Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2015

Bảo tàng Gulag về thời kỳ Đại thanh trừng Stalin ở Nga


Thắp nến tưởng niệm các nạn nhân trại Gulag Solovetsky ngày 29/10/2015 tại Matxcơva, trước tảng đá lấy từ trại này.

Những bức tường gạch loang lổ, cửa sổ khóa chặt, cánh cổng sắt han rỉ…Chính trong bầu không khí đáng sợ một cách cố tình này, Bảo tàng quốc gia về thời kỳ Đại thanh trừng của Stalin đã mở cửa tại Matxcơva hôm 30/10/2015, nhân ngày tưởng niệm các nạn nhân bị đàn áp thời xô-viết cũ với hàng triệu người đã bị giết hại.

Khách tham quan đi qua những cánh cửa bọc thép hoen rỉ, thu gom từ những trại cải tạo khác nhau của « Quần đảo Gulag », từ trại Solovski ở miền bắc đến Kolyma ở vùng Viễn Đông. Người ta nghe thấy tiếng ổ khóa lạnh lùng đóng sập lại, và tiếng sủa của những con chó canh gác.

Trong bóng tối mịt mù - những cánh cửa sổ được bịt vải đen, người ta cảm thấy bị tách rời khỏi thế giới bên ngoài. « Giống như những người bị biệt giam hoàn toàn sau khi bị bắt » - Egor Laritchev, Phó giám đốc Bảo tàng Gulag giải thích cho AFP.


Những màn hình tương tác thuật lại câu chuyện của các cựu tù nhân và người thân của họ, và của cả các quản giáo.

Ông Laritchev cho biết : « Vào thời kỳ đỉnh điểm năm 1937, Đại thanh trừng đã đụng chạm đến hầu như mỗi người dân Liên Xô, cho dù họ là nạn nhân, người tố cáo hay cai ngục ».
Với 2.500 bức ảnh, chứng cứ, vật dụng cá nhân và tài liệu lịch sử, viện bảo tàng mới này chiếm trọn một tòa nhà bốn tầng nằm cách trung tâm thủ đô Matxcơva không mấy xa, lớn hơn Bảo tàng Gulag trước đây vốn chỉ có vài gian phòng.

Khách đến thăm còn có thể quan sát tấm bản đồ « Quần đảo Gulag ». Đó là một mạng lưới mênh mông gồm nhiều trại tập trung, tại đây số phận 20 triệu người tù đã bị nghiền nát từ năm 1930 đến 1956 – theo lời kể của Galina Ivanova, Phó giám đốc phụ trách về khoa học của bảo tàng, và là tác giả một bản chuyên khảo về chủ đề này.

Không nên làm câm lặng lịch sử

Vào cuối năm 1949, giáo sư N. của trường đại học Lomonossov ở Matxcơva tố cáo một câu lạc bộ sinh viên mà trong đó chính con trai ông là thành viên. Các điều lệ của câu lạc bộ này không có gì là chống chính phủ xô-viết cả, nhưng sau khi bị thẩm vấn, các thanh niên này đều phải thú tội « hoạt động phản cách mạng ». Tất cả đều bị tống vào các trại Gulag, trừ người con trai của vị giáo sư chỉ điểm.

Theo một luật vẫn đang có hiệu lực tại Nga, tên của những điềm chỉ viên đều được giữ bí mật. Galina Ivanova cho biết người con trai này hiện nay đang giảng dạy trong cùng trường đại học trên.

Nhà sử học nói thêm : « Ngày nay rất nhiều người đã bắt đầu tự hỏi : Đã có những gì không ổn đối với chúng ta, và tại sao ? Câu trả lời rất đơn giản : Người ta không thể làm nín lặng lịch sử nước Nga, và viện bảo tàng của chúng tôi phải lấp vào chỗ trống này ».

Nhưng triển lãm chỉ giới thiệu có thời kỳ kéo dài nên năm 1958 mà thôi, bỏ qua các trại cải tạo chính trị vốn hiện diện cho đến khi Liên Xô sụp đổ.

Bà Ivanova giải thích : « Sau cái chết của Stalin, các trại tập trung không biến mất nhưng số lượng tù nhân chính trị không còn tính theo con số hàng triệu nữa ».

Một không gian nghe nhìn cho phép khách tham quan « tham dự » tang lễ của tác giả thời kỳ Đại thanh trừng kinh hoàng đó : Stalin, qua đời ngày 5 tháng Ba năm 1953. Khoảng năm triệu người xô-viết đã dự đám tang khổng lồ, với những cảnh khóc than tập thể, dẫn đến cái chết của hàng trăm người hiếu kỳ vì bị giẫm đạp hay nghẹt thở.

Xếp hàng viếng các nạn nhân trại Gulag Solovetsky tại Matxcơva, 29/10/2015.
Không chính thức kỷ niệm các nạn nhân, Stalin vẫn ngự trước Quảng trường Đỏ

Năm 2012, cái tên Stalin đã dẫn đầu danh sách trong một cuộc thăm dò dư luận về những nhân vật Nga nổi tiếng nhất, nhờ vai trò của ông ta trong thất bại của Đức quốc xã trước Liên Xô.

Stalin vẫn đang được chôn trước điện Kremli, trên Quảng trường Đỏ, địa điểm trang trọng nhất tại thủ đô nước Nga. Và ngày nay cứ hai người Nga thì có một người cho rằng những hy sinh mất mát do Stalin áp đặt lên dân tộc được đền bù bằng những « thành tựu lớn lao » mà Liên Xô đã thực hiện được.

Ian Ratchinski, đồng chủ tịch tổ chức phi chính phủ bảo vệ nhân quyền Homme Memorial nhận định : « Bảo tàng Gulag chắc chắn là một sự kiện tích cực, nhưng mọi chuyện vẫn còn nhập nhằng. Một mặt, ông Vladimir Putin thường xuyên tố cáo thời kỳ thanh trừng của Stalin, mặt khác Bộ Văn hóa lại cho phép khánh thành những công trình kỷ niệm vị bạo chúa này ».

