Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 27 tháng 3, 2017

Ông Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng 1979


Tác giả:  Balazs Szalontai

.Tiến sĩ Balazs Szalontai là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006). Bài viết dựa vào kho tư liệu tại Hungary và thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Bài đã đăng tháng 4/2010 trên bbcvietnamese.com ở giao diện cũ.
KD: Chính trị ở bất cứ QG nào cũng cực kỳ phức tạp, trong đó có VN. Nhưng người nào mà dính líu tới TQ, bám vào TQ, một láng giềng đầy dã tâm với nước Việt thì chắc chắn không thể là người đàng hoàng. Không những thế, còn rất đáng hổ thẹn
———–
 
Bản quyền hình ảnh Getty Images Image caption Ông Hoàng Văn Hoan (thứ nhì từ trái sang) lãnh đạo phái đoàn Việt Minh đứng cạnh Thứ trưởng Ấn Độ KG Mathur (đeo kính) tại Dehli năm 1954, bên trái ông Mathur là ông Hà Văn Lâu
Nhân kỷ niệm Chiến tranh Biên giới Việt – Trung 1979, BBC đăng lại bài của tiến sĩ Balazs Szalontai về số phận ông Hoàng Văn Hoan, người từng là lãnh đạo cao cấp nhưng bị ‘tử hình vắng mặt’ vì chạy theo Trung Quốc:
Khi đã lưu vong ở Trung Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan, nhân vật lãnh đạo vào hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước tới nay, nói rằng sau cuộc chiến Việt – Trung, có tới 300.000 đảng viên thân Trung Quốc bị phe “thân Liên Xô” của Lê Duẩn loại bỏ.
Một cuộc thanh trừng nội bộ quả đã diễn ra trong 1979-80, nhưng như hồ sơ Hungary tiết lộ, ông Hoan đã phóng đại nhiều về tầm mức.
Việc thanh trừng vừa là nỗ lực bóc tách các “phần tử thân TQ” thật sự và tiềm năng, nhưng nó cũng là biểu hiệu của khủng hoảng kinh tế – xã hội ăn sâu ở VN.

Vai trò cá nhân

Sự đóng góp của ông Hoàng Văn Hoan cho phong trào Cộng sản VN không to lớn như ông nói mà cũng không nhỏ bé như phát ngôn nhân của Hà Nội cáo buộc sau khi ông đã bỏ trốn sang Trung Quốc.
Là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, ông có thời gian dài ở TQ. Trong cuộc chiến kháng Pháp, ông giữ chức thứ trưởng quốc phòng.
Năm 1948, ông được giao việc thành lập Văn phòng Hải ngoại ở Thái Lan, và sau đó là đại sứ đầu tiên của Bắc Việt ở Trung Quốc.
Mặc dù là thành viên thứ 13 trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1956, và sau này vào Bộ Chính trị, nhưng Hoan không thuộc vào nhóm lãnh đạo chủ chốt nhất.
Vị trí cao nhất ông từng giữ là phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, và không nằm trong Ban Bí thư đầy quyền lực. Kết quả là, vị trí của ông bị lung lay hơn trước biến đổi trong quan hệ Việt – Trung, khi so với Trường Chinh hay Lê Duẩn là những người luôn có thể giữ vị trí, cho dù Hà Nội thân thiện với Bắc Kinh hay không.
Được biết vì tình cảm thân thiện với TQ, ông Hoan đạt đỉnh cao sự nghiệp vào đầu thập niên 1960 khi Bắc Việt tạm thời có thái độ thân TQ trong tranh chấp Liên Xô – TQ. Năm 1963, khi Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị thay bằng Xuân Thủy (thân TQ hơn), ông Hoan cũng thành Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng.
Nhưng trong giai đoạn 1965-66, quan hệ Xô – Việt bắt đầu cải thiện, cùng lúc với căng thẳng gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Trong môi trường mới này, ban lãnh đạo cảm thấy cần thay cả Xuân Thủy và Hoàng Văn Hoan bằng những cán bộ ít dính líu hơn đến chính sách thân TQ trước đây của ban lãnh đạo Hà Nội.
Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn vì Trung – Mỹ làm hòa, có vẻ càng làm vị thế ông Hoan bị suy giảm.
Dù vậy ông vẫn là nhân vật quan trọng trong quan hệ Việt – Trung.
Ví dụ, năm 1969, chính ông đã giúp hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài và khó khăn quanh viện trợ kinh tế của TQ. Tháng Năm 1973, ông tiến hành hội đàm bí mật tại Bắc Kinh về vấn đề Campuchia.
Năm 1974, ông Hoàng Văn Hoan cùng Nguyễn Côn, Bí thư Trung ương Đảng, đi TQ để “chữa bệnh”, nhưng có thể sứ mạng thực sự lại liên quan đến đàm phán biên giới bí mật Việt – Trung từ tháng Tám tới tháng 11, mà kết quả đã thất bại.
Bản quyền hình ảnh AFP
Image caption Lãnh tụ Bắc VN, ông Hồ Chí Minh ăn trưa cùng Chủ tịch TQ Lưu Thiếu Kỳ tại Bắc Kinh tháng 8/1959
Sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam về Campuchia và Hoàng Sa đã không thể hàn gắn và làm cho Hoàng Văn Hoan không còn có thể đóng vai trò trung gian thành công. Lê Duẩn và các đồng chí kết luận họ không còn cần ông nữa. Những liên lạc của ông với Bắc Kinh nay bị xem là rủi ro an ninh.
Sau Cuộc chiến Việt Nam, những cán bộ mà Lê Duẩn không còn cần hoặc tin tưởng dần dần bị thay thế. Năm 1975, công chúng không còn thấy Nguyễn Côn, và năm sau, Hoàng Văn Hoan bị ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1979, khi xung đột Việt – Campuchia và Việt – Trung lan rộng thành chiến tranh, vị trí của ông Hoan càng trở nên bấp bênh. Sang tháng 6, ông quyết định đào tẩu.
Lấy cớ ra nước ngoài chữa bệnh, ông đã xuống máy bay ở Pakistan và sang Trung Quốc, ở lại đó cho tới ngày qua đời năm 1991.
Tại nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng cách nhấn mạnh ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo ông là đã biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân biệt đối xử, và dẫn tới việc chiếm đóng Campuchia. Cáo buộc của ông một phần dựa trên sự thật, vì ngay từ tháng Giêng 1977, Đảng Cộng sản VN đã dự định giải tán và tái định cư một phần cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn.
Hiệp ước Việt – Xô 1978 cũng là một phần quan trọng cho sự chuẩn bị đánh Campuchia.
Nhưng mặt khác, ông Hoan và phía bảo trợ là Trung Quốc dễ dàng bỏ qua là năm 1978, Việt Nam vẫn tìm cách tránh phụ thuộc Moscow quá mức bằng việc cải thiện quan hệ VN – Asean, và thảo luận cả khả năng gia nhập Asean trong tương lai.
Sự đào thoát của ông Hoan hẳn làm Bộ Chính trị vô cùng lúng túng vì họ vẫn quen tự mô tả mình là mẫu mực đoàn kết.
Bắc Kinh càng làm vết thương thêm đau rát. Hai ngày sau khi tới Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan được Tổng Bí thư Hoa Quốc Phong đón tiếp, và ông Hoa tuyên bố “những kẻ phá hoại tình hữu nghị Việt – Trung sẽ vỡ đầu”.
Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Các ông Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh bên linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969 ở Hà Nội
Mặc dù Việt Nam nhấn mạnh sự trốn chạy của Hoàng Văn Hoan chỉ là trường hợp riêng lẻ, nhưng Bộ Chính trị biết chính sách của họ không được toàn dân ủng hộ.
Mùa xuân 1979, khi giới chức bắt 8000 Hoa kiều tái định cư từ Hà Nội vào “Vùng Kinh tế Mới”, nhiều người Việt Nam đã không đồng ý khi các đồng đội người Hoa của họ bị buộc ra đi. Khác biệt cũng tồn tại trong nội bộ lãnh đạo.
Tháng Sáu 1978, Trường Chinh và Lê Văn Lương ban đầu phản đối việc thông qua nghị quyết gọi TQ là kẻ thù nguy hiểm nhất của VN.

