc. Hu! Hu! Con Him khóc. Hu! Hu! Chúng tôi òa khóc. Bên ấy là bờ Nam sông Hiền Lương, có ngụy quân, ngụy quyền, có Mỹ. Trong thâm tâm bọn trẻ con chúng tôi đó là bọn ác thú. Thầy giáo đã dạy chúng tôi như thế. Cán bộ nói như thế. Mọi người đều nói như thế. Sách báo viết như thế. Phen này trâu mất là cái chắc. Chúng tôi đứng dưới sông, nước ngập ngang ngực, nhìn qua bờ Nam mà khóc thảm thiết. Đứa nào cũng tưởng chính con trâu của mình bị mất.
             Phía sau lùm tre một ông già bước ra. Chúng tôi không nhìn rõ mặt nhưng thấy ông đội một chiếc mũ trắng rộng vành, mặc một bộ áo quần cộc màu trắng, tay cầm một chiếc roi chăn trâu. Có thể là ông già chăn trâu nhưng người chăn trâu không mặc áo quần trắng. Có thể là ông bụt. Ông bụt nghe tiếng khóc của chúng tôi vọng sang. Nhìn con trâu đực đang lập bập ở mép nước vì bậc lỡ cao không có lối lên. Như hiểu ra sự việc, ông đón đầu con trâu quất mạnh, đuổi nó trở về. Con trâu bơi tới chỗ khác, tìm lối lên. Ông lại chặn đầu , lại đánh. Nhiều lần như vậy con trâu đuối sức, không chịu được roi của ông bụt, nó quay đầu bơi về. Trẻ con vẫn là trẻ con. Đang khóc, thấy trâu quay đầu bơi về, chúng tôi vỗ tay hoan hô, đồng loạt nhảy loi choi dưới nước, cười.
                                                
                                                     *

              Chuyện chỉ có thế nhưng bố con Him nói:                     
              - Phúc nhà tôi lớn, chưa mất của. Nếu gặp bọn ngụy quân, ngụy quyền, con trâu của Việt cọng hơn tạ thịt, đời nào chúng chẳng sung công.
            Mẹ thằng Hào lại nói:
            - Nếu lúc đó bọn ngụy quân đi qua, con trâu sẽ bị moi tim ăn thịt tại chỗ. Cái bọn lính mà quần quân phục của đứa nào cũng có cái túi may ngoài to bự ở hai bên đùi để bắt gà, nhét vịt; cái bọn mà ổ trứng trong chuồng, quả ổi trên cây cũng không chừa, gặp con trâu bờ Bắc bơi qua chừa thế nào được.
           Ông trưởng thôn lại nói:
           - Ông già chăn trâu mặc áo trắng bên bờ Nam ấy, rất có thể là một cán bộ cách mạng nằm vùng hoặc là quần chúng cách mạng.
               Máu văn nghệ sĩ trong tôi bốc lên. Tối đó tôi chong đèn viết truyện ngắn:
                        
                                  TRÂU BƠI QUA SÔNG
            
                  …Con trâu đực vĩ đại của chúng tôi vừa bước lên bờ, rùng mình rủ nước, chưa khịp làm chuyện ve vãn mấy con trâu cái thì một tốp lính ngụy bủa vây. Chúng đã theo giỏi con trâu của chúng tôi từ lúc nó rẽ nước bơi qua. Một tràng súng nổ. Con trâu chưa kịp hiểu ra điều gì, có tội lỗi gì, nó trợn ngược mắt, lảo đảo rồi đổ ụp xuống. Những dòng máu đỏ phun ra từ đỉnh đầu. Đàn trâu nái ngơ ngác, thương cảm và hoảng sợ rơi nước mắt. Lũ trẻ con chúng tôi nhìn qua khóc thét lên, đau đớn như chính ruột mình bị đạn xuyên thủng. Bọn lính ngụy khoái trá cười hô hố. chúng giơ cao những cây súng lên đỉnh đầu huơ huơ, vui mừng như vừa đánh chiếm được một cao điểm của Việt cọng. Trong chốc lát, cái ngực trâu đã bị banh ra bỡi những mũi lê nhọn sắc. Một thằng ngụy chọc tay vào vùng máu giật đứt trái tim của con trâu. Chúng lật mũ đồng làm nồi luộc. Chúng ăn nhồm nhoàm như chó sói bắt được thỏ. Chúng xả thịt con trâu và bắt người qua đường phải mua với giá cắt cổ. Hai thằng lính ngụy cầm súng Mỹ lăm lăm trong tay. Mắt gườm gườm đe nẹt. Người mua không vì thịt mà vì mũi súng. Họ xót xa quẳng những đồng tiền nhàu nát lận trong cạp quần vào mũ sắt.
            Thằng Hào nhìn qua bờ Nam, căm tức quá , nó hét:
            - Đả đảo lính ngụy! Đả đảo lính ngụy!
            Tất cả chúng tôi cùng hô to:
            - Đả đảo lính ngụy! Đả đảo lính ngụy!
            Ông già chăn trâu đã dẩn dân làng kéo đến. Họ hô to:
           - Phản đối giết trâu của dân thường! Phản đối! Phản đối!
          Một cuộc xô xát diễn ra. Đội quân tóc dài ào lên, gạt phắt những họng súng hăm dọa. Bên bờ Bắc, nhân dân tràn ra bờ sông cùng thét vang:
          - Phản đối! Phản đối! Phản đối!
          Bọn lính ngụy bỏ chạy. Đồng bào khiêng xương trâu còn lại lên chi khu, bắt đền con trâu cho bên bờ Bắc.

