Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017

Mở hồ sơ lưu trữ về ấn đền Trần Nam Định




Trong dịp tiếp cận hồ sơ lưu trữ nằm ở Lưu trữ hải ngoại Pháp, chúng tôi xin hé mở đôi điều về những ấn triện và lệ phát ấn đền Trần Nam Định.

Hồ sơ lưu trữ về ấn tín đền Trần Nam Định

Liên quan tới ấn triện trong di tích Trần miếu, cho đến nay chỉ tìm thấy một hồ sơ lưu trữ thuộc Văn khố hải ngoại (còn gọi là Văn khố Bộ Thuộc địa) tọa lạc tại Aix-en-Provence (Pháp quốc). Ngoài ra, việc tìm kiếm tư liệu lưu trữ tại Việt Nam có liên quan tới di tích đền Trần và hoạt động văn hóa ấn đền Trần, tính đến tháng 8/2016 không cho thấy kết quả khả quan nào.

09-58-23_imge001
Bản in trên giấy vàng 4 ấn đền Trần (Mỹ Lộc, Nam Định) được lưu hành tại Hà Nội năm 1898 (Nguồn: Fonds RST, Văn khố hải ngoại Pháp quốc, ANOM)

Tại đây, trong văn khố Đông Dương, phông cũ của Tòa Thống sứ Bắc Kỳ có một hồ sơ lưu trữ diện mạo văn tự trên ấn đền Trần ở Nam Định. Theo hồ sơ này, thì vào năm 1898, chí ít có 4 đơn vị ấn của đền Trần (Mỹ Lộc, Nam Định) được lưu hành bản in rập trong dân, đó là: Ấn 1 : Bản tự chi từ phụng sự Trần triều hiển thánh sắc tứ tín ngưỡng chi bảo. Ấn 2 : Trần triều đức phát đương thời tín ấn). Ấn 3 : Ngũ hổ hiệu ký. Ấn 4 : Phật Pháp tăng bảo. (xem ảnh)

Trong hồ sơ này, cùng với bản in màu đỏ trên nền giấy vàng của 4 dấu ấn đền Trần (Nam Định), bản Hán văn do người đương thời (năm 1898) minh họa lại các văn tự triện thư trong ấn, là báo cáo bằng Pháp văn của Police indigène [Cảnh sát bản xứ], thuộc Tòa Công sứ Hà Nội, trực thuộc Thống sứ Bắc kỳ:

Hà Nội ngày 27 tháng Tư năm 1898

Hôm qua, có hai người bản địa đến từ Nam Định, có lẽ là các thầy cúng, dừng chân ở Hà Nội, tại phố Sinh Từ, đã phát cho một số dân An Nam ở phố này một mảnh giấy vàng in mấy dấu ấn mà sau đây là một bản kèm theo. Họ nói rằng mảnh giấy này là của một ngôi đền ở Mỹ Lộc thuộc tỉnh Nam Định, nó được phát ra để dán trong nhà ở nhằm phòng ngừa bệnh tật quanh năm cũng như trong những năm sau này. Hai người bản địa này sau đó đi về phía làng Tân Ấp.

Ngày 28 cùng tháng diễn ra một cuộc thi chim trong chùa Phương Bai (phố Hàng Gạch) - Có lẽ chỉ chùa (hoặc đình) thuộc thôn Hương Bài, một di tích văn hóa tọa lạc trên phố Ngõ Gạch (Hà Nội hiện nay) - ghi chú của tác giả.

Hà Nội ngày 28 tháng Tư năm 1898.

Còn bản dịch ấn triện của 4 ấn khác nhau cho nội dung như sau:

Vị thánh này là một nhân vật vĩ đại của triều đại các vua Trần, tên gọi Trần Quốc Tuấn, chú của vua Trần Nhân Tông (vị vua thứ ba của triều Trần, trị vì từ năm 1279 tới 1293). Ông nổi tiếng với công tích đánh bại một trong những viên đại tướng quân Nguyên Mông.

Ông được tôn thờ chủ yếu ở Chí Linh (Hải Dương, vùng Đông Triều), ở Mỹ Lộc (Nam Định)…, nói chung trong [hầu hết] các tỉnh Bắc Kỳ.

Ông được thờ phụng bởi các bậc cha mẹ mong muốn dạy dỗ con cái thật tốt.

Sinh thời, ông đã được tặng danh vị Hưng Đạo Đại vương [với ý nghĩa] là vị Đại vương [dẫn dắt] đạo hưng phát.

Đền Trần và tín ngưỡng Đức Thánh Trần: tiếng nói từ tư liệu

Hồ sơ lưu trữ cho thấy, ít nhất vào thời điểm năm 1898, riêng một di tích văn hóa thuộc huyện Mỹ Lộc (Nam Định) có sự lưu hành của 4 mặt ấn liên quan tới đức tin tôn kính công tích của triều đại nhà Trần (thế kỷ XIII). Theo ghi nhận hành chính đương thời, ý nghĩa tâm linh hàng đầu của các mặt ấn ấy dành cho việc phòng ngừa bệnh tật.

Một điều khác biệt so với đương đại: trong khi nhiều năm gần đây, dân chúng đương đại tấp nập đổ về Nam Định tham dự và cầu được sở hữu một bản in của ấn đền Trần, thì hơn một thể kỷ trước, người nhà đền của Trần miếu từ Nam Định lặn lội lên Hà Nội để phát tận tay người dân những bản in dấu ấn ấy. Tư liệu hiện tại chưa thể phản ảnh toàn diện mong muốn của người đương đại trên hành trình xin ấn đền Trần. Song với quan điểm sức khỏe là hàng đầu, rất nên công nhận tính thiết thực của người dân Việt hồi cuối thế kỷ XIX trong tín ngưỡng ấn đền Trần.

Hơn nữa, năm 1898 không chỉ là một năm riêng lẻ, ấy là một thời điểm trong thực tế triền miên thiên tai dịch họa ở Bắc kỳ. Người dân cuối thế kỷ XIX cầu khẩn sự che chở khỏi dịch bệnh cũng không khác tâm lý của quần chúng đầu thế kỷ XXI cầu công danh thành đạt để đảm bảo cuộc sống giảm thiểu rủi ro.

Tín ngưỡng chuyển đổi theo nhu cầu đời sống là hiện tượng có thực, không thể cứng nhắc phủ nhận. Tuy nhiên, đây là xu hướng và nhu cầu tín ngưỡng dân gian, do đó không nên nhà nước hóa nó qua sự xuất hiện của lãnh đạo cấp cao ở đây. Bởi lẽ, sự hiện diện của lãnh đạo công quyền ở cấp cao trong những hoạt động tín ngưỡng nhạy cảm như vậy sẽ được hiểu như là một sự định hướng cho quần chúng. Biết đâu chính sự hiện diện đó lại là một trong những nguyên nhân gây nên sự cuồng tín của đám đông.

Thực tế, ấn tín đền Trần Nam Định theo hồ sơ lưu trữ, vốn cũng không khác gì ấn tín đền Kiếp Bạc xưa nay. Trong khi hoạt động văn hóa liên quan ấn đền Trần - Kiếp Bạc vẫn tuần tự diễn ra vào tháng Tám âm lịch hằng năm, thì lễ phát ấn đền Trần Nam Định lại quá tải như vậy.