Khủng hoảng xã hội

Sự thanh trừng không lớn như ông Hoàng Văn Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt – Trung.
Quyết loại bỏ những thành phần “bội phản”, giới chức có những biện pháp khắc nghiệt. Người Mèo và các cộng đồng thiểu số khác một phần đã phải ra đi khỏi các tỉnh miền bắc. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương trong tháng Tám, ban lãnh đạo bàn vụ Hoan trốn thoát và chỉ trích ngành an ninh.
Nhiều cán bộ cao cấp, như Lý Ban, cựu thứ trưởng ngoại thương có gốc Hoa, bị quản thúc. Tháng Giêng 1980, Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn bị buộc về hưu. Kiểm soát ngành an ninh được chuyển sang cho một ủy ban mới thành lập do Lê Đức Thọ đứng đầu. Xuân Thủy, người đã tiễn chân ông Hoan hồi tháng Sáu, cũng bị giáng chức.
Tuy nhiên, sự thanh trừng không lớn như ông Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt – Trung.
Trước hết, các vụ thanh trừng trong hàng ngũ Đảng đã bắt đầu từ những năm trước.
Giai đoạn 1970 – 75, chừng 80.000 đảng viên bị loại khỏi hàng ngũ, còn trong giai đoạn 1976-79, con số này là 74.000.
Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Bộ đội Việt Nam ở Lạng Sơn: cuộc chiến biên giới giết chết hàng vạn người chỉ trong vòng chưa đến 30 ngày
Thứ hai, nhiều người mất thẻ Đảng vì những lý do không liên quan xung đột Việt – Trung.
Việc trục xuất các cá nhân thân Trung Quốc đạt đỉnh cao từ tháng 11-1979 tới tháng Hai 1980, nhưng từ tháng Ba, quá trình này bắt đầu chậm lại, và ưu tiên của chiến dịch sau đó hướng sang chống tham ô, biển thủ và các hành vi tội phạm.
Tại miền Nam, khu vực mà số đảng viên chỉ chiếm một phần ba của đảng, giới lãnh đạo định loại bỏ chừng 5% đảng viên (so với tỉ lệ trung bình cả nước là 3%). Điều này không chỉ chứng tỏ Hà Nội nghi ngờ dân số miền Nam mà đây còn là cố gắng kỷ luật những cán bộ người Bắc đã lạm dụng quyền lực sau khi được bổ nhiệm vào Nam.
Các vấn nạn xã hội, kinh tế và tội phạm mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải đương đầu có vẻ khiến họ cố gắng hạn chế thiệt hại hơn là mở đợt thanh trừng chính trị to lớn.
Thất nghiệp và khan hiếm hàng hóa làm trộm cướp gia tăng. Giới chức đã phải huy động quân đội canh giữ ở cảng Hải Phòng nhưng cũng không có kết quả.
Ngược lại, một nhà ngoại giao Hungary nhận xét quân đội khi đó đang trở thành “quân dự bị gồm những kẻ tội phạm”. Không có việc làm, nhiều người lính giải ngũ đã phải thành trộm cướp.
Trong tình hình đó, ban lãnh đạo cộng sản, dù đã kết án tử hình vắng mặt với Hoàng Văn Hoan năm 1980, chỉ muốn xóa tên ông ra khỏi ký ức công chúng thay vì đưa ông ra cho người dân mắng chửi.
Và đến lúc qua đời, ông cũng đã “hết hạn sử dụng” đối với nước chủ nhà TQ, vì lúc đó, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều muốn làm hòa chứ không cãi nhau quanh những sự kiện của quá khứ.
Tiến sĩ Balazs Szalontai là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006). Bài viết dựa vào kho tư liệu tại Hungary và thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Bài đã đăng tháng 4/2010 trên bbcvietnamese.com ở giao diện cũ.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dân chủ và những “thượng đế” bị áp đặt!

Bùi Hoàng Tám


(Dân trí) - Muốn có dân chủ trong nhà trường thì phải có dân chủ trong đời sống xã hội và ngược lại, muốn có dân chủ trong đời sống xã hội thì trước hết, phải có dân chủ trong nhà trường, phải không các bạn?

Có ba câu hỏi về vấn đề “nhạy cảm” đã được Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam thẳng thắn đề cập đến tại Hội nghị về thực hiện quy chế dân chủ trong cơ sở giáo dục đào tạo vào ngày 24/3 qua, đó là: Thứ nhất, mất dân chủ trong trường học có phải hiện tượng phổ biến không hay chỉ là cá biệt? Thứ hai, nếu như việc thực hiện dân chủ chưa tốt thì có phải do thiếu văn bản quy định không? Thứ ba, nếu văn bản quy định có đủ, thì nguyên nhân tình trạng vi phạm dân chủ trong trường học là do đâu?

Nói “nhạy cảm” không bởi nó bị “cấm đoán” mà bởi đây là vấn đề cấp thiết, song công bằng mà nói, con đường đến dân chủ không chỉ trong trường học mà ở tất cả các môi trường đều có vấn đề, dù đây là một trong ba mục tiêu chính trong công cuộc xây dựng một xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh” mà Việt nam đang theo đuổi.

Trả lời câu hỏi của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Nghĩa khẳng định các văn bản quy định về thực hiện dân chủ trong cơ sở giáo dục hiện nay là tương đối đầy đủ, việc mất dân chủ ở một số trường là có nhưng không nhiều.

Tuy nhiên, về quan điểm cá nhân, người viết bài này đồng tình 50/50 với Thứ trưởng Nghĩa. Tức là về văn bản, có thể nói chúng ta không thiếu. Song, việc mất dân chủ thì có lẽ không phải là “có nhưng không nhiều” như Thứ trưởng Nghĩa đánh giá.

Thậm chí, người viết bài này còn cho rằng không chỉ mất dân chủ mà còn có sự “khiếp nhược” mà gần đây nhất là qua vụ việc ở Trường Tiểu học Nam Trung Yên (Cầu Giấy, Hà Nội).

Nhìn lại sự việc trên, không thể không đặt một số câu hỏi như tại sao việc xảy ra tai nạn tại trường là có thật nhưng lúc đầu, các giáo viên trong trường đều ký vào văn bản nói rằng không có? Rồi sau khi hiệu trưởng, hiệu phó bị cách chức thì tất cả lại đồng tình với hình thức kỉ luật này?

Ở đây có hai khả năng. Một là sự dối trá của các giáo viên trong nhà trường và hai là sự khiếp nhược, sợ bị trù úm nên buộc họ phải dối trá.

Còn có một sự thật mà dư luận lâu nay bức xúc, đó là tình trạng thiếu minh bạch, “chạy việc” trong ngành giáo dục.

Theo ông Bạch Ngọc Chiến, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nam Định tại Hội nghị trên thì nguyên nhân chính khiến việc thực hiện quy chế dân chủ trong trường học không đầy đủ là do khâu tuyển dụng giáo viên hiện nay thiếu minh bạch. Ông Chiến bày tỏ nếu giáo viên được tuyển dụng thiếu minh bạch, một khi trở thành một hiệu trưởng, trải qua đầy đủ các mánh lới thì mất dân chủ là đương nhiên.

