Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

Miến Điện : lãnh địa của nha phiến, hồng ngọc, máu và nước mắt


myanmarrap
Mường Giang
Sau khi giành lại nền độc lập từ tay người Anh năm 1948, dân tộc Miến Ðiện những tưởng sẽ được sống no ấm hạnh phúc trong cuộc đời bình thường. Ðâu ngờ giặc xâm lăng vừa rời khỏi nước thì bè lũ quân phiệt lại nổi lên, chẳng những chúng theo đuổi  “siêu chủ nghĩa phát xít kiểu Nhật trước thế chiến thứ 2“, kéo vận mệnh của đất nước và dân tộc lùi lại hằng bao thế kỷ trong sự nghèo đói lạc hậu, mà còn “độc tài độc đảng khủng bố áp bức sinh mạng và chà đạp lên phẩm giá của con người suốt mấy chục năm qua“, trong bức màn sắt gần như cô lập với thế giới bên ngoài, bằng kẽm gai họng súng để bịt miệng mọi người không cho nói lên sự thật.
Cũng từ đó thế giới bên ngoài đã không biết gì hay nếu có cũng chẳng qua là những tin tức mù mờ về cuộc sống lầm than đen đói cùng với xã hội điêu tàn của một nước Miến Ðiện độc tài quân phiệt vì tham nhũng và tệ nạn buôn bán thuốc phiện. Nhưng người dân Miến Ðiện không bao giờ chịu khuất phục trước bạo quyền, nên đã đổ máu rất nhiều trong những cuộc đấu tranh đòi tự do và dân chủ. Năm 1974 lợi dụng đưa linh cửu U Thant tới nơi an nghĩ cuới cùng, các vi tăng ni và sinh viên đồng bào đã biến đám tang thành một cuộc biểu tình chống quân phiệt độc tài, nên bị Ne Win ra lệnh cho quân đội xã súng vào đám đông tàn sát vô nhân đạo.
Ngày 8 tháng 8 năm 1988, phong trào đòi dân chủ của tuổi trẻ Miến Ðiện lại bùng nổ dữ dội, cơ hồ làm rung chuyển nền móng của bọn quân phiệt cầm quyền. Cuộc xuống đường lần đó được sự lãnh đạo của chư vị tăng ni Phật Giáo. Lần nữa quân đội đã tàn sát đoàn biểu tình giết chết hơn 3000 người tham dự. Một năm sau (5-1989), ... Ðó là những giòng máu hận uất oan khiên của người dân lương thiện bình thường, đang thi nhau đổ xối xã xuống đầu bọn lãnh tụ quân phiệt, để đòi lại quyền sống của con người mà báo chi xuyên tạc khi sử dụng hai chử ‘khiếu kiện‘ bảo rằng  “đó chỉ là những người khiếu nại kiện thưa“  vì tranh chấp ruộng đất..
Rồi màn tranh giành quyền lực lại xảy ra giữa các lãnh chúa, nên trong năm đó Saw Maung, tên tướng sát thủ đã từng ra lệnh bắn giết đồng bào mình, qua cương vị tổng tham mưu trưởng quân đội Miến, đã làm một cuộc đảo chính hạ bệ và bắt giam Ne Win, thành lập một chế độ quân phiệt khác, cũng tàn bạo độc tài tham nhũng và coi mạng người như cỏ rác , được người Nhật công nhận qua cái gọi là ‘Hội Ðồng Phục Hồi Trật Tự và Luật Pháp Quốc Gia‘.
Ðể ru ngủ lòng dân đang hận thù bốc cao như núi, quân phiệt lại bày trò bầu cử quốc hội; nhưng khi Liên Minh Dân Chủ do bà Aung San Suu Kyi toàn thắng để lập chính phủ mới thì Saw Maung lật lọng phủ nhận kết quả bầu cử và ra lệnh bắt hết những người đối lập kể cả lãnh tụ Aung San Suu Kyi. Bị dồn vào chân tường, hoặc đấu tranh để có tự do mà sống hay cúi mặt để chết mòn như tại VN ngày nay. Vì vậy , ngày 18-9-2007 toàn dân Miến đã đứng dậy, dưới sự lãnh đạo của hằng ngàn Chư Tăng-Ni Phật Giáo Miến, từ Mandalay, Chauk, Shwebo, Mongwa, Taung Dwingi, Ye Nan Chaung.. cho tới thủ đô Rangoon, nơi nào cũng có biểu tình chống quân phiệt đòi tự do dân chủ. Các cuộc biểu tình có lúc đã lên tới hằng trăm người, được báo chí thế giới ca tụng là ‘cuộc cách mạng áo cà sa của thế kỷ XXI’ vì trong rừng người tràn ngập khắp phường phố, hình ảnh của các vị chân tu Tăng-Ni đầu trần chân đất, vận áo màu nâu hay lam chói lọi trong khoảng không gian tuyệt vời của đất trời, mà không một bức danh họa nào có thể sánh kịp được.
Máu và xác người biểu tình thi nhau đổ xuống đất trước họng súng của quân phiệt đồng lúc với những trận chiến bọt mép cũng dữ dội tại Hội Ðồng Bảo An LHQ đang lúc nhóm họp vào ngày 27-9-2007. Cũng như lần tàn sát dân Miến biểu tình vào tháng 8-1988, lần này thì cũng như lần trước, quanh đi quẩn lại, cải tới nói lui, cũng vẫn với luận điệu đầu tiên ‘ áp lực, cấm vận.. ’ ’ nhưng sau khi bị Trung Cộng và Nga Sô phản đối, thì tất cả gần như im re dịu giọng vì thực chất chẳng ai kể cả Mỹ, muốn làm to chuyện tại Miến, để chọc giận nhóm quân phiệt cầm quyền đuổi ra khỏi nước, thì mất quyền lợi bạc tỷ đang thu được.
Hởi ôi đời là vậy đó, dân đen nơi nào cũng chịu chung số phận hẵm hiu nhất là tại các nước đang có nhiều tài nguyên thiên nhiên hái ra tiền như Miến. Có theo dõi báo chí mới thấy được bộ mặt thật của các nước tư bản ‘nói một đường làm một nẻo‘. Trong biến động lịch sử tại Miến kỳ này, chính Ngoại Trưởng Anh David Miliband là người to miệng nhất phản đối quân phiệt. Nhưng cũng người Anh từ tháng 5-1994 đã có gần 50 công ty lớn nhỏ đang làm ăn tại Miến, trong đó nổi tiếng có Glaxo, Premier Oil và Rolls Royce. Trong khi đó tài phiệt Mỹ còn nhanh hơn Anh đã có mặt từ trước để cạnh tranh với các nước Singapore, Nhựt, Nam Hàn và Mã Lai.. Tất cả đã trở thành những đại công ty thâm nhập vào đủ mọi lãnh vực từ dầu khí, gổ, khoáng sản cho tới dịch vụ khách sạn và nhà hàng. Sau khi Ne Win thân Nhật bị hạ bệ, Trung Cộng bắt đầu xâm nhập Miến với số vốn đầu tư kếch xù 870 triệu USD mà mục đích chính là mở con đường xa lộ nối liền Mandalay tới Vân Nam, đạt cán cân mậu dịch Miến Hoa lên tới 1 tỷ mỹ kim, trong khi Ấn Ðộ chỉ có 150 triệu USD.
Dù Hoa Kỳ có ra lệnh cấm vận Miến Ðiện nhưng chuyện này chỉ làm trò cười cho nhóm lảnh đạo quân phiệt vì hiện nay có không biết bao nhiêu nước phương tây, Nhật kể cả khối ASEAN đang chực chờ nhảy vào đầu tư khai thác kiếm lời mà họ đã nhìn thấy từ Trung Cộng, Nga Sô.. Tóm lại tất cả đều không có hiệu lực đối với Miến ngày nay kể luôn số tiền viện trợ ít ỏi của các Ngân hàng Thế giới, bình quân mỗi đầu người chỉ có 2,5 USD/1 năm. Trong khi đó thì Liên Â, Nhật và Ấn Ðộ thì lơ lững gần như không thú vị lắm với việc ‘ hạ bệ ‘ quân phiệt ‘ để mang tự do dân chủ mà người dân Miến đã liên tục đổ xương máu đấu tranh từ năm 1974 cho tới ngày nay.
1-MIẾN ĐIỆN: LÃNH ĐỊA CỦA NHA PHIẾN, HỒNG NGỌC, MÁU VÀ NƯỚC MẤT:
Miến Ðiện là một quốc gia trù phú, vì có nhiều tài nguyên thiên nhiên và cũng là một trong những vựa lúa lớn nhất của thế giới tại Ðông Nam Á, có mức xuất cảng gạo (trước năm 1962) bằng Thái Lan và VN. Dân tộc Miến Ðiện hiền lành vì hầu hết đều theo Phật Giáo. Nằm trong vịnh Bengal, phía tây bán đảo Ðông Dương, có chung biên giới với Thái Lan, Lào, Trung Cộng và Ấn Ðộ, nhiều sông ngòi, đồng ruộng, quặng mõ và rừng núi, diện tích 261.789 sq.ml  hay 678.034 km2, dân số theo tài liệu của World Atlas năm 2003 là 38.541.000 người, thủ đô Rangoon (2.458.712 người) và các thành phố lớn khác như Akyan, Bassein, Inssein, Mandalay (532.895).. Người Miến gồm 4 sắc tộc chính: Miến, Mon, Pyu và Shan nói các thổ ngữ Burmese, Karen, Shan, Kachin, Kayah và English. Ðồng tiền chính là Kyat, hiện là một liên bang có 7 tiểu quốc chính và các vùng tự trị như Chin, Kachin, Karan, Kayah, Mon, Rakhine và Shan.
Thực dân Anh xâm lăng và bắt đầu đô hộ miền Hạ Miến năm 1852 sau khi chiếm được các tỉnh ven biển và miền Nam Miến. Năm 1885 Anh chiếm thêm miền Bắc Miến trong đó có cố đô Mandalay, xóa bỏ chế độ quân chủ nước này. Cuối cùng Anh thống nhất Miến và đặt thành một tỉnh của Ấn Ðộ, trực thuộc Công Ty Ðông Ấn.
Theo các nguồn sử liệu đã được phổ biến, thì sự quan hệ giữa Miến và Nhật bắt đầu năm 1920 từ một phòng làm răng của vợ chồng viên đại úy hải quân người Nhật tên Shozo Kokobu tại Rangoon. Ðây chính là địa điểm hoạt động tình báo của Nhật, qua mục tiêu gây cuộc chiến tại Thái Bình Dương. Thời gian này toàn dân Miến đang nổi lên chống lại thực dân Anh càng lúc càng quyết liệt. Thừa cơ hội vàng ròng, quân phiệt Nhật tìm đủ mọi cách móc nối với các tổ chức nghĩa quan trên, qua trạm liên lạc chính là phòng làm răng. Năm 1940 một đại tá lục quân Nhật tên Keiji Suzuki, đóng vai phóng viên báo chí nhưng bên trong hoạt động tình báo. Chính Suzuki đã tạo nên phong trào Ðông Du, để đưa các phe nhóm cánh hữu Miến Ðiện sang Nhật mà người đầu tiên là Thein Maung, mở đầu cho Hội Hửu Nghị Nhật-Miến được thành lập tại Rangoon.
Năm 1941 một lãnh tụ quốc gia Miến là Aung San đã từ Phúc Kiến sang Nhật lập một đầu cầu đưa người sang đây để huấn luyện quân sự về nước chống Anh. Ðó là ‘ Nhóm Ba Mươi Ðồng Chí ‘ mà thủ lảnh là Suzuki qua bí danh Bo Mogyoe hay tướng sấm sét. Tuy nhiên trong nhóm này, mầm móng chia rẽ cũng đã lộ ra từ lúc ban đầu. Ðó là nhóm chủ nghĩa quốc gia của lảnh tụ Aung San chủ trương giao dịch với Nhật chỉ là con đường vụ lợi. Nhóm còn lại gồm 8 người thì theo phe trục ‘ Ðức-Ý-Nhật ‘ mà người dẫn đầu của nhóm lúc đó là Shu Maung mới 31 tuổi qua bí danh Ne Win ‘ có nghĩa là mặt trời vinh quang, rất được Nhật tin cậy nên được theo học tình báo và giới thiệu làm quen với giới trí thức đương thời.
Mưu đồ dành Miến Ðiện trong tay thực dân Anh của Nhật đã công khai bộc lộ từ tháng 3-1940 khi đổ bộ vào Miến để phá hoại con đường tiếp liệu, mà liên quân Anh-Mỹ mới mở để nối liền Mandalay với Vân Nam, tiếp tế cho quân Trung Hoa Quốc Gia đang chận đứng bước tiến của quân Nhật trên đất Tàu. Nhóm 30 người qua võ ‘ đơn vị đặc nhiệm ‘ đã về nước khi quân Nhật chiếm được Rangoon ngày 7-3-1942. Về sau nhìn thấy dã tâm xâm lăng của Nhật, nên phe quốc gia của Aung San quay sang hợp tác với Ðồng Minh để chống Nhật từ tháng 3-1945.
            -Nhựt Bổn khai sinh và nuôi dưỡng chế độ quân phiệt Miến Điện:
