Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

Blog Nguyễn Đình Bổn: Cạm bẫy nữ sắc!

Blog Nguyễn Đình Bổn: Cạm bẫy nữ sắc!: Nghe xưa như trái đất hén. Nhưng nó lại mang tính rất thời sự tại mấy nước... xã hội chủ nghĩa hiện giờ, tiêu biểu là Trung Quốc và đ... Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trời nóng thì phải cởi ra - Có ai động đến mồ ma đứa nào?

Biểu diễn khai mạc sếch-xi

Đồn rằng hồ ly chín đuôi
Các em chỉ đến góp vui thôi mà


Mấy anh kiến trúc mơ màng
Thiết kế vào đúng điểm vàng mới ngon

Mùa xuân là mùa sinh sôi
Để đám đực rựa bồi hồi con trym (quên, tim hehe)

Hội khóa toàn bạn với thầy
Ngoáy mông khoe rốn bầy hầy lắm nha

Giao ban là để triển khai
Không phải là để khoe tài ngoáy mông

Chúc mừng bảo dưỡng thành công
Bổ sung điện nước để không hao mòn

Đi tu thì cũng là người
Cải thiện đôi mắt để đời bớt khô

Ông zời zở chứng làm mưa
Mất công em tỉa lông (nách) thừa sáng nay

Khổ thân mấy anh máu dê
Dán mắt vào cái đê mê… ngã rồi

Văn hóa là phải bảo tồn
Chớ quên giữ cái tâm hồn chị em
--------------------------
Bonus thêm cái này, hehe... 
Chắc quên tháo cái băng rôn
Để cho quần chúng bồn chồn... muốn vô


Nguồn hình ảnh: Sưu tầm trên internet.
Theo: Bautx
____________
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Phá kiểu này mấy mà tan?

Ai để nhà máy nghìn tỉ thành nơi chăn bò?

Thu Hằng

VNN - Nhà máy quy mô nghìn tỉ ở Vũng Áng, Hà Tĩnh thành nơi chăn bò thì phải làm rõ nguyên nhân chủ quan về quy hoạch sản xuất, sắt thép của cả nước, của từng địa phương, trách nhiệm cơ quan thẩm định đầu tư.
Trao đổi với VietNamNet, ĐBQH Bùi Đức Thụ, ủy viên thường trực UB Tài chính - Ngân sách QH nhận định, những dự án đầu tư dở dang rồi bỏ hoang phản ánh tình trạng lãng phí lớn đối với tiền của dân, của nhà nước, của DN. 
Theo ông, nguyên nhân dẫn việc một dự án từng được xem làm biểu tượng thu hút đầu tư của Hà Tĩnh nay lại trở thành nỗi ám ảnh của nhiều ngân hàng là gì?

Nguyên nhân bắt đầu từ chủ trương quyết định đầu tư. Do chủ trương và quyết định đầu tư sai dẫn đến công trình dự án đầu tư dở dang.
Thậm chí đầu tư hoàn thành rồi nhưng sản xuất một thời gian ngắn phải đóng cửa vì dự báo thị trường, cung cầu, các mặt khác không ổn dẫn đến càng sản xuất càng lỗ. Do đó dẫn đến phải tự đóng cửa.
Trước hết phải rà soát lại chủ trương đầu tư, đặc biệt là quyết định đầu tư và trên cơ sở dự báo về thị trường một cách xác thực, dự kiến, dự báo về các lĩnh vực một cách xác thực với bối cảnh KTXH trong tương lai. 
Nhất là những chủ trương lớn phải dự báo trung, dài hạn vì đầu đầu tư lớn thì thơi gian dài và nguồn vốn đầu tư rất lớn. Một vấn đề nữa là đầu tư của DN kém hiệu quả thì họ phải chịu, phải phá sản nhưng làm cho nợ xấu tăng.
Quyết định đầu tư của địa phương thế nào?
Dù là một dự án của DN nhưng như ông nói, việc một dự án kém hiệu quả không chỉ làm tốn kém tiền của của chính DN mà còn làm lãng phí nguồn lực xã hội và để lại gánh nặng nợ xấu cho các ngân hàng. Vậy trách nhiệm này thuộc về ai?
Tôi cho rằng phải xác định rõ trách nhiệm của người quyết định đầu tư. Người quyết định đầu tư phải chịu trách nhiệm về đời sống của dự án đó chứ không thể nào cứ chạy theo nhiệm kì, thành tích rồi đầu tư công trình này, công trình kia. 
Tương lai có khả năng thu hồi vốn hay không, có khả năng bảo toàn vốn được không cần phải làm rõ và có chế tài cụ thể thì mới ngăn chặn được tình trạng này. Bên cạnh đó, phải xem xét trách nhiệm cơ quan thẩm định, quyết định đầu tư
Vậy để ngăn chặn tình trạng này tái diễn thì cần phải làm gì?
Để ngăn chặn tình trạng này cùng với việc xác định rõ trách nhiệm của người ra quyết định đầu tư thì phải rà soát lại kế hoạch chung về chủ trương, quyết định đầu tư của địa phương ấy như thế nào.
Nhà máy thép ở Vũng Áng có quyết định đầu tư vào giai đoạn trước (từ năm 2008) dựa trên dự báo tương lai. 
Nhưng thực tế KTXH giai đoạn diễn biến sau đó có những biến động, khó khăn, đặc biệt từ 2011, khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là nợ công từ châu Âu lan ra một loạt các nước cho đến giờ dấu hiệu suy thoái vẫn còn, chưa phục hồi, chưa khắc phục được vấn đề nợ công… 
Trong nước, kinh tế VN tăng trưởng không đạt kế hoạch mấy năm liền và chậm so thời kì trước.
Do vậy dẫn đến một dự án của DN đầu tư khi kinh tế đang lên nhưng đến khi khánh thành thì kinh tế suy thoái dẫn đến khó khăn. 
Vụ việc cũng cần phân tích nguyên nhân chủ quan về quy hoạch sản xuất, sắt thép của cả nước, của từng địa phương, dự báo thị trường, trách nhiệm của cơ quan thẩm định, của cơ quan quyết định đầu tư xem có yếu tố nào làm không đúng quy trình.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bài học sử:


Cuộc khủng hoảng của nhà Trần sau khi đánh thắng quân Nguyên

Tiếp tục câu chuyện về Trần Khánh Dư: Vừa là  người anh hùng có công vừa là viên quan cai trị có tội  đưa trên blog này ngày 1-10-2013 
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2013/10/vua-la-nguoi-anh-hung-co-cong-vua-la.html

Trên con đường lấy lịch sử để giải thích hiện tại, có một việc tôi đang muốn dành thời gian để  làm là đọc lại sử nước mình những năm sau chiến tranh – ta hay gọi là hậu chiến.
 Câu hỏi đặt ra hôm nay: đánh xong quân Nguyên, xã hội VN thời nhà Trần ra sao? Và tôi tìm thấy một số tư liệu như sau.


Dưới con mắt Đào Duy Anh 
     Trong cuốn Lịch sử VN- từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX,  Đào Duy Anh dành hẳn một chương, chương XXV, nói về Bước suy đốn của nhà Trần, trong đó nói rõ việc đầu tiên Trần Nhân Tông cho làm sau khi quân Nguyên rút lui năm 1285 là duyệt lại hộ khẩu trong nước.
      Để làm gì? Theo Đào Duy Anh, để tìm cách “lấy tiền của mà tu bổ những tổn hại do chiến tranh gây nên.”
    Tiếp đó, Đào Duy Anh kể ra nhiều việc nhà Trần đã làm sau 1288, nhằm “ra tay bóc lột nhân dân thêm nữa”.
     “Ngay năm 1290, sử đã chép có nạn đói lớn [....] Sau khi đã ra sức tham gia kháng chiến trong quân đội hay trong dân quân, người nông dân thấy đời họ không được cải thiện mà lại còn bị bóc lột hơn xưa, họ rất lấy làm bất bình mà đã rục rịch phản đối. Không thể dùng ngay thủ đoạn khủng bố, Trần Khâm ( tức Nhân Tông—VTN ) lại nghĩ ngay đến việc dụng binh đối với các nước nhỏ láng giềng  để đánh lạc hướng bất bình của nhân dân” (Sđd, bản của Nxb Văn hóa Thông tin, 2002, tr. 258-259) 

Theo cách miêu tả của Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh
 Trên đây tôi đã bắt đầu từ cuốn  sử của Đào Duy Anh.
 Khốn thay là từ 1958 tới 1980, Đào Duy Anh bị vướng vào vụ Nhân văn  nên các tác phẩm của ông, kể cả cuốn trên, không được in lại. Tuy một số phương diện tư tưởng của ông có được các học trò xuất sắc ở thế hệ sau ... tiếp tục, nhưng thực tế là người ta càng ngày càng xa rời cái chiều hướng mà Đào Duy Anh theo đuổi để đi vào một thứ sử học đơn giản và vụ lợi, cốt phục vụ các mục đích chính trị trước mắt.
Cũng may mà những năm trước 1975, tình hình cũng chưa đến nỗi hoàn toàn bi đát.
Theo dư luận chung, một trong những cuốn xuất sắc nhất thời ấy là  Lịch sử chế độ phong kiến VN của khoa Sử đại học tổng hợp viết trước 1975, cuốn I sách này dành để viết về VN trước thế kỷ XV.

 Nhưng tôi hiện không có cuốn đó trong tay, chỉ đành dựa vào bộLịch sử Việt Nam quyển I, tập II, bao quát giai đoạn từ thế kỷ VII tới 1427 của Khoa Sử Đại học sư phạm, nxb Giáo dục Hà Nội, 1970. 


 

   cuốn sách này, tôi tìm được những trang sử mà mình muốn biết và muốn mọi người cùng biết.
Sau chương V nói về cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông, chương VII cuốn sử do Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh biên soạn mang tên Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV.
Ngay phần mở đầu chương, cùng với việc nêu rõ tầm cỡ chiến thắng, các tác giả viết:
 “…ba năm chiến tranh ác liệt chống chọi với kẻ địch nổi tiếng về tính chất cướp bóc và phá hoại đã để lại những hậu quả quan trọng cho sản xuất và đời sống nông dân. Liền sau đó hai năm 1290, 1291 là những năm đói lớn, một thăng gạo trị giá một quan tiền, nhiều người dân phải bán ruộng đất và con trai con gái để lấy lương ăn.”(tr 258)
Hoàn cảnh hậu chiến khó khăn, hẳn không ai lạ gì. Các nhà sử học tôi muốn giới thiệu trong bài này chỉ hơn hẳn các nhà sử khác là không lảng tránh mà coi đó là một đối tượng cần phải miêu tả.
 Trong sự hạn chế của một nền sử học viết trong hoàn cảnh 30 năm chiến tranh, họ dường như muốn cảnh báo trước về những khó khăn mà con người hậu chiến hiện đại sẽ phải chịu đựng.