Trong khi đối với thày cô giáo trong trường mà còn không (hoặc ít) dân chủ thì làm sao có dân chủ dối với học sinh?

Có lẽ khó có thể nói khác, học sinh hiện nay đang là “những thượng đế bị áp đặt”. Áp đặt từ việc không được chọn trưởng, chọn lớp, chọn thầy, chọn cô cho đến chọn giáo trình và sách giáo khoa.

Ngay cả quan niệm nhất nhất phải vâng lời thầy cô mới là ngoan cũng cần phải xem lại bởi thứ nhất, không phải lúc nào thầy, cô cũng đúng. Thứ hai, việc áp đặt này sẽ triệt tiêu cá tính và tư duy phản biện, một điều rất cần có đối với mỗi cá nhân trong cuộc sống hiện đại.

Thứ ba, việc luôn coi “thầy cô là tấm gương sáng” đã áp đặt mục tiêu phấn đấu luôn lấy thầy cô là “đích đến”, cần vươn tới trong khi mỗi thế hệ có những chuẩn mực khác nhau và cả “cái đích” của thế hệ sau cũng cần cao hơn thế hệ trước như câu tục ngữ “Con hơn cha là nhà có phúc”.

Đó là chưa kể sự “áp đặt” phải luôn luôn là “tấm gương sáng” là một thách thức không nhỏ với thầy cô trong xã hội hiện nay.

Một điều nữa cũng rất cần lưu tâm, đó là dù trường học là nơi xuất phát, song muốn có dân chủ trong trường học thì cũng rất cần dân chủ trong nhiều mặt khác của đời sống xã hội bởi trường học không phải là “ốc đảo” riêng biệt, tách rời.

Do đó, muốn có dân chủ đối với thế hệ tương lai thì trước hết, phải có dân chủ từ các nhà quản lý giáo dục mà đầu tiên phải bắt đầu từ Bộ GD&ĐT để các em không bị áp đặt và tiếp đó là dân chủ ngay trong các thầy cô giáo nhà trường

Tóm lại, muốn có dân chủ trong nhà trường thì phải có dân chủ trong đời sống xã hội và ngược lại, muốn có dân chủ trong đời sống xã hội thì trước hết, phải có dân chủ trong nhà trường, phải không các bạn?
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hơn 60,000 người yêu cầu Đài Loan áp lực Formosa ‘khắc phục thảm họa’


NGHỆ AN, Việt Nam – Hơn 60,000 người yêu cầu chính phủ Đài Loan, các định chế quốc tế làm áp lực buộc công ty Formosa khắc phục thảm họa, trả lại môi trường trong sạch và đền bù thỏa đáng cho các nạn nhân. Một bản kiến nghị do “Ban hỗ trợ nạn nhân ô nhiễm môi trường biển giáo phận Vinh,” với sự tiếp tay của các tổ chức xã hội dân sự, gần đây được phát động trên mạng để mọi người có thể tham gia ký tên. Người muốn ký tên có thể vào trang: https://thamhoaformosa.com.

Người biểu tình leo lên vách tường bao bọc công ty 
Formosa
  ở Hà Tĩnh với các biểu ngữ. (Hình: Người Kỳ Anh)
Bản kiến nghị gởi đến tổng thống, chủ tịch Quốc Hội và thủ tướng chính phủ Đài Loan, Chương Trình Môi Trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP), Liên Hiệp Âu Châu, Ngân Hàng Thế Giới, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu, Các tổ chức, hiệp hội bảo vệ môi trường quốc tế và những người yêu chuộng công lý và bảo vệ môi trường.

“Tháng Tư, 2016, công ty Formosa đã thải một lượng lớn chất thải độc hại ra biển miền Trung Việt Nam gây ô nhiễm nghiêm trọng kéo dài hơn 250 km bờ biển làm sinh vật chết hàng loạt. Cá, tôm, san hô và nhiều loại thủy sản chết làm hệ sinh thái thềm lục địa miền Trung Việt Nam bị phá hủy, theo đánh giá phải mất hàng chục năm mới có thể khắc phục hậu quả này. Ngoài ra, độc tố từ chất thải công nghiệp đang tích tụ vào trầm tích đáy biển là hiểm họa có thể gây bệnh tật nguy hại cho tương lai lâu dài của người dân Việt Nam.” Bản kiến nghị nói trên viết.

Bản kiến nghị cho biết: “Thảm họa Formosa đã phá hủy nguồn thủy sản, là nguồn thực phẩm chính yếu, truyền thống của người dân Việt Nam. Bên cạnh đó, thảm họa này đã cướp mất nghề nghiệp của hàng trăm ngàn lao động trong các ngành đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá. Các nghề nghiệp liên quan như du lịch, khách sạn, nhà hàng… cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhiều gia đình lâm vào cảnh túng quẫn do thất nghiệp, nhiều người phải bỏ quê hương xứ sở đi mưu sinh ở những nơi xa. Nhiều trẻ em có nguy cơ rơi vào cảnh thất học do gia đình mất nguồn thu nhập.”

Chưa hết, “Bên cạnh đó, chúng tôi còn đối mặt với nguy cơ mắc các chứng bệnh nan y như ung thư, dị tật, quái thai, thần kinh… do ăn phải thực phẩm bị nhiễm độc tố kim loại nặng do Formosa thải ra tồn lưu trong biển. Kinh hoàng hơn nữa khi báo chí đã tiết lộ nhiều thông tin cho rằng, Formosa không chỉ xả thải ra biển mà còn chôn chất thải rắn nhiều nơi trên đất liền và cả nguồn khí thải cũng chứa nhiều độc tố. Chúng tôi thật sự rất hoang mang lo sợ cho sức khỏe, tính mạng của chúng tôi và tương lai giống nòi của chúng tôi.”

Tuy sự thiệt hại môi trường biển cũng như sự thiệt hại đối với đời sống kinh tế và xã hội của người dân miền Trung Việt Nam cần hàng chục tỷ đô la để khắc phục, nhưng nhà cầm quyền Hà Nội đã chịu cầm $500 triệu của Formosa gọi là “bồi thường.” Số tiền tuy rất nhỏ so với thiệt hại nhưng nhà cầm quyền chỉ phát lại một phần nào trong số đó cho các người dân trong danh sách mà họ lập ra, không phải toàn thể những nạn nhân. Đã vậy, nhà cầm quyền địa phương còn ma mãnh, phân phát theo ý riêng, không đúng thực tế khiến dân chúng biểu tình chống đối.

Hiện người dân ở một số địa phương, ngay cả ở huyện Kỳ Anh, nơi có nhà máy luyện thép Formosa, vẫn biểu tình đòi hỏi đền bù thỏa đáng cho các sự thiệt hại họ đã phải chịu và còn đang tiếp tục phải chịu đựng, tương lai bất định.

Trước tình hình như thế, Ban Hỗ Trợ nạn nhân ô nhiễm môi trường biển giáo phận Vinh và các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam kêu gọi “Chính quyền Đài Loan sử dụng thẩm quyền của mình để buộc Formosa phải hành xử có trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh” trên đất nước Việt Nam.

Buộc họ “tôn trọng môi trường sống của người dân Việt Nam, đồng thời đưa ra phương án cụ thể để khắc phục thảm họa, trả lại môi trường trong sạch và đền bù thỏa đáng cho các nạn nhân.”