Chiến tranh kết thúc vào tháng 9-1945 khi Nhật đầu hàng Ðồng Minh vô điều kiện. Thế nhưng sự giao hảo giữa Miến Nhật vẫn không kết thúc, sau khi lãnh tụ quốc gia Miến Aung San bị ám sát chết ngày 19-7-1947 trước khi Anh trả độc lập cho Miến năm 1948 nhưng mọi quyền hành trong nước kể cả quân đội, đều do Ne Win và phe thân Nhật nắm giữ. Từ năm 1950 tới tháng 8-1988, đã xảy ra nhiều cuộc thảm sát đồng bào biểu tình đòi dân chủ do nhóm quân phiệt Ne Win gây ra, nhưng Nhật vẫn là nước viện trợ lớn nhất và đứng đầu sổ tại Miến. Sau đó vì bị dư luận thế giới nguyền rủa nên Nhật bó buộc phải tạm thời cắt viện trợ Miến nhưng vẫn không quên con mồi béo bở đã nắm trong tay từ nhiều năm qua, nên lại viện cớ sự ra đời của cái gọi là ‘Hội đồng tái lập luật pháp và trật tự quốc gia Miến (SLORC)‘ để vội vã công nhận nhóm quân phiệt cầm quyền từ ngày 17-2-1990 và tiếp tục viện trợ kinh tế cho một chế độ khủng bố, đang tiếp tục theo đuổi chủ nghĩa phát xít của Ðức Ý Nhật trước Ðệ Nhị Thế Chiến, từng gây bao thảm họa cho nhân loại nên đã bị diệt vong hơn 60 năm qua.
Ðiều này cũng dể hiểu vì hầu hết các thế hệ lảnh đạo của Miến từ lớp tiền phong Ne Win cho tới thế hệ lãnh đạo thứ hai như Maung Maung (tổng thống), Tun Tin (ngoại trưởng) kể cả lãnh tụ đối lập Aung San Sau Kyi (con Aung San bị ám sát năm 1947) đều xuất thân từ lò đào tạo Nhật không nhiều thì ít, nên nếu Nhật không quyết lòng giúp đở thì chế độ quân phiệt và Ne Win đã cuốn gói ra khỏi Miến ngay từ năm 1962 chứ không phải kéo dài đến tận hôm nay để hoàng hành khủng bố bắn giết đồng bào mình không gớm tay theo kiểu Nhật, Ý, Ðức trước 1945 và CSQT sau này.
Một hành động bỉ ổi của Nhật thường được báo chí Tây Phương nhắc nhớ chế diểu, đó là việc công ty Nihon Sekkei dùng tiền viện trợ của Nhật, thay vì giúp đở cho người dân nghèo, lại đem xây Cung Thiên Văn tặng cho Ne Win , để tên tướng độc tài dùng làm đài quan sát chiêm tinh đoán vận số của mình. Tóm lại sau nhiều năm suy sụp vì chế độ độc tài đảng trị, cũng nhờ người Nhật vực dậy bằng viện trợ nên kinh tế Miến khá hơn trước trong thập niên 1970. Sau đó đất nước lại suy sụp vào giữa thập niên 80, vì tệ nạn tham nhũng của bọn quân phiệt lảnh đạo các cấp, nên dù Nhật đã viện trợ tối đa vào năm 1986 tới 244 triệu USD nhưng không cứu nổi sự sụp đổ của các xí nghiệp quốc doanh và số nợ núi mà nhóm quân phiệt lảnh đạo vay của nước ngoài.
Từ khi xảy ra vụ thảm sát tại Rangoon vào tháng 8-1988 , chính phủ Nhật có phần e dè về sự liên hệ với nhóm lãnh đạo quân phiệt vì dư luận chỉ trích quốc tế, nên đã đình chỉ 19 dự án đang trợ giúp nhưng vì áp lực của phe cựu quân phiệt trong nước, nên cuối cùng Nhật phải nhượng bộ. Rồi tháng 2-1989 lợi dụng tang lễ Hoàng Đế Hirohito, Nhật thừa nhận chế độ quân phiệt Miến, đồng thời tăng viện trợ kinh tế cho nhóm này lên tới 9,2 tỷ Yen nếu cộng chung với việc tài trợ các dự án bằng tiền vay, tổng cộng lên tới 125 tỷ Yen. Quan trọng hơn, đây là lần thứ hai Nhật đã vì tư lợi cứu vớt một chế độ khủng bố hại dân thoát khỏi bờ vực thẳm của sự sụp đổ. Rồi để tiến tới sự độc quyền tại Miến, người Nhật lại kêu gọi các nước tập trung viện trợ cứu Miến như kiểu Ngân Hàng Thế Giới nhưng bị nhiều nước phản đối và kết tội Nhật đã ngăn cản tiến trình cải đổi dân chủ tự do tại nước này. Cũng trong năm 1989 Miến đã bán một phần tòa đại sứ của mình tại Tokyo lên tới 240 triệu USD, nói là để trả nợ cho Nhật nhưng thực chất là để mua vũ khí chống lại người dân trong nước lúc nào cũng muốn nổi dậy để lật đổ chế độ bạo tàn .
Năm 1989 tướng Saw Maung đảo chính hạ bệ và bắt giam Ne Win, lập một triều đại quân phiệt khác qua võ ‘ Hội đồng phục vụ trật tự và luật pháp quốc gia ‘ nên dù ban hành lệnh thiết quân luật nhưng vẫn không ngăn cản nổi các cuộc biểu tình chống đối chế độ quân phiệt. Ðể xoa dịu lòng dân và dư luận quốc tế, chính phủ quân phiệt cho tổ chức cuộc bầu cử quốc hội Miến vào tháng 5-1990 với kết quả Liên minh dân chủ do bà Aung San Sun Kyi lãnh đạo đã toàn thắng với số ghế 392/489. Thế nhưng nhóm quân phiệt cầm quyền đã lật lộng, chẳng những không chịu công nhận kết quả cuộc bầu cử, lại còn bắt giam các thành phần đối lập kể cả lãnh tụ Aung San Sun Kyi cũng bị quản thúc tại gia. Năm 1992 Saw Maung từ chức vì bệnh, Than Shwe lên thay thế làm trùm cả nước từ ấy đến nay. Cũng từ đó người Nhật gần như bị mất hết những đặc quyền đặc lợi tại Miến vì Trung Cộng đã nhảy vào trám chổ, biến nước này thành một thuộc địa cung cấp nguồn năng lượng và mọi tài nguyên thiên nhiên kể cả thuốc phiện. Nhưng quan trọng nhất là Trung Quóc đã mở được con đường chiến lược từ Vân Nam ra Ấn Ðộ Dương, một ước vọng từ lâu nay mới đạt được. Nhớ đó Tàu mới thiết lập được nhiều căn cứ quân sự quan trọng bí mật trên lảnh thổ Miến, nhất là tại đảo Great Coco Island kiểm soát tàu bè các nước ra vào vịnh Bengal được coi như cửa khẩu huyết mạch của miền đông Ấn Ðộ..
Theo sự tố cáo của Tổ chức Human Rights Watch (HRW) thì chính sáu nước Nga, Trung, Ấn Ðộ, Do Thái, Nam và Bắc Hàn đã công khai bán nhiều quân dụng và vủ khí tối tân cho quân phiệt Miến để họ có thêm phương tiện đàn áp khủng bố dân lành. Ðó cũng là lý do Nga va Trung luôn nhất định ngăn cản Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc không được có biện pháp mạnh với nhóm quân phiệt Miến, nhất là vào tháng 9-2007, gây ra cuộc thảm sát, bắn chết 13 người và làm thương vong hằng trăm người khác trong các cuộc xuống đường biểu tình chống độc tài khủng bố. Trong số những nạn nhân gục ngả hoặc quằn quại trong vũng máu, có nhiều vị Tăng-Ni và Phật Tử Miến. Hởi ôi nhìn Phật Giáo nước người sao mà tê tái qua khi nghĩ tới chuyện nước mình  nhưng không dám nói viết hay ghi một phần ngàn sự thật về nổi đời ô trọc của quê hương vì không nói được dù đang sống tại một quốc gia có quyền tự do ngôn luận như Hoa Kỳ.
Nhưng đâu phải chỉ có 6 nước trên đã buôn bán với quân phiệt, mà còn có các hảng xăng dầu Tây Phuơng như Total (Pháp), Chevron (Mỹ) , Quốc Doanh Xăng Dầu (Thai Lan) đã nuôi sống bọn tướng lãnh cầm quyền tham nhũng hơn 500 triệu Mỹ kim hằng năm. Số tiền này sau đó nghi ngờ được Ngân Hàng Singapore tại Miến tẩy sạch để lại đầu tư làm giàu thêm qua các dịch vụ béo bở độc quyền, chỉ dành cho bọn tướng lãnh và các trùm ma tuý tai Tam Giác Vàng được nhà nước phong quan chức nên hoạt động công khai .
            -Bí mật Tam Giác Vàng:
Chính thực dân Anh là thủ phạm đã đem thuốc phiện vào đầu độc dân chúng năm 1852 khi chiếm được vùng Hạ Miến Ðiện. Năm 1885 Anh làm chủ toàn thể nước Miến và cũng từ đó đem cây thuốc phiện trồng khắp lảnh thổ Miến và vùng Tam Giác Vàng, một điạ danh khét tiếng khắp thế giới về sản xuất nha phiến và héroin.
Tam Giác Vàng hiện có dân số hơn 1 triệu người với 3000 thôn trại, gồm nhiều sắc tộc thiểu số sinh sống như Dao, Mèo, Nùng, Thái, Hợp Ni.. Tất cả đều không biết mình thuộc quốc tịch nào và hiện ở đâu, dù có chung nghề trồng và chế biến thuốc phiện. Theo ghi nhận của báo chí thì diện tích để trồng á phiện tại Tam Giác Vàng lên tới 67.000 ha, trong đó phần lớn thuộc lãnh thổ Miến Ðiện lên tới 60.000 ha, Thái Lan và Lào chỉ chiếm một phần nhỏ , mỗi nước 3.500 ha. Hằng năm sản lượng thu hoạch từ 1200-1500 tấn nhưng phần lớn của Miến Ðiện (900-1200 tấn). Tại Tam Giác Vàng việc mua bán thuốc phiện công khai từ loại nguyên chất hay đã được tinh chế thành Héroine (80-90 %) . Theo cac chuyên viên, thì cứ 10 tấn á phiện sau khi chế biến thu được 1 tấn héroine. Thuốc được chuyển đi khắp thế giới qua các đường Thái Lan, Ấn Ðộ, Trung, Lào, Kampuchia và VN. Sau đó mới phân phối sang Nhật, Ðài Loan, Úc, Liên Âu, Trung Ðông, Hoa Kỳ..
Tại Miến Ðiện, trung tâm mua bán á phiện là thị trấn Shans được coi là nơi giao dịch, chuyển hàng và phân phối thuốc đi khắp thế giới bằng đủ mọi phương tiện gồm lừa, ngựa, người thồ và cả xe cộ của quân đội Miến. Giá cả thuốc luôn tăng theo lũy thừa tiến, từ 70-90 USD /1 kg tại chổ, sẽ tăng lên từ 20.000 USD (Thái Lan) tới 200.000 USD tại Hoa Kỳ ..
Lúc đầu người Anh chỉ mang thuốc phiện từ ngoài đem vào bán cho tới năm 1886 mới chính thức cưởng bức người Miến trồng thuốc phiện và vận chuyển số thuốc này tới Trung Hoa để bán. Theo chân Anh, thực dân Pháp sau khi chiếm được Ðông Dương đã thỏa thuận với Anh biến ba nước Việt, Lào, Miên thành con đường vận chuyển Á Phiện khắp thế giới. Sau đó Pháp trực tiếp đem cây thuốc phiện vào trồng tại Bắc Việt và Lào, chủ yếu tại những vùng đất có người Thái, Thổ và Mèo sinh sống. Trong thế chiến II, thực dân Pháp đã liên kết với các tù trưởng địa phương để bảo vệ khu Tam Giác Vàng vì một nữa tổng kim ngạch mà Pháp thu được từ tiền buôn bán Nha Phiến. Những năm đầu thập niên 50 của thế kỷ XX, Mỹ thay Pháp tại Ðông Dương đã trực tiếp mua thuốc phiện của người Mèo tại Lào và VN, lúc đầu chỉ để sử dụng trong lãnh vực y học nhưng sau đó vì số lượng sản xuất quá nhiều nên món thuộc độc này lại sang tay các tập đoàn mua bán thuốc phiện tại Ðông Nam Á . Từ sau năm 1960 được coi như thời kỳ vàng son của Tam Giác Vàng, do ba tập đoàn thống lãnh: Dân Bản Ðịa, Lực Lượng Trung Hoa Quốc Dân Ðảng và các nhóm mua bán Á Phiện có vũ trang.
            -Quân Ðội Tưởng Giới Thạch Khai Sinh Tam Giác Vàng:
drugmap_0
Ngày 9-3-1950 Mao Trạch Ðông sau khi chiếm được Vân Nam từ Quốc Quân, đã mở cuộc hành quân truy sát, đuổi giết các đơn vị còn lại của Tưởng Giới Thạch, khiến hơn 800 tàn quân phải vuợt biên giới chạy vào lãnh thổ Miến Ðiện. Ðây là quân của Sư đoàn 237 do Thiếu tướng Lý Quốc Huy chỉ huy. Tại đây có Sư đoàn 93 của Ðàm Trung đã tới trước. Thế là hai đơn vị nhập lại qua danh xưng ‘ Sư đoàn phục hưng ‘ do Huy làm trưởng và Trung phụ tá với quân số gần 2.000 người. Ðội quân trên được chia thành 2 trung đoàn 707 do Huy thống lĩnh và 278 thì giao cho Trung. Từ đó Quốc Quân của Tưởng tại đây bắt đầu chỉnh đốn, chiêu mộ và hoạt động chống Hồng Quân của Mao dọc theo biên giới ba nước Trung Cộng-Thái Lan và Miến Ðiện với một quân số trên 3.000 người, được tiếp tế đầy đủ quân trang dụng từ Mỹ và Ðài Loan, nên trở thành một đao quân mạnh nhất tại Tam Giác Vàng