                                                   *

                   - Mày tưởng tượng rất đúng tực tế ( Bố con Him nói). Nếu hôm đó con trâu gặp bọn lính ngụy, sự việc diễn ra tiếp theo sẽ y chang như vậy.
                  - Người chúng còn moi tim nữa là trâu (Mẹ thằng Hào nói).  Nhất định chúng sẽ bán đống thịt thừa. Xương, thịt, da, lòng, đều có tiền, có giá tuốt.
                   - Cái chuyện của mày có tính tư tưởng cao, rất chính trị (Ông thôn trưởng nói). Truyện này sẽ nhân lên lòng hận thù quân giặc bán nước đặng tăng thêm ý chí giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trẻ con mà viết được như thế, lớn lên chắc sẽ trở thành một nhà văn cách mạng. Gửi nhà báo in ngay cho cả nước đọc.
             Ông trưởng thôn nắm tay tôi kéo xệch tới ủy ban. Ông vẫy tay gọi tất cả những cán bộ có mặt quây lại:
           - Này, mình đọc cho tất cả cùng nghe cái truyện ngắn của thằng nhóc này viết. Quả là thiên tài. Mọi người có biết rằng ( Tất nhiên là họ biết cả rồi) là thằng nhóc này đã có bài đăng báo rồi he.
          Ông cao giọng rồi trầm giọng, đoạn đọc nhanh, đoạn đọc chậm, cố diễn tả tâm lý nhân vật. Đọc đến đoạn cuối, khi lủ nhỏ hô: “ Đã đảo lính ngụy!”, ông nắm chặt tay lồ lộ những đường gân xanh đưa lên ngang đầu:
         -  Hay chưa?
        Tất cả ồ lên:
        - Quá hay!
          Họ rôm rả bình luận rồi góp ý:
         - Cần phải viết thêm về bọn lính ngụy: Chúng đang ăn, có một người ăn mày bước đến ngữa tay xin. Chúng tỏ ra bực bội vì người ăn mày rách rưới, bẩn thỉu làm chúng lợm giọng, ăn mất ngon. Chúng đuổi người ăn mày nhưng vì quá đói, ăn mày vẫn dai dẳng ngữa tay. Một thằng lính ngụy bước đến đạp người ăn mày lộn cổ xuống sông.
           - Em viết thêm đoạn này nữa – Một người khác góp ý – thêm trong cái đoạn chúng bán thịt trâu. Vì không có tiền lẻ, có một chị đưa cho chúng một tờ tiền chẳn có mệnh giá lớn. Tên lính ngụy đút luôn vào túi, không thối tiền. Chị xách miếng thịt trâu vừa đi vừa lau nước mắt…
                   Tôi nỡ cả gan ruột, chắp cánh trong lòng bay đến nhà chú Cảnh. Cái cơ thành nhà văn mà là nhà văn lớn, đến rất gần. Tôi mới viết năm bài thơ đã được chú Cảnh cho lên báo hai bài. Dù chú có sửa khá nhiều nhưng mấy ai được như thế. Và bây giờ, mới viết một truyện ngắn đầu tay, đã được cả làng khen.
                  Chú Cảnh đọc rất chậm, có đoạn chú đọc đi đọc lại. Chú khen:
          - Văn lớp bốn mà viết được như thế này là giỏi lắm. Nhưng viết bất cứ cái gì cũng phải nhìn tận mắt, mình biết là đúng như vậy chứ không phải nghe người khác nói. Viết truyện được phép bịa, lý luận văn học gọi là hư cấu nhưng hư cấu phải trên cơ sở hiện thực, mình biết rõ. Nếu không sẽ bóp méo, xuyên tạc, vu khống, sẽ không có màu sắc riêng của mình. Tóm lại: Biết thì viết, không biết, không viết. Viết bằng cái đầu của mình, không viết bằng cái đầu người khác.