Những tháng gần đây, hai bức tượng bán thân và một đài kỷ niệm Stalin đã được đảng Cộng sản Nga dựng lên. Trong khi đó ở Oural, Perm-36, trại tập trung tù chính trị cuối cùng của Liên Xô cũ được cải tạo thành viện bảo tàng, đã bị chính quyền đóng cửa vào năm ngoái.

Từ khi ông Vladimir Putin lên cầm quyền cách đây 15 năm, chính phủ Nga chưa bao giờ tổ chức những buổi lễ tưởng niệm chính thức dành cho những nạn nhân bị thanh trừng tàn khốc.

Hôm thứ Sáu 30/10/2015, ngày tưởng niệm các nạn nhân một lần nữa lại hoàn toàn bị Nhà nước làm ngơ. Phát ngôn viên Tổng thống, Dimitri Peskov nói với AFP là việc ông Vladimir Putin tham gia vào những hoạt động kỷ niệm « không được dự kiến ».

Đại thanh trừng, một thời kỳ bị cố tình lãng quên

Trên các kênh truyền hình nhà nước hôm qua, chỉ có mỗi một chương trình đặc biệt dành cho ngày lễ tưởng niệm được chính thức công nhận kể từ năm 1991, ít lâu sau khi Liên Xô sụp đổ.

Tại Matxcơva, Saint Petersbourg và các thành phố lớn khác của nước Nga, những buổi lễ mang tính cách tôn giáo đã được tổ chức theo sáng kiến của các cá nhân để tưởng những người đã bị giết hại trong thời kỳ Đại khủng bố Stalin.

Ngày 30 tháng Mười được chọn lựa làm Ngày tù nhân chính trị Liên Xô, được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 30/10/1974 bởi các nhà ly khai từng bị giam cầm trong các trại cải tạo ở Moldova và Oural. Họ đã tiến hành tuyệt thực và đình công trong ngày hôm đó.

Từ sau khi Liên Xô tan rã, chính quyền Nga vẫn có thái độ không rõ ràng về Stalin. Tháng Tám năm nay, Kremli nhìn nhận việc phục hồi danh dự cho các nạn nhân bị Stalin thanh trừng « vẫn chưa kết thúc ».
Thủ tướng Dimitri Medvedev tuyên bố : « Nước Nga không thể trở thành một Nhà nước pháp quyền thực sự, nếu không tổ chức tưởng niệm hàng triệu công dân là nạn nhân của đàn áp chính trị ».

Dù Thủ tướng đã tuyên bố như vậy, nhưng cho đến những năm gần đây chính quyền vẫn gây rất nhiều khó khăn cho những ai muốn tìm hiểu về số phận của những người thân bị mất tích trong thời kỳ Đại khủng bố của Stalin. Rất hiếm khi họ được tạo điều kiện tiếp cận tàng thư về thời kỳ đó.

http://vi.rfi.fr/quoc-te/20151031-bao-tang-gulag-ve-thoi-ky-dai-thanh-trung-stalin-o-nga 


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Những Mảnh Đời Đen Trắng #1 - Truyện Dài của Nguyễn Quang Lập | Tr...

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hitler và Stalin: “Liên minh ma quỷ”? Posted on 04/05/2015 by The Observer