Theo sự chỉ dẫn của các tác giả, người ta được biết những năm đó, nguy cơ của một cuộc xâm lược lần thứ IV của quân Nguyên vẫn chưa hết.
 Nhưng có cái lạ mà khi đọc lại chúng tôi hết sức ngỡ ngàng, đó là chỉ hai năm sau, lập tức vua và quí tộc nhà Trần đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược các nước láng giềng ở phía Tây và phía Nam, tức là Ai Lao và Chiêm Thành.
Và có ít đâu, cuộc chiến Việt Nam Ai Lao thời ấy kéo dài hàng nửa thế kỷ( xem tr. 260), mà cuộc chiến với Chiêm Thành lại còn dây dưa lâu hơn – trận chiến cuối cùng mà quân nhà Trần tiến hành ở Chiêm Thành là vào 1396 (tr.263).
 Các bộ lịch sử VN viết trong những năm chiến tranh có thói quen ca tụng tất cả những cuộc chiến tranh mà ông cha ta đã tiến hành trong quá khứ.
  Nhưng ngay ở đoạn viết về cuộc chiến tranh sang đánh Ai Lao của Trần Nhân Tôn  năm 1290 và 1294, các tác giả của Khoa Sử trường Đại học Sư phạm đã vượt ra ngoài thói quen đó.
 Các ông nói rõ đây là những cuộc hành binh phi nghĩa.( Tr 259)
Nhìn lại cả  một thế kỷ chiến tranh ở mặt trận Tây – Nam, các tác giả bảo rằng nó đã huy động “những khả năng lớn lao của dân tộc” chỉ “để thỏa mãn những tham vọng về đất đai uy thế và quyền lực” của vua chúa thời ấy mà thôi( sđ d tr 263).

Để miêu tả đến cùng tâm lý bệnh hoạn mà vua chúa thời ấy mắc phải,  các tác giả  Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh lại còn ghi lại một cuộc bàn bạc trong triều đình nhằm tố cáo lý do giả tạo mà ông vua vừa chiến thắng quân Nguyên nêu ra để buộc mọi người làm theo ý mình.
Ở tr 259, sách kể khi đánh Ai Lao, bầy tôi có người can ngăn rằng giặc Nguyên vừa mới rút lui, vết thương chưa hàng gắn được, không nên gây việc binh đao thì vua trả lời đại ý rằng “sau khi giặc rút lui, các nước bên cạnh tất bảo là quân mã của ta mỏi mệt, có ý coi thường, cho nên cần phải khởi đại binh để ra oai với nước khác”.
Tóm tắt tình hình chinh chiến với Chiêm Thành,  các tác giả cho biết:
 “ từ 1361, quân nhà Trần lui dần vào thế phòng ngự, chuyển cuộc  chiến tranh ở đất nước người về đất nước mình, nhân dân lao động phải gánh chịu những thảm họa của chiến tranh trực tiếp và ghê gớm hơn.”
 “…sức sản xuất bị đình trệ  và có lúc bị phá hoại nặng nề đưa đến nạn đói lưu niên. Chỉ tính từ 1290 đến 1379 đã có 13 lần đói trầm trọng…(tr. 265)
 Xét chung tình hình quốc gia, xưa nay dân ta hay nói sau khi chiến thắng quân Nguyên, đây là giai đoạn “ngàn năm thăng bình”.
        Thăng bình là từ cũ nay ít dùng. Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Mộng Hùng ( S. 1975)  giải là "lên cõi bình trị trên toàn đất nước" ghi lại câu thơ Nguyễn Khuyến “ "Kìa hội Thăng bình tiếng pháo reo” làm dẫn chứng . 

Nhưng theo các tác giả cuốn sách đang nói, sự thăng bình -- và nghĩa rộng hơn là một cuộc sống yên ổn -- không đến với dân chúng.
Cuộc sống “an cư lạc nghiệp mà người dân Đại Việt muốn sau những năm chống quân Nguyên căng thẳng, không thể tìm thấy được trong cả thời gian rất dài gần hết thế kỷ XIV” ( sđ d tr. 264).
Tại sao vậy? Tạm nêu  lý do:
a/ Bao trùm trong những người quản lý quốc gia là  tâm lý đắc thắng “ bụi Hồ không dám động”.
b/ Khi đã mất hết cảm giác chính xác về thời cuộc, tầng lớp quí tộc cầm quyền những năm sau chiến tranh tự cho phép mình rơi vào ăn chơi sa đọa.
 Có thể hình dung sự ăn chơi của vua quan nhà Trần thời hậu chiến  là vô cùng bỉ ổi, bởi họ có lý có lẽ hẳn hoi. 
Nói theo chữ nghĩa thời nay, họ lao vào hưởng thụ một cách có ý thức. 
Với tư cách là người chiến thắng họ cho mình cái quyền đó. “Cuộc chơi năm nay lại hơn những cuộc chơi năm xưa” – trong một bải thơ  vua Trần đã nói như vậy( sđd tr 263).