                                               *
                                     
             - Thưa bác, làng mình có bao giờ xẩy ra chuyện trâu bơi qua sông và bị mất không? (Tôi hỏi bố con Him)
            - Có! Đã hai lần. Làng mình phía ngoài, phía trong, đều có sông, có hói. Trâu bơi qua sông rồi bơi về là chuyyện thường. Có hai lần trâu động đực bơi qua sông và đi mất. Hoặc là nó đi quá xa, người ta bắt được nhưng không biết của ai để trả lại. Hoặc là trâu đã lên thượng nguồn chung sống với trâu nái thả rong của người bản. Con trâu ở một nét nào đó cũng giống con người, sống phải có đực có cái. Trâu đực không thích những con trâu cái gầy yếu, quá non. Chúng mày tách nó ra khỏi trâu nái, nó không bao giờ chịu, có cơ hội là bơi qua sông lần nữa. Con trâu cũng như con chó rất trung thành với chủ, nhưng trước hết nó phải sống cho nó, vì hạnh phúc của nó. Phần lớn trâu đực mất là do đi tìm trâu nái.
            Nếu con trâu của thằng Hào bơi qua sông và mất tiêu thì cả làng ta không ai nghĩ là trâu đi quá xa, nhất định sẽ cho là bọn ngụy giết thịt.
         -  Bọn ngụy ở đâu ra? (Tôi hỏi mẹ thằng Hào)
       - Thì là dân mình bị chúng bắt ép đi lính.
       - Dân Việt mình tức là cùng con rồng cháu tiên. Nhồi sọ kiểu chi mà tài. Tháng trước là rồng, tháng sau mặc áo lính là chó.
       Mẹ thằng Hào lúng túng cả vú lấp miệng em:
       - Con nít đừng hỏi, đừng nói lung tung, không khéo sa vào phản động.
       Tôi hỏi bác thôn trưởng: 
       - Hôm trước bác nói ở trong đó nó đang thi hành chính sách mị dân. Mỵ dân là làm những cái chi?
       - Thì chúng đưa gạo thịt cấp phát cho người nghèo. Chúng cho lính đến lợp nhà cho dân. Chúng cho bác sĩ khám bệnh và phát thuốc cho dân. Nghĩa là chúng làm mọi việc để người dân nhầm tưởng là chúng vì đân mà ủng hộ chúng.
       - Thế thì chúng sẽ không bắn trâu, sẽ không ăn thịt trâu.
       - Bậy nào, viết như cháu là chính trị lắm. Chúng mị dân, mình phải vạch mặt chúng ra.
       Hồi đó tôi đã đọc nhiều sách lắm. Nhờ đọc nhiều mới nghĩ được như vậy, mới hỏi được những câu đó, nhưng dù sao vẫn là những ý nghĩ con nít. Cái đầu tôi rối rắm, nghi ngờ cái truyện ngắn của tôi. Tốt nhất là nghe lời chú Cảnh, chỉ viết những gì mình hiểu, mình biết. Tôi hý hoáy viết lại tryuện ngắn
                                