b46c9873421137890a8dd3e1ff2d430d1c8288b6
Nguồn: John Lukacs, “Monster Together,” The New York Review of Books, 4/2015.
Biên dịch: Duy Đoàn | Biên tập: Nguyễn Huy Hoàng
Trong kho văn liệu khổng lồ về Stalin và Hitler trong suốt thời Thế chiến II, có rất ít điều được nói về mối quan hệ đồng minh của họ trong 22 tháng. Đó không chỉ là một chương lạ thường trong lịch sử cuộc chiến, mà ý nghĩa của nó xứng đáng nhận được nhiều sự chú ý hơn lâu nay.
Có hai yếu tố liên quan đến sự thờ ơ này. Một là sau khi Hitler quyết định xâm chiếm Nga mà thực hiện không thành, Stalin nổi lên như một trong những kẻ chiến thắng uy quyền của Thế chiến II. Yếu tố còn lại là việc các Thế lực phương Tây không mấy lưu tâm đến Đông Âu. Tuy vậy cuộc chiến nổ ra vào năm 1939 lại là do Đông Âu, kết quả của quyết định của người Anh (và Pháp) trong việc chống lại việc Đức chinh phục Ba Lan. Cơn địa chấn chính trị của Hiệp ước Xô-Đức vào ngày 23 tháng 8 năm 1939, chín ngày trước khi nổ ra cuộc chiến vào ngày 1 tháng 9, đã không ngăn được Anh và Pháp tuyên bố chiến tranh chống lại Đức vì đã xâm lược Ba Lan. Đây là một trong số ít – rất ít – những quyết định có ích cho họ vào thời điểm đó. Việc họ miễn cưỡng không muốn tiến hành nghiêm túc cuộc chiến chống Đức trong nhiều tháng tiếp theo lại là một câu chuyện khác.
Ba phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ năm 1939. Khá nhiều điều được viết về Hiệp ước Xô-Đức kể từ lúc ấy, phần lớn là của các cây bút và sử gia Đông Âu. The Devil’s Alliance (Liên minh của quỷ) là bản tường trình tốt của sử gia người Anh Roger Moorhouse về việc hiệp ước có ý nghĩa gì đối với Hitler và Stalin – và tệ hơn là đối với nạn nhân của hiệp ước đó. Có lẽ phần giá trị nhất của cuốn sách là phần nói về những hậu quả tức thời của hiệp ước năm 1939. Trước đó, Chủ nghĩa Quốc xã và Chủ nghĩa cộng sản đã là kẻ thù công khai của nhau một cách hiển nhiên và dữ dội. Từ những ngày thăng tiến chính trị đầu tiên của mình, Hitler đã mô tả Do Thái giáo và Chủ nghĩa cộng sản là hai kẻ thủ chính yếu của mình. Vào thời điểm đó, Stalin không hẳn là một kẻ theo ý thức hệ. Cũng như Hitler, Stalin là một người theo chủ nghĩa dân tộc; ông gần như không lưu tâm đến chủ nghĩa cộng sản quốc tế.
Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Vyacheslav Molotov ký Hiệp ước Xô-Đức, với Bộ trưởng Ngoại giao Đức Joachim von Ribbentrop ngay đằng sau, kế bên Stalin, ngày 23 tháng 8 năm 1939 (Ảnh: Fine Art Images/Heritage Images/Getty Images)
Tháng 5 năm 1939, Hitler nhận ra rằng trong cuộc chiến của người Đức với phương Tây, Nga có thể đứng trung lập. Nhưng việc thực hiện điều đó không đơn giản; Nga phải có gì đó đổi lại. Trong suốt mùa hè năm đó, nhóm đại biểu Anh-Pháp đã tìm kiếm một dạng thoả thuận quân sự với Nga và chuyện không đi được tới đâu. Có một số viên chức và nhà ngoại giao cao cấp của Đức, đứng đầu trong số đó là Bộ trưởng Ngoại giao Joachim von Ribbentrop của Hitler, có khuynh hướng thiên hẳn về thỏa thuận Đức-Nga. Trong lúc đó, tại Moskva, Stalin đã bắt đầu có động thái: đầu tháng 5, ông sa thải Bộ trưởng Ngoại giao người Do Thái của mình, Maxim Litvinov, và thay thế bằng Vyacheslav Molotov (người giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong suốt cuộc chiến và một thời gian dài sau đó). Hitler hiểu điều đó có nghĩa là gì. Vào tháng 8, Ribbentrop bay đến Moskva để ký Hiệp ước Bất tương xâm giữa Liên Xô và Đức; bức ảnh Ribbentrop với cây bút trong tay cho thấy ở hậu cảnh Stalin mãn nguyện thấy rõ. Hitler hi vọng sự kiện gần như tuyệt diệu này có thể ngăn người Anh và người Pháp can dự vào cuộc chiến giành Ba Lan với ông. Điều đó đã không xảy ra, mặc dù Stalin không thất vọng vì điều đó.
Nghị định thư Bí mật phân chia Đông Âu giữa Đức và Liên Xô
Điều quan trọng hơn Hiệp ước Bất tương xâm là phần phụ lục của hiệp ước, một Nghị định thư Bí mật, vốn yêu cầu không gì khác hơn là phân chia Đông Âu, đặc biệt là Ba Lan, với một phần nước này sẽ bị Liên Xô thâu tóm. Ngoài ra, Đức công nhận “khu vực lợi ích” (“sphere of interest”) của Nga tại Estonia, Latvia, Phần Lan, một phần Litva và tỉnh Bessarabia ở Romania. Moskva phủ nhận chính sự tồn tại của Nghị định thư Bí mật này trong suốt thời gian dài, ngay cả khi Thế chiến II kết thúc đã lâu. Nhưng sự kiện đó vẫn tồn tại trong văn khố của Đức; và vào năm 1939 nó đã trở thành một hiện thực u ám và dễ sợ. Tận đến năm 1986, Molotov già nua (lúc đó đã hơn 90) vẫn phủ nhận chính sự tồn tại của sự kiện này trước một phóng viên Nga. Trên thực tế, nhiều hoàn cảnh của sự kiện này vẫn tiếp tục tồn tại xuyên qua cuộc thế chiến và cả những xung đột tiếp sau đó cho đến năm 1989.
Quân đội và nhân dân Ba Lan đã chiến đấu can trường chống lại người Đức trong suốt một tháng vào năm 1939 (gần lâu bằng Pháp với đội quân đáng kể của họ vào năm 1940). Nhưng 17 ngày sau khi Đức xâm lược, quân đội của Stalin đã xâm lăng Ba Lan từ phía đông. Vài ngày sau tại Brest, một điểm gặp gỡ lúc ấy nằm ngay trên phần do Liên Xô kiểm soát tại Ba Lan, có một cuộc duyệt binh chung nho nhỏ của binh lính và quân xa của Đức và Liên Xô. Chỉ hơn hai tháng sau, tức chưa đầy ba tháng sau khi Thế chiến II nổ ra, trận đánh duy nhất trên đất liền tại châu Âu là giữa Nga và Phần Lan, vốn là dân tộc không chấp nhận sự kiểm soát của Nga đối với đất nước họ. Người Anh thất kinh. Họ (và người Pháp) thậm chí suy xét, trong thoáng chốc, về việc can thiệp, nhưng việc này đã không xảy đến. Quân đội Hitler sớm xâm chiếm Đan Mạch, Na Uy, Hà Lan, Bỉ – và sau đó là Pháp. Churchill và Anh quốc đã đứng một mình, trong suốt hơn một năm sau đó.