Sau cùng, bản kiến nghị “mong Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Âu Châu, Ngân Hàng Quốc Tế, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu cùng với các tổ chức môi trường giúp chúng tôi đưa ra phương án và yêu cầu chính phủ Việt Nam nỗ lực khắc phục môi trường và đời sống của nạn nhân.”

Cho tới buổi sáng ngàu 26 Tháng Ba, 2017, đã có 61,210 người ký tên trên bản kiến nghị. Những người ký tên đầu tiên là Giám Mục Nguyễn Thái Hợp và hơn 200 linh mục của giáo phận Vinh cùng hàng ngàn giáo dân của giáo phận cùng các người khắp nơi trong ngoài nước Việt Nam.

Người muốn ký tên có thể vào trang: https://thamhoaformosa.com. Tuy nhiên, truy cập có thể khó khăn vì bị “kẻ xấu” tấn công nên không phải lúc nào cũng vào được. (TN)

Người Việt


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ Nhật, 26 tháng 3, 2017

"Thuở cỏ đang xuân"


Nhà thơ Vũ Quần Phương vừa xuất bản tập thơ mới "Phía ngoài kia là rừng". Tập thơ 40 bài, với nhiều suy nghĩ và chiêm nghiêm.
Xin giới thiệu bài "Thuở cỏ đang xuân" tôi viết về nhà thơ Vũ Quần Phương. Bài đã in trên báo Văn Nghệ, số tết năm trước.
THUỞ CỎ ĐANG XUÂN
Vũ Từ Trang
Đã gần năm mươi năm, khi thời trai trẻ, Vũ Quần Phương từng viết “Chống cằm trên bãi cỏ/Ngực áp giữa màu xanh/Tôi nằm nghe xung quanh/Nắng bay mùi đất mới/Trời trưa lên trong veo/Nước chảy ngoài sông cái/Gió vườn như trẻ dại/Cây cành như biết reo…” Đấy là thời tâm hồn thơ thới, niềm tin yêu tràn đầy, câu thơ ào ạt, tuy vậy, đã ẩn chứa nhiều nghĩ suy. Những câu thơ trăn trở chợt hiện “Những gì ta thương yêu/Sau bờ tre kia nhỉ”, để rồi “Tôi nằm nghe thương yêu/Nghĩ về xa tít tắp”.
Trong một bài thơ trước đó, “Phăng-xi-păng ta lên đến đỉnh” ông có những liên tưởng thú vị:
Tưởng bắt gặp những tầng mây nguyên thủy
Vạn năm còn ngơ ngẩn giữa không trung.
Câu thơ hay trong bài, mà bạn bè viết thường nhắc “Lá ải bay mùi men cổ sơ”, thì thấy ngoài khả năng quan sát tinh tế ở bề mặt, nó còn ẩn chứa cái bề sâu nghĩ ngợi của nhà thơ. Cũng bài viết về cỏ, trong tập “Những điều cùng đến”, tập thơ thứ ba của ông, sau mười năm, cảm xúc không còn hồn nhiên nữa. Tôi thấy cỏ được trồng vào chỗ cỏ (Cỏ trên hè phố), dường như ông sớm tin vào sự sắp đặt các giá trị trong xã hội. Ông là người có cách nói khéo trong thơ. Ngay nửa tập thơ đầu trình làng cùng Văn Thảo Nguyên (tập Cỏ mùa xuân), ông đã có những câu thơ phơi ra cái khéo, cái tinh tế. Khói đặc bay trong mùi lá ướt là câu thơ hay. Bình thường, người ta chỉ viết “Khói đặc bay trong vườn lá ướt”, với ông, lại thấy khói bay trong mùi lá ướt. Câu thơ được cấu thành từ hai chiều: thị giác và khứu giác. Câu thơ lập thể, ra đời từ sự tinh tế và tài hoa của tác giả.
Ở một bài thơ ngắn “Thơ tặng làng Quần Phương”, thay một lời chia sẻ, giãi bày:
Tên Quần Phương, thân tha phương
Tôi lấy tên quê làm độ đường
Sáu tuổi tiễn cha về với đất
Nấm mộ bên đường hóa cố hương.
Bài thơ neo vào tâm trí người đọc. Không phải vì dung lượng ngắn, mà cái chính, là bởi giọng nói chân tình, đắng đót của số phận. Quê cha, Quần Phương, Nam Định. Quê mẹ, làng Canh, Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội. Gia cảnh éo le, cha mất sớm, khi ông sáu tuổi. Rồi từ đấy, số phận đưa đẩy ông lưu lạc đó đây. Tổng Quần Phương, thuộc huyện Hải Hậu, vùng đất trù phú của Nam Định. Cách đây hơn chục năm, tôi có dịp cùng mấy anh em văn chương được ông đưa về thăm quê. Đấy là chiều mưa xuân tầm tã. Tới bến sông Ninh Cơ, bên chiếc cầu đá cũ càng, mưa càng nặng hạt. Ai nấy phải giơ tay vuốt mặt mới nhìn rõ làng xóm. Chả biết có phải mưa lạnh, hay vì cảm xúc quê hương ùa về, mà ông đứng lặng bên sông khá lâu. Ông chỉ cho chúng tôi con đường đất dẫn về làng. Làng xóm, một vệt xanh mờ đặc, lom đom bếp lửa chiều, gợi sự cô quạnh nhiều hơn là sự bình yên.
Sau này, tôi có đọc mấy đoạn hồi ức về quê mà ông in trên một tạp chí, làm tôi càng nhớ cảm giác buồn chiều mưa quê ông mùa xuân năm ấy. Khi đến độ có tuổi, hầu hết kỷ niệm về quê, ai nấy đều đẫm buồn. Tôi hình dung khi ông tám tuổi, lẫm chẫm đội cái nồi đồng từ làng qua sông, để bán cho người nhà lấy tiền hai bà cháu sinh sống. Cái nồi to và nặng, đội sùm sụp trên đầu. Cậu bé tám tuổi gày yếu, hễ muốn nhìn rõ đưởng đi, lại phải dùng hai tay nâng lên khỏi tầm mắt. Cậu bé mồ côi cha ở với bà nội. Bà nội nửa năm chịu hai đại tang, con chết và chồng chết, sống ngây ngây dại dại. Chiến tranh vẫn liên miên. Tuổi thơ trong cảnh nghèo đói và côi cút. Từ sáu tuổi đến chin tuổi, xa mẹ xa em. Chỉ được một năm sống cùng mẹ và em ở làng Yên Phụ, Hà Nội. Rồi năm mười tuổi, lại xa mẹ, về ở trọ phố Tức Mạc, gần ga Hàng Cỏ để đi học. Có đận, ông phải vào nương nhờ cửa Phật, chùa Thái Cam, phố Hàng Gà. Tuổi thơ vất vả, nó ảnh hưởng rất nhiều đến cách cảm, cách nghĩ trong đời sống và trong những câu thơ ông viết ra sau này.
