Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 1 tháng 1, 2014

Sẽ không có "bữa đại tiệc" cho Việt Nam

Với BTA ta đã chấp nhận mở cửa cả những ngành dịch vụ như viễn thông, tài chính mà trước đó đã khoanh vùng là "đất của chúa" và đã rào thật kín "vì an ninh quốc gia". Việc tham gia TPP tới đây sẽ mở tiếp", ông Nguyễn Đình Lương nói.

LTS: Ông Nguyễn Đình Lương*, Nguyên trưởng đoàn đàm phán hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), từng được bạn đọc Tuần Việt Nam biết đến qua các bài phỏng vấn về đàm phán BTA, đàm phán WTO.
Tuần Việt Nam tiếp tục giới thiệu những nhận định của ông về đàm phán Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Không thể tiếp tục đi làm thuê mải kiếm mấy đồng tiền công
Thưa ông, các cuộc đàm phán TPP đang được tiến hành dồn dập để có thể kết thúc vào cuối năm nay. Ông thấy diễn biến mọi việc như thế nào? Việt Nam có vào TPP được không?
Tôi không có cảm giác lạc quan là cuộc đàm phán TPP sẽ kết thúc năm nay. Tôi hy vọng và mong Việt Nam sẽ trở thành thành viên TPP khi nó được ký kết vì rằng lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện quyết tâm, đã nói cho dân biết cũng như đã công khai trên các diễn đàn quốc tế.
Các nước tham gia đàm phán,  nhất là Hoa Kỳ, nước đang "cầm cái" đang "áp đặt luật chơi" trong cuộc đàm phán này cũng mong muốn và động viên Việt Nam cố gắng tham gia.
Các doanh nghiệp Việt Nam đang có những quan ngại, lo lắng cụ thể, ví dụ các doanh nghiệp dệt may, giầy dép... lo rằng: Trong TPP chỉ áp dụng thuế nhập khẩu bằng 0 cho hàng hóa có nguyên vật liệu sản xuất trong nước hoàn nhập khẩu từ các nước TPP, trong lúc lâu nay nguyên vật liệu, phụ kiện của ta chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc và Hàn Quốc - là những nước chưa tham gia TPP. Ông có chia sẻ gì với những lo lắng này?
Không lo.
Kinh tế Việt Nam hôm nay cơ bản là kinh tế gia công lắp ráp. Ta đi làm thuê kiếm mấy đồng tiền công. Nguyên vật liệu cho hàng xuất khẩu lâu nay ở ta vốn nhập khẩu là chính. Có lẽ  cũng còn phải lâu lâu nữa thì người Việt Nam mới tự sản xuất ra đủ những thứ này.
Việt Nam cứ vào TPP đi, tức khắc người Trung Quốc từ lục địa, từ Đài Loan, từ Hồng Kông, người Hàn và nhiều người khác sẽ vào. Họ sẽ mang tiền máy móc, thiết bị và cả người lao động nữa vào xây dựng xí nghiệp 100% vốn người nước ngoài, thuê lao động Việt Nam sản xuất cho Việt Nam đủ dùng.
Những nguyên vật liệu này hoàn toàn đủ tư cách "made in Việt Nam" để được hưởng thuế nhập khẩu bằng O. Họ đã bắt đầu khởi động rồi chỉ chờ Việt Nam "quyết" là họ vào liền.
Nhân đây tôi cũng muốn nói thêm rằng ở tầm chiến lược quốc gia ta không nên tính chuyện suốt đời đi gia công làm thuê, không nên xây dựng chiến lược để con cháu mình suốt đời đi đạp máy khâu, khâu váy, khâu quần, khâu dép ...Tại sao hội thảo TPP mãi chỉ toàn nghe chuyện may mặc, giầy dép? Có lẽ phải tính những bài toán lớn hơn thế?
Vả lại theo quy luật, hàng dệt may sẽ rời Việt Nam, khi đồng lương người thợ may ở đây cao, nó họ sẽ tự động chuyển dịch tới những vùng đất nghèo hơn, lao động rẻ hơn.
TPP, BTA, thương mại, Việt Mỹ, WTO
Ông Nguyễn Đình Lương, nguyên Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (Ảnh: Trần Đông)
Mở mở, kín kín, hở hở...
Hiện đã có một vài bình luận, phân tích về lợi ích của Việt Nam khi tham gia TPP. Có ý kiến cho rằng Việt Nam sẽ là nước gặt hái nhiều nhất, có người còn đưa ra con số cụ thể rằng là GDP Việt Nam sẽ tăng bao nhiêu tỷ đô. Ông có đồng tình với những phép tính này không?
Điều chắc chắn và đã rõ: Tham gia TPP là một thách thức lớn đối với Việt Nam.
Việt Nam sẽ là nước khó khăn trong cuộc đàm phán TPP này vì Việt Nam là nước có nền kinh tế kém nhất và hệ thống pháp luật " khập khiễng" nhất trong số các nước đang đàm phán. Không thể có chuyện như có người nói rằng TPP sẽ là một bữa "đại tiệc"của Việt Nam.
Về lợi ích kinh tế: Lợi ích nhiều hay ít còn phụ thuộc vào khả năng khai thác cơ hội. Biết khai thác cơ hội sẽ được nhiều, có khi được rất nhiều. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, thế giới đang đua tranh, nếu anh lập cập không biết làm ăn, anh chỉ được "ăn xái" vạch lưng ra cho người ta giẫm lên.
Thực tiễn tham gia WTO cho thấy rằng: khả năng thích ứng với kinh tế thị trường ở Việt Nam là rất kém, khả năng chủ động khai thác cơ hội là rất yếu. Làm ăn không bài bản, không chiến lược, không chiến thuật. Đánh trống bỏ dùi.
Khi tham gia WTO đã có người dự báo: Kinh tế Việt Nam sẽ như là một con tàu ra "biển lớn". Hôm nay có người bảo sau 5 năm tham gia WTO kinh tế Việt Nam sẽ trở về 0! Thậm chí có người nói: WTO đã gây ra những cú sốc cho nền kinh tế Việt Nam.
Không biết có phải vậy không? Cần phải có đánh giá, kiểm chứng và số liệu. Song nếu đúng như vậy thì cũng là hợp logic. Kinh tế WTO là kinh tế thị trường tự do. Vì vậy nó chỉ có thể vận hành và phát triển trong môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Từ sau khi tham gia WTO đến nay kinh tế Việt Nam chưa thực sự kiến tạo được một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Đúng hơn, cạnh tranh lành mạnh không được cổ vũ, khuyến khích và tạo dựng. Cộng thêm vào đó, văn hóa tham nhũng được phổ cập, tạo điều kiện cho các nhóm lợi ích hoành hành, làm méo mó cả những quốc sách đúng, hay của Nhà nước.
Điều tôi  muốn nhấn mạnh ở đây, đó là những lợi ích về mặt kinh tế thì đúng là rất quan trọng và phải phấn đấu để đạt tới. Nhưng cũng chưa phải là mục tiêu quan trọng nhất...
Vậy cái lớn nhất ta được lần này là gì, thưa ông?
Cái được lớn nhất lúc này có thể là:
Với TPP ta tiến thêm một bước theo hướng tăng tốc mở cửa với thế giới, thiết lập một nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa, tạo dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh, để phát triển cùng thời đại.
Ông có thể nói cụ thể hơn?
Cuộc đàm phán chưa kết thúc, nhưng chắc chắn khung pháp lý TPP sẽ là khuôn mẫu cho việc vận hành kinh tế thế kỷ XXI, nghĩa là nó sẽ bao gồm  những quy phạm, những quy định cao hơn, toàn diện hơn. Có cả những quy định "ngoài kinh tế" hay "kinh tế chính trị".
Ví dụ: Thứ nhất, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Có thông tin nói rằng, những quy định trong TPP về lĩnh vực này sẽ cao hơn, chế tài mạnh hơn, rất khó cho Việt Nam.
Sở hữu trí tuệ (SHTT) là tiền, là lợi ích của doanh nghiệp và của quốc gia. Giá trị của quyền SHTT có lúc cao hơn nhiều quyền sử dụng đất. Thương hiệu một mặt hàng có giá đến hàng tỷ, hàng chục tỷ đô la, là cả một gia tài lớn, phải được bảo vệ chặt.