Cuối tháng 9 năm 1939, Ribbentrop bay tới Moskva lần nữa để thu xếp một số thoả thuận về đường biên giới, từ đó sẽ tiến hành Nghị định thư Bí mật kia. Xuyên suốt cuộc chiến, trong số những viên chức cấp cao của Đức, Ribbentrop là người mong muốn tìm kiếm và duy trì những thoả thuận Đức – Nga nhất. (Người đồng cấp của ông ở Liên Xô, Molotov, cũng thường có những mong muốn tương tự.) Ở khía cạnh này, chúng ta còn có thể chú ý đến những mong muốn hướng đến mối quan hệ song phương giữa Hitler và Stalin. Hitler cho rằng cần phải tiến hành những điều khoản trong mối quan hệ đồng minh với Stalin; về phần mình, Stalin thậm chí còn nhiệt tình hơn Hitler trong chuyện này. Một ví dụ là lời chúc tụng có lẽ không cần thiết của ông dành cho Hitler sau khi ký bản hiệp ước vào ngày 24 tháng 8 năm 1939: “Tôi biết dân tộc Đức yêu mến Führer (Quốc trưởng) của họ nhiều đến dường nào, do đó tôi nâng ly để chúc sức khoẻ cho ông ấy.” Đáng kể hơn đối với hồ sơ lịch sử và hệ trọng hơn đối với nhân dân Đông Âu là ý định của Liên Xô và hành vi xâm lăng của họ ngay sau khi ký Hiệp ước Xô-Đức.
Vào cái ngày diễn ra chuyến viếng thăm thứ hai của Ribbentrop đến Moskva, Nga bắt đầu gây áp lực lên các quốc gia Baltic. Nga đưa ra yêu sách đòi thay đổi những chính quyền tại Baltic, đầu tiên là tại Estonia, sau đó là những nước láng giềng Latvia và Litva. Quan trọng hơn, giờ đây Nga đã điều quân đến những nước đó, đặc biệt là đến các hải cảng của họ, làm suy giảm trầm trọng nền độc lập của những nước này. Chính quyền của những nước này chịu áp lực và đã phải tuân theo lệnh của Liên Xô, ngoại trừ Phần Lan. Hai tháng sau, Chiến tranh Mùa đông tại Phần Lan bắt đầu. Đội quân nhỏ bé của Phần Lan đã chiến đấu quật cường và dũng cảm, một thực tế mà ngay cả Stalin cũng phải thừa nhận; kết quả là xuất hiện một hiệp định trong đó Phần Lan từ bỏ một phần lãnh thổ cho Liên Xô nhưng vẫn duy trì nền độc lập cho phần lớn đất nước.
Tình hình tại Ba Lan còn xui rủi và kinh khủng hơn nhiều. Ở đó sự chiếm đóng của Liên Xô chí ít cũng tàn bạo và thảm khốc – nếu không muốn nói nhiều hơn – so với những phần đất Ba Lan bị Đức khuất phục. Nga trục xuất ít nhất một triệu người – bao gồm nhiều gia đình, mà không cho họ mang theo tài sản – tới Siberia, Kazakhstan và miền Bắc xa xôi của nước Nga, và gần như không ai có thể thăm lại quê nhà của mình lần nữa. Vào tháng 4 và tháng 5 năm 1940, khoảng 22.000 sĩ quan Ba Lan bị bắn chết gần Katyn. Hơn một triệu tù nhân và công nhân Ba Lan bị trục xuất tới Đức để chịu lao động cưỡng bức trong suốt thời chiến.
Đáng nói là nhiều việc làm thế này đã bắt đầu ngay sau khi Liên Xô chiếm được miền Đông Ba Lan vào tháng Chín năm 1939. Một số người Ba Lan, bao gồm người Do Thái, đã chào mừng binh lính Liên Xô, những tưởng rằng binh lính Liên Xô đến để giải phóng họ khỏi Đức Quốc xã. (Sau đó họ thất vọng với người Nga đến mức một số người Do Thái ở miền Đông Ba Lan đã nghĩ rằng tốt hơn là họ nên trốn sang khu vực của Đức Quốc xã, cho dù họ đã biết người Đức đối xử với dân Do Thái ra sao.) Từ năm 1939 đến 1941, có lẽ đa số dân Do Thái trên thế giới sống tại Đông Âu, hầu hết họ sống tại miền Đông Ba Lan, miền Tây Nga, Ukraina, và Belarus. Cuộc thanh trừng chung quyết của người Đức chưa được Hitler quyết định cho đến tháng 9 năm 1941 và trước tháng 1 năm 1942 vẫn chưa được thực hiện, nhưng theo nhiều cách khác nhau, số phận của họ đã được tiên đoán từ Hiệp ước Xô-Đức.
Stalin tìm cách ngăn Hitler xâm lược Liên Xô
Vào ngày 14 tháng 6 năm 1940, ngay cái ngày quân Đức diễu hành vào Paris, Moskva cuối cùng đã quyết định thi hành Nghị định thư Bí mật. Trong vòng một hai ngày, Nga tuyên bố tổng sáp nhập Estonia, Latvia và Litva vào Liên Xô. Thành viên chính phủ của những nước này hoặc bị cầm tù hoặc bị đày ải. Nhiều cựu viên chức ở đó bị xử tử, và ít nhất 25.000 người Baltic đã bị trục xuất tới Liên Xô. Hitler chở những người thuộc sắc tộc thiểu số Đức ở vùng Baltic đến Đức bằng tàu thuỷ của Đức.
Vào tháng 11 năm 1940, Molotov sang Berlin. Đây không phải là chuyến đi thành công của ông. Cung cách ngoại giao của ông cứng đờ như tính cách ông vậy. Nhìn thấy Đức chinh phục gần hết châu Âu, ông đề xuất việc gộp Bulgaria vào khu vực của Nga. Theo đó Liên Xô sẽ có sự hiện diện gần Bosphorus, với cái giá phải trả là Thổ Nhĩ Kỳ. Người Đức không đáp lại lời đề xuất này. Vào một ngày tháng 12 năm 1940, Hitler bắt đầu hoạch định một cuộc chiến chung cuộc với Nga.
Stalin phần nào chỉ trích hành vi của Molotov tại Berlin; ông cho là Bộ trưởng Ngoại giao của mình có lẽ đã quá cứng nhắc. Đây là lối cư xử điển hình của Stalin trong suốt sáu tháng tiếp theo. Ông không thể và sẽ không tin Hitler sẽ khởi sự một cuộc chiến chống lại mình trong khi Đức vẫn còn Anh quốc để xử lý.
Stalin đã thực hiện một số động thái để cải thiện tình hình của Nga. Ông thương thảo một hiệp ước giao hảo với Nam Tư, vốn chẳng được gì, vì Hitler đã xâm lược Nam Tư vào cái ngày ký hiệp ước này. Ông mời Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Matsuoka Yōsuke đến Moskva khi ông này trên đường quay trở về Nhật sau chuyến viếng thăm Berlin. Đáng ngạc nhiên là sau đó ông ký một Hiệp ước Bất tương xâm với Nhật. (Ngay sau khi Đức Quốc xã xâm lược Liên Xô vào tháng 6 năm 1941, Matsuoka khi trở về Tokyo đã đề nghị Nhật nên xâm lược Nga từ phía Đông. Giá trị của những bản Hiệp ước Bất tương xâm năm 1941 quả là nhỏ bé. Nhưng Matsuoka không được như ý, vì kẻ thù chính của Nhật lúc bấy giờ là Hoa Kỳ.)