Rõ ràng là, đền Trần Nam Định trong chiều dài lịch sử văn hóa vùng Bắc Bộ Việt Nam, nhìn từ chứng cứ tư liệu, chưa từng bùng phát hiện tượng phát hành bản in ấn triện trên phạm vi quá rộng, với ý nghĩa tâm linh bồng bột lệch lạc như trong những năm đầu thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI. Thêm nữa, các ấn triện đền Trần trong chiều dài lịch sử không chỉ có một. Di tích đền Trần qua nhiều thế kỷ đã tăng về số lượng, đa dạng về địa bàn, có khả năng ấn triện được thờ trong các đền Trần là không hoàn toàn giống nhau. Các thế hệ vua Trần dù có hành hương về chốn tổ dâng lễ, bản chất chỉ là truy ân tiền nhân riêng một họ tộc hơn là sự điển chế hóa ở cấp quốc gia một lễ hội địa phương. Tôn trọng sự khác nhau trong từng di tích dù có chung đối tượng tôn thờ là một cách lưu trữ tính đặc sắc, đa dạng của văn hóa.

Mặt khác, không gian văn hóa của mỗi di tích cần được thấu hiểu và bảo lưu càng nhiều càng tốt ý nghĩa ban đầu của nó, với ngụ ý là đất tổ, cây gốc, để phái sinh những biến thể khỏe mạnh, tốt lành.

-

"Tín ngưỡng chuyển đổi theo nhu cầu đời sống là hiện tượng có thực, không thể cứng nhắc phủ nhận. Tuy nhiên, đây là xu hướng và nhu cầu tín ngưỡng dân gian, do đó không nên nhà nước hóa nó qua sự xuất hiện của lãnh đạo ở đây.

Bởi lẽ, sự hiện diện của lãnh đạo công quyền ở cấp cao trong những hoạt động tín ngưỡng nhạy cảm như vậy sẽ được hiểu như là một sự định hướng cho quần chúng. Biết đâu chính sự hiện diện đó lại là một trong những nguyên nhân gây nên sự cuồng tín của đám đông". (PGS.TS Đinh Khắc Thuân).
-
PGS.TS ĐINH KHẮC THUÂN - TS. VIỆT ANH
(Viện Nghiên cứu Hán Nôm)
http://nongnghiep.vn/mo-ho-so-luu-tru-ve-an-den-tran-nam-dinh-post183062.html



Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHỚ VỀ MỘT CÁI TẾT HÀ NỘI


Tương Lai
Hôm nay 30 Tết, năm cùng tháng tận, trong nỗi ám ảnh khôn nguôi của thế sự nhiễu nhương về thế nước bấp bênh mà da diết nhớ Tết Hà Nội. Có lẽ rõ hơn là nhớ bạn Hà Nội, người đã rời “cõi tạm”, người còn ở lại với những đa đoan trần thế. Bỗng bật dậy những kỷ niệm về những người bạn vong niên đáng kính từng để lại dấu ấn đậm nét. Nhớ câu chuyện ngày giáp Tết tại nhà anh Phạm Thủy Ba trên Bưởi năm ấy với những kỷ niệm khó quên.
Tối 27 tháng chạp, anh nhắn tôi: “Liệu có kiếm được một cái dạ dày to to thì mai mang lên. Đã hẹn được Tài Cẩn, Hoàng Tuệ, Trần Đình Hượu lên đây kiếm cái gì đấy làm bữa rượu tất niên, bà ấy đã đặt được cỗ lòng lợn ở chợ Bưởi nhưng có vẻ hơi ít, thêm một cái dạ dày nữa thì tươm cho 6 người”. Tôi mượn được cái “sổ Tôn Đản” cốt được vào cửa để đến nơi bán những thứ “không trong tiêu chuẩn” chỉ mất công xếp hàng nhằm xin mua cái dạ dày lợn “to to một tí”, đúng nghĩa đen hai từ “xin mua”. Đang xếp hàng thì giáo sư Trần Văn Giàu đi qua thấy tôi, ông dừng lại nói chuyện. Ông cười cười, nói nhỏ với tôi: “rồi cũng phải bỏ cái này thôi, dân người ta chửi cho quá lắm rồi”. Nói xong ông chìa cái túi đựng thịt, cá vừa “mua
theo tiêu chuẩn” ra, vỗ vào vai tôi, rồi đi.
Hôm sau lên Bưởi. Căn nhà tuyềnh toàng lợp ngói, nền đất nện, trống hoang trống
huých. Thú vị nhất là cái bàn ông bạn tôi ngồi viết và dịch sách chỉ có ba chân, chân thứ tư là thân cây ổi, ngọn chìa ra cửa sổ để che bóng nắng, nhưng mưa thì lại dẫn nước vào nhà nên phải có “giải pháp”! Ngồi dịch sách, ông bạn tôi lấy ánh sáng từ cái cửa sổ này vì điện quá chập chờn, thời gian bị cúp nhiều gấp nhiều lần thời gian chiếu sáng, ông bạn tôi phải đi đôi ủng có bít tất vì nhà lắm muỗi. Khi dịch vừa xong cuốn tiểu thuyêt của Charles Dickens thì cây cỏ dại từ dưới nền đất nện đã đủ sức vươn lên xuyên qua khe hở của tấm gỗ ghép làm mặt bàn. Tôi đưa tay tỉ mẩn vuốt ngọn lá cỏ, ngoái nhìn dịch giả. Anh nở nụ cười quen thuộc, hiền lành rất hóm!
Trong tủ sách của tôi nay còn giữ được “Một anh hùng thời đại” của Lermontov,
Ramayaina, ba tập, sử thi Ấn Độ, những sách Lý luận Xã hội học từ tiếng Anh và một số cuốn khác Phạm Thủy Ba dịch trên chiếc bàn độc đáo này. Sự cống hiến thầm lặng của người trí thức xứ Nghệ trên lĩnh vực dạy học, dịch sách văn học, xã hội học mà người bạn chí thân “hết ngày dài lại đến đêm thâu” cặm cụi là một nét tuyệt đẹp mà tôi cố giữ gìn và noi theo.
Dạo ấy, những lúc đầu óc, tâm trạng có những bất an, tôi hay một mình đạp xe ngược lên dốc Bưởi đến ngôi nhà tuyềnh toàng rộng mở và ấm cúng này để ngồi với người bạn chí thân hàng buổi khiến vợ tôi đôi lúc băn khoăn, thậm chí nặng lời, không hiểu ra được vì sao tôi dành thời gian căng thẳng và bận rộn của mình cho việc “vô bổ” này. Và chính ở đây, tôi kết thân với những người bạn vong niên mà hôm nay ngồi quanh bữa rượu tất niên đạm bạc nhưng lại cực kỳ sang trọng này.
·
Không tin tưởng lắm về tấm phản gỗ chủ nhà hay ngả lưng cho đỡ mỏi khi cả buổi
ngồi dịch sách, chưa biết chừng sụp xuống đánh đổ cả chén mắm tôm đĩa lòng lợn thì toi, mất cả tiệc tất niên, chúng tôi trải chiếu ngồi bên bậc thềm. Anh Nguyễn Tài Cẩn lục túi xách lấy ra một gói phó mát Nga làm sáng mắt thực khách. Anh Hoàng Tuệ cũng đưa ra một hộp trứng cá Nga nhưng được mua từ cửa hàng ở Sofia mà anh để dành lâu nay sau chuyến đi hội thảo về ngôn ngữ tại Bungari về. Anh Trần Đình Hượu thì lấy ra một chai rượu nút lá chuối nghe nói là “rượu làng Vân thứ thiệt” đặt lên chiếu cạnh vò rượu chủ nhà cất kỹ, vừa đưa ra. Và bữa rượu tất niên xem ra đã được chắt chiu chuẩn bị kỹ càng từ những người mà đáng nhẽ không phải lo đến chuyện “bếp núc” khi họ cần được dành sức lực, thời gian và trí
tuệ cho những gì mà họ đang làm.
Nâng ly rượu, anh Tài Cẩn bất ngờ nói, “chén rượu này trước hết mừng cho Hượu về những gì đã làm được ở Aix-en-Provence và cũng chúc mừng Tương Lai đã dàn xếp để có buổi thuyết trình của Hượu tại Hội trường Khoa giáo của Ban Tư tưởng Văn hóa để rồi sau đó được “cởi mũ” và được phép đi thỉnh giảng theo lời mời của Đại học nước ngoài”.
Anh Hượu chậm rãi nói về câu chuyện dài này nhưng tôi nghĩ là không tiện để kể lại đây. Anh Tài Cẩn khẳng định lại một lần nữa sự đánh giá của giới học giả Pháp và nước ngoài về những trình bày của anh Trần Đình Hượu. Lần tôi đến Aix en Provences, qua giáo sư Trịnh Văn Thảo, tôi hiểu hơn những điều anh Tài Cẩn nói. Anh Thảo cho biết chính Tổng thống Pháp có quyết định mời đích danh giáo sư Trần Đình Hượu làm giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Pháp trong khi ở trong nước thì anh Hượu trầy trật mãi mới được tìm thấy được chỗ đứng của mình trên bục giảng vì lướng vướng những vấn đề của nhóm có tư tưởng “xét lại” từ Liên Xô về!
Không tiện nhắc lại nhiều, chỉ xin kể lại một chi tiết xúc động về những ngày cuối
cùng anh nằm trong bệnh viện. Tôi đến thăm, anh nắm chặt tay và nói nhiều chuyện. Thấy anh đã quá mêt, tôi ngăn lại, nhưng anh gạt đi: “Cứ để tôi nói, rồi cũng chẳng có dịp để nói nữa đâu, tôi nói với anh là để anh tìm cách nói với những người có trách nhiệm về hướng đi của khoa học xã hội cần phải xác định cho rõ, chứ như hiện nay thì hỏng hết rồi”. Đây là một nỗi u hoài, một niềm khắc khoải của người trí thức có trách nhiệm với đất nước trong sự nghiệp thầm lặng đáng khâm phục và cần tôn vinh này. Rất may là cũng có được vài người học trò của ông nối được chí của thầy tuy còn xa mới đạt được đến tầm sâu sắc của ông.
Trở lại với bữa rượu tất niên. Anh Hoàng Tuệ nối lời Nguyễn Tài Cẩn để bàn sâu
thêm về những điều mà Trần Đình Hượu trăn trở. Tiếp mạch ý tưởng đó, anh nhắc đến nội dung anh vừa phát biểu với Lê Khả Phiêu trong dịp ông ta đến thăm Ủy Ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Tôi cũng có mặt cùng nghe anh nói trong buổi ấy, nhưng xin không nhắc lại trong bài này, chỉ gợi ra một chi tiết tôi cho là thú vị và vẫn nhớ đến tận bây giờ.