Bảo hộ sản phẩm trí tuệ là yêu cầu của mọi quốc gia trong thời đại kinh tế tri thức, trong lúc nạn ăn cắp trí tuệ đang tràn lan. Ở Việt Nam, nạn ăn cắp đó cũng đã vượt qua "báo động đỏ".
Không bảo vệ được sản phẩm trí tuệ, thì sẽ không có sản phẩm trí tuệ và rồi trí tuệ sẽ không phát triển. Trong nền kinh tế tri thức có thể coi tình trạng "chết lâm sàng"
Cả thế giới và cả Việt Nam đang cần những chế tài mạnh, thật mạnh để chặn đứng nạn ăn cắp sản phẩm trí tuệ, để cứu cả nền kinh tế và cả nền khoa học.
Chấp nhận những yêu cầu cao chế tài mạnh là bảo vệ mình hôm nay, ngày mai, là xây dựng môi trường cho trí tuệ phát triển và tạo cho Việt Nam một chỗ đứng đàng hoàng trong thế giới hiện đại.
Việt Nam sẽ có nhiều khó khăn nhất định trong quá trình thực thi, ta sẽ nhờ quốc tế hỗ trợ.
Thứ hai, vấn đề doanh nghiệp nhà nước, cạnh tranh, mua sắm công.
Sân chơi TPP vốn là sân chơi kinh tế thị trường. Những tiêu chí trên sân chơi: mở, thông thoáng, công khai, minh bạch, bình đẳng, không phân biệt đối thủ; là những tiêu chí bắt buộc nó sẽ giữ cho các nền kinh tế phát triển lành mạnh và bền vững.
Duy trì tình trạng đóng đóng mở mở, kín kín, hở hở rồi để cho các nhóm lợi ích khai thác không phải là của TPP.
Vào TPP chắc chắn phải chấp nhận xóa hết sự phân biệt đối xử, áp dụng luật chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, trên thị trường cũng như trong đấu thầu các khoản mua sắm công (trừ mua sắm cho an ninh quốc phòng). Mọi doanh nghiệp được bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực, tài nguyên, vốn, thị trường.
Nhà nước có quyền lập các doanh nghiệp nhà nước, lĩnh vực nào cũng được, to hay nhỏ nhiều hay ít... không ai can thiệp, nhưng kinh doanh phải công khai, minh bạch,  trên thị trường phải theo tiêu chí thị trường, phải bình đẳng với các thành phần kinh tế khác.
Chấp nhận  những cam kết này rõ ràng chúng ta phải sửa đổi một số văn bản pháp luật hiện hành và cách điều hành kinh tế hiện nay.
Những yêu cầu này khi đàm phán BTA, phía Hoa Kỳ đã nêu ra, đã đòi ta chấp nhận. Nhưng ta chưa chấp nhận vì ta khó có thể ngay một lúc xử lý được tất cả mọi vấn đề.
Vả lại, ở thời điểm đó thời điểm đàm phán BTA cái chủ trương "quốc doanh chiếm vai trò chủ đạo" thông qua các tập đoàn hoạt động đa ngành chưa trở thành quốc sách, chỉ mới là ý tưởng ban đầu chứ chưa hình thành và kích hoạt thành những "bọc ung thư" như Vinashin, Vinalines..., chưa khê mùi "bức xúc" như hiện nay.
Ngoài ra?
Vấn đề thứ ba, đó là ta phải cam kết trao cho người lao động Việt Nam "quyền lập hội". Công nhân, người lao động tự tụ tập với nhau, tự lập hội để "nói chuyện" với giới chủ, để "cưu mang" nhau lúc khó khăn.
TPP, BTA, thương mại, Việt Mỹ, WTO 
Quyền lập hội là một trong những quyền "tạo hóa ban" cho những người có sức lao động, đi lao động để tự vệ. Đó là một trong những chuẩn mực quy định của  Tổ chức lao động quốc tế (ILO) mà Việt Nam là một thành viên. Đó cũng là một quy phạm phổ quát trong đời sống xã hội văn minh.
Trong cuộc đàm phán BTA với Hoa Kỳ trước đây, Việt Nam kiên trì đòi phía Hoa Kỳ dành cho phía Việt Nam Quy chế ưu đãi phổ cập (GSP) (áp dụng thuế bằng 0 đối với mấy ngàn mặt hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ chủ yếu là hàng thủ công nghiệp,  mây tre, cói ngô...)
Phía Hoa Kỳ kiên quyết không chấp nhận vì Luật GSP của Hoa Kỳ đòi đòi hỏi một số yêu cầu cao trong đó có quyền lập hội.
Tại vòng đàm phán cuối cùng, trong buổi gặp riêng hai trưởng đoàn, tôi bảo ông JOE Damond - Trưởng đoàn đàm phán Hoa Kỳ: ta cứ ghi vào BTA "phía Hoa Kỳ sẽ xem xét dành GSP cho Việt Nam" còn khi nào xem xét, được hay không ta sẽ bàn sau. Ông Damond thấy đề xuất hợp lý, đồng ý ghi vào.
Về nước tôi không dám khoe thành tích đó vì tôi hiểu đó chỉ là một cụm từ "làm đẹp" BTA cho "cả nhà đều vui" nhưng có người lại báo cáo rằng vòng đàm phán này ta đã giành thắng lợi, ta đã kiên trì đấu tranh đã bắt Mỹ dành cho ta GSP!
Nghe nói sau này, qua nhiều năm đàm phán, đến nay Hoa Kỳ vẫn chưa chấp nhận cho hàng Việt Nam được hưởng GSP vì Việt Nam chưa có điều kiện để thực thi quyền lập hội.
Kỳ này, muốn vào TPP, Việt Nam không thể tránh khỏi điều khoản này. Theo tôi, phía Hoa Kỳ và các nước khác có nhân nhượng thì cũng chỉ ở mức cho một thời hạn bảo lưu vài ba năm để Việt Nam xử lý những vấn đề thuộc cơ chế trong nước.
Chấp nhận "Quyền lập hội" cho người lao động thì công đoàn Việt Nam sẽ phải đổi mới cả về chức năng nhiệm vụ, cả về phương thức hoạt động, và sau đó có thể là các đoàn thể quần chúng khác cũng sẽ noi gương.
Và còn nhiều ví dụ nữa...
Mở cửa "đất của Chúa"
Trong lúc nền kinh tế đang khó khăn, xã hội đang có nhiều vấn đề, liệu ta có tìm được sự đồng thuận để tham gia TPP không, thưa ông?
Có Việt Nam hay không có Việt Nam, đoàn tàu TPP vẫn chạy theo lộ trình. Nhưng đứng trước những vấn đề phức tạp như vậy, ta phải có sự đồng thuận xã hội. Kinh nghiệm lịch sử Việt Nam là sự đồng thuận đó sẽ có khi mọi người đều đặt lợi ích phát triển đất nước lên trên hết.
Ba mươi năm qua, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng lãnh đạo và tiến hành, vì lợi ích phát triển đất nước vì nhận thức được rằng thời đại đó thay đổi, chúng ta đã gạch xóa đi khỏi cuốn kinh thánh bao nhiêu điều húy kỵ. Chúng ta đã đưa vào bức tranh đất nước bao nhiêu màu sáng, màu tươi. Đất nước đang thay đổi cùng thời đại.
Đổi mới 30 năm qua là một quá trình tiền tiến cùng với những bứt phá liên tục. BTA với Hoa Kỳ là 1 bứt phá. Ta cam kết chơi theo luật chơi mà thế giới tư bản đã chơi, ta chấp nhận chơi bình đẳng, bỏ phân biệt đối xử giữa hàng hóa trong nước và hàng hóa nước ngoài, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Với BTA ta đã chấp nhận mở cửa cả những nghành dịch vụ như viễn thông, tài chính mà trước đó đã khoanh vùng là "đất của chúa" và đã rào thật kín "vì an ninh quốc gia".
Đó là những điều tưởng như không thể, nhưng rồi ta đã chấp nhận để mở đường cho đất nước phát triển.
Nhưng trong quá trình thực thi, do chưa đủ điều kiện để hoàn chỉnh hệ thống pháp luật cộng với sự níu kéo của cơ quan công quyền đã làm biến tướng môi trường kinh doanh, và dẫn đến những hệ lụy mà báo chí nói mãi.
TPP sẽ xử lý tiếp, TPP sẽ là một bứt phá mới nữa. Trên con đường đổi mới mà Đảng và Dân đã chọn.
Anh Phương (thực hiện)/Vietnamnet
Phần nhận xét hiển thị trên trang

“Con người không được trở thành kẻ nô lệ của “bánh mì”, không được vì “bánh mì” mà giao nộp tự do của mình”.