Việc ông vào học trường y, có phần cũng xuất phát từ cảnh ngộ tuổi thơ lầm lũi của mình. Trong nhà, đã trải qua nhiều cuộc tiễn đưa người chết trẻ vì bệnh tật. Ông muốn vào trường thuốc, trường y để học cách chữa bệnh cứu người. Ấy nhưng với tuổi thơ lầm lũi và côi cút, văn học hình như có sức mạnh cứu rỗi lớn hơn. Hai người thầy dạy phổ thông, có ảnh hưởng nhiều tới chí hướng của ông, rồi gắn cả đời mình vào con đường văn chương, là thầy Hoài Việt, thầy Nguyễn Xuân Huy. Những bài thơ ban đầu, được anh em còn nhắc đến nhiều, như “Trên đài quan trắc khí tượng”, “Phăng-xi-păng ta lên đến đỉnh”, là thời Vũ Quần Phương còn là sinh viên trường Đại học y.
Có câu thơ trong bài thơ thưở đầu đó, đã ám, đã vận vào đời ông “Ta tính đất trời ta định đời ta”. Ra trường, được về công tác ở Bộ y tế, nếu tiến thân theo con đường công chức, thì đó là thuận lợi lớn. Nhưng khốn nỗi, trái tim luôn ào ạt những cảm xúc về cảnh đời, phận người, nên ông dần dồn chí hướng cho con đường thi ca. Những bài thơ đầu ông công bố trên báo chí, được anh em viết tại Hà Nội nhiệt liệt cổ xúy. Với con mắt tinh đời, nhà thơ Chế Lan Viên nhìn nhận cây bút trẻ này có nhiều triển vọng và sẽ có vị trí xứng đáng trong văn đàn. Ông tận tình chia sẻ, góp ý và gợi ý chuyển nhà thơ-bác sỹ về làm việc tại Hội nhà văn. Đấy là năm 1969. Nhưng hai năm sau, ông mới chuyển về Đài tiếng nói Việt Nam, làm việc ở chương trình tiếng thơ. Gắn bó với chương trình tiếng thơ ở Đài mười hai năm, ông cùng đồng nghiệp cải tiến chương trình ngâm thơ, bình thơ, thu hút được đông đảo thính giả. Rồi ông lại chuyển sang công tác tại Nhà xuất bản Văn học, cùng anh em làm những bộ sách tuyển tập văn học giá trị. Rồi ông lại chuyển về làm chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, làm tổng biên tập tờ báo Người Hà Nội. Ông từng là chủ tịch hội đồng thơ của Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng từng là đại biểu Quốc hội, khóa 9.
*
* *
Trong “Tuyển tập thơ Vũ Quần Phương”, NXB Hội nhà văn, 2012, có bài thơ “Cửa bể” tuy chỉ hai dòng, nhưng lại chứa chất nhiều suy tư, nghĩ ngợi.
Đến đây gần biển xa nguồn
Con sông chảy chậm, nỗi buồn tan lâu.
Bài thơ viết năm 1980, khi ông bốn mươi tuổi, cái tuổi nhi bất hoặc. Tôi dám chắc, nếu thời còn trai trẻ, hẳn chưa viết được bài này. Bài thơ cấu tứ giản dị, hình tượng không có gì đặc biệt, ấy vậy, nó lại ám ảnh người đọc. Nhất là người đọc đã trải qua nhiều dâu bể. Chỉ một câu sáu và một câu tám chữ, mà nó gói trọn bao nỗi niềm trần thế. Nếu người xưa thường lấy hình tượng cửa bể để gắn với chiều hôm, thì ở đây, nhà thơ không giới hạn thời gian cụ thể. Có thể là ban sớm, có thể là chiều hôm. Sự đời vốn liên tục hợp tan. Cuộc chia ly dùng dằng giữa sông và bể, hay giữa hai con người? Lẽ đời hợp tan là muôn thưở, mà cớ sao sông chảy chậm lại? Cái nhoi nhói ở đây, là nỗi buồn tan lâu. Giá sông cứ cuồn cuộn, ào ạt cuốn đi, thì có khi lại đỡ nặng lòng người. Thơ viết về cái cụ thể, để nói về cái không cụ thể, nó là thế mạnh của nhà thơ Vũ Quần Phương.
Là một nhà thơ trưởng thành trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngay từ khi mới xuất hiện, Vũ Quần Phương đã khẳng định vị thế thơ ca của mình. Những khuôn mặt thơ hàng đầu của thế hệ này tại Hà Nội, có Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh và Vũ Quần Phương. Ngay ngày đó, thơ của họ đã định hình phong cách. Đó là: Bằng Việt nặng chất suy tư, Lưu Quang Vũ đắm say, Xuân Quỳnh da diết, Vũ Quần Phương nhiều chiêm nghiệm. Ngay khi mới xuất hiện, thơ Vũ Quần Phương đã đạt độ tinh, độ kỹ, có lúc tới mức tỉa tót. Trong mỗi bài thơ, không có câu non lép. Thơ ông thường quan tâm đến đề tài thời gian, nhất là những năm gần đây, có phải ông tiếc một thuở cỏ còn xuân? Thơ viết về quê hương, gia đình, ông có những cảm xúc trĩu nặng. Ông là người có ý thức lao động cật lực trên cánh đồng thi ca của mình. Tính thời vụ, gối vụ như được hòa quyện và tạo ra những mùa màng liên tục. Hành trình vươn tới cái đích của thi ca, luôn thấy sự vận động, không đứt đoạn ở ông. Là người cầm bút chuyên nghiệp, ông luôn chú ý học hỏi và lao động kỳ khu trên từng con chữ của mình.
Nhận định về thơ ca cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20- giai đoạn vàng của thi ca Nga, với tên tuổi các thi sỹ chói lọi, có nhà phê bình văn học đã xếp loại: Mai-a thơ của công nghiệp, Pa-stéc-nắck thơ của thành phố, Bơ-lốck thơ của ngoại ô và Ê-xê-nhin thơ của đồng quê. Mượn cách đánh giá, xếp loại này, có thể tạm phân: Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, thơ của thị thành. Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương, thơ của ngoại ô. Ấy là cách xếp loại theo mỹ cảm sáng tạo của mỗi tác giả, nó chỉ có ý nghĩa tương đối.
Lao động sáng tạo, là sự phấn đấu tột cùng của mỗi người nghệ sỹ. Vũ Quần Phương là người luôn có ý thức vươn lên với chính mình, làm mới mình. Những năm đầu đổi mới của thập kỷ tám mươi, thế kỷ trước, anh em viết lách ở Hà Nội có chuyền tay nhau đọc bài thơ nói về sự đổi gác của nhà thơ Việt Phương. Tôi còn nhớ đại khái, nhà thơ viết rằng, đã tới kỳ đổi gác, mọi người hãy cố lên, một sự đổi mới bắt đầu. Thơ như một dự báo. Năm ấy, nhà thơ Vũ Quần Phương cũng cho in bài thơ “Cầu đã qua sông”. Có thể lấy từ cảm hứng một cây cầu lớn mới bắc qua sông Hồng, nhưng cái điệp ngữ “cầu đã qua sông” ám ảnh tôi và cho tôi liên tưởng tới một thời kỳ mới mẻ. Háo hức khen, nhưng khi bình tĩnh đọc lại, như thấy bài thơ chưa nói kịp những gì mình chờ đợi. Ở những tập thơ sau của ông, có nhiều bài đã nói rõ hơn điều ông muốn nói. Ví như, bài “Tịnh khẩu” và “Thôi kệ”…