Tháng 8-1950 Lý Nhĩ nguyên Tư lệnh Quân Ðoàn 8 kiêm Tỉnh trưởng Vân Nam theo lệnh Tưởng Giới Thạch từ Ðài Loan tới Tam Giác Vàng để tiếp quản và cải tổ đội quân ô hợp tại đây thành một tổ chức mới với nhiệm vụ ‘ giải phóng Vân Nam ‘.Do trên từ năm 1952, Ðài Loan không ngớt tăng cường cấp chỉ huy (700 sĩ quan) và quân số lên tới 18.500 người. Lực lượng trên nhiều lần đụng độ với Miến Ðiện và nước này (qua U Thant đang là Tổng thư Ký LHQ), đã khiếu nại với LHQ nên Ðài Loan phải triệt thoái đội quân của Lý Nhĩ về nước. Thực tế Quốc Quân chỉ rút về khoảng 6000 người và để lại Sư Ðoàn 93 giao cho Liễu Nguyên Lân chỉ huy với mục đích làm bàn đạp để Tưởng tái chiếm Vân Nam.
Tháng 1-1961 Trung Cộng liên hiệp với Miến Ðiện tổng tấn công Quốc quân tại đây, khiến đơn vị này gần như tan rã nên Tưởng rút Lân về nước, chỉ còn để lại Ðoàn Huy Vân ở lại tiếp tục chiến đấu. Tháng 1-1964 Vân đem tàn quân đầu hàng chính phủ Thái Lan và trở thành Ðội Tự Vệ của nước này. Thực tế đạo quân của Vân không liên hệ gì tới người Xiêm mà chủ yếu là mượn đất cắm dùi để buôn bán nha phiến và làm bảo tiêu cho các băng nhóm mua bán thuốc phiện tại Tam Giác Vàng. Chính trong đoàn quân này đã xuất hiện hai vua thuốc phiện đầu tiên là La Hưng Hán và Khun Sa mà tiếng tăm cả thế giới đều biết.
La Hưng Hán sinh năm 1934 tại Miến Ðiện, xuất thân từ hàng ngủ Quốc Quân hoạt động tại Tam Giác Vàng. Chỉ sau thời gian ngắn, nhờ thời cơ Hán leo dần lên tới vua thuốc phiện bao trùm cả vùng Ðông Nam Á. Hắn được chính phủ Miến tin dùng , giúp phương tiện cho hắn buôn bán chuyển vận ma tuý đi khắp nơi lên tới 200 tấn mỗi năm, thu được hơn 10 triệu đô la Mỹ. Năm 1973 Hán phản lại Miến nên bị nước này đuổi giết, phải chạy sang Thái Lan và bị bắt đem về Ngưỡng Quang bị tuyên án tử hình vào năm 1974 nhưng được em ruột là La Hưng Dân, tướng lãnh Miến cứu thoát vì cả hai anh em họ La đều buôn bán á phiện.
Năm 1980 La Hưng Hán được ân xá và chính quyền quân phiệt lại sử dụng hắn để khống chế con đường mua bán độc dược chống lại tập đoàn Khun Sa đang làm vua tại Tam Giác Vàng. Tóm lại việc kinh doanh nha phiến tại đây trong thời gian suốt 45 năm qua, đã là những đồng tiền béo bở nhưng đẳm đầy máu lệ của cả nước, vẫn cứ tiếp tục chảy vào túi bọn quân phiệt để chúng nuôi sống chế độ khủng bố bạo tàn kéo dài tới ngày nay và chẳng biết tới khi nào mới chấm dứt. Ngoài thuốc phiện, bọn quân phiệt còn có rất nhiều quyền lợi thu hoạch từ các bộ lạc miền núi như gổ quý, vàng bạc, hồng ngọc.. Sự giống nhau tại Miến ngày nay, là quân phiệt đã hợp thức hóa bọn lãnh chúa buôn lậu từ thuốc phiện tới thịt người, mở sòng bạc và buôn bán cả tài nguyên đất nước.. thành doanh nhân công khai làm việc cho nhà nước như tập đoàn Năm Cam trước đây ở Sài Gòn.
            -Bộ Tộc WA từ Săn Ðầu Người tới Sản Xuất Thuốc Phiện:
shan_state_map
Bộ tộc thiểu số WA sống tại miền bắc Miến, giáp với tỉnh Vân Nam hiên còn khoảng 400.000 người, bị bên ngoài cô lập vì những tập tục dã man như giết người rồi cắt đầu làm chiến lợi phẩm nhưng trên hết là những kẻ đang bị nguyền rủa vì đã mang tai họa thảm khốc tới cho nhân loại, qua nguồn cung cấp bạch phiến đứng đầu thế giới hiện nay, dù Khun Sa đã về hàng chính phủ quân phiệt. Thuốc trắng tinh khiết số 4, được các kỷ sư hóa học Trung tới tận chổ bào chế và là kẻ thu hoạch hằng tỷ đô la sau cùng , chứ không phải các nông dân WA vì giá tiền mua thuốc tại địa phương chỉ bằng 1/1000 – 1/3000 giá cả tại các thị trường tiêu thụ trên thế giới. Nghèo đói bệnh tật đã khiến cho hơn 40% trẻ con WA dưới 5 tuổi chết vì số tiền thu hoạch  từ bán thuốc phiện, được bộ tộc dùng nuôi dưởng đạo quân đông tới 30.000 người, để bảo vệ vương quốc riêng của họ chống lại chính phủ trung ương Miến.
            -Hồng Ngọc: Nguồn lợi béo bở của các Lãnh Chúa Quân Phiệt Miến:
Thung lũng Mogok chuyên sản xuất Hồng Ngọc, chạy dài trên 20 km, nằm hút trong rừng sâu thuộc lãnh thổ Miến, giáp với chân rặng Hy Mã Lạo Sơn, được giới buôn bán kim hoàn thế giới biết tới từ năm 1955.Từ cố đô Mandalay dẫn tới thung lũng Mogok không bao giờ an toàn vì bọn cướp luôn chực giết người để chiếm đoạt ngọc cũng như tiền bạc. Thung lũng nằm sâu trong rừng núi, được cấu tạo bởi một thành phần địa chất đặc biệt từ chất Corindon (Coromotum) tinh khiết hay Ngọc Lam trong suốt. Sau đó qua sự pha trộn của nhiều chất hóa học khác hợp với Titan và Thép, biến ngọc có nhiều màu trừ đỏ. Riêng chất Chrome mới tạo nên những viên Hồng Ngọc ở đây có kích thước lớn và đẹp nhất không nơi nào khác sánh kịp. Từ năm 1964 khi Ne Win tóm được quyền đã ra lệnh quốc doanh hóa 575 mỏ Hông Ngọc tại Mogok. Sau khi Ne Win bi đảo chính vào năm 1989, nhóm quân phiệt cầm quyền mới cho phép lập thêm các mỏ tư nhân bằng cách bán quyền khai thác mõ trong thời hạn 2 năm và bắt chủ mướn mỏ phải chia thêm  tiền thu nhập. Một phần Hồng Ngọc sẽ được chính phủ bán đấu giá tại thị trường Emporium ở Rangoon, còn phần lớn thì theo ngõ chợ đen đi khắp thế giới.
Ðường dây tải thuốc phiện tại Tam Giác Vàng cũng chính là phương tiện chuyển Hồng Ngọc lậu sang Thái Lan. Hiện Mogok có khoảng 100.000 dân chuyên sống về đào và buôn bán Hồng Ngọc. Yaw Sett thuộc bộ tộc Lisus có nguồn gốc Tây Tạng hiện được coi là vua Hồng Ngọc của Miến.
            -Mạch sống của chế độ quân phiệt là Ma Tuý:
Theo báo cáo của Bộ Ngoại Giao Mỹ tại Rangoon cho biết, tiền bán á phiện và héroin tại Tam Giác Vàng của bọn lãnh chúa sau khi được rữa đã đem dầu tư hết vào để nuôi sống nền kinh tế của bọn quân phiệt Miến suốt thập niên 90. Năm 1989 La hưng Hán (Lo Hsing Han) dùng tiền buôn bán á phiện đã rửa, dưới sự nâng đở của nhà nước để mở tập đoàn Asia World kinh doanh đủ thứ từ gổ, vàng, địa ốc cho tới dầu khí với số vốn trên 600 triệu đô la thu lợi nhuận hằng triệu mỹ kim mỗi năm. Tập đoàn của La ngày nay được hưởng hầu hết đặc quyền đặc lợi của chính phủ quân phiệt ở khắp lãnh thổ Miến, chiếm 15 % tổng số vốn đầu tư .
Trong khi đó tại một thung lũng rộng ở phía đông bắc Lashio là giang sơn thuốc phiện của Pen Jiaheng. Riêng Khun Sa vua thuốc phiện sau La Hưng Hán, từ khi về với quân phiệt, cũng được sống cuộc đời giàu sang tại Rangoon với nhiều cơ sở làm ăn bạc triệu trong đó có công ty chuyển vận Good Shan Brother với một hệ thống xe buyt nối liền Ngưỡng Quang và Mandalay.
Nhưng mặc dù chính phủ quân phiệt luôn chối là không còn trồng cũng như buôn bán thuốc phiện. Thật sự chúng chỉ đổi phương tiện và con đường chuyển vận mà thôi. Hiện Tam Giác Vàng vẫn sản xuất 3000 tấn thuốc phiện mỗi năm, chiếm 60% lượng cung cấp cả thị trường thế giới. Trước đây héroin từ Miến sang Thái Lan và Vân Nam rồi chuyển đi khăp nơi. Nay thì bọn buôn lậu đã đổi hướng, dùng quốc lộ 39 của Ấn Ðộ, chạy dọc theo biên giới Ấn-Miến dài 1643 km, qua những khu rừng già dưới rặng Hy Mã Lạp Sơn, không ai có thể kiểm soát được. Ðặc biệt bọn buôn lậu ngày nay mang thuốc phiện từ Tam Giác Vàng tới biên giới Ấn và mua các hóa chất tại đây để tinh chế thành héroin vừa rẽ lại tiện lợi. Sau đó bột trắng được tiêu thụ khắp các thành phố lớn tại Ấn, Tích Lan. Hồi Quốc, Trung Ðông, Âu Châu và Hoa Kỳ. Tham gia vào việc buôn ban này ngoài viên chức và quân đội Miến còn có chính quyền Ấn ở các tiểu bang miền đông. Tóm lại nói gì chăng nữa thì lượng sản xuất thuốc phiện tại Miến Ðiện cứ tăng trưởng hằng năm trên 10%. Góp phần vào việc chuyển vận ma tuý khắp thế giới là các tổ chức của người Wa và Shan cùng với quân đội Miến .
Hiện nay Lâm Minh Hiển là vua mới sản xuất Heroin tại Tam Giác Vàng và cả Miến Ðiện, thay thế La hưng Hán và Khun Sa. Phạm vi hoạt động của trùm ma tuý này hết sức rộng lớn, trải dài từ miền đông Miến tới Vân Nam, Lào, Kampuchia và VN. Có sự khác biệt giữa Khun Sa và Hiển, đó là Khun Sa thì buôn bán bí mật trong rừng sâu, trái lại tập đoàn của Hiển thì công khai khắp Miến Ðiện vì Hiển được được tập đoàn quân phiệt cầm quyền Rangoon bao che và hợp tác làm ăn. Hiển sinh năm 1950 tại Miến mang hai dòng máu Tàu và Shan. Tóm lại nạn buôn bán Bạch Phiến trên thế giới có thể hy vọng chấm dứt được khi chế độ quân phiệt của Miến bị tiêu diệt vì hiện tại vua thuốc phiện Lâm minh Hiển được phong chức ‘ đại biểu của đại hội chế định Hiến pháp Miến ‘.Do đó tập đoàn thuốc phiện vẫn ung dung sống ngoài vòng pháp luật, trước sự bất lực của thế giới trong đó có Hoa Kỳ
2- PHẬT GIÁO MIẾN ÐIỆN :
Từ trên phi cơ nhìn xuống đất nước Miến Ðiện, điều mà du khách cãm nhận đầu tiên là hình ảnh của ruộng đồng cò bay thẳng cánh xen lẫn với đồi núi muôn trùng và chùa chiền mọc lên khắp nơi trong nước. Xưa nay khi đề cập tới đất nước này, trước tiên là phải nói tới sức mạnh của Phật Giáo, chẳng những ảnh hưởng to lớn tại Miến Ðiện mà còn bao trùm khắp lịch sử các nước Á Châu trong đó có Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Tây Tạng, Mãn Châu, Mông Cổ, Ðài Loan,Việt Miên Lào, Thái Lan và Tích Lan. Ðiều này cũng dể hiểu vì căn cứ vào truyền thuyết, thì trước khi nhập niết bàn, Ðức Phật Tổ Như Lai đã bốn lần tới truyền đạo tại Miến mà huyền tích nay vẫn còn in đậm tại rặng núi đá Saccabandha. Ðây là chốn linh thiêng nhất của Phật Giáo Tiểu Thừa Miến Ðiện, bao đời được các vị vua chúa thuộc các sắc tộc Burma, Mon, Pyu, Shan và toàn dân cả nước kính trọng tôn thờ.
