Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Báu vật của đời của Mạc Ngôn – lên bờ xuống ruộng trước khi nhận giải Nobel


Báu vật của đời của Mạc Ngôn – lên bờ xuống ruộng trước khi nhận giải Nobel

 Trần Đình Sử
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa có lời kêu gọi nhà văn sáng tạo các tác phẩm văn học nghệ thuật lớn xứng đáng với dân tộc và thời đại. Đó là một ý kiến rất hay. Nhưng làm thế nào để có được tác phẩm hay? Số phận nó sẽ như thế nào” Tôi xin kể số phận lên bờ xuống ruộng của kiệt tác Báu vật của đời của nhà văn Mác Ngôn để cùng suy ngẫm.
Mạc Ngôn kể, khi bắt đầu sáng tâc, động cơ của ông cũng rất tầm thường. Ông muốn có một chiếc đồng hồ đeo tay. Các bạn bè của ông đều có, mà ông thì không sao kiếm được vì trong túi không có tiền. Ông nghĩ, sáng tác tác phẩm văn học đăng báo, nếu được đăng thì có nhuận bút và đồng hồ cũng có. Nhưng các bài tập ban đầu đều không thành công. Bố mẹ ông đã phải bán một con bò để mua cho ông chiếc đồng hồ.
Nhưng tìm tòi học hỏi khi sang tác đã nhen nhóm trong ông tình yếu văn học. Đúng lúc đó mở của khai phóng, sách văn học nước ngoài được dịch rất nhiều. Ông vô cùng biết ơn văn học dịch, nhờ nó mà ông tiếp nhận được nhiều loại sáng tác đa dạng của thế giới, đặc biệt là tiểu thuyết của các nhà văn châu mĩ La tinh, nhất là Marquez. Ông đọc đủ loại từ Faulkner, Kafka, Tolstoi, Solokhov, Gras, các tác phẩm của Kawabata, Kenzaburo. Họ mở ra cho ông những con đường mới lạ. Và cáng thúc đẩy ông sáng tác. Ông trở thành nhà văn tiền phong chủ nghĩa của Trung Quốc.
Tất nhiên để có tác phẩm Báu vật của đời, ông đã trải qua 20 năm sáng tác, tích lũy đầy mình tri thức, kinh nghiệm và bản lĩnh.
Cấu tứ của tiểu thuyết Báu vật của đời bắt đầu từ một hôm, khi ông rời tàu điện ngầm ở Bắc Kinh đi lên đường. Ông cứ bước theo bậc tam cấp đi lên, cho tới khi sắp ra khỏi bậc thang thì trước mắt ông là một người mẹ gầy đen, đang ngồi, ôm hái con nhỏ, mỗi đứa ngậm một đầu vú day day, tay kia thì sờ ngực mẹ. Ông đứng lặng người, nhìn trân trân, bất giác nước mắt ứa ra, mặc cho mọi người đi qua ngạc nhiên nhìn ông như quái vật. Cho đến khi có người đến vỗ vai, là một người bạn, hỏi vì sao lại khóc. Ông cho biết ông nhớ lại thời ấu thơ và thương mẹ mình.  Ông là con út, mẹ thương cho bú đến năm tuổi. Ông nhớ tới những năm sáu mươi, làng xóm không đói to, không có gì ăn, phải hái rau dại ngoài đồng mà săn. Có gì ngon mẹ đều cho con, có lần đói quá mẹ ông đã ăn sống rau dại giữa cánh đồng. Thế là ông quyết tâm sẽ viết một tiểu thuyết để kính tặng mẹ. Ông nghĩ đến mẹ , đến người phụ nữ, đến đất mẹ nuôi dưỡng con người. Cái ông nghĩ ra đầu tiên là cái tên tiểu thuyết. Phong nhũ phì đồn. Phong nhũ nghĩa là vú to, phì đồn là mông nần nẫn, ông nghĩ đó là biểu tượng của phụ nữ, của sinh thực mà ai ai cũng thích, nếu không thì là có vấn đề. Nhân vật chủ chốt là người mẹ giàu sức sinh nở và giàu khả năng thương khó. Nội dung tiểu thuyết phải là số phận của những con người, đặc biệt là phụ nữ. Ông dự định viết trong mười năm, nhưng rút cuộc chỉ viết trong chín mươi ngày là xong. Khi thức thì ngồi dậy viết, khi ngủ thì viết trong mơ. Ông viết rất vui, đến nỗi khi viết xong ông lên 10 kg.