Thêm một lần nữa, “Khế ước xã hội  của J.J Rousseau lại soi sáng “Bàn về Tự do” và tinh thần nhân loại.
GNLT

DIỄN TỪ NHẬN GIẢI THƯỞNG SÁCH HAY 2012

Nguyễn Văn Trọng
Tôi thật bất ngờ và vinh dự được Ban xét giải thưởng Sách Hay trao giải nghiên cứu năm 2012 cho tôi như người đã dịch tác phẩm Bàn về tự do của John Stuart Mill. Tôi xin chân thành cảm ơn về đánh giá khích lệ này cho công việc của tôi.
Tôi vốn không phải là người được đào tạo bài bản về khoa học xã hội và nhân văn, nhưng trong tư cách là một con người sống trong xã hội, tôi luôn băn khoăn với một số câu hỏi nhân sinh; những câu hỏi ấy thôi thúc tôi tìm lời giải đáp cho chính mình. Thế hệ chúng tôi lớn lên trong những biến động lịch sử to lớn của dân tộc, dưới ảnh hưởng tinh thần của những khẩu hiệu đến từ cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳngTình anh em; chúng tôi luôn được giáo dục phải dấn thân vì xã hội. Thực tiễn cuộc sống cho tôi thấy rằng, tập thể đông người không phải lúc nào cũng có ý kiến đúng đắn và thường có thái độ chuyên chế áp đặt đối với cá nhân trong tất cả mọi chuyện. Trong lòng tôi xuất hiện câu hỏi: có ranh giới chuẩn mực nào cho việc áp đặt ý kiến của số đông với cá nhân để cho việc áp đặt ấy là chính đáng. Công việc nghề nghiệp và cuộc sống bề bộn đã không cho tôi có điều kiện thư thả để tìm hiểu chuyện này. Mãi đến tuổi về hưu tôi mới được đọc tuyệt tác Bàn về tự do của John Stuart Mill. Cuốn sách đã gây ấn tượng rất mạnh cho tôi. Vào lúc đó trình độ tiếng Anh của tôi còn khá thấp, nhưng tôi cũng bắt tay vào việc dịch những trích đoạn ấn tượng nhất và giới thiệu với bạn bè. Một người bạn của tôi, ông Chu Hảo, là người đã khích lệ tôi dịch toàn bộ tác phẩm. Sau khi ông Chu Hảo trở thành Giám đốc NXB Tri Thức, ông cùng với các cộng sự của mình đã giúp tôi hoàn tất bản dịch và cho xuất bản cuốn sách.
Tác phẩm Bàn về tự do đã đưa ra lời giải đáp khá thỏa đáng về ranh giới chính đáng cho sự áp đặt của xã hội lên tự do cá nhân: vì sự an toàn cho xã hội, con người cá nhân phải giao nộp một phần tự do của mình; thế nhưng con người cá nhân không thể giao nộp toàn bộ tự do của mình, vì như thế con người cá nhân tất yếu sẽ tha hóa, và xã hội sẽ phải chịu tổn thất vì sự tha hóa của các thành viên của nó. Tự do như thế của cá nhân trong quan hệ với xã hội thường được gọi là tự do dân sự. Mặc dù vấn đề tự do dân sự đã được J.S. Mill làm sáng tỏ từ trước đây một thế kỷ rưỡi, nhưng cho đến nay tự do dân sự vẫn chưa thành hiện thực trong đại đa số các xã hội con người.
Có những nguyên nhân lịch sử khiến cho sự phát triển của các xã hội không đồng đều. Người ta bàn luận rất nhiều về những nguyên nhân ngoại tại tác động không thuận lợi cho sự phát triển con người cá nhân, khiến cho mức độ phát triển tinh thần chung của xã hội phải thấp kém. Người ta nói nhiều đến ảnh hưởng quyết định của môi trường xã hội đến con người cá nhân. Những ảnh hưởng của môi trường xã hội đến thế giới tinh thần của con người cá nhân không nhất thiết mang tính bạo lực và cưỡng bức, mà thường là dưới dạng thức của những cám dỗ: cám dỗ vươn tới quyền lực và hùng mạnh, cám dỗ đầy uy lực của đồng tiền, cám dỗ của danh tiếng…
Trong lòng tôi lại xuất hiện câu hỏi: liệu ảnh hưởng môi trường xã hội đến con người cá nhân có thật là mang tính quyết định hay không? Nếu ảnh hưởng ấy không mang tính quyết định, thì con người cá nhân có những khả năng gì để chống trả lại những ảnh hưởng tiêu cực đến từ bên ngoài, đặng bảo vệ phẩm giá con người của mình?
Nhà tư tưởng Nga Herzen đã khẳng định:”Tính độc lập về nhân cách của con người cũng là chân lý và thực tại hiển nhiên, không khác gì sự phụ thuộc của con người vào môi trường, với sự khác biệt là nó ở trong quan hệ ngược lại với môi trường: càng nhiều ý thức thì tính độc đáo càng lớn; càng kém ý thức thì sự ràng buộc với môi trường càng chặt chẽ hơn, môi trường càng nuốt mất bản ngã nhiều hơn”. Vậy là ở đây đặt ra vấn đề con người cá nhân phải bảo vệ tự do của bản ngã chống lại những cám dỗ ngoài xã hội để giữ được phẩm giá của mình. Tự do ở đây không có ý nghĩa như một quyền cần phải giành lấy, mà lại có ý nghĩa như một trách nhiệm trước bản thân mình, đòi hỏi con người cá nhân phải có dũng khí nhận lấy trách nhiệm ấy. Cần phải có dũng khí bởi vì tự do với cám dỗ thì rất khó khăn, còn chịu khuất phục làm nô lệ cho cám dỗ thì dễ dàng hơn, ít đau đớn hơn nhiều. Ở đây tôi đang nói tới một thứ tự do khác với tự do dân sự, tự do này được các triết gia tôn giáo Nga đầu thế kỷ XX gọi là tự do lương tâm.
Tự do lương tâm có lẽ gắn với phong trào Phục Hưng được thể hiện trong “Diễn từ về phẩm giá con người” của triết gia Ý Pico della Mirandola (1463-1494) vốn được coi là Tuyên ngôn của chủ nghĩa nhân văn. Ông đã diễn giải ý nghĩa của việc Thượng đế tạo ra con người như sau: “Ta đặt Mi giữa thế gian, để cho Mi có thể tự do nhìn ra khắp mọi phía của thế giới và nhìn đi đâu tùy ý của Mi. Ta tạo ra mi không phải trần tục, không phải thượng giới, không phải loài có sinh có tử, không phải bất tử. Bởi vì Mi tự Bản thân mình, phù hợp theo ý chí của Bản thân mình và theo danh dự, có thể là Đấng sáng tạo và Người tạo tác của chính mình và từ vật liệu thích hợp cho Mi mà hình thành nên Bản thân mình. Như vậy, Mi tự do trong việc đi xuống thấp tới những thang bậc thấp kém nhất của thế giới thú vật, thế nhưng Mi cũng có thể nâng cao Bản thân mình lên tới phạm vi cao cả nhất của Thần thánh“.
Trong tác phẩm Anh em nhà Caramazov, đại văn hào Nga Dostoevski đã dựng nên câu chuyện Viên Đại pháp quan tôn giáo ra lệnh bắt giam Chúa Kitô khi Ngài xuất hiện trở lại trên thế gian. Viên Đại pháp quan đã chất vấn Chúa: Chúa đã hứa hẹn với người đời thứ tự do mà người đời chất phác và bẩm tính càn rỡ không thể hiểu nổi… Con người quý trọng sự yên ổn và thậm chí cả cái chết hơn là tự do lựa chọn trong sự nhận thức thiện ác. Đối với con người không có gì hấp dẫn hơn tự do lương tâm, nhưng cũng không có gì khổ ải hơn. Con người yếu đuối sẽ không kham nổi sức nặng khủng khiếp của tự do lựa chọn, họ sẽ đi tìm ai đó có phép lạ để trút bỏ gánh nặng tự do lựa chọn ấy mà làm nô lệ cho kẻ đó. Có thể có mấy chục ngàn người theo Chúa vì bánh mì trời, nhưng còn có hàng chục triệu người khác không đủ can đảm coi rẻ bánh mì trần thế; những người này sẽ mang tự do của họ đặt dưới chân chúng tôi và nói: “Chẳng thà biến chúng tôi thành nô lệ, nhưng cho chúng tôi ăn còn hơn”. Viên Đại pháp quan yêu cầu Chúa đi khỏi thế gian, đừng gây phiền nhiễu nữa.
Triết gia Nga N.Berdyaev trong tác phẩm Bàn về nô lệ và tự do của con người đã diễn giải ẩn dụ trên của Dostoevsky như sau: “Hai vấn đề nằm trong cơ sở của đời sống xã hội và không có gì khó khăn hơn việc giải quyết chúng cho thật hài hòa – vấn đề tự do và vấn đề bánh mì. Có thể giải quyết được vấn đề tự do bằng cách tước mất bánh mì của con người. Một trong những quyến rũ mà đức Kitô bác bỏ ở sa mạc, là quyến rũ biến những hòn đá thành bánh mì. Ở đây bánh mì biến thành sự nô dịch con người. Tất cả ba quyến rũ mà đức Kitô bác bỏ, đều nô dịch con người. Dostoevsky diễn đạt một cách thiên tài điều này trong Huyền thoại về viên Đại pháp quan. Nhưng sẽ là trá ngụy nếu diễn giải huyền thoại ấy như vấn đề bánh mì không có lời giải đáp tích cực và đành phải chỉ có được tự do thôi mà không có bánh mì. Người ta nô dịch con người bằng cách tước đoạt bánh mì của họ. Bánh mì là biểu tượng vĩ đại, và gắn với nó là đề tài xã hội chủ nghĩa, đề tài mang tính toàn thế giới. Con người không được trở thành kẻ nô lệ của “bánh mì”, không được vì “bánh mì” mà giao nộp tự do của mình“. Ông còn nói: “Cuộc đấu tranh vì bản diện cá nhân, sự khẳng định bản diện cá nhân là đầy đau đớn. Tự thực hiện bản diện cá nhân giả định một sự kháng cự lại, đòi hỏi đấu tranh chống lại quyền lực nô dịch của thế gian, đòi hỏi không chấp nhận thói thụ động thích ứng theo. Việc từ bỏ bản diện cá nhân, việc chấp thuận hòa tan vào thế giới xung quanh có thể làm giảm bớt nỗi đau và con người dễ dàng đi theo lối đó. Chấp thuận làm nô lệ sẽ giảm bớt nỗi đau, không chấp thuận sẽ gia tăng nỗi đau. Nỗi đau trong thế giới con người là sự khai sinh của bản diện cá nhân, là sự khai sinh cuộc đấu tranh vì hình tượng của nó. Ngay tính cá thể trong thế giới động vật đã biết đau đớn rồi. Tự do sinh ra đau khổ. Có thể giảm bớt đau khổ bằng cách chối bỏ tự do. Phẩm giá con người, tức là bản diện cá nhân, tức là tự do, đòi hỏi chấp nhận đau đớn, đòi hỏi khả năng chịu đựng nỗi đau“.Đến lúc này tôi mởi hiểu được câu danh ngôn của Marx: “Tự do của mỗi người là điều kiện đảm bảo cho tự do của mọi người“. 
Tôi xin kết thúc ở đây. Cảm ơn quý vị đã cho tôi cơ hội được nói ra những điều này.
(Nguồn: GS Tương Lai)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhìn lại 12 sự kiện chấn động Trung Quốc năm 2013