Stalin ra lệnh phải có những cử chỉ thân thiện đối với Đức, bao gồm cả việc đẩy nhanh khâu vận chuyển các sản phẩm Liên Xô đến đó. Ông không một chút mảy may phản ứng lại lời cảnh báo của Churchill về viễn cảnh Đức sẽ tấn công Liên Xô. Trong suốt mười ngày trước cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã – mặc cho mọi loại thông tin về mối đe doạ của Đức – Stalin đã cố gắng thực hiện những điều tốt nhất, hay có lẽ là những điều tệ nhất, để xác nhận lòng tin của mình vào Hitler và nước Đức. Tôi không biết một trường hợp đơn lẻ nào có hành vi thấp hèn đến thế (vì bản chất của nó là thế) mà xuất phát từ một chính khách của một đại cường quốc.
Cuộc tấn công của Đức thoạt đầu đã làm Stalin sốc đến câm lặng. (Những lời của Molotov sau khi Đức tuyên bố chiến tranh cũng đáng nói: “Chúng ta đáng bị điều này sao?”) Những mệnh lệnh đầu tiên của Stalin cho quân đội Liên Xô là đừng phản ứng gì cả. Phải mất nhiều giờ đồng hồ sau cuộc xâm lăng – cho đến trưa – thì ông mới ra lệnh cho quân đội phản kháng.
Việc Stalin đã run sợ ra sao trong suốt những ngày công kích đầu tiên của Đức Quốc xã vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Cuối cùng ông đã xốc lại được tinh thần của mình. Vào ngày 3 tháng 7 năm 1941 – mười một ngày sau cuộc xâm lăng của Đức – ông gọi nhân dân Liên Xô là một tập thể ái quốc. Tới thời điểm đó, một số binh lính Đức Quốc xã đã xâm nhập miền Tây Liên Xô được hơn một trăm dặm (hơn 160 km) và đang tiến đến Moskva. Roger Moorhouse kết lại phần dẫn nhập khiêm tốn của mình: lịch sử của Hiệp ước Xô-Đức “xứng đáng được giải cứu ra khỏi những dòng cước chú (tức ít được chú ý – NBT) và khôi phục lại vị trí đúng đắn của nó… Tôi chỉ có thể hi vọng rằng cuốn sách này sẽ góp được một phần nho nhỏ cho tiến trình đó.” Quả thật nó đã làm được điều đó.
Ý đồ của Hitler và Stalin
Dĩ nhiên vẫn còn đó những nghi vấn dành cho các sử gia. Một vấn đề là nhiều văn khố Liên Xô vẫn còn đóng cửa, và văn bản của họ thường là không đáng tin cậy trong mọi trường hợp. Một nghi vấn sâu xa hơn vẫn chưa giải quyết được nằm ở chỗ mục đích chính của Hitler vào năm 1941 là gì. Trước nhân dân và đồng minh của mình, ông đã có những giải thích rõ ràng và đơn giản. Ông chưa bao giờ thoải mái trong việc liên kết với Liên Xô. Ông kinh tởm chủ nghĩa cộng sản. Nhưng còn có một yếu tố khác, có lẽ mang tính quyết định, trong tâm trí của ông. Ở đâu đó ông đã buông lời nhận xét về điều này trước một số tướng lĩnh của mình. Những lời đó liên quan đến Anh quốc – và đằng sau đó là Hoa Kỳ. Một khi đã chinh phục Nga, buộc Stalin quy hàng hay phải rút đi những gì còn lại của quyền lực Liên Xô đằng sau vùng Ural để chạy sang Siberia, thì khi đó Churchill (và Roosevelt) có thể làm được gì? Họ phải đối diện với một kẻ khổng lồ Nazi-Á-Âu, với đội quân Đức lớn mạnh không còn phải chiến đấu trên hai mặt trận nữa.
Vấn đề của Stalin nghiêm trọng hơn nhưng lại đơn giản hơn. Vào đầu tháng 9 năm 1941, ông viết cho Churchill rằng Liên Xô đang “chịu mối đe doạ chết người.” Chuyện đó không xảy ra; và đến năm 1942, ông nhận ra là mình sẽ nhận được nhiều thứ từ mối quan hệ đồng minh với Anh và Hoa Kỳ hơn là với Đức. Nhưng chí ít cho tới tháng 6 năm 1941, Stalin và Molotov vẫn còn chuộng Đức của Hitler hơn là phương Tây.
Ở phương diện này có một chỗ dành cho một bản tiểu sử, hay một bản phác thảo tiểu sử, của một viên chức nham hiểm của Liên Xô mang tên Vladimir Dekanozov, người thân cận với Molotov trong suốt thời gian dài, một trong những kẻ thân Đức quan trọng trong hàng ngũ viên chức cao cấp của Liên Xô (và vào năm 1941 còn là Đại sứ tại Berlin). Có chứng cứ cho rằng khoảng cuối mùa xuân năm 1943, Molotov đã điều Dekanozov đến Stockholm với mục tiêu thiết lập mối liên hệ với Đức Quốc xã. Ribbentrop đã sẵn sàng gặp Dekanozov nhưng bị Hitler cấm không cho gặp. Vào cuối năm 1953, Khruschev đã ra lệnh xử tử Dekanozov.
Hai tuyên bố lịch sử đã xuất hiện bằng văn bản sau khi cuộc chiến kết thúc được một thời gian. Vào tháng 12 năm 1941, Churchill điều Bộ trưởng Ngoại giao Anthony Eden đến Moskva. Các lực lượng tiến công của Đức chưa tới được Moskva nhưng vẫn có thể nghe thấy tiếng súng ở bên ngoài bức tường của điện Kremlin. Stalin nói với Eden: “Vấn đề của Hitler là ông ta không biết nên dừng lại chỗ nào.” Eden: “Thế có ai biết không?” Stalin: “Tôi biết.” Hai từ này không hoàn toàn xa rời sự thật. Vào tháng 11 năm 1944, Churchill đến gặp De Gaulle tại Paris. De Gaulle nghiêm trách người Mỹ vì đã để Nga chiếm toàn bộ Đông Âu. Churchill bảo, vâng, Nga giờ đây là con sói đói khát. “Nhưng sau bữa ăn là đến giai đoạn tiêu hoá.”[1] Nga sẽ không thể tiêu hoá được phần lớn Đông Âu. Và quả đúng vậy.
John Lukacs là sử gia người Mỹ gốc Hungary. Cuốn sách mới nhất của ông là A Short History of the Twentieth Century, Harvard University Press, 2013. Đây là bài điểm sách cho cuốn The Devils’ Alliance: Hitler’s Pact with Stalin, 1939–1941 của Roger Moorhouse, Basic Books, 2014. Các tiểu mục do Nghiencuuquocte.net tự đặt.
——————–
[1] Điều đáng lưu tâm là cuộc trao đổi này không được ghi nhận trong hồi ký chiến tranh của Churchill mà là trong hồi ký của De Gaulle. Churchill nói ra điều này từ lâu trước khi có bài diễn thuyết “Bức màn sắt” vào năm 1946. (Chú thích của tác giả.)
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/05/04/hitler-stalin-lien-minh-ma-quy/#sthash.ZNbypyYn.dpuf