Hôm ấy có hầu hết các Viện trưởng và lãnh đạo của Viện cũng như các cán bộ chủ
chốt của các Viện khoa học trực thuộc Ủy Ban KHXNVN. Anh Hoàng Tuệ, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học là người nói mạnh mẽ nhất, quyết liệt nhất về hướng nghiên cứu về Ngôn ngữ nói riêng trong toàn cảnh về nghiên cứu Khoa học Xã hôi Việt Nam nói chung.
Tiếp đó, được tiếp sức bởi Hoàng Tuệ, học tập anh, với tư cách là Viện trưởng Viện Xã hội học, tôi thẳng thừng và mạnh mẽ trình bày về hướng đi của khoa học xã hội nói chung và xã hội học nói riêng, một ngành khoa học vốn được xem là “khoa học tư sản”, không thể thực hiện được chức năng khoa học đích thức của nó nếu vẫn chịu sự áp đặt của những khuôn thức chính trị. Tôi nêu một ví dụ có thật nhưng động chạm đến một vị Ủy viên Bộ Chính trị vừa yêu cầu điều chỉnh tỷ lệ phần trăm trong một khảo sát xã hội học về số thanh niên có mong muốn vào Đảng sao cho khớp với “định hướng chính trị” chứ như con số mà báo cáo chúng tôi nên lên là “đơn thuần” mang tính “chuyên môn thuần túy”!
Kết thúc cuộc họp, một số trong chúng tôi dừng lại đợi cho mọi người chen ra nhà
xe, anh Hà Minh Đức, Viện trưởng Viện Văn học bước đến bắt tay tôi: “Cám ơn anh hôm nay đã thẳng thắn nói giúp chúng tôi những điều chúng tôi cũng từng trăn trở nhưng chưa dám nói ra”. Tôi vui vẻ chỉ vào anh Hoàng Tuệ đứng cạnh, trả lời Hà Minh Đức: “Là tôi cũng theo cách anh Hoàng Tuệ đấy chứ có gì đâu”. Anh Hà Minh Đức tần ngần một chút rồi nói tiếp: “cả đời tôi chưa nói được một câu như anh, mặc dầu tôi vẫn nghĩ về nó”.
Hoảng quá, tôi vội nắm tay Hà Minh Đức: “Sao anh lại nói thế, tôi so thế nào được với anh. Công trình nghiên cứu và sách của anh đã xuất bản xếp cao bằng đầu mà tôi chỉ bén gót chân! Mỗi người có một cách đóng góp thôi. Tự xác định mình chỉ là người lót đường cho một ngành khoa học mới mà tôi chưa kịp trang bị cho mình một vốn hiểu biết cần thiết nên toàn bộ trí tuệ và sức lực của tôi dành cho việc tạo điều kiện để những anh chị em thật sự có trình độ, có khả năng và có khiếu nghiên cứu khoa học tự rèn luyện, học tập để tự nâng cao kiến thức và kỹ năng nghiên cứu khoa học để trở thành chuyên gia giỏi, thế thôi. Muốn vậy, họ phải được cởi bỏ những gò bó, áp đặt trong quá trình tư duy và thâm nhập thực tế. Nghĩ thế, cố như thế, nhưng tôi đã làm được gì đâu ngoài việc dàn xếp để gửi được 5 cán bộ của Viện đi làm luận án tiến sĩ xã hội học ở Mỹ, sao bằng được những công trình có bề dày nghiên cứu của anh”.
Hà Minh Đức yên lặng, còn Hoàng Tuệ đứng cạnh thì chỉ tủm tỉm cười. Khi ra nhà
xe, tôi níu anh Tuệ lại hỏi: “Anh nghĩ sao về câu Hà Minh Đức nói với tôi”? Anh Tuệ cũng chỉ cười không trả lời, lặng lẽ đẩy chiếc xe máy ra cổng. Sau đó, nhân một buổi ngồi với Hồ Ngọc Đại, bạn thân với tôi từ năm 1951 đến tận nay, tôi hỏi Đại về câu của Hà Minh Đức vì Đại cũng quen và hay gặp Đức: “Cậu nghĩ thế nào, mình vẫn băn khoăn về câu Hà Minh Đức nói với mình. Liệu Đức có nghĩ thật như thế không?”. Hồ Ngọc Đại hồn nhiên nói: “Hắn nói thật đấy. Mình hiểu hắn mà. Có lần hắn cũng nói với mình một câu ý na ná như vậy”. Như vẫn thế, Đại thoải mái ào ào nói một hơi những chuyện mà tôi nghĩ cũng chẳng nên kể ra.
Hắn bình một câu gọn thon lõn: “Trí thức mà. Đốp chát như tớ, như cậu chẳng ai ưa đâu”!
Tôi đế theo “Rằng quen mất nết đi rồi. Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao”!
Nhưng liệu có có “tính trời” không nhỉ?
Tôi ngậm ngùi nhớ đến những người bạn vong niên trong bữa rượu tất niên tại ngôi
nhà tuyềnh toàng dưới dốc Bưởi trong một ngày tất niên của một cái Tết Hà Nội đáng nhớ năm ấy. Cả bốn anh, những người bạn lớn của tôi, nay đều đã là người thiên cổ.
Hôm đám tang anh Phạm Thủy Ba tôi có đọc một lời điếu mà nghe nói ai đó đã cố lục lại để soi tìm xem liệu có tính khích động trí thức không. Chuyện ấy cách nay đã một phần tư thế kỷ rồi, cũng chẳng nên nhớ lại. Hôm đám tang anh Trần Đình Hượu tôi cũng có ngỏ ý với Ban Tổ chức được nói vài lời với người quá cố nhưng bị từ chối tắp lự.
Xem ra người ta cũng biết cách dè chừng về tính nhạy cảm của câu chuyện trí thức.
Chẳng thế, mà một trong 4 người hôm ấy, anh Nguyễn Tài Cẩn, tôi còn may mắn gặp được lần cuối tại Sài Gòn cách nay quãng năm sáu năm gì đó tôi không còn nhớ chính xác. Hôm ấy tôi mời anh ăn cơm Huế tại quán Trịnh, anh tủm tỉm cười: “Nghe nói anh được “chăm sóc” chu đáo lắm hả? Liệu hôm nay gặp tôi, anh có bị khó khăn gì không đấy?”. Tôi cười, “anh lạc hậu với tình hình nhiều quá, cái thuở đi xe đạp đến nhà anh tôi còn phải dừng lại vỗ vào cái biển số xe [dạo ấy xe đạp cũng phải đeo biển số] để chỉ cho hai vị mặc thường phục ngồi cách nhà anh 10 mét tiện ghi số, đã qua từ lâu rồi, gần 4 thập kỷ rồi còn gì”! Tuy cười, nhưng
miếng chả tôm kèm với chiếc bánh lá đang nhai trong miệng cứ đắng ngăn ngắt.
·
Hôm nay 30 Tết, trong tâm trạng không vui, càng xốn xang những kỷ niệm về một
cái Tết Hà Nội, da diết nhớ những người bạn Hà Nội mà tôi vừa gợi lên. Thật ra, bốn người bạn vong niên đã quá cố của tôi thì ba là người Nghệ An, một là người Quảng Bình, nhưng họ là những trí thức Hà Nội. Đúng hơn, cùng cảnh ngộ về thân phận trí thức.
Liệu họ có thanh thản ra đi khi đã làm trọn sứ mệnh của người trí thức? Đặt ra câu
hỏi ấy vì tôi hiểu rằng, người trí thức là người dấn thân hết mình, hứng mọi hiểm nguy, luôn luôn lấy phê phán làm cơ sở. Họ là người từ chối những công thức dễ dãi, những tư tưởng nhàm cũ, những kết luận chiếu lệ nơi lời nói và hành động của những người có quyền hoặc của những đầu óc máy móc cho dù phải trả giá rất đắt cho chuyện này.
Trong những người dự bữa rượu tất niên giáp Tết năm ấy nay chỉ còn lại mình tôi.
Và tôi muốn tự trả lời cho câu hỏi tôi vừa đặt ra về “tính trời” kia rằng: tính trời, nếu có cũng chính là tính người. Những người không chịu khuất phục.
Ngày 27.1.2017.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2017