Cái nôi đầu tiên của Phật Giáo là miền trung lưu vực sông Hằng và bành trướng mạnh mẽ vào thời vua Asôca của vương quốc Maurya, đông tới Miến Ðiện, Tích Lan, tây tới tận Syria,Ai Cập, phía bắc tới Ba Tư,Trung Á rồi từ đó theo con đường tơ lụa vào Trung Quốc, truyền sang Cao Ly, Nhật Bản,Việt Nam. Tại phương Nam, Phật Giáo chủ yếu là Tiểu Thừa từ Tích Lan vào Miến Ðiện,Thái Lan,Lào, Phù Nam,Chân Lạp, Vân Nam. Mặt khác Phật Giáo Ðại Thừa cả Tiểu Thừa cũng theo con đường tơ lụa trên biển truyền sang các tiểu quốc trên đảo Sumatra,Java,Bali.. thuộc Nam Dương và chính từ đó Phật Giáo Ðại Thừa mới truyền vào vương quốc Chiêm Thành từ thế kỷ thứ IV (STL) nhưng thật sự khởi sắc và phát triển rực rở vào thế kỷ thứ X (STL).
Phật Giáo Tiểu Thừa truyền vào Tích Lan từ thế kỷ thứ III TrTL, lập phái Ðại Tự ghi chép kinh điển PG khẩu truyền bằng văn tự địa phương. Ðầu thế kỷ thứ I STL, Hòa Thượng Pháp Hi lập thêm phái Vô Úy, thế kỷ thứ IV có thêm phái Kỳ Ða Lâm nhưng quan trọng nhất là việc nhà sư Ấn Ðộ tên là Giác Âm vào thế kỷ thứ V tới đây chú thích các kinh điển Phật Giáo, trong đó có Tăng Già La của Tam Tạng và biên soạn thêm Thanh Tịnh Ðạo Luận.. tất cả đều bằng tiếng Phạn-Pali. Từ đó Phật Giáo Tiểu Thừa được hệ thống hoá và truyền khắp Nam Á tới ngày nay.
Từ cuối thế kỷ thứ XIX, Ðạt Ma Bà La lập Ðại Bồ Ðề, dấy lên phong trào chấn hưng và bảo vệ các di tích cổ xưa của Phật Giáo, biên soạn kinh điển bằng tiếng Pali, càng làm cho Phật Giáo Tiểu Thừa thêm rực rỡ ở Nam Á. Năm 1945, Tích Lan độc lập và PG tiểu thừa trở thành quốc giáo với môn đồ chiếm hơn 94%, chùa chiền có trên 5600 ngôi khắp cả nước.
Tại Miến Ðiện, buổi đầu Phật Giáo Ðại Thừa và Kim Cương Thừa rất thịnh hành. Giữa thế kỷ XI ( STL), đời vua Anawrahta, thuộc vương triều Pagan, thống nhất Miến Ðiện và trở thành một quốc gia sùng bái Phật Giáo tiểu thừa, xây dựng hàng loạt chùa chiền, trong đó nổi tiếng nhất là Chùa Vàng Cung Thụy Hải còn truyền tới ngày nay. Năm 1557, quốc vương Bayingnaung , thuộc triều đại Tangku, đúc chuông lớn có khắc kinh văn bằng tiếng Pali,Miến và Thái tự để truyền thế. Các vị vua đời sau tiếp tục coi Phật Giáo Tiểu Thừa là quốc giáo, dựng Tháp Phật Ða Lộc, tu sữa Chùa Vàng, thu tập lại các văn bia của Phật Giáo, hiệu đính lần thứ 5 kinh Tam Tạng và đem khắc lên 729 bia đá, làm thành một bộ kinh điển độc nhất vô nhị trên thế giới.
            -CHÙA VÀNG : Là một trong những công trình kiến trúc vĩ đại nổi tiếng của nhân loại, ngôi chùa vàng (Shwedagon) với tháp chuông cao ngất ẩn hiện giữa bầu trời thủ đô Rangoon, bao đời vẫn được người Miến trang trọng coi đó là một biểu tượng kiêu hãnh của dân tộc mình về sự dũng cảm và lòng tôn kính đối với Ðức Phật Thích Ca như một bổn phận thiêng liêng tại đất nước này. Thánh tích được dựng trên ngọn đồi Singuttara là phần cuối của rặng núi Pegu Yomas , được bao bọc bởi rừng dừa xanh ngắt và tường vôi bên ngoài. Theo truyền thuyết cách đây hơn 2000 năm có hai thương nhân thuộc vương quốc Môn Okkala hành hương ở Ấn Ðộ về, đã dâng cúng cho nhà chùa 8 sợi tóc của Ðức Phật Thích Ca để thờ phượng. Khởi đầu chùa xây bằng gạch cao 9 m sau đó theo thời gian được Phật tử và các vị vua chúa sùng đạo tiếp nối xây dựng càng ngày càng bề thế đẹp đẽ như bây giờ. Theo tài liệu lưu trữ cho biết từ khi chùa được dựng lên tới nay, đã trải qua 8 lần bị hư hại sụp đổ vì động đất nhưng lại được trùng tu và trang trí càng lúc càng đẹp mới hơn trước, để muôn đời xứng đáng là một thánh tích cổ xưa và nổi tiếng nhất của Phật Giáo trên hoàn vũ.
Chùa dựng trên một nền vuông cao với 175 bậc thang xây bằng đá trắng, chính giữa là một bảo tháp hình quả chuông thờ bảo vật của Ðức Phật Như Lai. Năm 1362 Nữ vương Shisawbu xây tháp cao lên 22m và mở rộng phạm vi chùa. Năm 1774 Quốc vương Sinbyushi Ava nâng tháp cao tới 106m như hiện tại. Từ đó chùa cũng được tái tạo rất rộng rãi với chu vi 426 m, chung quanh có 64 ngôi chùa nhỏ bao bọc, với cùng một lối kiến trúc cửa hình bán nguyệt, mái lợp ngói đỏ xếp chồng lên nhau như vãy rắn, trong điện thờ đủ các vị Phật với tư thế nằm đứng ngồi.. Tượng được tạc bằng đồng đen, đá trắng, cẩm thạch.. được mạ hay thiếp vàng. Nhiều di tích lịch sử vẫn còn nguyên vẹn trong ngôi chùa cổ kính này như Ðồi Máu (Thewezekan) nơi vua Amirulda đã rữa kiếm sau khi chiến thắng quân thù. Kế bên là Giếng Ngọc mà người xưa từng lấy nước ở đó để gội tóc của Ðức Phật trước khi đặt vào bảo tháp. Trước chùa còn có cây Pippal được chiết từ cây bồ đề mẹ ở Ấn Ðộ , nơi Ðức Như Lai đắc đạo. Chùa còn có một đại hồng chung lớn nhất thế giới, được Quốc vương Singumin đúc năm 1778 nặng 27 tấn. Sau đó chuông được vua Tharrawaddy tân trang lên tới 42 tấn vào năm 1841. Nhưng vĩ đại hơn hết vẫn là ngôi bảo tháp sừng sững giữa trời. Toàn tháp được mạ vàng y óng ánh có chiều cao 49 m, đứng trên chiếc nền cao 1m. Ðặc biệt là phần chóp tháp được kiến trúc như củ hành tây cao 17m, phía trên là hai tòa sen và một cái lọng 7 tầng cao 10 m đúc bằng sắt được mạ vàng. Chung quanh chiếc lọng có gắn 5448 viên kim cương cùng 2000 viên hồng ngọc và ngọc thạch. Ngoài riềm lọng còn được gắn thêm hằng ngàn chiếc khánh nhỏ bằng vàng và bạc ngân vang theo từng cơn gió thổi. Cuối cùng trên chót tháp là một trái cầu mạ vàng Seinbu có đường kính 0,25m được gắn 5000 viên kim cương và 1500 viên bảo thạch . Tóm lại chỉ riêng bảo tháp, các vị vua chúa nữ hoàng và Phật tử Miến Ðiện đã cúng dường một số vàng trên 30 tấn và đã sử dụng hơn 400.000 mét khối đá gạch.
Năm 1826 Anh chiếm Miến Ðiện và đã để lại cho quốc gia này biết bao nhiêu hậu quả đau thương, từ việc bị mất đất đai cho tới niềm tự hào dân tộc . Cũng từ đó đế quốc Miến coi như tan rã, các thuộc địa Tenasserim, Arakan, Assam, Manipur kể luôn tỉnh Pegu thuộc lãnh thổ Miến đều thuộc Công Ty Ðông Ấn của Anh, kết liểu triều đại cuối cùng Alaugpaya năm 1885. Nhưng dù đất nước bị người Anh chia cắt và đem sáp nhập vào Ấn Ðộ, người Miến vẫn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Phật Giáo. Chính vua Mindon vào năm 1857 đã dời đô từ Amarapura tới Mandalay (Hoàng thành) và biến nơi này thành một trung tâm chính của Phật Giáo, đã làm sống lại thời huy hoàng cũng như bảo tồn những truyền thống tốt đẹp của quá khứ. Trong các công trình xây dựng còn hiện hữu tới nay là khu chùa Kuthodaw, gồm một ngôi chùa chính và 733 ngôi chùa nhỏ bao quanh, trong đó quan trọng nhất là bộ kinh Tam Tạng (Tripitaka) viết bằng tiếng Pali, khắc trên những tảng đá trắng thẳng đứng.
Do những công trình vĩ đại trên nên vua Mindon đã được người Anh lẫn dân chúng yêu mến và đặt vào địa vị quan trọng nhất trong lịch sử cải cách Phật Giáo Miến Ðiện. đưa tôn giáo này trở thành quốc giáo cả nước. Chính sách của vị vua này về sau được Thủ tướng U Nu ứng dụng , biến Miến Ðiện thành một quốc gia Phật Giáo và Phật Học Thế Giới. Tóm lại Phật Giáo là tôn giáo chính thức của Miến Ðiện , được toàn dân cả nước cũng như tât cả các vị vua chúa các triều đại kể từ vua Anawrahta xứ Pagan năm 1044 tới ngày naytin thờ. Do đó sự xóa bỏ chế độ quân chủ tuy có làm thay đổi địa vị của Phật Giáo trong chính quyền nhưng tuyệt đối vẫn duy trì trong tâm khảm của dân chúng dù họ không phải là Phật Tử. Ðó là lý do qua hai cuộc nổi dậy của người dân Miến đối đầu với chế độ quân phiệt độc tài vào năm 1988 và mới đây trong tháng 9-2007, đều do các vị Tăng-Ni lãnh đạo .
Ðọc lịch sử Ðông Nam Á của D.G.E. Hall qua những trang huyết sử viết về dân tộc anh hùng Miến Ðiện, ta mới thật sự cúi đầu kính phục và ngưởng mộ quý vị tăng ni ở đất nước này, xứng đáng được người đời xưng tụng vì tư cách đạo đức cùng với lòng ái quốc không hề nhuốm mùi thế tục. Hởi ôi có đọc sử mới biết được ở trên cõi đời này còn có những vị chân tu đầu trần chân đất sống nhờ sự bố thí hằng ngày của thiên hạ. Thế nhưng suốt dòng lịch sử Miến, từ những ngày đất nước bị rơi vào ách đô hộ của thực dân Anh, chính họ mới thật sự là những anh hùng nam nữ dám đối mặt hiên ngang chống lại kẻ xâm lăng khi trong tay chỉ có chuổi bồ đề, manh áo lam-nâu và đạo đức tuyệt vời của người tu sĩ. Không như người Tàu cứ trơ mắt ếch nhìn các nước Tây Phương nhất là Anh, Nhật khinh khi hạ nhục, thậm chí còn yết bảng cấm ‘ người Hoa và chó’ không được bén mảng vào những nơi chốn công cộng ở khắp các tô giới thời liệt cướng xâu xé đất nước này. Trái lại tại Miến chính các vị Tăng-Ni Phật Giáo mới chính là những nam nử anh hùng, họ là kẻ sĩ dám hiên ngang đối mặt với bọn ngoại xâm để quyết tâm giữ thanh danh cho dân nước và tư cách tri thức siêu phàm của người tu sĩ quên đời, quên người, quên vòng danh lợi lẩn quẩn để xứng đáng khi đối măt với Phật Tử và thế nhân, qua hai tiếng thân thương ‘ Bần Tăng, Bần Ni ‘ như một bảng hiệu bảo đảm vàng mười.
Năm 1919 chỉ với lý do bọn du khách Anh ngang nhiên mang giầy vào chùa trái với luật cấm, nên tăng lử chùa Eindawya đã dám dùng vũ lực để đuổi họ ra khỏi chùa. Kết quả thực dân Anh đã tuyên án tù chung thân cho vị sư trưởng nhưng cũng từ đó Phật Giáo đã trở thành ngọn đuốc thiêng dẫn đường khai lối cho toàn dân Miến đứng dậy đánh đuổi ngoại xâm. Suốt cuộc chiến, đã có hàng ngàn hằng vạn xác người thi nhau gục đổ trên con đường cứu quốc, trong đó máu của tăng ni không sao đếm hết. Họ chết vì súng đạn tra tấn tù đày hay như Ðại sư U.Wisara tuyệt thực tới chết, để phản đối chính sách khủng bố đàn áp của thực dân .
         