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Những việc nên làm ngay và luôn!


Việt Nam nên phản ứng ra sao trước phán quyết của Tòa về vụ kiện đường lưỡi bò?


(GDVN) - Chúng ta nên tổ chức học tập, rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc và cầu thị về quá trình khởi kiện của Philippines, rút ra được những bài học bổ ích để...
LTS: Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ gửi cho Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài phân tích của ông về phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) rằng Tòa có thẩm quyền xét xử vụ Philippines khởi kiện Trung Quốc áp dụng và giải thích sai Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) và phản ứng Việt Nam nên lựa chọn trong trường hợp này với tư cách là một bên có liên quan. Xin trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc.
Ngày 29/10 Tòa Trọng tài Thường trực tại The Hague Hà Lan ra thông cáo báo chí về vụ kiện giữa Cộng hòa Philippines với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong đó phán quyết rằng PCA có thẩm quyền thụ lý, xét xử vụ kiện này theo đúng quy định của UNCLOS.
Dư luận khu vực, quốc tế đặc biệt hoan nghênh phán quyết này và rất chờ đợi những bước tiếp theo của PCA. Phán quyết của PCA có thể nói chính là thắng lợi bước đầu của công lý, thắng lợi của chính UNCLOS và Hội đồng Trọng tài được thành lập theo Công ước trong xử lý tranh chấp về giải thích và vận dụng công ước ở một vùng biển phức tạp như Biển Đông.
Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ.
Những điều đáng chú ý trong thông cáo báo chí của PCA 
Tòa án được thành lập hợp pháp theo Phụ lục VII của UNCLOS. Đồng thời, trước việc Trung Quốc công bố văn bản thể hiện lập trường của mình về vụ kiện và phiên tòa trong tháng 12/2014, PCA đã ra phán quyết trong tháng 4/2015 rằng Tòa án sẽ xem xét bản tuyên bố lập trường này như một lời bào chữa liên quan đến thẩm quyền của PCA và Tòa triệu tập một cuộc điều trần về thẩm quyền của mình đối với vụ kiện này trong 3 ngày, 7,8 và 13/7/2015.
Thông cáo báo chí ngày 29/10 của PCA cho biết: Cả Trung Quốc và Philippines đều là một thành viên ràng buộc của UNCLOS có trách nhiệm và nghĩa vụ tuân thủ mọi điều khoản của UNCLOS. Việc Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện không làm mất thẩm quyền ra phán quyết của PCA.
PCA bác bỏ lập luận của Trung Quốc rằng Philippines chủ yếu khởi kiện các nội dung liên quan đến "chủ quyền" và phân định biên giới biển giữa 2 nước, do đó nó vượt qua thẩm quyền của PCA. Ngược lại Tòa khẳng định, bản chất vụ kiện của Philippines phản ánh tranh chấp giữa 2 nước liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS.
PCA bác bỏ lập luận của Trung Quốc rằng Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) ký giữa Trung Quốc với ASEAN năm 2002 là thỏa thuận để giải quyết tranh chấp Biển Đông thông qua thương lượng. Ngược lại, PCA phán quyết rằng DOC chỉ là một thỏa thuận chính trị mà không có ràng buộc pháp ý, do đó không liên quan đến các quy định trong UNCLOS về việc ưu tiên giải quyết tranh chấp thông qua bất kỳ phương tiện nào mà hai bên đồng ý.
Philippines khởi kiện tất cả 15 vấn đề, trong đó có 7 vấn đề PCA cho rằng cần phải xem xét thêm. Tòa đang yêu cầu Philippines giải trình thêm hoặc thu hẹp lại 7 vấn đề này và sẽ tiến hành tham vấn các bên, tổ chức điều trần về thẩm quyền của Tòa với 7 nội dung này. Những phiên điều trần này không mở cửa công khai, nhưng PCA sẽ phát hành thông cáo báo chí khi bắt đầu và kết thúc phiên điều trần và xem xét yêu cầu quan tâm của Trung Quốc và các đoàn quan sát.
PCA hy vọng có thể giải quyết các vấn đề pháp lý còn lại của vụ kiện trong năm 2016.
15 vấn đề Philippine Philippines khởi kiện có thể khái quát thành 3 nội dung liên quan đến quan hệ giữa Philippines và Trung Quốc ở Biển Đông. Một là Philippines đề nghị Tòa phán quyết về nguồn gốc của quyền, nghĩa vụ của các bên ở BIển Đông và ảnh hưởng của UNCLOS đối với tuyên bố "quyền lịch sử" của Trung Quốc trong phạm vi cái gọi là đường 9 đoạn.
Hai là Philippines đề nghị PCA ra phán quyết về đặc trưng pháp lý của một số thực thể mà cả Philippines và Trung Quốc đều yêu sách ở Biển Đông xem chúng là đảo, bãi đá hay bãi cạn lúc chìm lúc nổi theo UNCLOS vì điều này quyết định tình trạng pháp lý, hiệu lực pháp lý của các thực thể này với vùng biển xung quanh nó.