                                  TRÂU BƠI QUA SÔNG
                      
                          …Chúng tôi khóc tức tưởi, khóc quặn thắt cả ruột. Một ông già chăn trâu tốt bụng xuất hiện. Ông quất túi bụi vào con trâu, không cho nó lên bờ. Con trâu không chịu nổi roi của ông già lại bơi về. Chúng tôi khóc rồi chúng tôi cười. Cái roi của ông già cũng chỉ quất vào đít, vào đầu con trâu vậy thôi.
            Đáng ra phải vo cả hai tập bản thảo ấy vứt ra bờ rào. Nhưng là tác phẩm tôi đẻ ra, tôi tiếc. Tôi gói lại và bây giờ nó còn trong đống bản thảo ngày một dày thêm của tôi. Đó là một đôi song sinh mà khuôn mặt và hình hài không giống nhau.
            Sau 30/4/1975, tôi được về phép thăm quê ở phía Nam sông Hiền Lương sau 21 năm xa cách. Ngồi trên thuyền gắn máy từ thị xã về quê miệt biển, có rất nhiều người bị ly tán trong chiến tranh tìm lại quê nhà. Thuyền cặp vào một bến phụ cho hai mẹ con một hành khách lên bờ. Tôi chợt nghĩ, người đàn bà này không học chính sách ba khoan như những người phụ nữ miền Bắc. Đứa con nhỏ của chị khoảng tuổi rưởi, mẹ đã có bầu, bụng tròn căng như quả bí.
              Cái bến phụ thoải dài. Thuyền chưa vào đến bờ đã mắc cạn. Người đàn ông có dáng vẻ phờ phạc ngồi trước mũi thuyền, nhảy xuống nước bồng đứa trẻ nhỏ lên bờ, lại lội xuống, một tay dìu người đàn bà có cái bụng chửa sắp đến ngày sinh, một tay cắp hộ hành lý lặc lè. Một chi tiết rất bình dị nhưng tôi có cảm xúc mạnh vì sự ân cần của người đàn ông thương vợ. Nhưng rồi anh ta đẩy thuyền ra, bám tay vào mạn thuyền nhảy lên, ngồi vào chổ cũ. Anh ta không phải là chồng của chị ấy? - “Chồng gì, thấy người thì giúp (anh lái đò nói nhỏ với tôi) lính ngụy thua trận, chính quyền đổ, được cách mạng cho về quê đó.”
             Quê hương tôi những ngày sau chiến tranh thật là xơ xác, bề bộn và thương tâm. Người ta nhặt nhạnh những mảnh tôn, những thanh sắt, những đoạn tre,  khúc gỗ, để mong dựng được túp lều che mưa nắng. Người anh họ xa của tôi là trung tá ngụy quân, đón tôi, anh nói:
           - Làng ta chỉ có ba người đi theo cách mạng, chỉ còn một là chú trở về. Một người đã chết trận. Một người là cán bộ nằm vùng bị bắt, sau đó chiêu hồi rồi mất tích. Thấy tôi đảo mắt nhìn những người đàn ông làm những việc khác nhau, xa gần quanh đó, anh nói:
          - Họ đều là lính trong lực lượng Việt Nam cọng hòa mà phía các chú gọi là ngụy quân.
          Tôi nhìn hai cha con một ngư dân kéo một tấm véc lưới mắt nhỏ ở đầm làng. Tôi biết ở cái đầm ấy chỉ có rạm và những con cá mài mại bằng ngón tay, vậy mà họ vẫn kéo suốt ngày này qua ngày khác. Sau mỗi lượt kéo, cả hai cha con lại rủ rong, nhặt từ con cá con tới con tép. Thím tôi nói:
          - Hai cha con ông ấy, cả nhà ấy nghèo. Trước khi đi lính ngụy chỉ làm nghề kéo tép, thua trận, cách mạng cho về, lại kéo tép.
          Mấy người nữa đang san đất làm nền. Khá nhiều người đàn ông khác đang cuốc đất trồng khoai, trồng rau. Tất cả họ trông lam lũ, hiền khô như những nông dân miền Bắc.
             Tôi chợt nghĩ đến cái truyện ngắn đầu tay “TRÂU BƠI QUA SÔNG”. May quá, chú Cảnh không đăng cái truyện đó của tôi lên báo.

                                              *

               Anh bạn miền Bắc đập tay lên vai tôi:
            - Hay quá! Cái truyện ngắn của ông hay quá! Chính nó, chúng tôi muốn tìm.
            Tôi đang nghĩ miên man bỗng bừng tỉnh:
            - Truyện nào?
            - Là cái truyện này: TRÂU BƠI QUA SÔNG. Chỉ một việc nho nhỏ ai thấy cũng thường, ông viết ra vấn đề, rất lập trường chính trị, địch, ta, rõ ràng.
          Trời đất! Tôi đã nghe những lời này từ mồm ông thôn trưởng của tôi hơn 40 năm trước. Bây giờ ông thôn trưởng đã chết già rồi. Chiến tranh đã đi qua hơn 35 năm vẫn có một người nói y chang ông thôn trưởng của tôi.
        - Tôi biết thế nào anh cũng có bài viết về sông Hiền Lương và đôi bờ giới tuyến. Chúng tôi không nhìn nhầm người. Anh là người trong cuộc mới viết được thế này. Thật là ghê gớm khi bọn ngụy moi tim con trâu, ăn nhồm nhoàm, kinh tởm và đáng khinh bỉ biết bao.
      Tôi giải thích với anh thì quá dài và cũng chưa chắc anh đã tán thành. Tôi không thích đăng truyện ngắn này ở bất cứ báo nào.
       - Anh cứ cho tôi đăng với bất cứ một bút danh nào đó.
       - Bút danh?
       - Vâng, bút danh, ví như “Chiến thắng”, “Tất thắng”, “Nhất định thắng”, “Tin tưởng”, “ Lạc quan”,  “Phấn khởi”.
       - Bút danh quái quỷ gì lạ?
       - Đại loại là thế, miễn rằng không phiền đến tên thật của anh. Tôi nghĩ không ra, một tác phẩm tuyệt vời như thế này mà anh không ghi tên thật quả là một thiệt thòi.
              Như sợ tôi đòi lại, anh gấp tập bản thảo làm bốn cho vào túi áo khoác của mình. Anh bắt tay tôi hồ hởi, cám ơn, chào tạm biệt, quên cả chuyện đài thọ cho tác giả, mừng vui như hoàn thành nghị quyết.
            