Đầu năm 2011 vừa qua, nhân loại bàng hoàng trước sự thức tĩnh của “ thế giới Ả Rập (the Arab Awakening) “ tại Bắc Phi và Trung Đông, qua cuộc cách mạng Hoa Lài (Shia) đòi hỏi dân chủ. Biến cố lịch sư của thế kỷ đã xãy ra quá nhanh chóng và dây chuyền, mặc dù có dậm chân tại Siry, nhưng vẫn không đủ thời gian để cho Hoa Kỳ hành động theo chiến lược đã đề ra  tại hai khu vực trên.

Và cũng nhờ vậy mà chúng ta mới thấm thía hơn về chuyện “ nhân quyền và tự do dân chủ “ trong chính sách ngoại giao của Mỹ, ưu tiên vẫn là quyền lợi của Hoa Kỳ trên hết. Đó là thái độ bao che cho Yemen và Bahrain (đồng minh quan trọng của Hoa Kỳ), là những nước đã dùng bạo lực để đàn áp phong trào đòi hỏi dân chủ. Nói chung người Mỹ khi ủng hộ “dân chủ hay nhân quyền“ đều theo bài bản chỉ thị và chọn lọc đối tượng vật chất, chứ không phải hành động theo lương tâm.
Tình hình chính trị tại Miến Điện cũng thay đổi một cách bất ngờ, từ khi cựu tướng Thien Sein lên làm tổng thống. Ông đã thả hằng loạt tù nhân , tiếp đãi phái đoàn ngoại giao Mỹ do bà Ngoại Trưởng Hilary Clinton cầm đầu và Ngoại Trưởng Pháp Alain Juppé. Ông cũng cho phép bà Aung San Suu Kyi một lãnh tụ đối lập nổi tiếng ra ứng cử nhưng quan trọng nhât là ra lệnh  ngưng việc xây dựng đập nước trên một con sông ở Bắc Miến do Trung Cộng thầu.
Tiến trình dân chủ tại Miến càng lúc càng phát triển, được thế giới tự do mà đứng đầu là Hoa Kỳ rất hoan nghêng và hứa hẹn sẽ bỏ lệnh cấm vận, mở lại bang giao cấp đại sứ, giúp phát triển kinh tế..Đây là hậu quả tất yếu của một giai đoạn lịch sử vì thể chế chính trị của Miến cũng giống như các chế độ độc tài quân phiệt trước đây của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Singapore, Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan..tới lúc phải thay đổi để sinh tồn trong giòng chảy của nhân loại. Nên Hoa Kỳ không phải là động lực chính trong tiến trình thay đổi dân chủ tại Miến và nếu có chút dính líu, thì chắc cũng chỉ là sự hứa hẹn nào đó đối với sinh mạng của các chóp bu đương quyền, qua cái chết thê thãm của Gaddafi.
Nên động lực chính trong Cuộc Cách Mạng Thế Kỷ của người Miến, là sự lãnh đạo của Phật Giáo chông lại bạo quyền khủng bố, ngày nay đã đi vào lịch sử và lương tâm nhân loại. Sự thành công  phải đến như bài học Ðông Âu năm 198
Theo tin của đài VOA và các hãng thông tấn khác, thì Tổng Thống Obama sẽ đến thăm Miến Điện vào trung tuần tháng 11-2012, để hội kiến với  tổng thống nước này là Thein Sein và lãnh tụ đối lập bà Aung San Suu Ky. Nhưng dù hai bên có đồng ý gì gì đó, thì Miến Điện nay cũng đã và đang trở thành thời mở cửa và đổi mới kinh tế. Khắp nước trước dịch đầu tư của ngoại quốc, đã trở thành bãi chiến trường xung đột vì “kiện tụng đất đai“, qua việc chính phủ tịch thu ruộng vườn của nông dân để bán lại cho các thế lực doanh gia nước ngoài. Điển hình nhất của sự xung đột trên, là “đặc khu kinh tế“ ở miền đông nam Miến, trị giá tới 50 tỉ USD.
Mấy chục năm qua, người Miến đã bị bọn lãnh đạo quân phiệt công khai cướp giựt tài sản của mình vì toàn dân cả nước không có quyền sở hữu về mặt pháp lý. Nay để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính phủ, quân đội và các thế lực chính trị..lại tha hồ cưóp giựt công khai đất đai, vườn ruộng của dân chúng. Phil Robertson, phó giám đốc đặc trách Châu Á của tổ chức tranh đấu cho nhân quyền, đã lên tiếng cảnh báo những nguy cơ gia đình ly tán, dân chúng lầm than, trước dịch “ cướp đất “ càng lúc càng lan rộng khắp Miến Điện.
Cho nên “tự do cho không là tự do dởm“ phải đổ máu đấu tranh như Miến Ðiện mà vẫn chưa tới đích . Ðó là một chân lý nhưng cớ sao vẫn còn nhiều người không tin là sự thật ?
   
Tháng 11-2012
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Làm gì có báo lá cải

Mà chỉ có báo :

          lá tre




            lá mít

           Với lá đa



vÀ LÁ NGÓN thoai

nhè




Phần nhận xét hiển thị trên trang

TIẾNG TA LANG THANG

TRẦN CHIẾN


Ngôn ngữ chứng tỏ gốc văn hóa của một dân tộc, xem nó dày mỏng đến đâu, “ăn cóp” cái gì của nước người. Căn cứ vào câu này mà nhìn tiếng Việt ta thì phải rất tự ty. Nam Giao Học Tổ là một ông Trung Hoa, có dễ trước khi Sĩ Nhiếp đem chữ Hán sang thì sử chỉ là huyền thoại, truyền thuyết truyền mồm nhau, ông kể khác cụ, truyền từ bố sang con đã thất bản lắm rồi. Có chữ, tức chữ Hán, sau lại có đạo, tức đạo Khổng đạo Phật đạo Lão, mọi thứ được “chỉnh đốn”. Sự học mới cho phép mở ra khoa thi, chọn người tài nói năng, nghĩ ngợi lắm lúc hệt những khuôn mẫu trong sách vở Bắc quốc.