(Kienthuc.net.vn) - Chủ tịch Tập Cận Bình chính thức nhậm chức, ô nhiễm không khí nghiêm trọng, lập Khu Nhận dạng Phòng không trên Biển Hoa Đông... là những sự kiện lớn của Trung Quốc năm qua

Những cáo buộc lẫn nhau về tấn công mạng là chủ đề nóng gây tranh cãi giữa Trung Quốc và Mỹ, làm rạn nứt quan hệ song phương. Trong tháng 2, hãng an ninh mạng Mandiant cáo buộc tòa nhà ở Thượng Hải trong bức ảnh trên là trụ sở của một đơn vị quân đội Trung Quốc chuyên thực hiện các phi vụ tấn công mạng. Tuy nhiên, Trung Quốc phủ nhận các cáo buộc và tuyên bố, họ là một nạn nhân tấn công mạng 

 
Chủ tịch Tập Cận Bình chính thức làm Chủ tịch Trung Quốc vào tháng 3. Ngay sau đó, ông có chuyến công du nước ngoài đầu tiên bằng chuyến thăm Nga



Hơn 16.000 con lợn chết trương được vớt lên từ sông Hoàng Phố, nguồn cung cấp nước cho người dân Thượng Hải. Vụ việc làm dấy lên cuộc tranh luận về môi trường và chất lượng sống. Nhiều người chỉ trích chính phủ phản ứng chậm trong tình huống này, gây nguy hiểm cho đời sống người dân



Trong tháng 6, lần đầu tiên kể từ  khi nhậm chức, Chủ tịch Tập Cận Bình (trái) hội đàm với Tổng thống Mỹ Barack Obama trong một hội nghị thượng đỉnh 2 ngày tại khu biệt thự Sunnylands ở California. Đây được cho là cơ hội để 2 nhà lãnh đạo tìm hiểu nhau và tìm cách thúc đẩy quan hệ song phương


Phần nhận xét hiển thị trên trang Nhà du hành vũ trụ Wang Yaping thực hiện video diễn thuyết từ không gian đầu tiên tại phòng thí nghiệm không gian Tiangong-1 hồi tháng 6. Wang Yaping là một trong 3 nhà du hành vũ trụ tham gia sứ mệnh phóng tàu vũ trụ Thần Châu-10 lên vũ trụ và đây là sứ mệnh vũ trụ dài nhất của Trung Quốc

Người đàn ông tên là Ji Zhongxing làm rung chuyển Trung Quốc khi cho phát nổ khối chất nổ tự chế tại sân bay Bắc Kinh vào tháng 7. Nguyên nhân là sự bất mãn được nung nấu nhiều năm sau vụ ông bị nhân viên an ninh hành hung đến bại liệt, phải ngồi xe lăn. Do đó, không ít người đã tỏ ra đồng cảm với nghi phạm. Ji bị tuyên án 6 năm tù vào tháng 10


Chính trị gia bị thất sủng Bạc Hy Lai bị xử tội tham nhũng, lạm quyền trong một vụ án lớn không chỉ chấn động Trung Quốc mà cả quốc tế sau khi vụ án vợ ông (bà Cốc Khai Lai) giết doanh nhân người Anh Neil Heywood vỡ lở. Ông Bạc bị kết án tù chung thân dù ông phủ nhận mọi tội trạng



Tháng 9, Trung Quốc cấm các quan chức sử dụng công quỹ để mua bánh Trung thu làm quà tặng. Đây là một phần trong chiến dịch chống tham nhũng mạnh tay, triệt để của chính quyền










Tháng 10, vụ đánh bom xe kinh hoàng xảy ra ở quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh khiến 5 người chết. Bắc Kinh mô tả đây là vụ “khủng bố bạo lực”, cáo buộc Phong trào Hồi giáo Đông Turkestan, một nhóm ly khai Hồi giáo ở Tân Cương gây ra vụ  tấn công.





Tháng 11, Bắc Kinh đơn phương công bố Khu vực Nhận dạng Phòng không mới trên Biển Hoa Đông bao gồm quần đảo tranh chấp với Nhật Bản, Điếu Ngư/Senkaku. Động thái của Trung Quốc khiến Mỹ, Nhật, Hàn và nhiều chính phủ khác phẫn nộ, đẩy căng thẳng khu vực


Sự kiện đầu tiên là vấn đề ô nhiễm không khí vô cùng nghiêm trọng ở các thành phố lớn, trong đó có thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc. Ô nhiễm không khí ở Bắc Kinh tăng lên mức nguy hiểm kể từ tháng 1. Biển khói bụi bao trùm mọi nơi, khiến tầm quan sát giảm xuốn chỉ còn vài trăm mét. Vấn đề ô nhiễm không khí trở thành chủ đề tranh luận nóng ở Trung Quốc với yêu cầu chính phủ phải nhanh chóng tìm kiếm các biện pháp cải thiện môi trường và cắc chắn sẽ vẫn "nóng" trong năm tới.



Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013

Viễn cảnh nào cho kinh tế Việt Nam 2014?