                                                         
                                                                      Hiền Lương 9.2.2011


Phần nhận xét hiển thị trên trang

sách đất đai sẽ ly khai ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’


>> Bắt Trưởng đại diện Báo Kinh doanh và Pháp luật tại Hải Phòng
>> Hé lộ đại gia “thao túng” thị trường bất động sản Đà Nẵng


Người Việt



























HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Phúc vừa thừa nhận: “Cần phải điều chỉnh quy mô sản xuất bằng cách mở rộng hạn điền một cách phù hợp.” “Hạn điền” vốn là một phần quan trọng của “định hướng xã hội chủ nghĩa.”

Cho đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn xem đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân. Các cá nhân và tổ chức, trong đó có doanh nghiệp không được sở hữu mà chỉ có quyền “sử dụng đất” bởi đó là một trong những yếu tố cấu thành nền tảng của “chủ nghĩa cộng sản.”

Tuy tuyên bố sẽ xây dựng kinh tế thị trường nhưng chính quyền Việt Nam vẫn khẳng định, “kinh tế thị trường” ở Việt Nam là “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.” “Hạn điền” – đặt định giới hạn nhằm khống chế diện tích sử dụng đất nông nghiệp là một kiểu khắc họa quyết tâm đeo đuổi “định hướng xã hội chủ nghĩa” (bất kể thế nào cũng không được quá 33 héc ta).

Những áp đặt đối với đất đai, bao gồm cả giới hạn về diện tích lẫn cách thức sử dụng đã được chứng minh là lý do khiến nông nghiệp Việt Nam lụn bại, nông dân Việt Nam khốn cùng.

Một trong những bằng chứng rõ ràng nhất là cả lượng gạo lẫn giá gạo xuất cảng của Việt Nam cùng giảm liên tục. So với năm 2015, lượng gạo xuất cảng của Việt Nam trong năm 2016 giảm 25% và giảm đến 40% về giá trị.

Hồi thượng tuần tháng này, Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương (CIEM) công bố kết quả một cuộc khảo sát về những vấn đề có liên quan đến nông nghiệp và xuất cảng gạo. Theo đó giá gạo xuất cảng của Việt Nam giống như tự nguyện bù lỗ cho thiên hạ: Trong vài năm vừa qua, giá gạo xuất cảng (từ 5 đến 7 triệu tấn) luôn thấp hơn giá gạo bán lẻ trong nước!

Sự phi lý ấy đã được các chuyên gia chứng minh là lỗi lầm của chính sách. Năm 2009, chính phủ Việt Nam ban hành một nghị quyết (63/2009/NQ-CP) để “bảo đảm an ninh lương thực quốc gia,” buộc phải duy trì diện tích trồng lúa ở mức 3.8 triệu héc ta, trong đó có 3.2 triệu héc ta mỗi năm trồng ít nhất hai vụ lúa. Nghị quyết này xác định phải duy trì sản lượng lúa ở mức đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất cảng 4 triệu tấn gạo/năm. Từ đó đến nay, nghị quyết vừa kể trở thành “kim chỉ nam” cho hoạt động nông nghiệp nói chung, cũng như sản xuất và xuất cảng gạo nói riêng.

Theo CIEM, do nhu cầu về gạo (cả tiêu dùng lẫn xuất cảng) không lớn như dự báo nên sản lượng lúa – gạo trở thành dự thừa. Chính sự dư thừa này làm giá gạo xuất cảng giảm, cả nông dân lẫn quốc gia cùng thua thiệt. Nếu cứ tiếp tục duy trì diện tích trồng lúa và ép nông nghiệp phải đạt sản lượng như nghị quyết 63/2009/NQ-CP đề ra từ 2009, mức độ thua thiệt sẽ càng ngày càng lớn.

Theo nhiều chuyên gia kinh tế và nông nghiệp, việc khăng khăng duy trì diện tích trồng lúa và tiếp tục áp đặt về sản lượng đã khiến lúa gạo trở thành dư thừa, nông dân làm việc cực nhọc mà vẫn không đủ sống nên họ thi nhau bỏ hoang ruộng đất.

Trên thị trường gạo thế giới, dư thừa làm gạo Việt Nam mất nhiều lợi thế, đặc biệt là khi phải cạnh tranh với lượng gạo xuất cảng vốn càng ngày càng cao của nhiều quốc gia khác. Đó cũng là lý do gạo xuất cảng của Việt Nam càng ngày càng phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.