Ba là, Philippines đề nghị Tòa ra phán quyết về các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông vi phạm UNCLOS trong việc ngăn cản Philippines thực hiện quyền chủ quyền và các quyền tự do theo UNCLOS.
Vai trò không thể thiếu của Việt Nam
Ảnh chụp màn hình phần tiêu đề Thông cáo Báo chí của PCA về vụ kiện đường lưỡi bò.
Trong thông cáo báo chí của PCA ngày 29/10 phần c mục 3 cho biết: Sau khi xác định các tranh chấp trình bày bởi đơn kiện của Philippines, PCA xem xét sự vắng mặt trong vụ kiện này của các quốc gia có yêu sách với các đảo ở Biển Đông như Việt Nam có phải là một rào cản đối với thẩm quyền xét xử của Tòa hay không.
Tòa án cho rằng phiên tòa này khác với các phiên tòa trước đây, trong đó một phiên tòa đã thấy rằng sự tham gia của một bên thứ 3 có liên quan là không thể thiếu. PCA sẽ không ra phán quyết về chủ quyền của Việt Nam và các nước khác; không cần phải được xác định trước khi phiên tòa có thể tiến hành.
Tòa cũng nhắc lại rằng, vào tháng 12 năm 2014, Việt Nam đã đệ trình "Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam" đối với phiên tòa này, trong đó Việt Nam khẳng định rõ rằng họ "không có nghi ngờ gì về thẩm quyền của Tòa trong việc thực hiện các thủ tục tố tụng".
Phán quyết của PCA là thắng lợi bước đầu, nhưng vô cùng quan trọng của UNCLOS và công pháp quốc tế
Phán quyết của PCA về thẩm quyền thụ lý vụ kiện của Philippines là thắng lợi bước đầu, nhưng vô cùng quan trọng của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, cũng như công pháp quốc tế. Có thể nói lần đầu tiên các tranh chấp về việc giải thích và áp dụng  UNCLOS 1982  theo các cơ chế thích hợp đã được vận để dụng để thụ lý và xét xử các vụ kiện  được đơn phương đệ trình.
Mặc dù phải chịu rất nhiều áp lực chính trị, kinh tế từ phía Trung Quốc, nhưng có thể thấy các thành viên Hội đồng Trọng tài của PCA đã rất công tâm, nỗ lực bảo vệ công lý, bảo vệ UNCLOS, bác bỏ những lập luận ngụy biện của Trung Quốc - một thành viên UNCLOS - chỉ muốn tuân thủ quy định nào có lợi cho mình và tự cho phép mình có cái gọi là quyền miễn trừ khỏi những quy định của UNCLOS bất lợi cho họ.
Hội đồng Trọng tài của PCA trực tiếp thụ lý vụ kiện của Philippines, từ trái qua phải là các Thẩm phán: Jean-Pierre Cot, Stanislaw Pawlak, Thomas A. Mensah (Chủ tịch Hội đồng), Rüdiger Wolfrum,  Alfred H. A. Soons. Ảnh: PCA.
Theo South China Morning Post ngày 31/10, học giả Ian Storey, một chuyên gia của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore, cho rằng, phán quyết của PCA là chiến thắng gián tiếp của các bên yêu sách khác. Zhang Xijun, một chuyên gia về luật biển từ Đại học Thanh Hoa, Trung Quốc cũng thừa nhận, trong ngắn hạn nó sẽ thúc đẩy phản ứng mạnh mẽ của các bên yêu sách khác ở Biển Đông.
Ông Trương Minh Lượng, một nhà nghiên cứu đại học Kỵ Nam cho rằng, việc từ chối tham dự phiên tòa sẽ làm hỏng hình ảnh Trung Quốc, dư luận quốc tế sẽ thấy Trung Quốc đã bất chấp các quy tắc của luật pháp quốc tế, chỉ tìm cách bắt nạt các nước nhỏ.
Học giả Ian Storey nhận xét, lý do thực sự khiến Trung Quốc từ chối tham dự phiên tòa này vì họ biết rằng yêu sách “lưỡi bò” ở Biển Đông không phù hợp với UNCLOS và nó sẽ bị bác bỏ.
Việt Nam nên phản ứng ra sao?
Theo tôi, việc đầu tiên là Việt Nam nên có động thái thích hợp để hưởng ứng kịp thời và rõ ràng đối với phán quyết có ý nghĩa này của PCA. Trước hết, chúng ta nên ca ngợi, đánh giá cao kiến thức, sự công tâm, trách nhiêm và lòng quả cảm của các Thẩm phán được cử tham gia Hội đồng PCA trong quá trình nghiên cứu, thụ lý hồ sơ vụ kiện lịch sử này.
Việc làm của họ tuy là bước đầu, nhưng có thể nói đó là những công hiến vô cùng quan trọng cho nhân loại trong việc góp phần bảo vệ công lý, lẽ phải và hiệu lực của UNCLOS 1982, tạo ra tiền lệ pháp lý để giải quyết những tranh chấp, bất đồng trên biển bằng biện pháp hòa bình, ngăn ngừa xung đột và chiến tranh.
Đồng thời, chúng ta nên tăng cường hơn nữa công tác truyền thông cho dư luận hiểu rõ về ý nghĩa của phán quyết này. Điều quan trọng hơn, chúng ta nên tổ chức học tập, rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc và cầu thị về quá trình khởi kiện của Philippines, rút ra được những bài học bổ ích để tổ chức chuẩn bị mọi phương án đấu tranh trên mặt trận pháp lý, trong đó có việc sử dụng đến các cơ chế  tài phán quốc tế.  
 