Thôi và kệ. Kệ rồi thôi. Thôi kệ!
Sống đã là thôi kệ trăm năm
Cái tặc lưỡi cho thắng thua, còn mất…
Rồi:
Thôi kệ gió. Thôi kệ mưa. Mưa gió!
Đi trong mưa thì ta vẫn ngoài mưa
Đứng trước gió nhưng lòng ta đã gió
Gió ngoài kia đâu biết gió trong này
Ta đã sống cái thời không dễ sống
Những câu thơ không cần tỉa tót, nhưng lại đến trực diện với người đọc. Vì nó là suy nghĩ, là thái độ của nhà thơ. Nhân nói điều này, tôi thấy ở thơ Bằng Việt có nhiều bài, nhiều tập thơ phơi rõ thái độ của ông. Đó là thái độ “Ném câu thơ vào gió” và “Nheo mắt nhìn thế giới”. Thời nào chả vậy, cuộc sống luôn cần con người có thái độ. Ném câu thơ vào gió, có gì sự cả quyết dấn thân và cóc cần. Còn Nheo mắt nhìn thế giới có chút gì đấy khinh khi, coi nhẹ. Ở nhà thơ Vũ Quần Phương, ít thấy thái độ trực diện, mà nó như được dấu sau những câu thơ vân vi tâm trạng. Nhân viết về hoa phượng, ông đã thốt lên Yêu được hết lòng yêu không phải dễ. Nói về ngã ba đường đời, ông như muốn kêu lên Một ngày xa nữa là qua một đời. Xem ra đời người ai cũng phải gặp nhiều ngã ba lựa chọn. Có một nhà thơ nữ, viết “Ra khỏi nhà, em đã gặp ngã ba”. Hình như trong tình yêu, phụ nữ thường quyết đáp mạnh mẽ và dứt khoát hơn nam giới. Đường dang hai ngả tay chia một đời. Ông viết như thế, rõ là có sự chùng chình, do dự rồi. Thơ ông hay, khi viết về sự vân vi. Nhân nói về làng vườn Thuận Vi, ông thành thật Chưa bước xa cây đã nhớ người. Trong bài thơ “Tình yêu, dòng sông”, ông thắc thỏm lo: Em yêu anh có yêu được như sông? Trong bài thơ “Sóng và gió”, ông tự thú Lúc nguội hết nỗi đau/Là lúc đau lắm chứ. Bình tâm đọc lại thơ Vũ Quần Phương, thấy thơ ông thường buồn. Có lúc thẫm buồn. Ngay khi viết về gia đình đoàn tụ nhân ngày tết, cái tết ở xa tổ quốc Nhà ta đón tết với riêng mình/Một năm gom lại bao thương nhớ/Một đời đồng bãi, lũy tre xanh/Ừ vui, vui chứ! vui cay mắt…Với tâm hồn đa cảm như thế, thơ ông thường chùng chình, thiếu thái độ dứt khoát. Hình như các nhà thơ có chung nỗi niềm như vậy. Chả thế, trong một bài thơ của mình, nhà thơ Nguyễn Duy từng thốt lên “Tôi vốn không rành mạch bao giờ!”
Kế cận, học tập được nhiều kinh nghiệm của lớp nhà thơ đi trước, như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên…Vũ Quần Phương cũng dành phần tâm huyết đáng kể cho việc viết nghiên cứu, phê bình thơ và đi nói chuyện thơ. Ông là người thẩm thơ tinh, biết gọi ra hồn cốt của mỗi tác giả. Sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu từng nói rằng, phê bình là đi che lọng cho thiên hạ, vậy hãy chọn mặt mà che. Vì thế, Xuân Diệu dồn tâm lực viết về các nhà thơ cổ điển. Nhà thơ trẻ duy nhất mà ông viết, mà viết rất kỹ, là Trần Đăng Khoa. Còn ở Vũ Quần Phương, ông lại viết về nhiều người, nhiều thế hệ. Có người mới chập chững bước vào con đường thơ ca, thấy có nét được, ông cũng viết cổ xúy. Tôi nghĩ ông viết vì sự yêu quý, cũng có khi vì sự cả nể. Nhưng có kẻ lại sinh nghi ngờ ông vì cái nhiệt tình này. Văn chương thời buổi bây giờ cũng đến lắm chiều. Tuy nhiên, tập “Bình thơ”, NXB Dân Trí, 2012 và “Bóng mát dọc đường xa”, NXB Hội Nhà Văn, 2014, là hai tập có nhiều bài phê bình xuất sắc của ông. Ông đã từng đi nói chuyện thơ tới gần hai ngàn buổi. Ông là người có cách nói thông minh, hóm hỉnh, đôi khi biết cù vào cảm thụ của người nghe, nên nhiều nơi mời chào ông đến nói chuyện. Thấy ông tất bật đi tỉnh Bắc tỉnh Nam nói chuyện thơ, có người đùa ông: có phải sợ mọi người quên mình, mà đi nói chuyện nhiều thế?!
Thời trước, cả tuổi thơ sống trong cảnh đói nghèo, cô đơn. Thời nay, khi về già, ông được sống trong niềm hạnh phúc của gia đình con cái thành đạt. Đời sống vật chất, so với anh em trong giới văn chương, ông là người đầy đủ. Nhưng ông vẫn giữ cái nếp sống căn cơ, tiết kiệm thưở nào. Tiết kiệm tiền bạc, tiết kiệm thời gian. Có người bảo ông, tội gì sống thế. Tôi thì cho là không phải vậy. Ông muốn dành cho sự sống hữu ích. Có cảm thông với cảnh cậu bé tám tuổi phải đội cái nồi đồng to úp chụp trên đầu đi bán, để có tiền sinh sống, có thấu hiểu cảnh ngộ côi cút bên bến sông quê mờ mịt mưa gió ngóng mẹ, mới hiểu lề lối sống của ông bây giờ. Mừng thay, trái tim thi sỹ của ông vẫn đập rộn lên nhịp tươi trẻ. Trong bài “Thơ vui mùa lễ hội”, đầy chất u-mua, ông viết: “Bốn nghìn năm mấy gian nan/ Mồ hôi thấm đất máu loang cõi bờ/ Đất cha ông ấy bây giờ/ Trống giong cờ mở ngồi chờ…liên hoan. Để rồi,”Trách trời ăn ở đa đoan/Kẻ mưu nuốt đất, người toan bán trời”.Một thực tế cần suy nghĩ: “Cháu con văn hiến rạng ngời/Chân đi Giao chỉ, miệng mời đầu tư/Tình tình…nước cũ non xưa…”
Đọc bài thơ vui này, mà tôi chợt gặp nỗi buồn se sắt. Gặp nỗi niềm canh cánh của người cầm bút từng trải và có trách nhiệm.
Tháng 12-2015