Do quá chú trọng vào sản xuất và xuất cảng lúa gạo, các lĩnh vực khác của nông nghiệp Việt Nam không được đầu tư, hỗ trợ thỏa đáng nên tiếp tục “giậm chân tại chỗ.” Sử dụng đất đai trở thành thiếu hiệu quả, không thu hút được đầu tư vào nông nghiệp.

CIEM đã đưa ra nhiều khuyến cáo, theo đó, không cần phải duy trì đến 3.8 triệu héc ta đất chỉ để trồng lúa. Hủy bỏ hạn điền, hủy bỏ các qui định khiến giới đầu tư hoang mang vì quyền tài sản đối với đất nông nghiệp mập mờ (khống chế thời hạn sử dụng, nếu bị thu hồi thì chỉ được bồi thường với giá rất thấp,…).

Trước đây, những khuyến cáo của các chuyên gia không được xem xét nhưng vào lúc này, sự bi đát của nông nghiệp và nông dân Việt Nam đã đẩy chính quyền Việt Nam đến chỗ phải “xét lại.”

Tại một hội nghị bàn về giải pháp phát triển bền vững cho lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long, diễn ra ở An Giang, ông Nguyễn Xuân Phúc thừa nhận, lúa gạo vẫn là một loại nông sản chiến lược mà Việt Nam có nhiều lợi thế, nếu “sản xuất lớn, áp dụng công nghệ, quản lý phù hợp và tiếp thị tốt” thì hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa gạo sẽ tăng nhiều lần so với hiện nay. Cũng vì vậy “phải điều chỉnh quy mô sản xuất bằng cách mở rộng hạn điền một cách phù hợp.”

Ông Phúc nhấn mạnh, các bộ Nông Nghiệp – Phát Triển Nông Thôn, Tài Nguyên – Môi Trường phải sớm soạn thảo – trình chính sách phù hợp để mở rộng hạn điền song song với kế hoạch sửa Hiến Pháp để chính phủ Việt Nam trình Quốc Hội. (G.Đ)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Giáo dục là cuộc sống - Triết lý của John Dewey


NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

(GDVN) - John Dewey có lẽ là người đầu tiên nói đến vai trò của giáo viên như một người làm “nghệ thuật”, người vẽ nên những tâm hồn và tương lai của con người.
LTS: Quý vị và các bạn đang theo dõi bài viết của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương, nghiên cứu sinh về giáo dục Hoa Kỳ.
Trong bài viết này, tác giả chia sẻ về những triết lý giáo dục của nhà giáo, triết gia nổi tiếng John Dewey. 
Qua đó, tác giả hy vọng Việt Nam sẽ áp dụng được những điểm tích cực để phát huy hơn nữa tính dân chủ trong trường học.
Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết!
John Dewey (1859-1952) là một nhà giáo, một triết gia, một nhà cải cách và là nhà tư tưởng lớn của Mỹ trong thế kỷ 20.  
Ông là người đưa ra những nguyên lý và học thuyết về giáo dục, mà những giá trị của nó vẫn đang được ứng dụng cho đến nay, không chỉ ở Mỹ mà trên hầu hết các nước.
Theo Dewey, giáo dục không chỉ để chuẩn bị cho cuộc sống, mà giáo dục chính là cuộc sống.
Bởi mỗi đứa trẻ, mỗi học sinh với học tập, chính là học qua trải nghiệm và điều này luôn có giá trị sâu sắc nhất cho mỗi cuộc đời của con người chúng ta. 
"Giáo dục là cuộc sống" là triết lý giáo dục của John Dewey. (Ảnh: Wikipedia.org)
Hầu hết các nhà giáo, các bậc cha mẹ có thể không quên một câu châm ngôn nổi tiếng:
Nếu bạn nói, tôi sẽ quên
Nếu bạn chỉ dẫn, tôi sẽ nhớ một nửa
Và nếu bạn để tôi làm, tôi sẽ không thể quên
”.
Đây chính là nguyên lý giáo dục và học tập qua trải nghiệm mà Dewey là người luôn khuyến khích tất cả chúng ta hướng đến.
Theo đó, những giá trị trải nghiệm học tập cần được là trải nghiệm, được học thật, sống thật và tôn trọng những giá trị nhân bản của con người thật.
Cá nhân tôi, với gần 3 năm học tập trên đất Mỹ, cùng với những trải nghiệm về giáo dục Mỹ, học về giáo dục Mỹ, tôi luôn sử dụng triết lý của Dewey để phản ánh những trải nghiệm của mình, không chỉ trong học tập, mà trong mọi hoạt động của cuộc sống. 
Vì giáo dục là cuộc sống, nó đòi hỏi việc mọi nỗ lực được hướng đến con trẻ, người học và tính đa dạng trong cuộc sống thực tế.  
Dewey đã xây dựng một trường thực nghiệm ở Đại học Chicago nhằm có cơ hội trải nghiệm, quan sát và rút ra những kinh nghiệm trong giáo dục của mình.