Ta hãy chú ý đến một khoảng cách là 40 năm hậu chiến. 
Đây là thời Dụ Tông.
Tiếp theo AnhTông (1293-1314), Minh Tông(1314- 1329) Hiến Tông (1329—1340), vị vua này trị vì từ 1341 – 1369.
 Lịch sử Việt Nam của Lê Thành Khôi viết ở bên Pháp từ 1950 và mới được dịch ở ta 2014, trong  chưa đầy hai trang ngắn ngủi nói về sự suy tàn của nhà Trần ( tr 225-227), cũng phải đề cập tới Trần Dụ Tông.
 Ông vua này được miêu tả là người “chỉ nghĩ đến rượu chè chơi bời và phung phí công quỹ vào việc xây cung điện.”

Trở lại với cuốn LSVN của khoa Sử ĐHSP, thời kỳ Dụ Tông nhiều chùa tháp và cung điện được xây dựng. Vua sai đào hồ lớn ở vừờn ngự,  chất đá thành núi, bốn mặt khai sông cho nước thông vào để làm chỗ vui chơi. Sau đó còn đào một hồ nhỏ khác bắt dân Hải Đông chở nước mặn về chứa vào hồ để nuôi hải sản (tr 263-264).
Thời kì Dụ Tông cũng là thời kì những kẻ bất tài khéo nịnh được thăng quan tiến chức, viên chính chưởng phụng ngự Bùi Khoang giả vờ uống hết 100 thưng rượu mà được thăng tước.( tr 264)

Từ những ghi chép và bình luận của Ngô Thì Sĩ
Trên đây là mấy tài liệu lấy ra từ các bộ sử đương đại. Dưới đây là các bằng chứng xa xưa hơn.
Khi nói về các bộ cổ sử, người ta phải nói tới Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Văn Hưu và Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn.
Nhưng thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu còn giới thiệu một vài bộ sử khác, bộ nào cũng có những khía cạnh mới.

Một tác giả như Ngô Thì Sĩ (1726-1780) đã mang lại cho cổ sử những ghi chép người khác hoặc bỏ qua, hoặc ghi không rõ, và nhất là những bình luận độc đáo, mang dấu ấn một tư duy sử học gần với con người hiện đại.
 Chung quanh thế kỷ XIV mà chúng ta đang nói, đọc vào cuốn của Ngô Thì Sĩ thấy nhiều ý tứ phê phán mạnh bạo hơn, nên trong bài này tôi muốn cùng bạn đọc lần vào các trang  sử của người thân sinh Ngô Thì Nhậm, với sự lưu ý trước rằng, có thể ở cuốn Toàn thư, cũng như ở cuốn Cương mục có.

 Tài liệu tôi dùng lần này là bản Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, bản dịch của Viện nghiên cứu Hán Nôm, in 1997.

Xin phép bắt đầu bằng cách  nói tạt ngang về một chuyện có liên quan tới sự lạ lùng của ĐVSKTB.
Gần đây báo chí nói nhiều tới việc Nhân Tông thượng hoàng (trị vì từ 1279 tới 1293) đi tu.
Một lần khoảng 2010, gặp nhau ở Sài Gòn, anh Trần Đĩnh --  bằng sự lịch lãm của một người đã qua sống qua ba chục năm chiến tranh và hết sức thông thạo mọi đường ngang ngõ tắt của các trung tâm quyền lực – đã giải thích với tôi, chắc là Nhân Tông thấy chiến tranh khủng khiếp quá, nên tìm cách tách mình ra khỏi thời sự mà suy nghĩ đấy thôi.
 Cũng là một cách ghi nhận tâm lý hậu chiến!
 Thật thú vị khi đọc Ngô Thì Sĩ đã bắt gặp một ý tưởng tương đồng. 
Tiếp theo đoạn ca ngợi Thượng hoàng Nhân Tông, tác giả ĐVSKTB đứng trên lập trường nhà nho dấn thân, để chỉ ra trong hành động đi tu này vài ý nghĩa tiêu cực.
 Ngô Thì Sĩ  viết “Vua Nhân Tông tinh thông kinh điển, vốn có giác ngộ, trong thiên hạ không vật gì đáng bận tâm. Nhưng đường đường là đấng thiên tử mà ẩn náu nơi hang cùng ngõ hẻm, sớm hôm cùng một hai nhà sư trên núi không có hám của cải,  sống trong cảnh thái bình cho đến hết đời, công nhiên dùng Phật học mà dẫn dắt con cháu, đưa cả thiên hạ vào giáo lý đạo Phật, lỗi ấy không gì lớn hơn. (Tr 394 sđd) 


 
 