Dường như phải ở cạnh một Trung Hoa lắm tham vọng mà nảy nở ra những phản ứng (?) tự tôn, hoặc một nhu cầu tự vệ văn hóa. Chữ Nôm được hình thành, rồi chính thức  khai sinh, có thể trở thành một “biểu tượng dân tộc” nhưng dường như  chưa đủ tầm để thế chữ Hán. “Dòng” Hán Nôm vì thế ra đời chăng?
Kể ngần nấy ra thì thấy tự ty, không mạnh miệng dân mình có gốc rễ ngôn ngữ sâu xa. Nhất là khi xem phim Tây du Trung Quốc làm, thấy Tôn Ngộ Không cứ “sư phò” mà réo Đường Tăng; từ đấy mà sang “sư phụ” có một téo.
Nhưng rồi ta lại có chữ “tiếp biến văn hóa” nó hỗ trợ, chống lưng cho. Lấy này kia trong văn hóa của người thành của mình thì có gì phải xí hổ, nhất là khi “phát huy” chúng lên thành những điểm mạnh còn hơn cả ở đất gốc. Sự nhào trộn cả tam giáo được gọi rất khéo là “đồng nguyên”, “phối kết hợp” với đạo Mẫu thuần bản địa vẫn cho ra tâm hồn dân tộc đấy thôi. Kíp khi ông nhà văn Mác – két “tung” ra khái niệm “văn hóa lai” thì mọi thứ ổn cả. Cả châu Mỹ hợp phối văn hóa da đỏ với những “thức”của châu Âu, do các chị trốn tù anh đào vàng lão quý tộc thất sủng đem sang, chả sống khỏe đây thây, việc gì mà ta xét nét mình quá nó mất cả hồn nhiên đi.
Trên đây là chút chút mào đầu “ný nuận” cho sự kể tiếng ta trôi thế nào. Và cũng chỉ kể những gì được những cái người chứng kiến kể lại thôi, xa xưa nữa đâu có tường…
                                       *
Khoảng năm 1915 – 1917, những hoạt động khoa cử theo Nho giáo cuối cùng diễn ra. Giai đoạn phổ biến tiếng Pháp cho tầng lớp trên, sau đó là Quốc ngữ cho đại chúng bắt đầu. Quốc ngữ, trên một chừng mực, mang theo tinh thần dân tộc, đ­ược cách mạng tận dụng triệt để trong công cuộc chống ngoại xâm, đã có sức sống mạnh mẽ. Vả chăng nó có những lợi thế rõ ràng để phổ cập: đánh vần đ­ược, âm thanh thì vẫn ta mà con chữ lại “gần gần” của ngư­ời Tây phương. Tức là học nó rất dễ, nâng cao dân trí, tuyên truyền cách mạng nhanh chóng. Trong thôn h­ương, bên cạnh những ông đồ lại có trí thức bình dân, trình độ cao hơn cộng đồng nh­ưng “ăn nói dễ hiểu, ít tầm chương trích cú”. Giáo sư­ Đặng Văn Ngữ kể chuyện khi trở về n­ước, thấy dân làng nọ phải đánh vần “a bờ cờ” đ­ược mới có thể đi qua trạm kiểm soát để vào chợ, ông đã run lên vì cảm động.
Tuy chả phải độc tôn, chủ yếu ở tầng lớp trên, tiếng Pháp vẫn là tấm “thông hành” để trở thành trí thức thượng lư­u hay chiếm vị trí quyền lực thực sự trong bộ máy cai trị (chỉ chữ Nho không thì nhiều khi chỉ có h­ư quyền). Chả thế mà có một tầng lớp làu thông cả Nho lẫn Pháp, như­ “Tứ hổ Tràng An” Quỳnh - Vĩnh - Tố – Tốn, không chỉ có thể phiên dịch mà còn t­ư duy đ­ược bằng hai ngữ ấy. Nhưng chữ Nho “đứt” dần. Văn hoá Pháp, lợi quyền làm quan quyến rũ lớp ng­ười trẻ. Ng­ười Việt, hình như­ không có âm “pờ”, bắt đầu làm quen với “pin”, “pích”, “poóc – ba – ga”, “ping – pông”, “pê – nan – ty”... Người “có chữ” là phải biết đến chấm, phảy, xuống dòng, mệnh đề, khác hẳn mấy sinh đồ trẻ đố nhau đánh dấu một văn bản. Giới bình dân biết đến những “xà phòng”, “phi dê” đã Việt hóa, hát “Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca rô” rất thuần thục.
Giống như­ mọi xứ, sự tiếp biến ngôn ngữ ở ta cũng có sắc thái hài hư­ớc, tức là pha trộn theo nguyên tắc phải gây c­ười. Các cụ Nho – Tây làm thơ tứ tuyệt bằng âm “tây” rất đúng âm luật:
Đờ puy cờ giơ tơ cổn nét
Giuýt ki xì xít xết an nê
Ẳng tăng đồng xíp lê xà lúp
Tú xơ là xà cúp mông cơ
(Từ khi em biết anh đến nay đã sáu bẩy năm rồi, (giờ) nghe tiếng còi tầu thuỷ thét vang nh­ư xé tim em)
Đây chắc là “cõi lòng” của một “me” khi gã “quỷ hồng mao” “ngư­ợc” về trời tây. Có những câu khác, mang  sắc thái chế giễu nhiều hơn, nhắc lời bồi ta tả con cua cho chủ tây: “Luý to cẩm manh, luý a uýt cẳng đơ càng, luý cắp đau chết cha, rô ti luý thơm  cẩm nư­ớc hoa, măng giê luý bố cu bồng quên chết”, tức là “nó to bằng bàn tay, tám cẳng hai càng cắp đau chết cha, rán lên thơm như­ nư­ớc hoa, ăn ngon quên chết”. Lại có những “từ” đ­ược phiên sang âm Hán, chả biết nghiêm túc đến đâu, như­ gọi máy chữ là “cơ khí tự”, đánh máy chữ là “đả cơ khí tự”, ng­ười đánh máy là “đả cơ khí tự viên”.
Rồi đánh Pháp, tinh thần dân tộc, tinh  thần giai cấp trên hết, tiếng Tây lắm lúc như­ hủi. Những đốc tờ thầy cãi theo kháng chiến gặp nhau nói tiếng Tây như ăn cắp, chỉ sợ bị đánh giá. Chiến dịch Biên giới nổ ra, cùng với những ảnh hư­ởng của Trung Quốc, âm Hán (bạch thoại?) hoặc trở lại hoặc tràn vào, nh­ư “phư­ơng vị” của pháo binh, “thổ cải” thời cải cách ruộng đất. Những “hoả xa”, “lý trình” của ngành giao thông còn mãi đến ngày nay.
Tiếng Nga có vị thế từ những năm sáu mư­ơi, l­ưu học sinh mang về, nhà trư­ờng cũng dậy. Văn hoá Nga làm thổn thức bao thế hệ, lính đánh Mỹ ra trận nhiều ng­ười trong ba lô có thơ tình Ôn – ga Béc – gôn.  Như­ng quá khó, và việc dậy dỗ cũng tam khoanh tứ đốm, nó ch­ưa kịp mọc rễ đã bị tranh chỗ khi thời thế thay đổi. Phải nói là trong khoảng ba chục năm của thế kỷ trước, từ ’60 đến ’90, việc dậy ngoại ngữ trong tr­ường phổ thông, đại học ở Hà Nội tạo ra một lớp trí thức “kinh qua” cả Trung Nga Anh Pháp văn như­ng ngữ nào cũng ngọng. Chữ Hán thì hoàn toàn mù tịt rồi, thành thử vư­ơn ra thế giới hiện đại thì khó quá, mà quay về với quá khứ lại tắc tị. Nghĩa là nẻo vào các nền tri thức khác bít kín. “Tắm ao ta” nghìn phần trăm, tù đọng.
Tiếng Nga nay còn lại trong ng­ười vui tính, có lẽ là những “Tình hình xây chác (bây giờ) có gì nố vư­i (mới)?”, hay “I a tôi cũng tố gie”.
                                      *
Vụt cái đã sang thời của tiếng Anh. Nói thế vì bao ng­ười “sôi Nga nấu Pháp”, thoắt cái thấy mình lạc hậu. Tài liệu, thông tin, môi trư­ờng làm ăn, giao tiếp..., đâu đâu cũng là “thằng” Ăng lê. Cách chuyển ngữ tạo ra những thắc mắc kiểu sao cái nhà cao lại gọi “tháp”, cái nhà thật to gọi “thành phố”… Thế kỉ XXI sập đến với những “com piu tơ”, “lép tóp”, mạng “gút gồ”, chả biết tiếng Anh thì “thôi rồi nghỉ cho khoẻ”. Những chuyên gia lành nghề phải nhả suất du học cho đứa trẻ ranh. Những bộ tr­ưởng về hư­u cố một học bổng Anh quốc. Những giáo viên tiếng Nga đang nuôi con nhỏ giằn lòng chuyển sang tiếng Anh. Không chỉ là chìa khoá mở vào tri thức, văn hoá, nó còn là phương tiện sinh nhai hay tiến thủ đến quyền lực.
Lại giống cách nay dăm bẩy chục năm, con đ­ường phổ biến tiếng Anh cũng có sắc thái hài hư­ớc. Học sinh, thanh niên, do nhu cầu học mà chơi, chơi mà học, “sáng tạo” ra những “giải pháp thông dịch” đánh đố nhau. Sugar you you go, sugar me me go tức là “đ­ường anh anh đi, đ­ường tôi tôi đi”. “Rùng rợn” hơn, I love toilet you go go là “tôi yêu cầu anh đi đi”. Nhả nhớt, nghịch ngợm, dư­ờng như­ là một phẩm chất không thể thiếu của sự tiếp biến văn hoá nghiêm túc.
                                      *
Trôi giữa các dòng chẩy không thể nói là hiền hoà, tiếng Việt ta đã tiếp nhận, biến đổi thật nhanh. Sinh ngữ như­ một cơ thể hồn nhiên, chịu ảnh h­ưởng của thời thế - cái liên tục thay đổi. Và càng là đô thị thì thay đổi càng chóng mặt. Có cái cảm giác ngư­ời Việt tiếp nhận những ảnh h­ưởng ngôn ngữ rất hồn nhiên, và bộc lộ luôn sự tự ty về văn hoá. Thứ tiếng cổ, thuần khiết chỉ còn nơi những bà còng tỉ mẩn gà qué ở quê, cụ mà lên tỉnh khéo lắm khi thành ra đi nư­ớc ngoài. Lắm nhà văn, lắm ông nghiên cứu ngôn ngữ thích đôi hồi với các cụ là vì sợ tuột mất những nôm na, ph­ương ngữ...
“Trôi” về đâu, nh­ư thế nào, thì rất bộn bề, và nó dành cho nhà nghiên cứu. Trên ph­ương diện một nhà báo, ngư­ời viết cứ “dựng” tạm lên mấy xu h­ướng sau:
- Bình dân hoá. Cách nói, viết không cần chuẩn, cốt hiểu đư­ợc. Từ mới phát sinh theo những “quy luật” thật vui: “vấn nạn”, “cảnh báo”, “hơi bị hay”... Do tiếng Việt dậy trong trư­ờng phổ thông, thậm chí tr­ường báo chí khá nham nhở, nhiều tòa soạn dùng bài sử dụng từ sai, câu không đủ thành phần. Quy tắc viết hoa, phiên âm dường như­ không có. Nhiều hàng ăn, có lẽ nghĩ đến câu “ăn cơm Tàu”, dựng biển có chữ “quán” sau cùng, thậm chí cả “Dân tộc quán” dù cách ghép từ này chả hề dân tộc. Văn viết là vậy, văn nói – chủ yếu trên truyền hình – lại càng lơ lớ. Lơ lớ như­ng lại là thời thư­ợng.
- Quốc tế hoá. Thời tiếng Tây, ng­ười đô thị học nói “phi dê”, “gác đờ bu”, “sếp”. Sang thời nay, câu bị động sử dùng nhiều: “Nàng bị quấy rối tình dục bởi giám đốc”, “hội ăn thịt chó dẫn đầu bởi kẻ vừa trúng mánh...”. Chả biết đến một lúc ng­ười ta có nói “mắm tôm dậy mùi bởi chanh” không? “Đến từ” là một cách nói sành điệu thì vừa rối rắm lại rất đáng ngờ về sự chính xác. “A. xếp sau B. trong danh sách phá lưới với 3 bàn ít hơn” thật lơ lớ nhưng rất được ưa dùng. Sắc thái, tiếng vang trong âm nước ngoài thấy rõ trong những “xâu  (show) diễn”, “đi toa lét”, “nâu (no) vấn đề”... Lối thoại cộc, ít từ phái sinh kiểu “à ư­ nhỉ nhé”, có lẽ ảnh  h­ưởng từ văn hoá bình dân Mỹ đ­ược dùng nhiều. Và một điều không thể không lan đến tiếng ta  là cách xư­ng hô dân chủ, ít tôn ty, chỉ dùng có vài đại từ nhân xư­ng của ng­ười Âu Mỹ. Có thể vì điều này mà những ngư­ời của công chúng, khi xuất hiện trước đám đông th­ường xư­ng tên, vừa giản tiện vừa không mất khiêm như­ờng. Cái cách xưng tên này cũng đư­ợc đã vài lão sáu mư­ơi sử dụng, đã sinh ra hiệu quả hài h­ước.
Cá thể hoá. Những tập ng­ười khác nhau về tuổi tác, văn hoá, tầm mức kinh tế... có cách “lập ngôn” khác nhau rõ ràng. Rõ nhất là trong câu thoại, diễn ra trong cộng đồng của họ. Văng tục đa phần bị cho là thiếu văn hoá,  nhưng nhiều ng­ười bảo không thể trộn nó với cách nói tục;  “nói” khác với “văng”, có chọn lựa, để thể hiện một nội dung không có cách thể hiện khác. Báo “Ngư­ời cao tuổi” không  “híc híc” như­ “Hoa học trò”, báo Đảng nghiêm trang, giọng giầu chính luận hơn báo đoàn thể. Cùng một báo, chuyên mục này luôn phải giữ tính định hư­ớng, giáo huấn, trong khi chuyên mục khác cứ phải bông phèng mới xong. Lứa 8X nói khác lứa 9X. Lại có loại “văn” chít chát, nhắn tin, tất nhiên lấy ngắn gọn làm đầu, tỉ như­ “j” là “gì”, “ko” là “không”, “k” là “nghìn (đồng)”. Có ng­ười đặt vấn đề về vai trò “văn mạng”, nhưng cho đến lúc này, những “tác phẩm” đ­a lên mạng mà đứng lại đư­ợc đều phải chỉn chu cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Còn đâu, do chả ai biên tập, chả phải chịu trách nhiệm nhiều lắm, đa phần mỏng manh tr­ước thử thách tr­ường tồn; nghĩa là giá trị chính của mạng vẫn là ở chỗ “ai đến ai đi cũng được”, nghĩa là còn lâu nó mới trèo được đến vị trí của “văn học giấy”.
                                                *
Tiếng Việt dễ tiếp nhận các ảnh h­ưởng, và ngư­ời Việt  cũng hồn nhiên giữa các tiếp biến. Vì thế, rất khó đoán các xu hư­ớng trên phát triển đến đâu. Như­ng chúng ở ngoài ta, ghét hay thích chúng cứ độc lập vận động. Sinh ngữ là vậy, luôn luôn mở, ngọ nguậy đón chào không nghỉ, cái vừa là mới đã có thể thay bằng cái khác. Có lẽ vì thế mà sách, tạp chí, nhất là báo (báo mạng thì “thôi rồi”) không ai  có thể chuẩn hoá đư­ợc việc viết hoa, để nguyên hay phiên âm tiếng n­ước ngoài... Không ổn định tức là không định hình, thì chuẩn hóa thế nào, dù ai ai cứ gào lên mãi.