Bất động sản bị đóng băng nhiều công trường xây dựng nửa chừng bị hết vốn

Với nhiều dự đoán kinh tế Việt Nam tiếp tục sẽ “đi ngang” trong một vài năm sắp tới, liệu đâu là phao cứu sinh và liệu đâu tiếp tục là trở ngại khi nền kinh tế hiện đang được cho sẽ thoát đáy.
Thách thức của các ban ngành
Kinh tế Việt Nam năm 2013 khép lại với sự ổn định và ngày càng vững chắc hơn, nhưng để duy trì được những thành quả bước đầu đó cho năm 2014 thì còn nhiều chông gai, thách thức và cần rất nhiều những nỗ lực của tất cả các ban ngành… đây là tâm trạng chung của nhiều vị bộ trưởng bên lề Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương về thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế 2014.
Nhìn chung, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tổng cầu và phục hồi niềm tin trong kinh doanh là những mục tiêu cơ bản được Chính phủ cũng như giới chuyên gia đánh giá là những gì Việt Nam cần đạt được trong năm 2014.
Trên lý thuyết, ổn định kinh tế vĩ mô bao trùm từ đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng GDP, kiềm chế lạm phát, cho tới phối hợp các chính sách tiền tệ và tài khóa linh hoạt, nhằm có được tốc độ tăng trưởng 5,8% và CPI dao động trên dưới 7%. Trong khi đó, khôi phục tổng cầu được nhắm tới là hồi phục thị trường bất động sản, từ đó “tác động lan tỏa” của thị trường này sẽ là “cú hích” làm ấm lên các thị trường khác và một chính sách chi tiêu công hợp lý. Riêng lĩnh vực niềm tin kinh doanh, giới chuyên gia cho rằng trong ngắn hạn, giải quyết nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế hấp thụ vốn, giải quyết hàng tồn kho của các doanh nghiệp, kích cầu tiêu dùng của người dân … và trong dài hạn, đề án tái cơ cấu nền kinh tế sẽ giải quyết được mọi nút thắt hiện có.
Để duy trì được những thành quả bước đầu đó cho năm 2014 thì còn nhiều chông gai, thách thức và cần rất nhiều những nỗ lực của tất cả các ban ngành… đây là tâm trạng chung của nhiều vị bộ trưởng
Rõ ràng với những chỉ tiêu đặt ra cho 2014, nhiệm vụ mà Chính phủ phải theo đuổi và duy trì không hề đơn giản. Trong bài phỏng vấn mới đây trên tờ Tuổi Trẻ, ông Trương Văn Phước, phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cho rằng năm 2014 cần phải có một cuộc chấn hưng nền kinh tế, coi đó là chiến dịch “Điện Biên Phủ về kinh tế.”
Một cửa hàng siêu thị ở Hà Nội (2013)
Một cửa hàng siêu thị ở Hà Nội (2013)VNeconomic

Chiến dịch “Điện Biên Phủ về kinh tế.”
Ông Phước cho rằng những khó khăn của nền kinh tế vẫn còn, nếu Việt Nam khởi động một chiến dịch tổng lực “Điện Biên Phủ về kinh tế” thì có thể tạo ra một cú hích cho đất nước vượt qua khó khăn này. Những điểm cơ bản ông Phước phân tích là cần một chính sách cho phép người nước ngoài mua bất động sản, phối hợp hài hòa giữa đầu tư công và tín dụng của ngân hàng để dòng vốn chảy ra thị trường nhanh nhất, đặc biệt, là những đột phá trong chính sách đầu tư của nhà nước sẽ góp phần tăng tổng cầu… quá trình này cần phải diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn để tạo ra một kỳ vọng cao hơn cho nền kinh tế.
Vậy đâu sẽ là điểm sáng cho năm 2014, có lẽ câu trả lời sẽ là tốc độ lạm phát đã được kiềm chế, và từ đó, dư địa cho các chỉ tiêu khác dễ dàng được thực hiện hơn. P.G.S, T.S Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế ở Hà Nội phân tích về luận điểm này:
“Điểm sáng lớn nhất là kiểm soát được lạm phát. Trước kia là thành công trong ngắn hạn, trong trung và dài hạn chưa có khả năng kiềm chế và kiểm soát được, điều này được thể hiện là từ 2007 đến 2012 cứ hai năm tăng, một năm giảm, nhưng đến nay chúng ta thấy đã khắc phục được. Khi đã kiểm soát được lạm phát thì có một dư địa rất lớn cho các chính sách khác để có thể thực hiện được.”
Những khó khăn của nền kinh tế vẫn còn, nếu VN khởi động một chiến dịch tổng lực “Điện Biên Phủ về kinh tế”thì có thể tạo ra một cú hích cho đất nước vượt qua khó khăn này....cần một chính sách cho phép người nước ngoài mua bất động sản, phối hợp hài hòa giữa đầu tư công và tín dụng của ngân hàng để dòng vốn chảy ra thị trường
ông Trương Văn Phước
Bên cạnh điểm sáng là tốc độ lạm phát được kiềm chế, nhiều chuyên gia cho rằng 2014, lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sẽ vẫn là “phao cứu sinh” cho nền kinh tế. Theo số liệu hiện có, đến hết 11 tháng đầu năm 2013, tổng vốn FDI đăng ký mới và tăng thêm lên tới hơn 20 tỷ đô la, tăng hơn 50% so với cùng kỳ năm ngoái, các nhà đầu tư lớn  vào Việt Nam vẫn là Nhật Bản, Singapore và Hàn Quốc… đây sẽ vẫn là lĩnh vực đóng góp nhiều vào tốc độ tăng trưởng toàn nền kinh tế, tạo công ăn việc làm và là nguồn thu về ngoại tệ.

Viễn cảnh khác của nền kinh tế 2014, giới chuyên gia cho rằng nợ xấu sẽ tăng chứ không giảm, mặc dù công ty quản lý tài sản quốc gia VAMC đã được thành lập, nhưng hoạt động vẫn chỉ dừng ở mức tạm thời là nơi nắm giữ nợ xấu thay cho các ngân hàng, chứ cơ chế xử lý triệt để thì vẫn chưa được định hình rõ ràng.
Đồng thời, lĩnh vực bất động sản 2014 vẫn được xem là tiếp tục bị đóng băng, khi nguồn cung vẫn dôi dư trong khi đầu ra thì vẫn còn yếu. Nhiều người cho rằng, có khả năng đến cuối năm 2014, thị trường sẽ khả quan hơn nhờ hoạt động M&A (sát nhập và cạnh tranh) khởi sắc sẽ đưa thị trường bất động sản khỏi bế tắc.
Gộp chung 2 lĩnh vực nợ xấu và bất động sản, T.S Ngô Trí Long tiếp tục phân tích:
“Những thách thức lớn vẫn còn đặt ra phía trước, thí dụ vấn đề nợ xấu, tuy thành lập công ty VAMC nhưng nói chung mới chỉ là mặt chuyển đổi. Nhìn vào bảng cân đối, tạm thời không còn xấu như trước, nhưng thực chất giải quyết nợ xấu cũng là bài toán nan giải vì thực ra đó chỉ là từ tổ chức tín dụng chuyển lên ngân hàng Nhà nước, chuyển từ túi này bỏ sang túi khác. Còn việc giải quyết mua bán nợ xấu như thế nào thì thực sự chưa giải quyết và chưa có lối thoát.
Những thách thức lớn vẫn còn đặt ra phía trước, thí dụ vấn đề nợ xấu, tuy thành lập công ty VAMC nhưng nói chung mới chỉ là mặt chuyển đổi. Nhìn vào bảng cân đối, tạm thời không còn xấu như trước, nhưng thực chất giải quyết nợ xấu...đó chỉ ...chuyển từ túi này bỏ sang túi khác
T.S Ngô Trí Long
Đặc biệt, thị trường bất động sản, mặc dù Nhà nước đưa ra giải pháp thực hiện Nghị quyết 02 của Chính phủ, với gói hỗ trợ 30 ngàn tỉ đồng, phải nói rằng cái đó hoàn toàn chưa thành công, mà giải ngân thì còn ở mức độ rất thấp, thị trường bất động sản chưa có lối thoát, chưa có lối ra. Nói một cách khác, niềm tin vào thị trường vẫn chưa rõ, sức mua còn hạn chế. Năm 2014, nền kinh tế vẫn theo hướng đi ngang, chứ chưa có khả năng vực dậy một cách mạnh mẽ.”
Trong một bài viết gần đây của T.S Nguyễn Đức Thành, Giám đốc TT Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, thuộc đại học Kinh tế - Đại học QG Hà Nội có đưa ra 4 thách thức chính mà Việt Nam phải đối mặt trong năm 2014, ngoài 3 vấn đề cơ bản như nợ xấu, bất động sản và tỉ giá, T.S Nguyễn Đức Thành còn chỉ ra thâm hụt ngân sách của Chính phủ sẽ trở thành vấn đề quan trọng cho năm sau, lý do cơ bản là nguồn thu giảm vì doanh nghiệp suy yếu trong khi chi tiêu của CP lại không hề thuyên giảm, từ đó, đòi hỏi chính phủ sẽ vay nợ nhiều hơn để bù đắp các khoản thâm hụt ngân sách, từ đó, trực tiếp ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường vốn và gây ra những rủi ro tiềm tàng.
Dù có thể sẽ có cả những điểm sáng lẫn những thách thức tồn tại song song trong năm 2014, nhưng lĩnh vực bao trùm cần giải quyết nhất sẽ vẫn là đề án tái cơ cấu, một bài toán “nợ” và một nút thắt đã kéo dài từ nhiều năm nay. Nhận xét về tiêu chí này, T.S Lê Đăng Doanh, nguyên viện trưởng Viện quản lý kinh tế phân tích:
“Cho đến nay đã có đề án tái cấu trúc nhưng chưa thực hiện được bao nhiêu, đề án tái cấu trúc đầu tư công thì chưa được trình ra đầy đủ. Kế hoạch 5 năm 2010-2015 cũng đề ra ba khâu đột phá quan trọng. Một là đột phá, một nỗ lực vượt bậc trên lĩnh vực thiết lập thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai là xây dựng kết cấu hạ tầng và thứ ba là nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực. Cả ba khâu đột phá đó cho đến nay mới làm được rất khiêm tốn và thể chế kinh tế thị trường thì gần đây nhiều người thấy là Nhà nước đã can thiệp quá nhiều vào thị trường”.
Năm cũ sắp qua, năm mới chạm ngõ, hi vọng rằng những gì năm 2013 đạt được sẽ là những tiền đề quan trọng để 2014 có đà phát huy, hi vọng một chiến dịch tổng thể “Điện Biên Phủ” sẽ đưa Việt Nam vào một vận hội mới.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Căng thẳng Mỹ-Trung làm lu mờ nỗ lực xây dựng quan hệ theo 'mô thức mới'