Trở lại với cái mạch chung của thế kỷ XIV. 
Trên nét lớn, sau khi đọc các nhà sử học đã dẫn ra ở trên, người ta chỉ có thể đi đến kết luận rằng sau một thời đại anh hùng là một thời kỳ đen tối và  thế kỷ XIV là một thời kì đau đớn trong lịch sử nước ta.
Sau khi Nhân Tôn bỏ việc đi tu, người kế tục ông là Anh Tôn đã nổi tiếng về chơi bời hư hỏng. 
Các sách sử cũ đều viết và Ngô thì Sĩ cũng viết rằng một lần khi Thượng hoàng Nhân Tôn từ Thiên Trường về Kinh sư, mọi người trong ngoài đều không biết; vua uống rượu xương bồ quá say, Thượng hoàng đi xem khắp cung điện suốt hai khắc đồng hồ, chuẩn bị đi ăn cơm, vua vẫn chưa tỉnh.
Cũng vua Anh Tông này, theo cách miêu tả của Ngô Thì Sĩ phải kể là vị vua rất lông bông.“Vua thích vi hành, cứ ban đêm ngồi kiệu cho mười hai người thị vệ theo, đi khắp trong kinh kỳ đến gà gáy mới về cung” (Tr 394 sđd )

Ở trên đã nói, nếu lấy khoảng cách là 40 –đến 50 năm sau chiến thắng thì ông vua nhà Trần trị vì lúc ấy là Trần Dụ Tông. 
Ông này mới thật hoàn toàn tiêu biểu cho tình trạng suy đồi của vua quan nhà Trần thế kỷ XIV.
Về Dụ Tông những năm cuối đời, Ngô Thì Sĩ  có lần buông một câu gọn ghẽ: “Việc làm rối loạn đạo trời, khiến cho Dụ Tông tinhcòn mà thần mất, người khỏe mà tâm đã chết, tối tăm càn rỡ vào tận máu thịt”.
Thời Dụ Tông cũng là thời Chu Văn An dâng sớ xin chém mấy người gian nịnh. Bởi vậy, Ngô Thì Sĩ  lại viết thêm: 
"Cho dù Chu Văn Trinh muốn lấy nghĩa lý mà chữa, cuối cùng cũng không chữa nổi.” (tr 443)

 Trong bài viết về Trần Khánh Dư, tính chung cả hàng ngũ vua quan đương thời, tôi đã từng tạm khái quát “từ những người anh hùng có công, nhiều người trong họ trở thành những viên quan cai trị có tội”.
 Nhưng mà đấy mới chỉ là nói một cách chung.
 Thực ra ban đầu các vị ấy đâu đã phải hoàn toàn hư hỏng.
Về sự suy đồi đạo lý của họ, Ngô Thì Sĩ đưa ra một sự so sánh:
+năm 1296, một viên quan thượng phẩm là Nguyễn Hưng phạm luật đánh bạc liền bị đánh chết(tr 396).
+thế mà đến năm 1362, vua Dụ Tông lại gọi người vào chơi bạc, để mưu đóng vai nhà cái một vốn bốn lời “một lần đặt là 300 quan, ba lần đã gần nghìn quan rồi".
 Dụ Tông cũng ban lệnh cho tư nô cày một mẫu đất ở bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành trồng tỏi, rau dưa rồi đem bán kiếm tiền. 
Rồi làm cả quạt mang bán (tr. 453).

Theo cách miêu tả của  Ngô Thì Sĩ, Dụ Tông có một tính cách rất hiện đại là biết dùng bộ máy quyền lực để kiếm tiền trong quan lại cấp dưới và cả dân.
ĐVSKTB ở tr 455 kể một chuyện xảy ra từ đời vua cha là Minh Tông. Thấy một nhà buôn là Ngô Dẫn giầu lên nhờ kiếm được ngọc quý, vua gả ngay con gái cho Ngô Dẫn. Nhưng Dẫn cậy mình giàu có, lấy vợ lẽ và ở với vợ lẽ, lại tỏ ý khinh bỉ công chúa. Đến đời Dụ Tông. Nghe lời than phiền của em, Dụ Tông liền tỏ uy quyền bằng cách  ra lệnh tịch thu toàn bộ của cải.

Về việc vua Dụ Tông đào hồ làm nơi vui chơi mà trên kia cuốn LSVN của khoa Sử ĐHSP đã viết, Ngô Thì Sĩ còn ghi rất rõ:
+ trên hồ này, trên bờ trồng tùng trúc và các loại cây cùng hoa quý cỏ lạ. 
+ Lại nuôi nhiều chim quý, thú lạ ở trong vườn. 
+Đối với hồ nước mặt, sai bắt các con vật ở biển như đồi mồi cá, ba ba đen về nuôi, lại sai người ở Hóa Châu (Thuận Hóa) chở cá sấu thả vào.

Ngô Thì Sĩ cho rằng cả Tùy Dạng Đế,-- nhân vật nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử Trung Quốc -- cũng không tìm được niềm vui tương tự.
 Sau khi bảo rằng cách vui của Dụ Tông lúc ấy “có thể nói là vui mà quên chết” Ngô Thì Sĩ viết tiếp  “Người mải kiếm tiền và mải vui sẽ là người lơi lỏng lơ là trong việc trị nước”.
 Ông thầm nói với hậu thế chúng ta “Giả sử chuyển trí tuệ khôn khéo ấy để trị dân trị nước thì làm gì lo đến sự bại vong” (tr 456).
 Mở rộng ra nữa, ông cảnh báo về hậu quả mọi tội lỗi của các nhân vật quốc gia: “trong thì mê gái đẹp, ngoài thì mê săn bắn, thích rượu, ham âm nhạc. Làm nhà cao, đắp tường đẹp. Phạm điều này trong bốn điều này chưa từng ai không bị diệt vong ( cũng tr 456).