Khi tiểu thuyết đem đến nhà xuất bản, vấn đề dầu tiên là ban biên tập không chịu cái nhan đề kia, nó có tính khêu gợi tình dục quá. Nhưng nhà văn kiên quyết không thay đổi, cuối cùng ban biên tập phải nhượng bộ. Khi in ra rồi, búa rìu mới bắt đấu đổ xuống đầu ông. Tại sao quân quốc dân đảng lại được miêu tả tốt, tại sao người cộng sản lại tả xấu, tại sao công kích đảng cộng sản. Người ta thành lập một tiểu ban đến làm việc với ông suốt ngày đêm. Họ chia nhau mỗi người một chương, đọc kĩ và phê phán những chỗ sai trái của ông về quan điểm, lập trường. Ban đầu ông không chấp nhận, nhưng trong số những người làm việc có một người phụ nữ bụng chữa đã vượt mặt, khi trao đổi, ông như nhìn thấy cả đứa bé trong bụng kia đang dẫy đạp. Ông nghĩ đứa bé kia tội tình chi mà cả hai mẹ con đều khổ. Thế là ông chấp nhận. Bao nhiêu bài mà thành viên tổ nghiên cứu viết ra để phê phán ông, ông đều kí tên nhận lỗi hết. Tưởng thế là xong, song cấp trên không muốn thế, họ muốn phải có cái gì xử lí chứ.  Thế là lại tiểu tổ ấy đến vận động ông viết thư đến nhà xuát bản, đề nghị ngưng xuất bản, còn sách đã in thì phong lại đêm tiêu hủy. Ban đầu Mạc Ngôn kiên quyết không chịu. Việc cấm đoán là của các ông, còn tôi, tôi không rút lui tác phẩm. Tiểu tổ lại làm việc với ông cả đêm lẫn ngày. Cái cô bụng chữa kia lại đến thuyết phục nhuwuf lần. Ông thấy thương cô ấy, nghĩ, cuốn sách là cái quái gì, nó quý bàng cái sinh mệnh trong bụng người đàn bà kia không. Thế là ông viết đúng như họ yêu cầu. Nhưng nhà xuất bản vừa tuyên bố sách cấm, phải thu hồi thì trên thị trường sách in lậu phát hành tràn lan khắp cả nước, không ai ngăn được. Trong lúc đó thì trên các báo chí quan phương nhan nhản các bài phê phán ông  với những quy chụp, tội danh, lời dạy đời y như thời kì đại cách mạng văn hóa mấy chục năm trước. Ông bảo tôi hết sức khinh bỉ các bài đó, không chỉ đạo đức tầm thường, trình độ văn hóa thấp kém, hiểu biết nông cạn, mà thái độ lại thô bỉ. Đặc biệt là các nhà văn lão thành, sức sáng tác đã cạn thì lòng đố kị càng hăng, lời lẽ càng ác độc, ông càng coi thường. Một số nhà văn trẻ thì lại do nhu cầu riêng luôn miệng nhân danh nhân dân, tổ quốc, tự coi mình là đại diện cho nhân dân, thiếu một nỗi là khi ra đường thì dán hai chữ nhân dân lên mặt nhằm đánh dấu thân phận mình cho xã hội biết.
Chính trong lúc phong trào phê phán tiểu thuyết đang lên cao thì có một nhóm nghiên cứu sinh văn học của trường Đại học Cát Lâm tổ chức một cuộc tọa đàm về tiểu thuyết Báu vật của đời. Sự phân tích sâu sắc, thấu tình đạt lí và đánh giá cao tác phẩm của Mạc Ngôn, coi đó là thành tựu của văn học Trung Quốc đương đại. Kế đó có một tờ báo nhỏ dũng cảm đem đăng các bài đó lên. Dư luận loang ra, cuộc phê phán đã có chiều thay đổi. Giá trị văn học nằm ở trong tim người, không nằm ở những lời đánh giá có định hướng. Tác phẩm tuy bị cấm nhưng vẫn cứ lưu hành.  Nó được dịch ra nhiều thứ tiếng và cuối cùng được nhận giải Nobel.
Nhà văn Việt Nam muốn có tác phẩm lớn, hãy suy nghĩ và biết tự tin, tự trọng, sẽ có ngày thành công.
(Theo sách Mùi vị của tiểu thuyết của tác giả Mạc Ngôn, nxb. Xuân Phong, Thiên Tân, 2003.)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Việt Nam vẫn đứng ngoài nhân loại và sự phát triển?