vẫy tay gửi lại..



Nhoáng nhoàng ba ngày tết
Gái em về thăm nhà
Chưa kịp nói cùng mẹ
chưa kịp hỏi lời cha
Hoa đào chưa nở hết
Hoa mai nụ hãy còn
Bạn bè còn vấn vít
Xe đã gọi đầu thôn
Vội vàng chi là tết
Nơi quê nhà mến thương
Dòng đời luôn mải miết
Bước chân rời cố hương!
Bao giờ lại đến tết?
Bừng say đôi má hường
Em gái quê về lại
Ngày chưa đi lấy chồng
Thương cha già vất vả
Mẹ một nắng hai sương..
Mỗi năm ba ngày tết
Ngày ngắn chưa tày gang!
Thương quê nghèo nắng cũ
Mùa xuân gió trên đồng..
Một vẫy tay gửi lại..
Em gái cười rưng rưng!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hình ảnh lịch sử quý giá về Tết ở Hà Nội xưa


Những hình ảnh đẹp về Tết xưa của đất Tràng An ghi lại phong vị rất riêng, vẻ ấm áp và thanh lịch của chốn tinh hoa hội tụ.
Tet xua Ha Noi qua anh tu lieu quy hinh anh 1
Ngay từ giữa tháng Chạp, không khí Tết đã bắt đầu tràn ngập khắp 36 phố phường. Theo chân những nông dân từ các vùng quê lân cận hoặc từ các tỉnh xa ở phía Bắc, hàng trăm loại hàng hóa tập trung về khu vực chợ Đồng Xuân và các khu chợ trong thành phố để phục vụ cho việc chuẩn bị Tết của các gia đình.
Tet xua Ha Noi qua anh tu lieu quy hinh anh 2
Bên cạnh các loại thực phẩm, hàng hóa, một “đặc sản” khác trong dịp Tết là các loại hoa, cây cảnh cũng được những người dân ở các vùng trồng hoa nổi tiếng ven đô như Quảng Bá, Nghi Tàm, Nhật Tân,… đưa về khu vực chợ hoa Hàng Khoai và Hàng Lược bày bán.
Tet xua Ha Noi qua anh tu lieu quy hinh anh 3
Trong số đó, loại hoa đặc trưng nhất cho mùa xuân miền Bắc chính là hoa đào. Bên cạnh hai giống đào bích và đào phai được trồng nhiều ở Nhật Tân, còn có các giống đào như đào bạch và đào thất thốn mà chỉ các nhà quyền quý mới có thể mua nổi. Kỳ công hơn cả là những nhánh đào rừng được đưa về từ vùng núi Sơn La, Lào Cai…
Tet xua Ha Noi qua anh tu lieu quy hinh anh 4
Sự xuất hiện của những hàng tranh rực rỡ màu sắc trên các con phố cũng là dấu hiệu cho thấy ngày Tết đang cận kề. Một trong số những dòng tranh dân gian đặc trưng của Hà Nội chính là tranh Hàng Trống. Người xưa thường chọn mua những bức tranh với hàm ý tốt đẹp để treo trong nhà vào dịp Tết vừa để trang trí vừa để gửi gắm ước mong may mắn sẽ đến trong năm mới.
Tet xua Ha Noi qua anh tu lieu quy hinh anh 5
Đã có một thời, hình ảnh các ông đồ bày hàng cho chữ vào những ngày giáp Tết đã gắn liền với những ngày Tết cổ truyền Việt Nam nói riêng và Tết Hà Nội xưa nói chung.
Tet xua Ha Noi qua anh tu lieu quy hinh anh 6
Ngày 23 tháng Chạp, bên cạnh việc làm lễ cúng đưa ông Táo về chầu Trời, cây nêu cũng được dựng nên tại các nơi công sở, tư gia với mục đích xua đuổi tà ma và ước nguyện bình an theo quan niệm của người xưa.
Tet xua Ha Noi qua anh tu lieu quy hinh anh 7
Bên trong phòng khách của một gia đình quyền quý ở Hà Nội vào ngày Tết.
Tet xua Ha Noi qua anh tu lieu quy hinh anh 8
Một trong những nét biểu trưng cho cái tết của người Tràng An xưa không thể không nhắc đến đó chính là thú chơi hoa thủy tiên. Sự khéo léo của người chơi sẽ được thể hiện qua vẻ đẹp của bát thủy tiên đã được chăm sóc và gọt tỉa từ trước đó rất lâu.
Tet xua Ha Noi qua anh tu lieu quy hinh anh 9
Vào buổi sáng đầu tiên của năm mới, những người con trong gia đình tập hợp lại để chúc Tết cha mẹ mình.
Tet xua Ha Noi qua anh tu lieu quy hinh anh 10
Trong khi đó, các bậc hương hào kỳ mục và chức sắc trong phường, làng tề tựu tại đình để làm lễ vọng, bái chúc thọ nhà vua và lễ lạy Thành hoàng đầu năm mới. Các bà, các cô lại lựa chọn đi lễ các đền, chùa, phủ như đền Ngọc Sơn, Bạch Mã, phủ Tây Hồ…
Tet xua Ha Noi qua anh tu lieu quy hinh anh 11
Những ngày Tết cũng là dịp để mọi người đi thăm hỏi người thân, bạn bè trước khi tham gia vào các lễ hội diễn ra trong suốt mùa xuân được tổ chức trong nội đô Hà Nội hoặc các vùng nông thôn lân cận.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Putin nguy hiểm đến mức nào Putin?

Robert Harvey


Phạm Nguyên Trường dịch

(PNT) Chính phủ Putin đã đưa sang phương Tây nhiều gián điệp đến mức số gián điệm ở Anh hiện nay còn nhiều hơn cả thời kì Chiến tranh Lạnh.



Tổng thống Mỹ, Donald Trump, có lí hay không khi tỏ ra có cảm tình với nước Nga? Mới nhìn qua thì chắc chắn là không. Ở Nga, các cuộc bầu cử thường bị gian lận và lực lượng đối lập có tổ chức thường bị đàn áp. Còn dưới thời Tổng thống Vladimir Putin, nước này đã quay trở lại với chiến thuật của thời Chiến Tranh Lạnh trong việc chống lại những người bất đồng chính kiến trong nước và các mục tiêu ở nước ngoài, trong đó có Mỹ.



Chính phủ Putin đã đưa sang phương Tây nhiều gián điệp đến mức số gián điệm ở Anh hiện nay còn nhiều hơn cả thời kì Chiến tranh Lạnh. Nước này đã tiến hành những vụ giết người ở nước ngoài và được cho là đã giết nhiều đối thủ của ông ta – trong đó có các nhà báo, nhà hoạt động, và các nhà lãnh đạo chính trị - ở trong nước. Việc Nga sáp nhập Crimea năm 2014 là vụ xâm lược đơn phương đầu tiên ở châu Âu kể từ năm 1945. Quân đội Nga đã can thiệp vào khu vực Donbas, phía đông Ukraine, đã ném bom một cách tàn nhẫn dân thường và các nhóm nổi dậy ở thành phố Aleppo của Syria, và đối xử một cách tàn bạo với Georgia và Chechnya.

Danh sách những nỗi kinh hoàng – chỉ là một phần - dường như đủ để chấm dứt được rồi. Chắc chắn Trump đã lầm khi tin tưởng một nhà lãnh đạo tàn nhẫn nhất của nước Nga, kể từ thời Stalin.

Nhưng mối đe dọa của Nga đối với phương Tây thực sự lớn đến mức nào? Nói cho cùng, Nga thường tôn trọng các thỏa thuận về kiểm soát vũ khí đã kí với Mỹ. Và trong khi Nga đang gia tăng lực lượng vũ trang của mình và đưa ra những chiếc xe tăng mới từ cơ sở cũ kĩ của nó, nước này không có đủ sức mạnh kinh tế và công nghiệp để có thể duy trì nỗ lực chiến tranh trong thời gian dài - các nhà lãnh đạo của họ biết rõ như thế.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã cứng rắn đến mức Điện Kremlin có thể để Ukraine - trung tâm công nghiệp và vựa lúa mì trước đây của đế chế - chuyển sang chế độ dân chủ ôn hòa (theo tiêu chuẩn của Nga) và độc lập. Nhưng Điện Kremlin sẽ thiệt hại rất lớn nếu Ukraine thực sự gia nhập Liên minh châu Âu hay NATO, như một số người ở phương Tây đã đề nghị.

Tuy nhiên, mặc dù có sự can thiệp thô bạo của Nga ở Donbas, Nghị định thư Minsk nhằm kết thúc chiến tranh đã được tuân thủ, dù ít dù nhiều. Nga, biết rằng cuộc chiến sẽ không bao giờ kết thúc, đã không đưa ra bất kỳ tín hiệu nào chứng tỏ họ có ý định sáp nhập những tỉnh ủng hộ Nga là Donetsk và Luhansk.


Ở Syria, cuộc chiến của Nga nhằm bảo vệ vương quốc cuối cùng của họ còn lại ở Trung Đông dường như đã đến hồi tuyệt vọng. Cần phải nhớ rằng Kremlin từng có những nước như Algeria, Iraq, Nam Yemen và Ai Cập nằm trong phe với mình. Putin chỉ có lỗi phần nào trong việc gây ra hoàn cảnh khó khăn hiện nay ở Syria, nhưng ông ta có thể sẽ gặp khó khăn, và sẽ xa vào vũng lầy như Liên Xô ở Afghanistan cách đây 30 năm. Chỉ là vấn đề thời gian, khi các chiến binh thánh chiến bắt đầu tìm cách trả thù người Nga, chứ không phải là trả thù phương Tây nữa.