Về đức hạnh của các quan đầu triều đương thời, Ngô Thì Sĩ có nêu một trường hợp là Trần Khắc Chung.
Ông này thường “cùng với học sĩ Nguyễn Sĩ Cố đánh cờ hàng mấy ngày liền, đến nổi ngồi ngay bàn cờ mà ăn cháo, không nghỉ chút nào, được thua một vài quan tiền cũng cố làm. Bạn bè có việc mở tiệc đầy năm cho con hoặc mừng nhà hoàn thành, hễ mời là đến. Nhà thầy thuốc có món ăn cũng mò mà đến, quân lính thết đãi ăn uống thì khen vợ họ để nịnh (sđd tr. 431).

Trang 445 của cuốn ĐVSKTB kể năm 1354 có nạn đói, ngoài ra nhân dân lại khổ vì trộm cướp, có người xưng là cháu ngoại của Hưng Đạo Vương tên là Tề tụ hợp các gia nô bỏ trốn ở các xứ Lạng Sơn, Nam Sách. 
 Con cháu các cụ có người cũng không sống nổi, hỏi người thường ra sao?

Trong việc các vua Trần nửa cuối thế kỷ XIV đối xử với Chiêm Thành, các nhà sử học hiện đại thường cũng quên không ghi rõ một điều mà Ngô Thì Sĩ cùng nhiều ngòi bút sử học chân chính hồi xưa đã viết. Đó là nhiều lần người Chiêm đã vào cướp phá cả những vùng như Thuận Hóa, và quân ta thua chạy. Đến đời Nghệ Tông, quân Chiêm đến sát kinh sư. Đến đời Duệ Tông thì xâm phạm xe vua.
Có lần một vua Chiêm là Chế Mỗ bị người trong nước đánh đuổi, vua Trần chở che và cho người đưa về, nhưng thất bại, Chế Mỗ chết trong cảnh đơn độc trên đất Việt.
 Nói chung trong cách đối xử với các vua Chiêm, vua ta nhiều khi tiền hậu bất nhất, dám tùy tiện làm nhiều chuyện mà trong quan hệ giữa các quốc gia  không được phép.

Nhìn chung về đội ngũ quan chức của nhà Trần suốt thế kỷ XIV, đọc Ngô Thì Sĩ, người ta có thể nhận xét là sau khi đánh xong giặc Nguyên, chả ai biết làm gì để khôi phục lại tình hình đất nước đã tiêu điều tan nát trong chiến tranh. Trên thì không có chính sách, cấp dưới thì không có người hiểu biết mà cố vấn cho vua.

Một đoạn có giọng văn bia Ngô Thì Sĩ về Dụ Tông, mà cũng là về tình trạng đổ đốn của con cháu các bậc anh hùng năm xưa:
“Dụ Tông lên ngôi 15 năm, sử chép 6 lần nhật thực, hạn hán đế 3 lần. Một lần sâu keo mất mùa hàng năm. Đến khi ấy từ mùa xuân đến mùa thu núi lở động đất lụt hạn, sét đánh, không tháng nào là không có. Trời phạt tội dâm ác đến cực độ, răn đe nảy ra chính sự lười biếng, thế mà cha con vua tôi trong một thời vẫn bình thản như thường. Kẻ trên không có lòng thành khẩn xét mình, kẻ dưới không có lời tâu cứu giúp thời cuộc, coi thường điều trời răn không biết sợ. Khinh bỏ việc người không biết lo.( VTN nhấn mạnh). Sang năm sau, Minh Tông qua đời, Dụ Tông thỏa lòng xa xỉ, giặc giã nổi lên từng bầy, việc thờ cúng không ra lề lối, ngôi báu nhà Trần suýt di chuyển về họ Dương" ( tr 448).

Mấy điều tổng kết tạm thời:

I/Nếu lịch sử Việt Nam thường chỉ được quy kết vào lịch sử chống ngoại xâm, thì việc ghi chép về các thời hậu chiến của người đương thời đã ít, đến các sử gia hiện đại, việc này lại càng bị lảng tránh.
Điều đó có thể  giải thích như sau:
n    Đối với người xưa, nó chứng tỏ xã hội Việt Nam thực ra vẫn chưa thực sự hình thành, quốc gia chúng ta vẫn giống như một đạo quân hơn là một xã hội sống bằng làm ăn kinh tế và hướng tới phát triển.
n     Đối với các sử gia đương đại, nó càng chứng tỏ chúng ta chỉ mới có một nền sử học phục vụ cho cuộc chiến đấu trước mắt . Dù đã mấy chục năm ra khỏi chiến tranh nền sử học ấy vẫn chỉ xoay đi xoay lại các bài bản cũ, cách làm cũ.  Chúng ta thiếu các nhà trí thức biết nhìn lịch sử trên cả chặng đường dài và bằng con mắt của con người trong xã hội hiện đại.