image
Tổng thống Barack Obama trong cuộc hội kiến với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại khu nghỉ mát Sunnylands ở California, ngày 7/6/2013.
Hoa Kỳ và Trung Quốc đứng trước nhiều căng thẳng quan trọng trong bang giao vào năm 2013, làm lu mờ các nỗ lực xây dựng điều họ gọi là một “mô thức mới” trong quan hệ giữa hai cường quốc. Viện nghiên cứu Washington, Trung tâm Woodrow Wilson cứu xét các căng thẳng đó trong tháng này, trong khuôn khổ một cuộc thảo luận nhằm duyệt lại những diễn biến then chốt trong bang giao Trung-Mỹ suốt năm vừa qua. Thông tín viên VOA Michael Lipin ghi nhận chi tiết trong bài tường trình sau đây.

Một diễn biến nổi bật trong bang giao Trung-Mỹ vào năm 2013 là việc Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhậm chức vào tháng 3.

Tổng thống Barack Obama đã mở cuộc hội kiến lần đầu tiên với tân chủ tịch Trung Quốc tại khu nghỉ mát Sunnylands ở California hồi tháng 6.
image
Tham dự viên của cuộc hội thảo tại Trung tâm Wilson, ông Isaac Stone Fish, phó chủ biên tạp chí Ðối Ngoại, nói rằng cuộc họp đã làm thay đổi các quan niệm của Hoa Kỳ về nhà lãnh đạo Trung Quốc.

“Ðây là lần đầu tiên chúng ta thấy một nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như thực sự tin rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc nên giao tiếp trên một vị thế bình đẳng. Chúng ta đã thấy rằng với Sunnylands, ông Tập Cận Bình dường như tin rằng gây ra được cảm tưởng đó là có lợi cho Trung Quốc. Biến chuyển đó sẽ làm thay đổi bản chất của bang giao Trung-Mỹ trong mọi lãnh vực từ nhân quyền…cho đến thương mại, chính trị quốc tế cho đến việc giao dịch với Nhật Bản.”

image
Một thành viên khác tham dự cuộc hội thảo, giáo sư sử học Jeffrey Wasserstrom của trường Ðại học California, nói rằng các giới chức Hoa Kỳ đã học được thêm một điều khác về Chủ tịch Tập Cận Bình – đó là ông ta có nhiều điểm chung với những người tiền nhiệm.

“Bất cứ lúc nào có các nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc, là Hoa Kỳ lại nuôi những hy vọng quá mức rằng bởi lẽ họ nói về cải cách kinh tế và xã hội nên ắt hẳn trong thâm tâm, họ cũng muốn có cải cách chính trị. Chúng ta đã thất vọng về ông Hồ Cẩm Ðào. Và nay chúng ta lại thất vọng về ông Tập Cận Bình. Chung quy ông là một nhà độc tài, một người theo chủ nghĩa dân tộc, một nhà cải cách muốn can dự với nhiều thứ trong nền kinh tế và cơ cấu xã hội, và điều đó rất giống với bản chất của ông Ðặng Tiểu Bình. Chúng ta muốn ông ta là một thứ Gorbachev của Trung Quốc, nhưng chúng ta sẽ thất vọng.”

image
Sự kiện Trung Quốc ngày càng hung hăng trong các vụ tranh chấp lãnh hải với các lân quốc cũng là một nguồn căng thẳng đáng kể với Hoa Kỳ, nước đang có các liên minh quân sự với nhiều trong số các lân quốc đó.
Bắc Kinh tuyên bố thành lập một vùng Nhận diện Phòng không ngoài khơi duyên hải phía đông vào tháng 11.

Vùng này bao gồm cả những hòn đảo đang có tranh chấp mà Nhật Bản gọi la Senkaku, trong khi Trung Quốc gọi là Ðiếu Ngư đang do Nhật Bản kiểm soát và Trung Quốc đòi nhận chủ quyền. Vùng này cũng bao gồm cả một cơ sở nghiên cứu của Nam Triều Tiên xây trên một đảo chìm.

image
Hoa Kỳ và các nước đồng minh Nhật Bản và Nam Triều Tiên mau chóng phản đối hành động của Trung Quốc. Các nước này cũng đã gửi máy bay quân sự đến khắp vùng mà không thông báo cho Bắc Kinh. Chính phủ Trung Quốc không có hành động thực thi nào rõ ràng, khiến một số quan sát viên Hoa Kỳ mô tả vùng này như một “mục tiêu riêng” của Trung Quốc.

Ðiều phối viên của cuộc hội thảo, ông Robert Daly, đứng đầu Viện Kissinger về Trung Quốc và Hoa Kỳ của Trung tâm Wilson, nói rằng vùng này là một động thái không đến mức gây thiệt hại nhiều cho Bắc Kinh như một số người nghĩ.

image
“Theo quan điểm của Bắc Kinh, họ đang đạt được các mục tiêu của họ, họ đang tỏ ra các dấu hiệu rằng họ sẽ không rút lại những tuyên bố mơ hồ rằng đây là một vùng của Trung Quốc. Và họ đã làm điều này một phần để chứng tỏ sự nhất quán – có liên quan đến những hòn đảo đang có tranh chấp Senkaku/Ðiếu Ngư. Tôi nghĩ có lẽ họ cảm thấy là đây là một thắng lợi cho họ, và chúng ta không nên vui mừng về các mục tiêu riêng của Trung Quốc. Tôi sẽ không lấy làm lạ khi thấy sẽ có thêm những vùng của Trung Quốc, cũng mơ hồ, và được công bố tốt hơn, trong vùng Hoàng Hải và Biển Ðông vào năm 2014.”

image
Một nguồn căng thẳng khác trong bang giao giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc là việc Trung Quốc bắt giữ hàng chục nhà hoạt động Internet hô hào tôn trọng nhân quyền như được hứa hẹn trong hiến pháp Trung Quốc năm 1982.