Phần nhận xét hiển thị trên trang

PHẠM CÔNG THIỆN KỲ TUYỆT MỘT THIÊN TÀI



Phạm Công Thiện, kỳ tuyệt một thiên tài       Có những con người đến rồi đi qua mặt đất, trần gian này như một cơn giông tố bão bùng, sấm sét, gây chấn động kinh hồn, làm bùng vỡ một điều chi kỳ vĩ, tinh khôi trên bầu trời tâm thức nhân loại, Phạm Công Thiện là một con người độc đáo như vậy.

        Đấy là một giáo sư, tư tưởng gia, nhà văn, nghệ sỹ hay một thi sỹ kỳ tuyệt thiên tài, như đại văn hào Henry Miller từ Hoa Kỳ đã phát biểu trong một thư gởi Phạm Công Thiện, đề ngày 8.8.1966 : “Mới ở tuổi 25 mà là khoa trưởng văn chương ở một đại học nổi tiếng trong xứ sở của ông, quả nhiên là thiên tài. Điều đó thật phi thường quá, quả thật khó tin, thật như chuyện huyền thoại.” Đúng vậy, một con người đã đến và đi như huyền thoại giữa cuộc sống thiên diễn, đầy biến động trên quê hương đất nước Việt Nam.

       Làm sao nói về con người kỳ diệu này ? Vào một chiều tháng 6, bắt đầu mùa hạ năm 1941, Phạm Công Thiện ra đời bên dòng sông thơ mộng Cửu Long, một dòng sông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, ngút ngàn chảy xuống dọc ven bờ phố thị Mỹ Tho, một thị xã nhỏ nhắn, lặng lẽ hiền hòa ở miền Nam. Thi sỹ lớn lên từ đó, từ thuở nhỏ vốn bẩm sinh thông minh xuất chúng, học một biết mười đến độ thông thạo nhiều ngôn ngữ, đọc hàng đống sách đủ loại Đông Tây kim cổ… Suốt ngày đêm cứ mặc sức mơ mộng, rong chơi và tha hồ tắm sông lội nước, nằm ngắm mây trời bay lãng đãng, xa xôi…

       Rồi bất thình lình, đột ngột một hôm vụt đứng dậy, xuất hiện trên văn đàn Việt Nam như một thần đồng, một thiên tài lỗi lạc, biết nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hán, Phạn, Pali, Tây Tạng, Tây Ban Nha… Từ thuở mới 13, 14 tuổi, chàng đã có những bài tiểu luận tham gia cộng tác với các tạp chí Phổ Thông, Dân Ta, Bông Lúa, Giữ Thơm Quê Mẹ, Văn, Văn Nghệ, Bách Khoa…Những bài viết triết lý, thi ca, viết về các nhà thơ, nhà văn trên thế giới, khiến Nguyễn Vỹ ( chủ bút tạp chí Phổ Thông, Dân Ta ) và học giả uy tín Nguyễn Hiến Lê đều nể phục, xem là thần đồng, một hiện tượng vô cùng hy hữu giữa thế kỷ XX.

       Năm 1957, mới 16 tuổi đã xuất bản Tự Điển Anh Ngữ Tinh Âm, 20 tuổi viết Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học, 23 tuổi, viết Tiểu Luận Bồ Đề Đạt Ma, 25, 26 tuổi, viết Hố Thẳm Tư Tưởng, Im Lặng Hố Thẳm, Ý Thức Bùng Vỡ, Bay Đi Những Cơn Mưa Phùn, Trời Tháng Tư, Ngày Sinh Của Rắn, Mặt Trời Không Bao Giờ Có Thực, Nikos Kazantzaki, Rainer Maria Rilke, Henry Miller và dịch thuật từ tiếng Anh, tiếng Đức những tác giả vĩ đại Krishnamurti, Nietzsche, Heidegger, Hoelderlin… làm chấn động toàn thể giới văn nghệ sỹ, trí thức Sài Gòn, miền Nam thời bấy giờ.
Phạm Công Thiện, kỳ tuyệt một thiên tài

       Thời kỳ ấy, từ 1966 đến 1970, mới 25 tuổi, Phạm Công Thiện đã làm Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, đồng thời là giám đốc soạn thảo Chương trình giảng dạy cho tất cả các phân khoa Xã hội Nhân văn và chủ biên tạp chí Tư Tưởng đã khơi nguồn mạch sáng tạo, trào dâng chất ngất cho giới văn nghệ. Mở ra thể điệu phiêu bồng trên cung bậc văn chương, tư tưởng, thiền học, triết lý, thi ca bát ngát diệu thường.

       Trước đó, nhà thơ cũng đã từng làm những chuyến giang hồ tứ chiếng, xách túi thơ bầu rượu ngao du sơn thủy qua New York, California, Paris, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Ba Tư, Ý Đại Lợi rồi, từng diện kiến, tiếp xúc với những nhân vật kiệt xuất, lừng lẫy trên thế giới như Krishnamurti ở Paris, Henry Miller ở Los Angeles.

       Văn chương, nghệ thuật, triết lý, thi ca, những tác giả kỳ cựu, những bậc cao thủ thời đó đều tập trung về Đại học Vạn Hạnh, tạo nên một bầu không khí sinh động vô vàn. Đang là thần tượng của đám sinh viên các Đại học Vạn Hạnh, Văn Khoa, Sài Gòn, Huế, Đà Lạt thì đùng một cái, Phạm Công Thiện bỏ ngang chức Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, lên đường viễn phương hành. Làm cuộc ra đi vô mục đích, nhảy tung vào Hố Thẳm Tư Tưởng không đáy bồng bềnh, lênh đênh qua tận bên kia bờ đại dương vào năm 29 tuổi, tức năm 1970.

       Đó là lúc Ý Thức Bùng Vỡ làm thay đổi cả một nếp sống bình sinh, hay cũng là một thái độ phản kháng cuộc chiến tranh tương tàn tương sát, đang diễn ra ở xứ sở Việt Nam đến độ khốc liệt, kinh hoàng, khủng khiếp nhất trên khắp hai miền Nam Bắc phân tranh. Cuộc nội chiến làm sụp đổ tan tành, tan hoang hết mọi sự trong tiêu điều, điêu linh, trầm thống...
Phạm Công Thiện, kỳ tuyệt một thiên tài

       Sống trong thời buổi loạn ly, bị khổn vây bầu không khí ngột ngạt như vậy, một hồn thơ sâu thẳm, nhạy cảm như chàng làm sao không rơi vào trạng thái cô đơn ? Cô đơn rờn lạnh hiu hắt, lặng buốt cả tim hồn thổn thức, cũng như bao thanh niên khác, chàng tìm đến tình yêu cho khuây khỏa bớt u sầu. Yêu nhau cảm động dường nào để cho lòng xao xuyến, xốn xang, chan chứa một điều chi da diết, trong tiếng hát liêu trai của nàng ca sỹ yếu gầy. Hình ảnh người ca sỹ yếu gầy ấy đã đi vào thi ca chàng một cách trữ tình, lãng mạn giữa trầm trầm mê mê bóng sương nhòa tha thiết trong hồn lệ rưng rưng :
Cô đơn về trắng sương rừng
Anh nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
Khuya buồn tủi nhục môi em
Mưa run lặng lẽ bên thềm bơ vơ
Tiếng ru vàng xuống đôi bờ
Hoang vu anh đứng đợi chờ chim kêu
Tay gầy ôm chặt tình yêu
Anh về phố gục những chiều hư vô
Đời đi trên những nấm mồ
Đau thương em hát cơ hồ khăn tang
Phố chiều thả bước lang thang
Như con sông nhỏ mơ màng biển xanh
Nửa đêm khói đốt đời anh
Yêu em câm lặng khô cành thu đông
Lời em như một dòng sông
Đôi bờ anh đứng giữa lòng hoa niên
Mưa chiều nước chảy triền miên
Một con chim dại lạc miền hoang lương
Về đâu thương những con đường
Lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa


Phạm Công Thiện: Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học. Tái bản lần thứ ba. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1966
** Phạm Công Thiện Henry Miller. Phạm Hoàng xuất bản, Sài Gòn 1969 
*** Lê Khắc Thanh Hoài. Chuyện Một Người Đàn Bà… Năm Con. Thời Đại xuất bản 2012
**** Phạm Công Thiện. Triết Lý Việt Nam Về Sự Vượt Biên. Trần Thi xuất bản, Hoa Kỳ 1995
***** Phạm Công Thiện. Những Bước Chân Nhẹ Nhàng Trở Về Sự Im Lặng. Phương Đông xuất bản 2008
****** Phạm Công Thiện. Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu Trên Mặt Đất. Trần Thi xuất bản, Hoa Kỳ 1988
Thơ Phạm Công Thiện ( chữ nghiêng ) trích trong các tác phẩm :
Ngày Sinh Của Rắn. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1966
Trên Tất Cả Đỉnh Cao Là Lặng Im. Văn Hóa Sài Gòn xuất bản 2009


Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHÀ THƠ VÀ CHUYỆN "GÁI GÚ"


Nhà thơ và chuyện "gái gú"



Nhà thơ Đỗ Hoàng vừa về thì ông đến. Không bấm chuông, ông cứ đứng trước cửa toáng lên réo: - Hoàng ơi! Hoàng!... Sao không có ai ra mở cửa thế này. Cái thằng này! Hoàng ơi! Hoàng...