Tô Văn Trường

Chỉ cần tra cứu trên các phương tiện thông tin chính thống của Nhà nước có thể nhận thấy, đánh giá tình hình kinh tế trì trệ, vô vàn khó khăn làm người dân rối như “canh hẹ”. Hay nói đúng hơn là những người có trách nhiệm quản lý điều hành đất nước và bộ phận tham mưu giống như những học trò “kém” đang loay hoay đi tìm quỹ tích không hề có trong hình học không gian vậy!

Nguyên nhân cốt lõi 

Tình hình các nước có sự phát triển vượt bực làm cho Việt Nam ngày càng lâm vào cảnh tụt hậu xa hơn. Thể chế và con đường chúng ta đang mò mẫm đi theo kiểu đã có “Đảng và Nhà nước lo” gây nên biết bao hệ lụy nhãn tiền! 


Hiện nay, chỉ có ASEAN, Ucraina, Nga, Trung Quốc, Venezuela và Nam Phi công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, nguyên nhân chỉ vì "kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo", không phải do được quyết định bởi quy luật cạnh tranh tự do của thị trường. 

Cũng là da vàng, tóc đen  sùng bái “Đạo Khổng", Singapore và Hàn Quốc cũng phải trải qua một thời kỳ kinh tế chính trị khắc khổ, độc tài và thắt lưng buộc bụng, mà sao con tàu kinh tế của họ vẫn về đến đích. Sự hy sinh của các thế hệ dẫu sao cuối cùng còn có nụ cười no ấm, dân chủ và hạnh phúc của con và cháu họ.  Ít nhất sự trả giá còn có lối thoát.

Xã hội các nước châu Á có nét phát triển khác với châu Âu nên Mác-Ăng ghen có đề cập đến phương thức sản xuất châu Á. Theo tôi hiểu, thì phương thức sản xuất châu Á có đặc điểm là các cuộc cách mạng xã hội, gắn với các cuộc nổi nổi dậy của nông dân, dù có thành công, cũng chỉ dẫn đến thay đổi dòng họ trị vì chứ không thay đổi chế độ xã hội như đã xảy ra tại châu Âu. 

Do đó, nhân dân Việt Nam đã có câu tổng kết “Con vua thì lại làm làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Nói cách khác, tâm lý phong kiến, tiểu nông đã ăn sâu vào thâm căn cố đế trong tư duy của người dân.

Các nước châu Á chưa qua giai đoạn cách mạng công nghiệp (gắn với thời đại phục hưng) như của các nước tư bản châu Âu. Do đó, nền sản xuất lớn cơ giới hóa được hình thành tại các nước này là do các nước thực dân, đế quốc phương Tây đưa vào chứ không phải do tự thân vận động của các nước đó. Tuy nhiên,  cũng phải thấy Nhật Bản đã chủ động tiếp nhận quá trình công nghiệp hóa để phát triển nên mang tính chất ngoại lệ.

Chính sách đối với các nước thuộc địa của thực dân Pháp và thực dân Anh- Mỹ có nét khác biệt cơ bản. Về mặt kinh tế, thực dân Pháp duy trì nền kinh tế tại nước ta ở trình độ nền sản xuất nhỏ và chỉ đưa yếu tố của nền sản xuất lớn ở mức độ nhất định. Thế nhưng đế quốc Anh- Mỹ đã thực hiện chính sách tư bản hóa giai cấp lãnh đạo tại các nước mà họ đặt chân xâm chiếm, dẫn đến thực hiện công nghiệp hóa tại các nước này. 

Đối với Việt Nam, ai cũng nhìn thấy vấn đề ở đây là hạn chế về tư duy, phẩm chất của nhiều vị lãnh đạo, (do lỗi hệ thống tuyển chọn nhân tài). Vấn đề minh bạch, cần tra soát đề bạt và bãi miễn hệ thống nhân sự điều hành cho phù hợp với năng lực và hoàn cảnh cống hiến trở nên là "vấn đề "của Việt Nam trong con mắt  các nhà đầu tư sáng giá và chuẩn "vàng ròng".
    
 Còn chúng ta thì sao nhỉ? Ra nước ngoài thì cũng là thân phận thấp hèn, dù trí tuệ và nhân phẩm của một nhóm con người ưu tú đâu có thua dân tộc nào. Còn ở trong nước thì từ cao đến thấp phổ biến tự dối lừa bản thân và tự ngạo mạn vô lối. Trong dân gian có câu khẩu ngữ 4 D nói về “nhóm lợi ích” thao túng đất nước  “Đố kỵ, Dối trá, Độc ác, Dửng dưng” nghe thật cay đắng, bởi thế chưa có thời kỳ nào người dân coi thường lãnh đạo như ngày nay.