Tham dự viên hội thảo của Trung tâm Wilsom, ông David Wertime, sáng lập viên của tạp chí mạng Tea Leaf Nation của Trung Quốc, nói rằng vụ trấn át đã khiến nhiều blogger hoảng sợ và tự kiểm duyệt việc quảng bá cho quyền hợp hiến của mình.

“Nhà chức trách Trung Quốc rất muốn liên kết một số khái niệm cấp tiến này với phuơng Tây. Họ đã tạo dựng một bầu không khi trong đó việc nói về nhu cầu công khai tài sản của các giới chức chẳng hạn, nói về cải tổ hiến pháp, đã được coi như một thứ không được đụng tới, mang tính cách Tây phương một cách mơ hồ và nguy hiểm, và họ đã rất thành công trong việc này trong khoảng thời gian 6 tháng vừa qua.”

Hoa Kỳ chỉ trích vụ đàn áp, và lên án Trung Quốc là hành động ngược với các nghĩa vụ quốc tế, và thậm chí trái với các luật lệ và hiến pháp của chính Trung Quốc.

image
Bang giao Trung-Mỹ cũng bị căng thẳng trong lúc các cơ quan truyền thông tin tức của Hoa Kỳ phổ biến thêm các bài báo phơi bày sự giàu có của các nhà lãnh đạo Trung Quốc và cách thức gia đình họ thủ lợi nhờ quan hệ chính trị.

Những câu chuyện như thế làm Bắc Kinh bất bình, và đáp lại bằng cách trì hoãn việc gia hạn thị thực cho các ký giả Mỹ và các ký giả Tây phương khác.

Ông Isaac Stone Fish của tạp chí Ðối Ngoại nói việc trì hoãn cấp thị thực có tác dụng như một vụ trấn át truyền thông Tây phương của Trung Quốc.

“Vị trí của chúng ta ngay bây giờ là các ký giả của báo New York Times và hãng tin  Bloomberg có thể sẽ không được gia hạn thị thực và trên thực tế sẽ đi đến chỗ có khoảng 2 chục ký giả sẽ bị trục xuất, và đó sẽ là biện pháp lớn nhất của Trung Quốc nhắm vào báo giới nước ngoài kể từ năm 1989, hay cuộc Cách mạng Văn hóa thời thập niên 1960 và 70, hoặc thậm chí kể từ ngày thành lập nuớc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949. Do đó đây là một thời điểm hết sức căng thẳng đối với các phóng viên nước ngoài ở Bắc Kinh và cũng đối với bang giao Trung-Mỹ.”

Bất chấp các căng thẳng trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, quan hệ kinh tế lâu năm giữa hai quốc gia và các cuộc trao đổi giữa nhân dân hai nước vẫn bền bỉ.

Ông David Wertime của tạp chí mạng Tea Leaf Nation nói rằng dựa vào tương quan đó, ông vẫn là một người lạc quan kiên cường về mối bang giao Trung-Mỹ.

image 
“Cho dù đó là 500 tỷ đôla kim ngạch mậu dịch hàng năm, 15 tỷ đôla đầu tư trực tiếp, hàng triệu người đi lại, để học, làm việc, hay thăm viếng, tôi nghĩ các yếu tố cơ bản này là nền tảng cho mối bang giao của chúng ta và theo tôi, cung cấp một phản biện với sự kiện là chỉ có một thiểu số ở mỗi nước bày tỏ một quan điểm tích cực đối với nhau.”

Tòa Bạch Ốc cho biết Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ mở rộng hợp tác trong năm 2014, tập trung vào việc giải quyết tình trạng biến đổi khí hậu, duy trì việc cung ứng tốt cho các thị trường năng lượng và cải thiện vấn đề an toàn thực phẩm và dược phẩm.




Michael Lipin

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TÁC PHẨM VÀ NHÀ VĂN CẢI LÃO HOÀN GIÀ KHÚ