Đứng trên ban công tầng 2, tôi vội với xuống: - Chú ơi! Anh Đỗ Hoàng vừa về. Anh ấy nhắn lại nếu rảnh thì chú qua nhà anh ấy chơi.

Ông gắt giọng: - Cậu xuống đây gặp tôi đi. Đứng trên đấy mà trả lời người lớn thì mất lịch sự quá.

Cửa vừa mở, chưa kịp nói câu xin lỗi, ông đã hất hàm hỏi: - Này! Thế cậu với Đỗ Hoàng có quan hệ với nhau kiểu gì thế?

Tôi cười: - Cháu quen biết anh ấy từ thời học Đại học.

Ông nhìn tôi, vẻ nghi hoặc, dài giọng: - Cậu cũng học Đại học?

Tôi cố nhịn cười, trả lời: - Vâng! Cháu cũng trầy trật 4 năm mới xong Đại học đấy ạ.

Ông nheo mắt, hất hàm: - Thế có biết làm thơ không?

Tôi thật thà: - Dạ! Cháu cũng chỉ mượn thơ để giãi bày tâm sự của mình thôi. Mà... Chú là nhà thơ Trần Lý?

Ông nghiêm nghị: - Trần Đình Lý! Tiến sĩ, nhà thơ Trần Đình Lý. Cậu réo tên tôi kiểu đấy rất thô thiển và mất lịch sự. Thế cậu cũng có thơ đăng ở trang của Đỗ Hoàng phụ trách à? Mà sao cậu không mời tôi vào nhà ngồi nói chuyện, cứ để tôi đứng ngoài đường thế này thì tệ quá.

Tôi gãi đầu, thành thật: - Cháu tưởng chú vội, với lại, chú cháu mình chưa biết nhau nên cháu ngại. Giờ chú nói vậy, cháu mời chú lên tầng 3, chú cháu mình ngồi uống trà, hàn huyên đôi ba câu chuyện.

Vừa ngồi xuống ghế, ông vỗ vai tôi: - Này, bỏ xưng hô chú cháu đi, nghe xa cách lắm. Anh em cho tình cảm.

Đưa nước mời ông, tôi tủm tỉm: - Dạ. Chắc cháu tầm tuổi con út của chú?

Ông cười: - Không! Cậu tầm tuổi con gái lớn của tôi. Các cụ nói không sai, con cái là tài sản quý lúc về già. Tôi có 3 đứa con, 2 gái một trai, đứa nào cũng ngoan ngoãn, nên người. Các cháu ngoại tôi tuyệt vời lắm. Ngoan, xinh và học giỏi. Mà cậu có mấy con? Thằng cu vừa rồi đẹp trai và ngoan nhỉ? Rất lễ phép! Cậu này! Giàu nghèo không quan trọng. Con cái ngoan ngoãn và thành đạt mới đáng để tự hào chứ mấy thằng trọc phú, con cái hư hỏng, văn hóa lùn tịt thì có gì để tự hào. Ấy thế mà cái bọn người đấy lúc nào cũng hợm hĩnh, ra vẻ ta đây, hình như họ không biết xấu hổ cậu ạ.

Rồi như chợt nhớ ra chuyện quan trọng, ông nhìn tôi, ngập ngừng: - Vừa rồi cậu nói cậu cũng biết làm thơ đúng không? Thế thì tôi đọc cậu nghe bài thơ tôi vừa viết tối qua, rồi cậu cho lời nhận xét thật khách quan nhé.

Tôi vội chối từ: - Ấy chết. Chú đừng bắt cháu làm việc đấy. Cháu cảm thơ kém lắm ạ. Với lại, khả năng ăn nói của cháu cũng có vấn đề nên chú cháu mình ngồi uống nước nói chuyện khác đi ạ.

Ông nhìn tôi, vẻ khó hiểu: - Làm thơ mà không thích nói chuyện về thơ thì làm thơ làm gì? Cậu có phong cách hệt thằng con trai tôi. Nó không thích nói chuyện về thơ ca nhưng lại thích nói chuyện về kỹ thuật vi tính, làm ăn, đại loại là những chuyện xã hội... Thằng ấy giỏi phết cậu ạ. Tự lập. Không thích dựa dẫm bố mẹ. Năm ngoái, vợ chồng nó mua được căn hộ hơn 6 tỷ bằng tiền kiếm được trong 3 năm đấy. Nó bảo không thích ở chung với bố mẹ nên hai vợ chồng nó phấn đấu kiếm tiền mua nhà rồi ra ở riêng. Giờ còn có 2 vợ chồng già, nhà thì rộng rãi, nhiều khi cũng thấy trống trải lắm.

Ông ngập ngừng một lúc rồi hỏi: - Cậu có hay đi đổi gió không? Là đi này kia với em út ý.

Thấy tôi bưng chén nước kề môi, cứ tủm tỉm cười, ông vội nói: - Chắc vợ chồng cậu hạnh phúc lắm nên không đi đổi gió chứ gì? Không có chuyện đó thì làm thơ mất hay, sáo lắm. Không có cảm hứng thì ra thơ sao được. Lẩn thẩn hết. Tôi đây này. Cái khoản gái gú còn máu hơn Đỗ Hoàng nhiều. Vợ tôi, bà ấy cũng hiểu chồng mình là giới văn nghệ sĩ nên cái khoản lãng mạn này kia không thể thiếu. Bà ấy cũng văn minh lắm, không ghen, không abc gì. Biết tỏng là tôi có bồ bịch mà tảng lờ cứ như không. Mà quái lạ. Chồng là nhà thơ mà vợ lại không thích nghe thơ mới oái oăm. Nhiều đêm, chợt nảy ra tứ thơ hay, quay sang nói với bà ấy thì bà ấy lại gắt: Ông lặng yên cho tôi ngủ. Thơ thẩn cái gì. Cậu thấy có bực không?

Nhấp ngụm trà. Ông lại hỏi dồn: - Thế vợ cậu không phản đối cậu làm thơ à? Thằng cu con cũng không thích thơ đúng không?

Khi biết tôi đang độc thân, ông chùng giọng: - Ừ, thế lại hay. Thoải mái cặp bồ, chả lo ai quản, chả lo làm tổn thương ai. Tôi nhiều lúc cũng muốn có bồ bịch bằng chúng bằng bạn nhưng ngại bà nhà tôi buồn nên khước từ hết. Nhà thơ mà. Nhiều gái mê lắm nhưng mình phải nghĩ đến tâm trạng của vợ con chứ...

Ông buông dở câu nói bằng tiếng thở dài.

Biết là phút thật lòng của ông nên tôi lảng sang chuyện khác để ông đỡ ngại chuyện chiến tích em út (gái miệng) của các nhà thơ. Chừng tiếng sau, vãn chuyện, ông đứng dậy ra về.

Vừa khóa cửa, chưa kịp bước lên cầu thang, tôi đã nghe tiếng ông oang oang điện cho nhà thơ Nguyễn Đăng Hành: - Ông Hành à! Tôi là Trần Đình Lý đây! Hôm nào tôi sang ông đàm đạo thơ rồi cùng nhau đi cưa gái nhé... Ừ. Nhà thơ mà! Gái gú không có thì ra thơ sao được! Lẩn thẩn hết! 

Hà Nội, chiều 16 tháng 03.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Phần nhận xét hiển thị trên trang