Giáo dục công lập - Công nghệ Giáo dục và nhóm Cánh Buồm

Và đó là cơ sở để ông viết những cuốn sách về giáo dục có giá trị trong suốt hơn thế kỷ nay ở Mỹ và trên thế giới.  
Những cuốn sách như: “Dân chủ và Giáo dục”, “Kinh nghiệm và Giáo dục” là những cuốn sách cơ bản và nằm lòng của bất kỳ ai theo học ngành giáo dục của Mỹ.
Trong cuốn “Dân chủ và Giáo dục”, Dewey đã trình bày những tư duy xuyên suốt về những tập hợp khái niệm cơ bản gắn liền với giáo dục như:
1. Giáo dục là nhu cầu của cuộc sống
2. Giáo dục là chức năng của xã hội
3. Giáo dục là định hướng xã hội
4. Giáo dục là động lực tăng trưởng xã hội
5. Nhìn nhận giáo dục dưới góc độ bảo thủ và dưới góc độ tiến bộ
6. Tính dân chủ trong giáo dục
7. Nhu cầu quan tâm và tính kỷ luật trong giáo dục
8. Trải nghiệm và tư duy trong học tập
9. Trò chơi và học tập trong chương trình học
10. Giá trị của giáo dục…
Trước khi đến Mỹ, tôi luôn suy nghĩ giáo dục là giáo dục, là học những phương pháp để truyền tải kiến thức từ thế hệ này sang thế hệ khác.  
Nhưng không, Dewey đã giúp tôi có được những góc nhìn độc lập trong một tổng thể của giáo dục.  
Bạn sẽ không thể biết được tính định hướng của giáo dục nếu bạn chưa hiểu rõ những chức năng xã hội của giáo dục. 
Bạn cũng không hiểu được tại sao muốn phát triển giáo dục, đặc biệt ở giáo dục sớm (early child education), bạn cần quan tâm đến các chính sách về kinh tế, về xóa đói nghèo và bất bình đẳng trong xã hội.  
Dewey là người khích lệ việc nước Mỹ đổi mới giáo dục theo cách đa dạng hóa các mô hình dạy học, phương pháp học, vì đơn giản, đấy là sự tôn trọng “dân chủ” trong giáo dục, nghĩa là mỗi cá nhân học sinh có được quyền học và phát triển phù hợp với năng lực của bản thân. 
Không có mô hình nào là “One size fits All” (tạm dịch, “Một mô hình sử dụng phù hợp cho tất cả”).
Tôi mất hơn 3 năm đọc, trải nghiệm qua chính cuộc sống học và nghiên cứu về giáo dục của Mỹ của bản thân, để hiểu rõ hơn về khái niệm “dân chủ” trong giáo dục Mỹ.  

Không làm rõ, nắm chắc triết lý, mục tiêu giáo dục, đổi mới sẽ mất phương hướng

Không dễ để hiểu tại sao xã hội Mỹ, dân Mỹ được “tự do” trong khái niệm học tập.
Dân chủ trong học tập, với học sinh, là cơ hội, là quyền được học và phát triển năng lực cá nhân.  
Với giáo viên, đó là sự tự chủ, tự lựa chọn tài liệu cho chương trình phù hợp, tự chịu trách nhiệm về phương pháp giảng dạy của mình cho phù hợp với từng học sinh mình đang giảng, là tính có khả năng giải trình về việc tại sao họ tin đây là cách dạy đúng đắn cho học sinh của họ. 
Với nhà trường, hệ thống quản trị nhà trường ý thức rõ việc họ là những người đóng vai trò hỗ trợ và giúp đỡ cho giáo viên dạy tốt nhất và học sinh học tốt nhất…
Và sẽ không có ai được áp đặt suy nghĩ, ý tưởng lên ai, dù đấy là quan hệ giữa giáo viên và học sinh. 
Trong cuốn “Dân chủ và Giáo dục”, Dewey có lẽ là người đầu tiên nói đến vai trò của giáo viên như một người làm “nghệ thuật”, người vẽ nên những tâm hồn và tương lai của con người.  
Như một nghệ sỹ (hoặc múa, hát và vẽ), thầy giáo là người truyền tải kiến thức cho học sinh, nhưng đấy chỉ là bước đầu tiên trong nghề giáo.
Bởi tính quan trọng và được chân quý của nhà giáo lại phụ thuộc vào khả năng làm sao giáo viên thúc đẩy được lòng đam mê, sự yêu thích cuộc sống, môn học và nếu nói theo ngôn ngữ hiện đại, thúc đẩy tính tò mò, dám thử nghiệm khoa học và nghiên cứu, dám mắc sai lầm và dám sống thật.  
Chính vì giá trị này của người thầy, Dewey đặc biệt nhấn mạnh trong cuộc đời giảng dạy, đòi hỏi người thầy cần và nên có một kinh nghiệm sống, một kinh nghiệm gắn bó với môn học và cuộc sống của trường học.  