Như đã thấy, địa vị của Nga hiện nay thậm chí còn không an toàn bằng những năm 1980, khi nền kinh tế suy yếu của Liên Xô không còn khả năng kiểm soát vùng đệm Đông Âu và các nước chư hầu khác. Nga hiện đang phải vật lộn nhằm giành lại lòng tự trọng và nước này đang theo đuổi các mục tiêu của chính sách đối ngoại truyền thống là nỗi ám ảnh lịch sử về việc bị bao vây – lúc này là những người Hồi giáo cực đoan ở phía nam, nước Trung Quốc có khả năng bành trướng ở phía đông và cựu thù thời Chiến Tranh Lạnh ở phía tây.

Nếu những ám ảnh này dường như là không có cơ sở, thì cũng cần nhớ rằng Siberia đã từng là một phần của Trung Quốc và Nga đã bị xâm lược hai lần – lần thứ nhất là Napoleon, lần thứ hai là Hitler. Thật vậy, nỗi hãi có từ thời thượng cổ này là hiện tượng đã làm cho Stalin tham gia liên minh phòng thủ và cuối cùng trở thành liên minh đầy tai họa với Đức quốc xã vào năm 1939.

Đáng tiếc là, ngay cả sau khi bức tường Berlin sụp đổ, não trạng thời Chiến Tranh lạnh vẫn ăn sâu bén rễ vào cả hai bên. Trong suốt nhiệm kỳ tổng thống đầy hỗn loạn của Boris Yeltsin trong những năm 1990, phương Tây đã không làm theo châm ngôn của Winston Churchill: “Cao thượng trong chiến thắng”. Với sự cáo chung của Khối Warsaw, NATO đã mở rộng đến tận biên giới Nga. Khối quân sự này đã bỏ lỡ cơ hội trong việc trấn an nước Nga dân chủ đang tìm kiếm hợp tác, và thái độ khinh thị trắng trợ của nó đã tạo điều kiện cho Putin xuất hiện.

Điều này đưa chúng ta quay lại với Trump, sự lạc quan của ông này về quan hệ Mỹ-Nga chắc chắn sẽ chuyển thành thất vọng. Chúng ta đã nhìn thấy điều này từ trước rồi. Tương tự như Trump hiện nay, ban đầu cựu Tổng thống Mỹ, George W. Bush, và cựu Thủ tướng Anh, Tony Blair, cũng coi Putin là người có thể hợp tác được. Nhưng, bây giờ, sau khi nắm quyền lực suốt 17 năm qua, Putin đã thể hiện là một nhà lãnh đạo dễ bị mua chuộc và hung bạo, ông ta đã lợi dụng vụ bùng nổ giá dầu khí để làm giàu cho mình và cho những người được mình che chở.

Năm 1989, Mikhail Gorbachev để cho bá quyền Liên Xô ở Đông Âu sụp đổ không phải vì ý nghĩ bốc đồng nào đó, mà vì bá quyền bá đã trở thành gánh nặng không thể chịu đựng nổi. Nhưng hiện nay, Nga cảm thấy áp lực kinh tế còn khủng khiếp hơn. Do chủ nghĩa tư bản thân hữu và năng lực quản lý kinh tế yếu kém của Putin, đời sống của người Nga chỉ được cải thiện một cách vừa phải, nền kinh tế Nga không thể cạnh tranh trên bình diện toàn cầu, và các mỏ dầu và khí đốt của đất nước này bị khai thách không đúng cách. Với giá dầu giảm hơn một nửa so với năm 2014, nền kinh tế Nga đang chịu sức ép nặng nề.

Trump đã đúng khi chìa tay ra, nhưng ông ta cũng phải tiếp tục áp đặt các biện pháp trừng phạt trước những hành động vi phạm nghiêm trọng các chuẩn mực quốc tế. Là một doanh nhân, ông phải biết rằng người không có tiền thì không thể đánh nhau. Chẳng bao lâu nữa, sự kém cỏi trong lĩnh vực kinh tế của Putin sẽ hiện ra trước mắt ông ta. Khi điều đó xảy ra, Mỹ, NATO và EU không được bỏ lỡ cơ hội đưa nước Nga thời hậu Putin Nga vào gia đình của các nước văn minh.

Robert Harvey, là cựu thành viên của Ủy ban đối ngoại Viện Thứ Dân (Anh) và là tác giả hai cuốn sách Global Disorder và A Few Bloody Noses: The Realities and Mythologies of the American Revolution.

Đã đăng trên http://www.ijavn.org/2017/01/vntb-putin-nguy-hiem-en-muc-nao.html

Nguồn: https://www.project-syndicate.org/commentary/russia-vladimir-putin-donald-trump-by-robert-harvey-2017-01

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Những thách thức kinh tế năm 2017


Nền kinh tế năm 2017 dự báo sẽ gặp nhiều thách thức hơn so với năm 2016 trong bối cảnh địa - chính trị trên thế giới đã có nhiều thay đổi cũng như những bất ổn của nền tài chính toàn cầu chưa giảm. 

Ảnh minh họa: Quý Hòa
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng mục tiêu tăng trưởng GDP 6,7% trong năm 2017 của Việt Nam là khá tham vọng bởi năm 2016 chỉ đạt 6,21%. Trong áp lực thâm hụt ngân sách ngày càng tăng, rõ ràng chính sách tài khóa sẽ khó có thể hỗ trợ nhiều cho tăng trưởng, do đó khả năng nới lỏng tiền tệ sẽ tiếp tục được duy trì.

Tuy nhiên, nhiều dự báo cho rằng khả năng lãi suất sẽ khó có thể duy trì được ổn định như hiện nay. Một số ngân hàng gần đây đã tăng lãi suất huy động trở lại. Nợ xấu, tỷ giá và các quy định chỉ tiêu an toàn của ngân hàng tăng lên là những yếu tố có thể ảnh hưởng đến lãi suất trong năm 2017.

Nếu lãi suất có xu hướng đi lên trở lại sẽ tác động đến nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, từ đó dẫn đến tăng trưởng tín dụng khó có thể đạt mục tiêu đề ra và do đó chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ không thể phát huy tác dụng, ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế.

Ngược lại, nếu như chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức thì lạm phát có thể quay trở lại. Thực tế đã cho thấy những năm trước đây khi tăng trưởng tín dụng ở mức cao liên tiếp qua nhiều năm, thậm chí có năm lên đến 30 - 40% thì sau đó lạm phát tăng rất cao.

Trong 3 năm qua, tăng trưởng tín dụng năm sau cao hơn năm trước, và đã tiến gần đến mức 20%. Một số tổ chức quốc tế đã cảnh báo những rủi ro cho nền kinh tế với chính sách nới lỏng tiền tệ quá nhanh của Việt Nam.

>> Nới lỏng tiền tệ, Trung Quốc có thể mắc “bẫy thiên nga đen”

Tỷ giá USD/VND năm 2016 chỉ tăng 1,2%, tuy nhiên năm 2017 có thể khó đạt được mức ổn định ấy. Nếu Tổng thống đắc cử Trump mở rộng chính sách tài khóa thì đồng USD sẽ tiếp tục đi lên trên thị trường quốc tế. Dòng vốn đầu tư ra nước ngoài tiếp tục chảy ngược về Mỹ sẽ tạo áp lực lớn cho những nền kinh tế mới nổi như Việt Nam.