Tạp chí Nhà văn & Tác phẩm số một vừa ra, như vậy từ tháng 5 năm 1969 đến nay nó đã 5 lần thay tên với 4 cái tên: Tác phẩm mới, Tác phẩm văn học, trở lại Tác phẩm mới, rồi Nhà Văn, và mới đây 2013 là Nhà văn và Tác phẩm.
Điều đó nói lên cái gì? Rõ ràng, nội hàm của tạp chí là muốn trưng tác phẩm mới ra, vậy tại sao nó cứ loay hoay thay xoành xoạch tên gọi? Ai chẳng biết “Danh chính thì ngôn thuận” hay như người phương Tây nói “đá lăn không xanh rêu”, các giá trị của vũ trụ và con người được đo bằng thời gian, vì thế người ta mới coi rẻ loại phù du vừa sinh đã tử, cũng như các loại thơ ngắn chưa có khả năng triển khai đã vong. Người Việt có câu “Ngựa hay phải chạy đường dài”, ngựa hay mà chạy trong sân, nhà thơ mà làm vài câu ngắn tũn thì chỉ có ở các nước nhược thiểu mặc dù to đùng chiếm gần ¼ loài người như Trung Quốc nhưng khi triết gia Hegel nói “Dân tộc không có sử thi như Trung Quốc thì chẳng thể là dân tộc lớn”, chính vì mặc cảm to xác bé tâm hồn mà mấy chục năm qua các cơ quan văn hóa Trung Quốc đi tìm sử thi khắp các hang cùng ngõ hẻm mà không thấy. Tùng bách mà mọc trong chậu cảnh bé tẹo như đồ chơi trẻ con thì tính làm gì? Vạn vạn bài thơ vụn dù xuất sắc thời Đường, được các chuyên gia hiện đại Tàu gọi là “những mảnh vụn lấp lánh”, đấy là đồ chơi tức cảnh sinh tình kiểu trẻ con bứt lá chơi đồ hàng chứ ai gọi là tác phẩm có kiến trúc về văn học. Hơn sáu mươi năm qua, người Trung Quốc đã bỏ thơ mà bắt tay vào tiểu thuyết, giờ họ đã có 2 giải Nobel là Cao Hành Kiện và Mạc Ngôn. Thử hỏi họ cứ say sưa đua nhau làm thơ vài câu “thổn thức vặt” thì đến mùa quít nào mới có giải Nobel. Người Việt hãy nhìn vào đấy, chẳng là tấm gương sao, thơ Việt lần bước theo thơ Tàu từ Nguyễn Du trở đi đến những bài “nhỏ như lá đánh rơi” đừng có hy vọng ảo tưởng ba thứ văn học bỏ túi khú khí khen nhỏ gọn. Một anh du kích trong thời chiến nhỏ gọn để luồn sâu người ta còn thông cảm. Nhà giầu đi nghỉ mát mà đồ đạc ít không bõ người ta khinh. Tại sao? Vì giá trị tài sản cũng là cái phản ánh giá trị con người. Một giàn hỏa tiễn vượt đại dương sao có thể có bệ phóng bé tí như chuồng gà?! Vì thế hỡi mấy anh hủ nho đồ gàn đừng có chúi đầu tự tôn vào mấy vần thơ còi trong túi. Phi trong sân không thể là ngựa mà chỉ là mấy con vịt bầu! Hãy chắc chắn điều đó! Và không thể cãi được điều đó đâu!
Chúng ta đang bàn về phương ngôn chắc chắc nhất của nhân loại. Đó là “Nhìn đường trường biết sức ngựa. Nhìn thời gian biết giá trị vạn vật”. Người phương Tây tóm tắt trong một câu “Thành La Mã không xây trong một ngày”. Một chiếc huy chương chạm khắc tinh xảo nhất khoát đòi nhiều thời gian. Tác phẩm bằng đá tạc cả năm nhất khoát hơn tác phẩm đắp tuyết trong 15 phút. Một bản giao hưởng với tài năng phát triển và biến tấu phải hơn bài thơ đoản ca có độ dài của con phù du. Vậy trong hơn 50 năm tạp chí Tác phẩm mới phải đổi tên 5 lần là cớ làm sao? Đó có phải chính là phương châm làm ăn ma cà chớp của cửa hàng mậu dịch? Tất cả mọi công ty tư nhân, người ta đều tìm cách có thương hiệu, xây dựng thương hiệu, gìn giữ thương hiệu, bảo vệ thương hiệu, rồi nâng cao thương hiệu… Đó mới là làm ăn chân chính. Sự chân chính đó bắt nguồn từ vốn tư nhân, đồng tiền người ta đổ mồ hôi sôi nước mắt, nên người ta biết quí trọng nó. Nhưng còn tiền nhà nước, như người Việt nói “cha chung không ai khóc” thì cứ tiêu vô tội vạ, tiêu làm sao càng rót ăn chia nhiều vào túi cán bộ càng tốt. Rồi văn thơ đăng cho đồng chí, đồng hương, bồ bịch của mình, nó xuống cấp giảm giá trị thì đành thay tên để mong mồi chài một danh dự mới.
Tạp chí Nhà Văn và Tác phẩm ra lò nhằm mục đích gì? Tất nhiên để cải lão hoàn đồng. Nhưng nhìn một cái thấy ngay những khuôn mặt “cúng cụ”, hay nói theo ngôn ngữ của chính dân văn chương “những bộ hài cốt quốc doanh”  lại chềnh hềnh duyệt binh trên thảm đỏ trải sẵn cho mình. Những khuôn mặt chỉ còn là bã của cái “biết rồi khổ lắm nói mãi”. Nhìn vào đây, nhân sự kiện này, tôi muốn đưa ra một suy tư về thói quen già cả lẩm cẩm của một nền văn học không chịu về hưu của các cán bộ văn học nghiệp dư.
Trước hết như người Tàu nói “Dùng đồ thì phải dùng đồ mới, dùng người thì phải dùng người cũ, bởi vì đồ mới thì tốt, còn người cũ thì biết việc”. Lãnh đạo trên toàn thế giới nói chung thuộc về tay những người già (đây là số liệu và nhận định chắc chắn), nhưng đó chỉ là lãnh đạo quản lý thôi, chứ còn lao động sáng tạo không bao giờ thuộc về những người già cả.
Thi hào Goethe nói “Sự cấp tiến ở tuổi già là biểu hiện cao nhất của mọi sự điên rồ”.Đúng vậy, người già có thể dùng kinh nghiệm lâu năm để làm lãnh đạo, nhưng sáng tạo là phạm trù của cái mới đòi tươi rói tinh khôi, càng nhiều kinh nghiệm thì càng hỏng, giống như ái tình run rẩy hồi hộp khám phá của tân nương với tân lang. Vợ chồng già “con ong đã tỏ đường đi lối về” thì còn gì rạo rực nữa.
Các chuyên gia xã hội học nhất khoát: tuổi già là tương lai đã ở phía sau. Với tuổi già làm gì còn khát vọng hay dự án?! Ông bà già đi vệ sinh mà con cháu không phải giúp đỡ đã oai lắm rồi. Tuổi già là sống ngày nào hay ngày đó, theo kiểu “già được bát canh”. Nhà thơ Lê Đạt lúc sống có viết: Chữ bầu lên nhà thơ, không có chữ nữa thì thôi là nhà thơ. Thôi là nhà thơ lâu quá thì nhà thơ đã chết, họ phải được chôn cất để giữ vệ sinh cho cộng đồng.
Văn hào Dostoievski còn viết cực đoan hơn: Sống quá bốn mươi tuổi là bẩn thỉu, đê tiện và vô nhân cách. Riêng tôi đã sống qua bốn mươi tuổi tôi vẫn nói thế. Ý của văn hào là: tuổi càng cao nhiệt huyết của người ta giảm, sự ươn hèn gia tăng, cái đẹp giảm. Và con người nên lưu ý việc này!
Vậy thì người già cần phải được nghỉ hưu. Quả nho chín, nó lên men thành rượu nhưng nếu để nó chín nẫu sẽ sinh vi khuẩn mốc làm hại cả thùng rượu. Sáng tạo của những người già không chịu về hưu là thứ nho không lên men nữa. Việc này không chỉ thể hiện qua tạp chí mà còn thể hiện trong đời sống của Hội Nhà Văn. Tất cả hội nghị, mấy ông già lên nói trước chẳng có gì mới đã thế câu giờ không còn thời gian cho ai nữa. Đã thế lên nói là khoe chữ nào Ấn tượng, nào Hậu hiện đại… nhưng than ôi người già như thế chưa làm được câu nào hiện đại cũng làm sao cách tân ở cái tuổi chín mõm được. Nhưng các ông vẫn nói theo kiểu “xuất” được nói “được ăn, được nói, được gói mang về”. Có ông lên còn ngang nhiên nói sai chủ đề mong quảng cáo cho công ty nào đó.
Văn vẻ “biết rồi khổ lắm” của các cán bộ già hấp dẫn thế nào? Có một câu chuyện thật: Vua Tây Ban nha kia hay ngoại tình lắm. Mà làm vua muốn ngoại tình thì dễ như người ta thò tay vào túi, quyền ư ông sẵn là vua lại chẳng có quyền à, tiền ư ông sẵn ngân khố quốc gia lại thiếu ư, ông hấp dẫn ư chẳng phải những lời ton hót đã có mẫu ghi sẵn… Hoàng hậu tức lắm than với vị giám mục. Vị Giám mục cứ gặp nhà vua là khuyên bảo dai như chão. Nhà vua liền mời vị Giám mục ở lại ăn cơm với gà quay. Hôm sau cũng ăn gà quay. Vị Giám mục xuýt xoa khen ngon. Nhà vua mời cả tháng ăn gà quay liền. Đến lúc vị Giám mục la “Lúc nào cũng ăn gà quay làm sao chịu được!” Nhà vua bảo: “Đấy, gà quay ngon nhưng ăn mãi còn ngấy. Hoàng hậu dù đẹp như gà quay, ăn mãi làm sao không ngấy?!”
Đấy là món gà quay được ví với hoàng hậu. Còn văn chương của mấy bác già bám trụ tem phiếu nhà ta chỉ là đậu phụ hay rau cỏ thôi, ăn mãi rát ruột và héo hon lắm. Người Việt có câu: trong mọi ngành nghệ thuật chỉ có ngành múa là các lãnh đạo già nua không xí chỗ được của diễn viên. Tại sao? Vì diễn viên thì phải trẻ, và ăn mặc hở hang không thể úm ba la che dấu được. Vì thế mũ cao áo dài đòi trà trộn lộ ngay!
Người Việt nói “tre già măng mọc”, “trẻ cậy cha già cậy con” , rồi “con chị nó đi con gì nó lớn”, tạp chí Hội nhà văn sao có tương lai nếu chưa từng biết nhường cho lớp trẻ, già cả, sức vóc có hạn, học vấn cao nhất là tráng men cấp cứu ở trường Nguyễn Du do nhà nước ban ơn cho “chẳng nhẽ đi rừng rú bưng biền mãi về lại tay trắng văn hóa và chữ viết”. chính thế mà tạp chí không có sức sống phải đổi tên liên tục, tưởng “cãi lão hoàn đồng nhưng cũng chỉ hoàn già khú thôi”.
Để trẻ hóa, về sinh vật học cho đến nay người ta chỉ tìm cách tác động vào bộ phận sinh dục. Vì văn hóa thấp, tri thức ít, tư tưởng lại để quên nơi chân trời, nên các nhà văn Việt chủ yếu viết xoay quanh tình dục, cũng là vốn tự có trời cho. Máu trong cơ thể, một là bơm lên não sẽ sinh trí tuệ và tư tưởng, hai là bơm xuống thận sẽ sinh dục vọng quanh quẩn màn the. Người Việt nói “khôn đâu đến trẻ khỏe đâu đến già”, cũng là cách nói, trí tuệ thuộc về người già, còn sinh lý thuộc về giới trẻ. Tuổi đã già các bác nhà văn cứ tìm cách tác động vào bộ phận sinh dục làm gì? Nên nhớ càng tác động mạnh vào bộ phận sinh dục càng dễ lăn quay. Chớ nên làm gì trái tự nhiên! Tự nhiên là tuổi đã già cũng nên được nghỉ ngơi về hưu. Chớ thấy bở mà đào mãi. Người Tàu có phương ngôn “Lúc già mà không đem cái mình biết mà dạy thì khi chết chẳng ai thương”. “Tiến vi quan, thoái vi sư” già rồi không nên chạy đua lên những trang nhất của văn học nữa, nên biết trèo lên tháp để dạy đời thì hơn. Lộc bất tận hưởng, đừng ăn uống cạn kiệt cả cặn trong bát canh tem phiếu nữa. Đây là những lời “trung ngôn nghịch nhĩ” của tôi. Và không có một lời nào sai sự thật cả. Mong các bác già chia sẻ.
 .
NHĐ 30/09/2013

Phần nhận xét hiển thị trên trang