 Ngược lại, bản thân người dân cũng lúng túng, loay hoay không  biết dựa vào " cột trục" chuẩn mực nào để xây cuộc đời.

Chỉ riêng bài toán kinh tế cũng không có nghiệm vì tình trạng phổ biến là nhiều vị lãnh đạo từ trung ương đến địa phương có xu hướng báo cáo nặng về thành tích, nói đến khuyết điểm chỉ mang tính chất cho có vẻ khách quan, cốt để đánh bóng cho bản thân mình, tìm cách trấn an dư luận xã hội. 

Trong nội bộ lãnh đạo, không có cơ chế kiểm soát hữu hiệu, thiếu sự đấu tranh tự phê và phê bình một cách nghiêm túc dẫn đến mất đoàn kết nội bộ đã được đại hội Đảng nhiệm kỳ VI-XI liên tục ghi nhận nhưng hầu như không chuyển biến. Theo đánh giá của đại hội Đảng lần thứ VI thì đội ngũ cán bộ chiến lược (tham gia vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách) đã phạm sai lầm nghiêm trọng và kéo dài vì bị chi phối bởi hệ tư tưởng tiểu tư sản vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. 

Nợ công và con số thống kê

Để đánh giá “sức khỏe”  của nền kinh tế phải dựa vào các con số thống kê, trong đó có nợ công để đưa ra các quyết sách. Tương tự như trong lĩnh vực khoa học tài nguyên nước, khi muốn xây dựng con đê, cống lớn, nhà máy thủy điện vv…người ta phải dựa vào mô hình toán thủy văn, thủy lực để mô phỏng lựa chọn phương án tốt nhất. 

Độ chính xác của mô hình phụ thuộc vào số liệu cơ bản, chất lượng phần mềm tính toán và  năng lực của người xử lý mô hình. Chỉ riêng số liệu cơ bản đầu vào mà sai  thì chất lượng của mô hình coi như đồ bỏ, nếu sử dụng thì chỉ mang lại tai họạ! Đấy chỉ là trong phạm vi của ngành, còn số thống kê của cả nước sai sự thật, thì hậu quả còn lớn hơn nhiều. 

Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan khi nghe những báo cáo thống kê nửa chặng đường phát triển kinh tế trong 5 năm từ 2011 – 2015, đã phát biểu "Các con số của Việt Nam cứ thế nào ấy. Tôi không dám tin. Thế mà chúng ta lại đem số liệu đấy ra phân tích nữa thì chắc là càng không đúng". Bản thân người viết bài này ngay từ mấy năm trước đã mạnh dạn viết về sự bất cập của số liệu thống kê Việt Nam qua các bài như “Nợ công đại vấn đề”; “Đằng sau các con số thống kê”; “Con số mà biết nói năng” vv…

Theo đánh giá của chuyên gia Vũ Quang Việt nguyên nhân của tình trạng bất ổn định kéo dài từ năm 2008 đến hôm nay thì dường như ai cũng biết. Nhà nước vừa chi tiêu quá trớn, vừa sử dụng chính sách đẩy mạnh tín dụng. Kết quả là đầu tư và phát triển thiếu chất lượng, nợ nước ngoài tăng, lạm phát cao, nợ xấu tăng, nhiều doanh nghiệp mất khả năng trả nợ và nhiều ngân hàng trên bờ phá sản, còn tốc độ tăng GDP thì lại trên đà suy giảm. 

Tất nhiên trong tình hình như thế, doanh nghiệp không muốn đầu tư, ngân hàng bó buộc phải cắt giảm và thận trọng hơn trong cho vay. Đầu tư nước ngoài cũng không thể tăng như trước. Tình hình đình đốn như thế này sẽ còn kéo dài nhiều năm. Chính sách kích cầu chỉ như đổ dầu vào lửa. Tuy nhiên trong tình hình như thế, nhà nước không phải chỉ ngồi bó tay mà cần lợi dụng thời cơ thiết lập lại trật tự kinh tế.  

Một trong những trật tự cần thiết lập (chứ không phải thiết lập lại) là hệ thống kiểm soát và cân bằng (check and balance) giữa Chính phủ và Quốc hội trong hoạt động kinh tế.

Loạn “sứ quân”! 