II/Khi miêu tả các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, các nhà sử học hôm nay thường chỉ ghi chép những điều tốt đẹp mà không ghi những mất mát đau thương mà chiến tranh mang lại. 
Mà mất mát đau thương nhất của chiến tranh ở VN là gì? 
Là cả cơ chế xã hội bị giải thể, trong đó bộ phận quan chức là bộ khung xã hội thì cũng trở nên suy đồi.
Ta thường chỉ nói tới mặt tích cực của quan chức trong thời chiến. 
Cái đó thì đáng trọng thật. 
Nhưng mặt khác phải thấy sinh ra trong thời chiến, họ chỉ biết việc binh đao mà không biết gì việc làm ăn và quản lí xã hội. 
Cậy là có công trong chiến tranh, họ buộc cộng đồng mãi mãi mang ơn và tự cho mình có toàn quyền bóc lột đàn áp dân chúng. 
Được làm vua thua làm giặc, kẻ võ biền chiến thắng tự khoác cho mình tính chính danh trong việc quản lí đất nước. 
Trong việc học hỏi và tiếp thu văn hóa Trung Quốc, chúng ta thường chỉ học lỏm về một số phương diện văn hóa; còn  chính bộ phận văn hóa quyền lực là phần văn hoá rất thâm hậu trong văn hóa Trung Quốc thì chúng ta lại không hề tiếp nhận không học theo một cách bài bản.


III/Một thực tế của các vương triều hình thành sau khi chiến thắng là chỉ được một hai đời, đến các đời sau đều đồi bại đi rõ rệt. Trên đã nói những người đánh giặc giỏi chưa chắc đã là những người quản lý xã hội giỏi. Giờ phải nói thêm con cháu các bậc anh hùng trong thời chiến không mấy khi là những kẻ tử tế biết sống ra người trong thời bình. Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành là thế. Nhà Trần là thế. Sau này là Nguyễn Huệ. Quang Trung xuất sắc bao nhiêu thì đến Quang Toàn hèn kém bấy nhiêu.

Tôi nhớ một nhà xã hội học lớp trước đã nhận xét là ở Việt Nam chỉ có giai cấp cầm quyền mà không có bộ phận quý tộc được hình thành nhiều đời và có văn hóa. Chỉ có triều Nguyễn ở đầu thế kỉ XIX rút kinh nghiệm được các triểu trước và tạo sự liên tục suốt bốn đời vua liền. Đó là  do sự rút kinh nghiệm của lịch sử. Nhưng với con người thời nay, với các sử gia Hà Nội trong 70 năm qua,  thì triều Nguyễn lại không hề được quan tâm và rút kinh nghiệm. 

V.Tr.N

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhồi và nhét xem ra không hiệu quả bằng đe nẹt!

Uống nước không quên người đào giếng, từng giờ từng phút tưởng niệm Mao Chủ tịch

Đó là các chữ được viết trên tấm bia dựng bên cạnh chiếc giếng trong bài dưới đây.

Bài trên Đại kỉ nguyên.

---


Vợ các quan chức mặc trang phục cách mạng học huấn luyện về chống tham nhũng ở Trung Quốc