Trong khi đó, chính sách trần lãi suất 0% của Việt Nam đã làm giảm mức độ hấp dẫn đối với dòng vốn USD. Kiều hối năm 2016 đã sụt giảm mạnh nhưng nhờ vào nguồn FDI giải ngân tăng và nguồn vốn FPI (vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài) tăng mạnh nhờ vào các thương vụ M&A, trong khi cán cân thương mại chuyển sang thặng dư lớn đã phần nào hỗ trợ cho nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam.

Tuy nhiên năm 2017, các dòng vốn đầu tư vào Việt Nam có thể bị ảnh hưởng từ việc tăng lãi suất của FED cũng như việc lôi kéo các doanh nghiệp đầu tư vào Mỹ của Tổng thống Trump và TPP có thể không trở thành hiện thực.

Năm 2016 cán cân thương mại đã đạt được thặng dư khá lớn nhờ vào xuất khẩu tăng trưởng trong khi nhập khẩu chậm lại do sức cầu của nền kinh tế vẫn còn yếu. Trong năm 2017, xuất khẩu có thể chịu nhiều ảnh hưởng từ việc các quốc gia đã phá giá đồng bản tệ khá lớn so với đồng USD, trong khi VND chỉ điều chỉnh ở mức tương đối thấp, do đó hàng hóa Việt Nam mất lợi thế cạnh tranh về giá. VND mạnh hơn cũng có thể thúc đẩy nhập khẩu nhiều hơn và khi đó cán cân thương mại có nguy cơ chuyển sang thâm hụt trở lại.

>> “Hóa giải” 3 mối lo của xuất nhập khẩu khi VND mất giá

Nguồn vốn hỗ trợ phát triển cho Việt Nam sẽ bị hạn chế nhiều hơn, nhất là từ tháng 7/2017, Việt Nam có thể phải vay vốn ODA với lãi suất theo thị trường, không còn đủ điều kiện để vay vốn ưu đãi do đã trở thành nước có thu nhập trung bình từ năm 2010. Lãi suất vay cao hơn và kỳ hạn vay ngắn hạn sẽ ảnh hưởng nhiều đến nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam.

Nguồn vốn đầu tư phát triển suy yếu buộc Chính phủ phải tăng cường huy động vốn trong nước để chi cho đầu tư phát triển, nếu muốn duy trì mục tiêu tăng trưởng GDP. Chi ngân sách tăng lên có thể làm tăng thâm hụt ngân sách cũng như áp lực lên nợ công hiện tại, vốn chiếm tỷ lệ so với GDP đang ngày càng cao hơn.

Trong khi đó, việc phát hành quá nhiều trái phiếu chính phủ có thể làm tăng lợi suất trên thị trường này, từ đó tác động đến mặt bằng lãi suất của nền kinh tế và "chèn lấn" nhu cầu vốn của khu vực tư nhân trong nền kinh tế. Khi nguồn vốn của khu vực ngân hàng rót nhiều vào thị trường trái phiếu sẽ khiến nguồn vốn dành cho doanh nghiệp bị hạn chế, cộng thêm mặt bằng lãi suất tăng lên sẽ làm suy yếu động lực đầu tư của khu vực tư nhân.
HỒ LÊ

http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/nhung-thach-thuc-kinh-te-nam-2017/1102115/

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGHĨ VỀ TRẦN NHÂN TÔNG VÀ SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH “LUẬT ĐOÀN KẾT DÂN TỘC”


Ngô Tự Lập - Do nhiều lý do lịch sử, chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội để có một Luật đoàn kết dân tộc ngay sau năm 1975. Mặc dù đáng tiếc, chúng ta cũng không thể thay đổi quá khứ. Nhưng bắt đầu bây giờ cũng vẫn là một yêu cầu cấp bách. Tôi thức sự tin rằng nếu được quốc hội thông qua, Luật đoàn kết dân tộc sẽ là khởi đầu cho một mùa xuân mới của đất nước trong đoàn kết và thịnh vượng. 
Image result for LUẬT ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Trần Nhân Tông (1258 –1308) rất gần với hình mẫu nhà lãnh đạo lý tưởng của Platon. Không chỉ là một vị minh quân, một vị anh hùng trong chiến tranh và nhà kiến tạo trong hòa bình, Trần Nhân Tông còn là sơ tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, là một trong những đại diện xuất sắc nhất của truyền thống tư tưởng Việt Nam mà trong một bài viết «Cội nguồn ngôn ngữ học của đặc điểm tư duy người Việt” chúng tôi đã định danh bằng thuật ngữ «Thực tiễn luận cộng đồng”. Ở Trần Nhân Tông, truyền thống ấy có thể gọi là “Thực tiễn luận Thiền tông”, một hệ thống triết lý được Trần Nhân Tông trình bày đặc biệt súc tích trong Cư trần lạc đạo: sống giữa phàm trần mà vui với đạo, thuận theo hoàn cảnh mà làm, tìm giác ngộ ở chính tâm mình.

Việc nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của ông cho chúng ta nhiều bài học quý báu. Tuy nhiên, đó là chủ đề của một nghiên cứu lớn hơn. Trong bài báo này, chúng tôi chỉ đề cập đến một vấn đề không mới, nhưng cũng chưa được xử lý một cách thích đáng, và vì thế đang trở thành một trong những trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển đất nước: vấn đề đại đoàn kết dân tộc.

Xin nhắc lại một vài quyết định của Trần Nhân Tông mà ai cũng biết: Trần Nhân Tông vừa lên ngôi thì Hốt Tất Liệt đã phái sứ bộ do Sài Thung cầm đầu đến nước ta gây sự. Trước nguy cơ xâm lược của ngoại bang, Trần Nhân Tông đã buộc phải trực tiếp lãnh đạo không phải một mà hai cuộc chiến tranh vệ quốc. Là người am tường giới luật của nhà Phật, cách làm của Trần Nhân Tông thật độc đáo, vô cùng hiếm hoi không chỉ trong lịch sử Việt Nam, mà cả trong lịch sử thế giới: nhà vua tổ chức “trưng cầu quân ý” (Hội nghị Bình Than) và “trưng cầu dân ý” (Hội nghị Diên Hồng). Có thể nói, bằng cách đó, ông giải quyết được một vấn đề mang tính nguyên tắc: cuộc kháng chiến vệ quốc là thuận theo ý của quân dân, theo đó, nhà vua chấp nhận hy sinh mạng sống trăm người để cứu lấy mạng sống muôn người. Tuy nhiên, có một mục đích khác không kém phần quan trọng, đó là củng cố tinh thần, tạo dựng sự đoàn kết toàn dân. Chúng ta có thể khẳng định điều này một cách chắc chắn nếu liên hệ với hàng loạt biện pháp khác như dân xá cho dân chúng, điều động và thăng chức cho các tướng, tha tội cho Trần Khánh Dư, củng cố quan hệ hữu hảo với Chiêm Thành… Chính khối đoàn kết toàn dân là điều kiện quyết định đối với hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông.