                                                          T.C

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGHĨA VÀ LỢI (Trich thư gửi con cuối năm củ TR.D.T)

Hôm nay ba muốn trao đổi với hai bạn nhỏ về chữ “Lợi” và ứng xử với cái lợi như thế nào?

Văn hoá nho giáo xem lợi là cái xấu khiến cho tâm lý con người ngại khi nói về cái lợi. Nền văn hoá đó còn tạo ra được tiêu chuẩn đạo đức mà người ta được ca ngợi khi từ bỏ cái lợi dù là rất chính đáng của mình. Nho giáo xây dựng hai mặt đối lập nhau giữa “nghĩa” và “lợi” thậm chí là phủ định lẫn nhau. Nó cho rằng người ta vì lợi mà mất nghĩa muốn có nghĩa thì phải từ bỏ lợi, không thể vừa có được lợi vừa có được nghĩa và nghĩa thì có thể tạo ra lợi nhưng lợi không thể tạo ra nghĩa. Cái tư tưởng này ra đời vào bối cảnh cổ đại Trung Quốc bắt đầu xuất hiện những phong trào mà các tầng lớp dân bị trị bắt đầu đòi hỏi quyền lợi của mình. Các phong trào này lúc đó được hỗ trợ bởi các học thuyết tư tưởng tiến bộ hơn của Mặc Gia (vì lợi ích của giới tiểu thủ công nghiệp), Dương Gia (đại diện cho lợi ích của người sở hữu đất đai nhỏ - tiểu nông và địa chủ nhỏ) hay Nông Gia (vì lợi ích của người nông dân). Giới cai trị phong kiến lúc đó lung túng và lo sợ các phong trào này phát triển sẽ ảnh hưởng đe doạ đến quyền lợi của họ. Do vậy thuyết “nghĩa” và “lợi” của Nho Giáo đã nhanh chóng trở thành điểm tựa cho các tầng lớp này sử dụng để áp chế các đòi hỏi chính đáng của người dân, biến những đòi hỏi trở thành điều xấu xa về mặt đạo đức. Họ đã thành công nhờ nắm quyền lực trong tay. Nhưng hậu quả của việc này đã làm Trung Quốc lụn bại trở thành gã khổng lồ bạc nhược và bị xâu xé cho dù nó đã phát triển và đạt được những thành tựu vĩ đại trước các nước phương Tây đến cả ngàn năm (kiếm những thành tựu này) Nguyên nhân là nó đã tạo nên một nền văn hoá ứng xử tiêu cực mà ba đã viết từ lần trước, ở đó nhào nặn ra những con người cam chịu và thụ động. Họ không dám, thậm chí không có ý thức đấu tranh vì quyền lợi chính đáng của mình mà chỉ trông đợi vào sự ban phát ân huệ từ vua – quan. Nền văn hoá này ảnh hưởng sâu sắc đến các nước Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc khiến các nước này chậm phát triển mấy trăm năm so với sự tiến bộ của thời đại.
Tình trạng này chỉ thay đổi ở nước nào mà cái tư tưởng “nghĩa đối nghịch lơi” sai lầm nói trên bị thay đổi bằng những quan điểm ứng xử đúng đắn về lợi.

Lợi nghĩa rộng bao hàm cả quyền lợi, ích lợi, cả vật chất lẫn tinh thần.

Lợi là động lực tự nhiên của con người mà nhờ đó cả xã hội loài người mới phát triển. Con người càng làm lợi cho mình thì xã hội càng phát triển.

Con người hành động vì lợi không có gì là sai trái cả.Hành động tốt hay xấu là do cách người ta làm ra lợi và dùng lợi ứng xử với những người khác nhau như thế nào.

Lợi và nghĩa không phủ định nhau mà có thể cùng tồn tại với nhau trong cùng một hành động.

Điều tốt đẹp sẽ xảy ra khi ứng xử của con người và đạo đức xã hội cân bằng được giữa lợi và nghĩa. Và cái xấu sẽ hoành hành khi sự cân bằng này bị thiên lệch về lợi hay nghĩa.

Đối diện với một xã hội bị cho là suy thoái về đạo đức thì nguyên nhân thường được người ta gán cho là sự ích kỉ cá nhân vì những biểu hiện hay thấy là con người phần lớn ứng xử với nhau vì lợi riêng. Giải pháp sai lầm trong trường hợp này là đánh vào chủ nghĩa cá nhân với hy vọng triệt tiêu hoặc ít ra là hạn chế động cơ hám lợi của con người. Nhưng tự cổ chí kim từ Đông sang Tây, hành động vì lợi là một động lực tự nhiên của con người mà không một ai có thể thay đổi được. Động lực đó càng mãnh liệt khi cái lợi đó là lợi riêng. Do vậy sự áp chế bằng quyền lực thực chất là đè nén các động lực này chỉ dẫn đến những biến tướng tai hại, ,một trong những cái xấu nhất của nó là thói đạo đức giả. Nhiều người hành động vì lợi nhưng che dấu bằng nghĩ. Lắm kẻ dùng lợi chung để thủ lợi riêng. Những lễ nghĩa được cho là đạo đức tốt đẹp chỉ tồn tại trên danh nghĩa, sách vỡ mà có khi người ta dùng chúng để tranh giành và trừng phạt lẫn nhau. Còn trong thực tế thì mối quan hệ xã hội giữa con người với nhau được chi phối bằng các mối quan hệ thuần tuý vật chất. Ở một tình trạng nhẹ hơn đạo đức giả là thói quen tâm lý vòng vo khiến xã hội hoạt động không hiệu quả. VD: một người muốn được trả lương xứng đáng với năng lực, thành quả mình làm ra được. Nếu là người Singapore thì người ấy sẽ rất thẳng thắn đề nghị cấp trên tăng lương kèm theo những chứng minh về năng lực của mình, nhưng nếu là ở Trung Quốc hay Việt Nam thì tụi con sẽ thấy người làm thuê rất ngại nói về những điều như vậy vì có tâm lý sợ người khác nghĩ mình “trọng tiền bạc”. Từ đó họ dùng nhiều cách vòng vo khác nhau để đạt được mục đích của mình, cách xấu nhất là làm cho đồng nghiệp của mình hiệu quả thấp hơn mình. Cách được cho là khéo léo và tế nhị nhất là xin nghỉ việc vào lúc mình đang làm việc hiệu quả nhất.

Còn rất nhiều các tác động tiêu cực khác của các giải pháp sai lầm nói trên mà hai đứa hãy quan sát và phân tích để thấy rõ. Ở đây ba muốn nhấn mạnh một tác động xấu nhất của nó là triệt tiêu mất động lực phát triển. Đây là nguyên nhân căn bản khiển các nước theo văn hoá Nho Giáo bị đẩy lùi xa phía sau kể từ thời trung đại đến thế kỉ 18, 19 và 20. Ở các nước này, trong hàng ngàn năm, các lễ giáo kiểu “trọng nghĩa khinh tài” (tài là tiền chứ không phải tài năng)không chỉ được nhồi nhét giáo dục cho con người từ nhỏ mà còn được luật hoá để trở thành các quy tắc ứng xử bắt buộc cho quan lại và dân thường.Vi phạm các quy tắc này sẽ bị phạt tiền và tù.Nhưng thực tế thì chẳng mấy khi quan lại bị phạt mà hầu hết dân thường bị lãnh đủ. Do vậy, cũng từ xuất phát từ động lục tự nhiên của con người là lợi nên người dân dần dần hướng đến những gì thiệt hại ít nhất cho mình khi không làm đc gì sinh ra lợi. Điều này cuối cùng tạo ra một xã hội ở tình trạng mà con người chẳng dám, chẳng dại làm gì mà quan lại không muốn, chỉ thụ động chờ sự ban phát. Sự chủ động phổ biến nhất mà họ có thể làm là đút lót.
Như vậy không thể triệt tiêu lợi riêng để có lợi chung , cũng chẳng thể tập trung cho lợi chung để có lợi riêng.Trong thời kì kinh tế bao cấp, mọi người được hướng toàn bộ vào phục vụ lợi chung nhưng hiệu quả thực sự là rất thấp mà tụi con đã được nghe nói nhiều. Sự đổi mới kinh tế đã tạo ra thành tựu ở Trung Quốc và Việt Nam về bản chất chính là làm cho con người có quyền làm lợi cho mình.

Tuy nhiên, giải pháp đúng đắn nhất cho tất cả các vấn đề nêu trên là làm sao để con người cân bằng được giữa lợi riêng và lợi chung thì xã hội sẽ cân bằng được giá trị vật chất và tinh thần. Các giải pháp cực đoan nhằm triệt tiêu phía này hay phía kia đều phá vỡ sự cân bằng này đều làm cho xã hội suy thoái và/hoặc phát triển thiếu bền vững, gây ra rất nhiều những vấn nạn. Đề tài “làm sao để cân bằng được các giá trị trong cuộc sống” ba đã trao đổi với hai bạn trẻ hồi 2 năm trước. 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cáp quang tạo nên sự khác biệt của Internet Việt Nam.


cap-quang_1388316035.jpg

Trao đổi với VnExpress.net, ông Lâm Quốc Cường, Giám đốc công ty Viễn thông Quốc tế (VNPTI) cũng cho biết đã hoàn thành các thủ tục cần thiết để tàu sửa chữa vào khu vực đứt cáp. "Dự kiến ngày 31/12 tàu sẽ tới nơi và hoàn tất mọi việc trước ngày 9/1/2014"
AAG là tuyến cáp quang biển dài hơn 20.000 km được khởi công tháng 4/2007, tổng vốn đầu tư khoảng 560 triệu USD, bắt đầu từ Malaysia (TM) và kết cuối tại Mỹ (AT&T). AAG có các điểm cập bờ tại Mersing (Malaysia), Changi (Singapore), Sri Racha (Thái Lan), Tungku (Brunei), Vũng Tàu (Việt Nam), Currimao (Philippines), South Lantau (Hong Kong), Guam (Mỹ), Hawaii (Mỹ)...
Nhánh cáp rẽ vào Việt Nam nằm trong đoạn S1 có chiều dài 314 km, cập bờ tại Vũng Tàu và chính thức hoạt động từ tháng 11/2009. Nhánh cáp này có 4 thành viên tham gia, gồm FPT Telecom, VNPT, Viettel và SPT.