Chia sẻ bài viết này
Một nhóm các bà vợ của  các quan chức tỉnh Giang Tây mặc trang phục hồng quân để tập huấn về chống tham nhũng ngày 22 tháng 5, 2015 (Ảnh chụp màn hình từ NetEase) 
Một nhóm các bà vợ của  các quan chức tỉnh Giang Tây mặc trang phục Hồng quân để tập huấn về chống tham nhũng ngày 22 tháng 5, 2015 (Ảnh chụp màn hình từ NetEase) 
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thử nhiều cách để cảnh báo các quan chức tránh xa khỏi cuộc sống tham nhũng, bao gồm: bắt đi trong đêm, những buổi tra tấn thẩm vấn, tăng cường giáo huấn mãnh liệt về kỷ luật và trung thành với Đảng. Giờ đây, một phương pháp mới đang được bổ sung vào danh sách: vợ của các quan chức mặc những trang phục cách mạng từ những năm 1930 và giáo dục họ.
Rõ ràng, họ hy vọng những người vợ sẽ mang những thông điệp này về cho chồng mình, và Trung Quốc sẽ phát triển thịnh vượng.
Buổi tập huấn nổi bật gần đây nhất là vào ngày 22 tháng 5, khi vợ của 50 quan chức tỉnh Giang Tây mặc quần áo đồng phục của Hồng Quân (tiền thân của Quân đội Giải phóng Nhân dân) để tiếp thu “ giáo dục truyền thống đỏ”, một buổi tập huấn đặc biệt về chống tham nhũng.
50 phụ nữ này tập trung tại Thụy Kim, một thành phố ở tỉnh  Giang Tây, nơi đã xảy ra một số sự kiện trọng đại trong thời kỳ đầu của Đảng. Những người phụ nữ này sẽ được học về lịch sử của Đảng, một phần trong đó bao gồm bài học về chống tham nhũng.
Những lớp huấn luyện đặc biệt này bị cư dân mạng phản đối. Một cư dân mạng có tên “ Jincuo Daohang” nhận xét “ Phải chăng đây là một hình thức du lịch trá hình rút từ công quỹ? Họ là vợ của các quan chức, nhìn vào khuôn mặt rạng rỡ của họ kìa. Thật là rõ ràng”. Bình luận này được đăng ngày 24 tháng 5 và nhận 1.500 lượt “ like”.  Một người khác viết “ Tôi chỉ muốn cười phá lên khi chứng kiến điều này”.
Hơn một tuần trước đó, vào ngày 13 tháng 5, một lớp huấn luyện tư tưởng khác được tổ chức bởi chính quyền tỉnh Hồ Bắc,  nơi 70 quan chức và vợ được tổ chức đến thăm một trại giam địa phương để trải nghiệm cuộc sống của các quan chức tham nhũng bị giam giữ.
Sau khi đi qua vài cánh cửa sắt nặng nề và những bức tường cao bao quanh bởi hàng rào thép gai điện, các quan chức và vợ thăm những xà lim, hơn 10 tù nhân ngủ trên một chiếc giường gỗ dài, trong khi những người khác ngồi thành hàng, chìm vào “ trầm tư và tự phê bình”, theo truyền thông Trung Quốc đưa tin.
Chân dung của những tù nhân và tội lỗi của họ được liệt kê trên tường, trong khi đó, những cựu quan chức bị giam giữ bước ra và nói chuyện với du khách với đôi tay bị còng và mặc quần áo tù. “Tôi có gia đình nhưng không thể về nhà”, một trong số họ, tên là Yang, nói trong dòng nước mắt . “Tôi không thể phụng dưỡng cha mẹ, và không thể sống cùng chồng và con trai tôi. Tôi rất nuối tiếc.”
Một bức ảnh chụp từ cổng thông tin của Trung Quốc 10yan.com thể hiện vợ chồng của các cán bộ tỉnh Hồ Bắc đang thăm một nhà tù địa phương để tập huấn về chống tham nhũng ngày 13 tháng 5, 2015 (Screenshot/Epoch Times) 
Một bức ảnh chụp từ cổng thông tin của Trung Quốc 10yan.com thể hiện vợ chồng của các cán bộ tỉnh Hồ Bắc đang thăm một nhà tù địa phương để tập huấn về chống tham nhũng ngày 13 tháng 5, 2015 (Screenshot/Epoch Times) 
Cảnh tượng này có vẻ đã có tác dụng “ Tôi phải xem đây như một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở bản thân mọi lúc là không được mắc sai lầm và làm một quan chức liêm khiết”, một trong số  những người tham quan phát biểu với truyền thông Trung Quốc. Vợ của một cục trưởng cũng tuyên bố sẽ “ giám sát” chồng và “ toàn tâm hỗ trợ sự nghiệp của chồng”, bài viết trích dẫn.
Một phần của vấn đề là trong nhiều vụ tham nhũng của các quan chức, các bà vợ đóng vai trò quan trọng. Ví dụ, bà Cốc Lệ Bình, vợ của ông Lệnh Kế Hoạch, cựu trưởng ban Mặt trận Thống nhất của Đảng, được cho là đã khai thác ảnh hưởng chính trị của chồng để kiếm lợi – hàng trăm triệu USD – thông qua một tổ chức bề ngoài là làm từ thiện.
Một trường hợp khác, bà Vu Lệ Phương, vợ của cựu quan chức Tô Vinh, nguyên phó chủ tịch của Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc, người đã bị sa thải vào tháng 6 năm 2014, là người đã thay mặt ông Tô đứng ra nhận hối lộ, bao gồm một bức tranh trị già hàng triệu USD.
Nỗ lực giáo dục những bà vợ của các quan chức bị cư dân mạng xem là hời hợt. “Nếu những người lãnh đạo Hồ Bắc có thể công khai tài sản của họ, nó sẽ có tác dụng trực tiếp và có sức thuyết phục hơn. Tôi tin rằng nhiều người sẽ ủng hộ điều này. Tôi thà xem phim ‘Rô bốt biến hình’ ( Transformers) hơn là xem tin tức các ông đến thăm một nhà tù “, theo một cư dân mạng vô danh.
Người khác gợi ý một tour du lịch đến nơi hành hình tử tù sẽ có hiệu quả hơn.
Nếu bạn thấy bài viết hay, hãy chia sẻ nó với bạn bè

http://vietdaikynguyen.com/v3/58960-vo-cac-quan-chuc-mac-trang-phuc-cach-mang-hoc-huan-luyen-ve-chong-tham-nhung-o-trung-quoc/

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Câu chuyện của xứ hoang tưởng ..mơ về cõi hoang đường!


Thấy bác nghị Đương mang diễn biến hoà bình ra doạ việc công nhận quyền im lặng mà hãi quá. Đúng là miệng quan, muốn nói thế nào cũng được.
Nhưng lại quá buồn cười việc một đồng chí tiến sĩ hàng không lý giải về nguồn gốc tiến sĩ của mình. Té ra lâu nay dân ta sính học hàm học vị, cứ xưng ra thế, chả chết thằng bỏ mẹ nào. Rồi có ai đó lỡ mồm gọi mình là ts, thế là mình nghiễm nhiên là tiến sĩ. Lại nhớ một mấy ông nhà báo, hoạ sĩ ở Hà Nội tôi quen hay gọi đùa nhau là giáo sư, có ông cũng gọi tôi là giáo sư, may chả có đứa nào nổi cơn tâm thần tưởng mình là giáo sư.
Cơ quan vợ tôi cũng hay gọi nhau là bác sĩ dù có ông chỉ y sĩ, công nhân, tài xế, gọi cho vui, và cũng chả ai nghĩ mình là bác sĩ thật - lúc ngủ họ có mơ là bác sĩ không thì... Không biết...
Từ mai tớ cũng tự xưng tiến sĩ phát xem sao?

Phần nhận xét hiển thị trên trang