Hồng Thủy
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nếu ông Tập thực tâm thì chả có gì khó: Ông chỉ cần những vùng biển và đảo của VN trả lại cho VN, không gây hấn với ngư dân, cắt cáp hay đâm chìm tàu như những năm vừa qua, thì tình hữu nghị giữa hai nước sẽ tốt đẹp như lời nói. Có thực mới vực được đạo, hy vọng lời nói và việc làm của "Đồng chí 4 tốt" không mâu thuẫn. Vậy đã là quá đủ dù phát biểu với ai hay bất cứ diễn đàn nào!



Ông Tập Cận Bình sẽ phát biểu trước Quốc hội Việt Nam

)(GDVN) - Ngoài việc hội đàm với các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam, ông Tập Cận Bình sẽ có bài phát biểu trước Quốc hội Việt Nam.
Tờ Thanh niên Bắc Kinh ngày 31/10 đưa tin, ông Tập Cận Bình sẽ thăm chính thức Việt Nam tuần tới trên 2 cương vị Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc và Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Ông Tập Cận Bình từng thăm Việt Nam trên cương vị Phó Chủ tịch nước, ảnh: BBC.
Phát biểu trước Quốc hội Việt Nam 
Trong cuộc họp báo giới thiệu về chuyến thăm hôm qua do ông Lý Quân - Trợ lý Trưởng ban Liên lạc đối ngoại đảng Cộng sản Trung Quốc và ông Lưu Chấn Dân - Thứ trưởng Bộ ngoại giao đồng chủ trì, hai ông cho biết ngoài việc hội đàm với các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam, ông Tập Cận Bình sẽ có bài phát biểu trước Quốc hội Việt Nam.
Ông Lý Quân nhấn mạnh, giao lưu giữa hai Đảng là bộ phận quan trọng trong quan hệ Việt - Trung. Khi thăm Việt Nam, ông Tập Cận Bình sẽ có các cuộc hội đàm hội kiến với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.
Dự kiến hai bên sẽ trao đổi về quan hệ song phương, chính sách đối nội cũng như đối ngoại của mình, các vấn đề khu ực và quốc tế cùng quan tâm để thúc đẩy tin cậy chính trị, nâng cao trình độ hợp tác, quy hoạch triển vọng phát triển quan hệ Việt - Trung trong tương lai. Ngoài ra ông Tập Cận Bình sẽ tham dự các hoạt động giao lưu hữu nghi giữa thanh niên hai nước Việt Nam, Trung Quốc.
Vấn đề Biển Đông
Trả lời câu hỏi của phóng viên xoay quanh mâu thuẫn, tranh chấp trên Biển Đông ảnh hưởng như thế nào đến quan hệ Trung - Việt, ông Lưu Chấn Dân nói:
"Trung Quốc và Việt Nam là láng giềng quan trọng, luôn luôn nỗ lực giải quyết vấn đề tồn tại trên biển giữa hai nước thông qua đàm phán 'song phương' một cách hòa bình, quan trọng hơn là dù trên biển có va chạm, hai bên đều luôn thông qua đàm phán hòa bình 'song phương' để giải quyết vấn đề, đó là nhận thức chung, cũng là kinh nghiệm, chúng tôi sẽ kiên trì tiếp tục thực hiện".
Tuy nhiên cần lưu ý, phát biểu của ông Lưu Chấn Dân đang cố tình chơi chữ, gài chữ 'song phương' để tuyên truyền với dư luận rằng Việt Nam đồng ý đàm phán 'tay đôi' với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Biển Đông rất rộng, có mâu thuẫn tranh chấp song phương như ở Hoàng Sa hay cửa vịnh Bắc Bộ mở rộng, có tranh chấp đa phương như ở Trường Sa và phạm vi đường lưỡi bò 9 đoạn.
Tranh chấp song phương thì có thể giải quyết qua đàm phán song phương nhưng cho đến nay phía Trung Quốc vẫn né tránh đàm phán về Hoàng Sa, không thừa nhận tranh chấp. Còn lại những tranh chấp đa phương buộc phải giải quyết thông qua cơ chế hòa bình đa phương với sự có mặt của các bên liên quan - PV.
Ông Lưu Chấn Dân nói tiếp, mười mấy năm qua Trung Quốc và Việt Nam vẫn duy trì liên hệ chặt chẽ thúc đẩy đàm phán giải quyết vấn đề Biển Đông thông qua các cơ chế đàm phán của chính phủ hai nước. Năm 2011 hai bên ký kết hiệp định nguyên tắc giải quyết các vấn đề trên biển.
Năm 2013 Thủ tướng Lý Khắc Cường thăm Việt Nam, lãnh đạo hai nước tăng cường nhận thức chung, cuối năm đó tổ công tác đàm phán khai thác chung trên biển được thành lập. Mục tiêu là đàm phán hợp tác cùng khai thác ở những khu vực tranh chấp trên Biển Đông trước khi đạt được giải pháp cuối cùng giải quyết tranh chấp.
Một lần nữa ông Lưu Chấn Dân đang mập mờ đánh lận con đen về phạm vi vùng biển cùng hợp tác khai thác giữa Việt Nam - Trung Quốc trên Biển Đông. Hai bên chỉ có thể bàn đến việc tạm gác tranh chấp cùng khai thác ở cửa vịnh Bắc Bộ mở rộng, nơi hai bên chưa thể phân định được vùng chồng lấn chứ không thể nói cả Biển Đông.
Ông Dân nói gác tranh chấp, cùng khai thác ở Biển Đông có nghĩa là đang muốn lôi Việt Nam vào tròng pháp lý mặc nhiên thừa nhận những vùng biển không tranh chấp thành có tranh chấp, thừa nhận đường lưỡi bò vô lý, phi pháp và bành trướng. Chuyện đó không bao giờ xảy ra - PV.
Bản tin trên Tân Hoa Xã tường thuật cuộc họp báo này không nhắc gì đến nội dung liên quan đến Biển Đông. Tân Hoa Xã chỉ dẫn lời ông Lý Quân nói rằng:"Mặc dù thời gian chuyến thăm này ngắn, nhưng dự kiến sẽ có nhiều kết quả. Chuyến thăm Việt Nam của ông Tập Cận Bình sẽ mở đầu giai đoạn mới của quan hệ song phương, hai bên đã đồng ý làm việc cùng nhau về sáng kiến Một vành đai, một con đường của Trung Quốc với kế hoạch Hai vành lang, một vành đai của Việt Nam".
Bình luận về chuyến thăm này, tờ Liên Hợp xuất bản tại Đài Loan hôm nay cho rằng, đúng thời kỳ "nhạy cảm", cuối tuần tới ông Tập Cận Bình thăm chính thức Việt Nam là có ý "thăm dò hư thực" trong vấn đề Biển Đông và "đánh động" Việt Nam.


Hồng Thủy

Phần nhận xét hiển thị trên trang