Chủ trương đại đoàn kết dân tộc của Trần Nhân Tông cũng thể hiện không kém phần độc đáo trong sự nghiệp kiến thiết đất nước thời bình. Sau khi đánh đuổi ngoại xâm, Trần Nhân Tông không chỉ đưa ra những quyết sách an dân thông thường như giảm tô thuế và tạp dịch, ban thưởng cho người có công, ban hành lệnh đại xá…, mà còn có những quyết định vô cùng hiếm gặp ở những nhà lãnh đạo khác. Một trong những quyết định đó là ra lệnh đốt tất cả các giấy tờ liên quan đến những người từng phản bội. Bằng cách xóa bỏ những tội lỗi của một số thần dân trong quá khứ, giúp họ hòa nhập vào một tương lai chung của dân tộc, Trần Nhân Tông đưa ra một thông điệp vĩ đại của lòng khoan dung.

Đã rất nhiều đêm tôi nghĩ về thông điệp đó. Sau một thời gian ngắn ngủi tương đối yên ổn, hiện nay đất nước ta lại phải đối mặt với vô số hiểm họa. Hiểm họa xâm lăng của ngoài bang chưa thể nói là đã được loại trừ, nhưng hiểm họa nhân tâm có lẽ còn đáng lo ngại hơn. Trong xây dựng, có lẽ còn hơn cả trong chiến tranh, chúng ta cần phải có những chiến lược, sách lược tỉnh táo và thông minh cả trong đối nội lẫn đối ngoại. Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với những chiến công hiển hách, trong đó có những chiến công của Trần Nhân Tông, dạy chúng ta rằng sự phát triển và thịnh vượng của đất nước trong mọi lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa, giáo dục, chính trị, xã hội và quốc phòng chỉ có thể có được nếu dựa trên một nền tảng sâu xa, vững chắc, đó là sự đoàn kết của toàn dân tộc. Vì thế, tôi nghĩ đã đến lúc Quốc hội phải nhanh chóng ban hành Luật Đoàn kết dân tộc.

Tại sao phải ban hành Luật đoàn kết dân tộc trong khi chúng ta đã có một số chính sách ít nhiều liên quan đến vấn đề này?

Chúng ta cần Luật Đoàn kết dân tộc do tính chính danh của nó. Mặc dù Quốc hội ở đâu cũng do một hay một vài chính đảng cụ thể chiếm đa số, tiếng nói của Quốc hội, thể hiện qua Hiến pháp và Luật, vẫn được coi là tiếng nói của người dân, là ý chí của dân tộc, chứ không phải là tiếng nói của một đảng hay một phe phái cụ thể. Các chính đảng có thể cầm quyền dài hay ngắn, nhưng giá trị của Luật, với tư cách là ý chí của dân tộc, không phụ thuộc vào độ dài thời gian cầm quyền của các chính đảng.

Cũng cần phải lưu ý rằng Luật Đoàn kết dân tộc không phải là nhằm thu hút Việt Kiều. Luật Đoàn kết dân tộc cần thiết ngay cả khi không có Việt Kiều. Luật Đoàn kết dân tộc cũng không phải là một sách lược vụ lợi ngắn hạn, mà phải là ý chí đoàn kết lâu dài và cao thượng của dân tộc. Nếu không thể hiện được tinh thần và các giá trị cao thượng mà mọi người Việt Nam đều chấp nhận và trân trọng, thì chính sách không thể đoàn kết được người dân, dù ở trong nước hay ngoài nước, thậm chí ngay cả những người đang tham gia bộ máy cầm quyền. Mặc dù được gọi tên bằng những cách khác nhau, Luật Đoàn kết dân tộc chính là cách mà cha ông ta nhiều lần sử dụng như là kế sâu rễ bền gốc, là nền tảng của sức mạnh quốc gia.

Luật Đoàn kết dân tộc phải như thế nào?

Tất nhiên, việc xây dựng luật phải do một tập thể bao gồm các chuyên gia và những nhà hoạch định chính sách có thẩm quyền thực hiện, nhưng chắc chắn nó phải được xác lập trên nguyên tắc nền tảng: Thượng tôn lợi ích dân tộc. Nói cách khác, phải đặt lợi ích dân tộc lên trên mọi lợi ích nhóm, phe phái, giai cấp, tôn giáo, ý thức… Trên cơ sở nguyên tắc cơ bản này, Luật sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của mọi người Việt Nam (dĩ nhiên cần phải định nghĩa) trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Luật cũng sẽ mở đường cho việc đánh giá công bằng mọi đóng góp của mọi cá nhân trong mọi lĩnh vực, từ văn hóa, nghệ thuật, khoa học đến kinh tế và quân sự, ngay cả trong trường hợp các cá nhân có quan điểm đối địch lẫn nhau, trong quá khứ cũng như tương lai. Bởi vì, nói cho cùng, tất cả những con người ấy đều là người Việt, và tất cả những gì đã diễn ra đều là lịch sử Việt Nam. Với một quan điểm thực sự cao thượng và thượng tôn lợi ích dân tộc như vậy, Luật đoàn kết dân tộc đương nhiên cũng sẽ là luật hòa giải dân tộc.

Cũng xin nói rằng việc tôn vinh công lao của những người khác chính kiến, thậm chí của người từng kẻ thù, không có gì là quá mới mẻ hay mâu thuẫn, mà là truyền thống lâu đời của dân tộc ta. Sĩ Nhiếp, viên quan cai trị do Trung Quốc phái đến, chẳng hạn, thậm chí được tôn vinh là “Nam Bang học tổ”. Gần đây, nhiều nhân vật lịch sử như Alexandre de Rhodes, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… cũng đã được đánh giá lại. Trong lịch sử hiện đại, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước đây, cũng như Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay, đã tiếp nhận và trọng dụng nhiều quan chức, hàng binh của chế độ cũ. Chúng ta cũng đã hòa giải và kết bạn với Pháp, Nhật, Mỹ và cả Trung Quốc. Trong số những người có công với nước, tôi muốn nhắc đến trường hợp các quân nhân của quân đội Sài Gòn đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa năm 1974. Rất nhiều người, trong đó có cá nhân tôi, tin rằng chúng ta nên sớm tôn vinh họ như những liệt sĩ quên mình vì nước. Cũng xin nhắc lại: gần đây, chúng ta cũng hoan nghênh nhiệt liệt sự trở về và góp sức xây dựng đất nước của cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, tướng Nguyễn Cao Kỳ, một trong những người chỉ huy cao nhất của những người lính ấy.

Cá nhân tôi nghĩ rằng do nhiều lý do lịch sử, chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội để có một Luật đoàn kết dân tộc ngay sau năm 1975. Mặc dù đáng tiếc, chúng ta cũng không thể thay đổi quá khứ. Nhưng bắt đầu bây giờ cũng vẫn là một yêu cầu cấp bách. Tôi thức sự tin rằng nếu được quốc hội thông qua, Luật đoàn kết dân tộc sẽ là khởi đầu cho một mùa xuân mới của đất nước trong đoàn kết và thịnh vượng.

Ngô Tự Lập

Phần nhận xét hiển thị trên trang