Triết lý giáo dục Việt Nam qua phân tích của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam

Theo Dewey, trải nghiệm trong giảng dạy của người thầy là những kinh nghiệm đã đạt được trong quá trình người thầy dạy học và là những nỗ lực hướng tới những tiến bộ hơn nữa, trong một quá trình của phát triển dạy học. 
Theo ông, trong nỗ lực quản lý từng khóa học, thực ra không có sự phân biệt giữa môn dạy và phương pháp. Dewey chia sẻ như sau:
Như một nghệ sỹ chơi piano, người đã thuộc lòng bài chơi của mình với cây đàn, người nghệ sỹ sẽ không thể phân biệt giữa việc anh ta chơi đàn và cây đàn có gì khác nhau, tất cả đều để tạo nên một bài chơi hay nhất” [1]
Cá nhân tôi không thấy có so sánh nào hay như Dewey đã trình bày trên đây về nghề dạy học. Ông đã nâng việc dạy lên thành một nghệ thuật, nghệ thuật dạy người.  
Và đấy là cách mà Dewey tư duy về tính dân chủ trong giáo dục. Vì đã là nghệ thuật, nó vừa nằm trong phương pháp chung để chơi đàn, nó lại có tính cá nhân cao độ, để mỗi giáo viên được bộc lộ, được chia sẻ, được dạy và phát triển học sinh của mình theo cách mà họ tin là tốt nhất.  
Vì điều này, trong nghề giáo, niềm tin là rất quan trọng. Niềm tin của gia đình với trường học, với giáo viên, và ngược lại, niềm tin của giáo viên vào năng lực của mỗi học sinh.  
Tuy nhiên, cũng vì tính dân chủ trong môi trường dạy và học, người thầy và học trò là cùng học, cùng phát triển, nên ở Mỹ, giáo viên không được “thần tượng hóa”.  
Giáo viên vẫn là người đang trong quá trình hoàn thiện việc dạy học của mình, cũng vẫn là một người cần học liên tục để đáp ứng việc học tập suốt đời của học sinh, họ không nhất thiết phải biết tất cả, họ không phải là người đúng trong mọi trường hợp, và đặc biệt, họ không có quyền “phán xét” bất kỳ học sinh nào, dù là về năng lực hay tính cách.  
Điều này khá lạ với trải nghiệm của tôi từ giáo dục Việt Nam. Sẽ không ai có thể biết là bạn nào hay hơn bạn nào, bạn nào giỏi hơn bạn nào, và bạn nào đang có kỷ luật ở môn nào…

Triết lý giáo dục - Việt Nam đã có chân lý này hay chưa?

Điều này là sự tôn trọng tối cao về tính cá nhân của người học, cũng như của người dạy. 
Trường học là để giúp đỡ, thương yêu và nâng cao năng lực học tập của học sinh, chứ không là nơi đánh giá về con người, mặc dù họ cũng yêu cầu học sinh phải tuân thủ những kỷ luật trường học và nếu không đáp ứng, những biện pháp cần thiết cũng sẽ được áp dụng.
Trong quá trình Việt Nam sắp tới thực hiện cải cách toàn diện giáo dục phổ thông, xin được giới thiệu tới các bạn về John Dewey và tư tưởng của ông về giáo dục, gắn với dân chủ và với trải nghiệm học tập của học sinh, như là một triết lý cho giáo dục Mỹ và giáo dục hiện đại thế kỷ 20.
Giáo dục là cuộc sống, và cuộc sống chính là giáo dục. Đơn giản vậy, nhưng để đưa những tư tưởng này vào trường học, đưa vào môn học quả là không dễ.
Hy vọng là những tư tưởng của Dewey có thể khai sáng và giúp chúng ta phần nào giải quyết được việc dân chủ hóa trường học ở Việt Nam chăng?
Tài liệu tham khảo: 
[1] Page 179, Dân chủ và Giáo dục, John Dewey, 2012 Simon & Brown
Nguyễn Thị Lan Hương