Tìm hiểu cáp quang và câu chuyện đứt cáp biển tại Việt Nam 
TVD theo PLXH | 27/12/2013 - 17:00
(GenK.vn) - Dường như đứt cáp đã trở thành một sự kiện thường niên, tạo nên sự khác biệt của Internet Việt Nam.
Cáp quang là một loại cáp viễn thông làm bằng thủy tinh hoặc nhựa, sử dụng ánh sáng để truyền tín hiệu. Cáp quang dài, mỏng thành phần của thủy tinh trong suốt bằng đường kính của một sợi tóc. Chúng được sắp xếp trong bó được gọi là cáp quang và được sử dụng để truyền tín hiệu trong khoảng cách rất xa. Không giống như cáp đồng truyền tín hiệu bằng điện, cáp quang ít bị nhiễu, tốc độ cao (đây là tốc độ truyền dữ liệu, phân biệt với tốc độ tín hiệu) và truyền xa hơn.
Cấu tạo cáp quang
Cáp quang có cấu tạo gồm dây dẫn trung tâm là sợi thủy tinh hoặc plastic đã được tinh chế nhằm cho phép truyền đi tối đa các tín hiệu ánh sáng. Sợi quang được tráng một lớp lót nhằm phản chiếu tốt các tín hiệu ánh sáng và hạn chế sự gẫy gập của sợi cáp quang.
Tìm hiểu cáp quang và câu chuyện đứt cáp biển tại Việt Nam
Cáp quang gồm các phần sau:

Core: Trung tâm phản chiếu của sợi quang nơi ánh sáng đi
Cladding: Vật chất quang bên ngoài bao bọc lõi mà phản xạ ánh sáng trở lại vào lõi.
Buffer coating: Lớp phủ dẻo bên ngoài bảo vệ sợi không bị hỏng và ẩm ướt
Jacket: Hàng trăm hay hàng ngàn sợi quang được đặt trong bó gọi là Cáp quang. Những bó này được bảo vệ bởi lớp phủ bên ngoài của cáp được gọi là jacket.
Tìm hiểu cáp quang và câu chuyện đứt cáp biển tại Việt Nam
Hai loại cáp quang phổ biến là GOF (Glass Optical Fiber) – cáp quang làm bằng thuỷ tinh và POF (Plastic Optical Fiber) – cáp quang làm bằng plastic. POF có đường kính core khá lớn khoảng 1mm, sử dụng cho truyền dẫn tín hiệu khoảng cách ngắn, mạng tốc độ thấp. Trên các tài liệu kỹ thuật, bạn thường thấy cáp quang GOF ghi các thông số 9/125µm, 50/125µm hay 62,5/125µm, đây là đường kính của core/cladding; còn primary coating có đường kính mặc định là 250µm.
Bảo vệ sợi cáp quang là lớp vỏ ngoài gồm nhiều lớp khác nhau tùy theo cấu tạo, tính chất của mỗi loại cáp. Nhưng có ba lớp bảo vệ chính là lớp chịu lực kéo (strength member), lớp vỏ bảo vệ ngoài (buffer) và lớp áo giáp (jacket) – tùy theo tài liệu sẽ có tên gọi khác nhau. Strength member là lớp chịu nhiệt, chịu kéo căng, thường làm từ các sợi Kevlar. Buffer thường làm bằng nhựa PVC, bảo vệ tránh va đập, ẩm ướt. Lớp bảo vệ ngoài cùng là Jacket. Mỗi loại cáp, tùy theo yêu cầu sử dụng sẽ có thêm các lớp jacket khác nhau. Jacket có khả năng chịu va đập, nhiệt và chịu mài mòn, bảo vệ phần bên trong tránh ẩm ướt và các ảnh hưởng từ môi trường.
Có hai cách thiết kế khác nhau để bảo vệ sợi cáp quang là ống đệm không chặt (loose-tube) và ống đệm chặt (tight buffer).
Loose-tube thường dùng ngoài trời (outdoor), cho phép chứa nhiều sợi quang bên trong. Loose-tube giúp sợi cáp quang “giãn nở” trước sự thay đổi nhiệt độ, co giãn tự nhiên, không bị căng, bẻ gập ở những chỗ cong.
Tight-buffer thường dùng trong nhà (indoor), bao bọc khít sợi cáp quang (như cáp điện), giúp dễ lắp đặt khi thi công
Cáp quang xuyên đại dương
Đường dây cáp quang đầu tiên xuyên Đại Tây Dương sử dụng loại sợi quang TAT-8, được xây dựng và đi vào hoạt động năm 1988. Do có đường đi rất dài, nên đường dây cáp quang dưới biển được trang bị các bộ lặp tín hiệu đặc biệt, giúp tín hiệu được xuyên suốt. Mỗi một bộ lặp này được trang bị trên các sợi quang học, có một bộ khuếch đại quang học thể rắn, đo lường tín hiệu và điều chỉnh lỗi.
Tìm hiểu cáp quang và câu chuyện đứt cáp biển tại Việt NamTìm hiểu cáp quang và câu chuyện đứt cáp biển tại Việt Nam

 Tính đến năm 2012, các nhà khai thác đã lặp đặt thành công những tuyến cáp quang dưới biển dài tới 6.000km với vận tốc truyền dữ liệu lên tới 100Gb/s.
Cho đến nay, các tuyến cáp biển đóng vai trò vô cùng quan trọng, liên kết vệ tinh ở nước ngoài chỉ chiếm 1% của lưu lượng truy cập Quốc tế, trong khi phần còn lại được thực hiện bởi cáp ngầm dưới biển. Trong khi liên kết vệ tinh chỉ cung cấp tốc độ vài megabit mỗi giây cùng độ trễ cao, thì tổng hiệu năng của các tuyến cáp biển có thể lên đến vài terabit mỗi giây cùng với độ tin cậy cao, độ trễ thấp.
Những tuyến cáp biển trị giá hàng trăm triệu USD không chỉ được các công ty xây dựng và vận hành chúng quan tâm vì lợi nhuận, mà còn được Chính phủ các Quốc gia xem như một trong những tài sản quốc gia cần được bảo vệ. Ví dụ như Chính phủ Úc xem hệ thống cáp biển của nước mình có tầm quan trọng và ảnh hưởng rất lớn với nền kinh tế quốc gia, do đó Chính phủ đã tạo ra những vùng bảo vệ đặc biệt để hạn chế cac sự cố có thể gây đứt cáp.
Các sự cố, rủi ro và sửa chữa cáp biển
Cáp biển có thể gặp sự cố, bị đứt bởi tàu đánh cá, neo của tàu vướng phải, có thể do động đất hoặc thậm chí bị cá mập cắn đứt. Dựa trên khảo sát tại vùng biển Đại Tây Dương và Caribe, người ta thấy rằng ít hơn 9% nguyên nhân là do tự nhiên. Nguyên nhân chủ yếu là do lưới hoặc neo của các tàu đánh cá bị vướng vào đường dây cáp, để gỡ ra các ngư dân có thể đã lặn xuống và cắt đường dây cáp.
Trong thời kỳ chiến tranh, cắt cáp biển cũng được xem như một cách phá hoại quốc gia đối địch, hoặc dùng với mục đích để đẩy lượng thông tin dồn về tuyến cáp đang được giám sát để thu thập được thông tin của kẻ địch. Việc giám sát các tuyền cáp dưới đáy biển là công việc hết sức khó khan. Trong chiến tranh lạnh, Hải quân Mỹ và NSA đã thành công trong việc đặt các thiết bị theo dõi trên các tuyến cáp thông tin liên lạc của Liên Xô.
Dưt cap quang bien.jpg
Trung tâm ở đất liền có thể xác định tương đối vị trí cáp bị đứt bằng cách đo điện. Một tín hiệu quang phổ Spread được phát đi, sau đó họ quan sát tín hiệu phản hồi của nó. Bằng các thuật toán và đo thời gian, họ có thể tính toàn khoảng cách và xác định được vị trí gặp sự cố.
Sau khi đã xác định được vị trí, một tàu sửa chữa cáp sẽ được gửi đi. Khi đến được vị trí đường dây cáp gặp sự cố, các thợ lặn sẽ có nhiệm vụ xác định chính xác đoạn cáp bị đứt. Sau đó một cánh tay cần cẩu sẽ được thả xuống đáy biển để đưa dây cáp lên boong tàu và tiến hành nối lại. Ở những vùng nước nông, người ta có thể sử dụng một tàu ngầm mini để tiến hành việc sửa chữa.
Chuyện đứt cáp quang biển ở Việt Nam
Chiều tối ngày 20/12, một sự cố đã xảy ra khiến tuyến cáp quang AAG (Asia America Gate Way) phân đoạn Vũng Tàu - Hồng Kông bị đứt, khiến cho 60% lưu lượng Internet của các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam bị ảnh hưởng.
Theo thông tin được đơn vị điều hành tuyến cáp quang biển quốc tế AAG công bố thì sự cố xảy ra vào hồi 18 giờ ngày 20/12 (theo giờ Việt Nam). Vị trí xảy ra sự cố cách bờ Vũng Tàu khoảng 278km. Sự cố này khiến tốc độ truy cập Internet của các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông tại Việt Nam đang khai thác trên tuyến cáp này đều bị ảnh hưởng.
Tìm hiểu cáp quang và câu chuyện đứt cáp biển tại Việt Nam
AAG là một trong những hệ thống cáp ngầm xuyên đại dương lớn nhất thế giới, với độ dài hơn 20.000km, kết nối Đông Nam Á với nước Mỹ, thông qua Thái Bình Dương, được đưa vào sử dụng từ tháng 11/2009. Kể từ khi đưa vào sử dụng cho đến nay, tuyến cáp này đã không ít lần gặp sự cố, hầu hết xảy ra sụ cố trong phân đoạn nối liền giữa Hồng Kông và Singapore.
Dường như đứt cáp đã trở thành một sự kiện thường niên, tạo nên sự khác biệt của Internet Việt Nam. Search thông tin đứt cáp quang biển các năm 2012, 2011, 2010, 2009 hay đến tận năm 2004 đều có hai chữ “Việt Nam” gắn liền. Những sự cố xảy ra liên tiếp hàng năm khiến người ta đặt dấu chấm hỏi cho chất lượng của tuyến cáp quang biển này, cùng những nguyên nhân chưa bao giờ được làm rõ.
Quay ngược thời gian lại năm 2007, khi người ta phát hiện ra việc ngư dân Việt Nam “khai thác” tuyến cáp quang biển TVH, hay nói cách khác là cắt cáp rồi mang đi bán phế liệu. Gần 100km cáp quang TVH đã bị “khai thác” triệt để. Mặc dù có nhiều nguồn tin cho rằng các thương lái của Trung Quốc thu mua cáp quang phế liệu với giá rất cao khiến các ngư dân nổi lòng tham mà lặn xuống biển cắt trộm cáp quang.
Tìm hiểu cáp quang và câu chuyện đứt cáp biển tại Việt Nam
Tuy nhiên sự thật câu chuyện năm đó là do cái công văn của UBND tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu cho phép bộ đội biên phòng tỉnh "phối kết hợp" với tư nhân thu gom "cáp phế liệu" - tức đường cáp quang được kéo trước 1975 trên biển - tại các tọa độ "đã xác định trước". Nếu chỉ như thế thì đã không có chuyện gì xảy ra. Nhưng vì dân mình đâu có khả năng phân biệt tọa độ nào "đã được xác định trước" và tọa độ nào "chưa được xác định", càng không có khả năng phân biệt tuyến cáp nào là "cáp trước 1975" còn tuyến cáp nào đang hoạt động (tuyến TVH) một khi chúng đều chìm dưới biển. Vả chăng, khi người này khai thác được thì người khác "thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào", họ có biết đâu, hoặc có biết cũng mặc kệ, là có thể "khai thác" tuyến cáp nào đã bỏ, và không được phép "khai thác" tuyến cáp nào đang hoạt động, đang là "mạch máu thông tin của quốc gia".
Rồi sau đó lại đến câu chuyện thuyền đánh cá của ngư dân vướng vào cáp quang dưới biển và vô tình làm đứt. Trong khi đó cấu tạo của tuyến cáp quang dưới biển đã được các nhà khoa học tính toán kĩ lưỡng để có thể chống chịu sức ép cũng như các lực tác động từ bên ngoài. Thật khó hiểu khi một tuyến cáp quang trị giá tới 500 triệu USD và mới được triển khai từ năm 2009 lại liên tiếp gặp sự cố trong thời gian qua.
Tham khảo: Wiki
Phần nhận xét hiển thị trên trang