Ngân sách là phản ánh cụ thể chính sách kinh tế.  Ngân sách hàng năm được Quốc hội thông qua ở nhiều nước mang đầy đủ tính chất của một đạo luật. Vi phạm bằng cách vượt mức chi ngân sách đề ra là vi phạm luật. Điều này Quốc hội Việt Nam chưa bao giờ đặt ra và thực hiện, dù rằng Chính phủ chi vượt qui định là thực tế đã xảy ra hàng năm. Tỷ lệ chi ngân sách vượt mức Quốc hội quyết đã rất cao và còn đang tăng, từ 31% lên 42% trong khoảng thời gian 2007-2011.

Chỉ có thể thấy tính nghiêm trọng của vấn đề trên nếu đem so số nợ vay thêm trên với số nợ tối đa mà Chiến lược vay nợ của Chính phủ đã đề ra cho giai đoạn 2011-2015. Nợ tối đa được qui định là 225,000 tỷ đồng,  tức là 10,6 tỷ US. Tuy nhiên, số nợ tăng thêm tính từ đầu năm 2011 đến tháng 6 năm 2013 đã hơn 11 tỷ US, nhưng vẫn còn 02 năm rưỡi nữa mới hết thời hạn kế kế hoạch.  Đấy là chỉ kể nợ trái phiếu  bao gồm cả tín phiếu ngắn hạn, chưa tính tới nợ vay chính phủ hay ngân hàng nước ngoài.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Bùi Quang Vinh nhận xét tham nhũng, lãng phí trong đầu tư  công xuất hiện chủ yếu từ khâu quyết định chủ trương đầu tư. Hàng loạt các công trình xây dựng xong bỏ hoang, lãng phí không sử dụng, nhưng không ai chịu trách nhiệm cho nên khoản nợ đọng xây dựng cơ bản của các địa phương cả nước lên đến 91.000 tỉ đồng. 

Theo tôi hiểu, thiếu tiền, nhiều địa phương lại tìm mọi cách “moi tiền” mà không biết ai có thể kiểm soát được họ, kể cả phát hành thêm trái phiếu, thêm nợ. Ngay ở Trung ương, ông Vương Đình Huệ Trưởng ban kinh tế tuyên bố là 7% lạm phát nằm trong kế hoạch những năm tới, có nghĩa là bình thường. Với tư duy kinh tế như vậy, không hiểu nền kinh tế của đất nước sẽ đi về đâu?  Lẽ nào, theo Hiến pháp Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước nhưng thực tế mãi mãi vẫn chỉ là “hữu danh, vô thực”!?

Bài học về Vinashin

Ngay từ khi  bùng nổ, vụ Vinashin  đã được nhiều chuyên gia phân tích đánh giá rất sâu sắc. Tôi cũng đã viết bài “Vinashin đừng đánh bùn sang ao”. 

Tháng 2/2013, có ý kiến cho rằng Bộ Tài chính có thể đứng ra bảo lãnh cho khoản nợ quốc tế tới 600 triệu USD của Tập đoàn Công nghiệp Vinashin Vinashin cùng 23 triệu đô la tiền lãi chưa thanh toán thành loại trái phiếu chiết khấu có thời hạn 12 năm, do Bộ Tài chính Việt Nam phát hành để tránh chủ nợ bắt các tầu cũng như ngăn chặn hàng hóa của Vinashin trên thị trường quốc tế để lấy lại vốn. 

Đề án này đã được Tòa thượng thẩm chấp thuận hôm 4/9. Như vậy,  nó không còn là nợ của Vinashin nữa. Bộ Tài chính đang phải “đứng mũi chịu sào” cho bao nhiêu những khoản nợ của nhóm “khu vực chủ đạo” - doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)!?.

Người nước ngoài không cần biết tên Vinashin hay bất cứ thứ tên nào tương tự nữa. Đến ngày đáo nợ họ sẽ đến Bộ Tài chính để đòi. Nếu đã quyết định đẩy các công ty con đi cho người khác chịu  trách nhiệm thì bây giờ cái còn lại đã là 01 công ty mới rồi. Nó không còn liên hệ gì với những cái bị đẩy đi nữa. Nhà nước đã lãnh đủ cái đó rồi. Vậy cái mới có đủ sức sống không thì phải đánh giá tình trạng tài chính và kế hoạch của họ trong tương lai. Thông tin ở đâu để đánh giá?  

Về phát triển ngành đóng tầu trên thế giới thì đây là ngành đi xuống từ trước năm 2006 và sẽ tiếp tục đi xuống. Không có khả năng đóng tầu để bán. Vậy thị trường đóng tầu trong nước như thế nào? Có đóng nổi tầu chiến hay nên mua nước ngoài? Về mặt quản lý thì không hy vọng gì, bởi vì cái hệ thống quản lý quốc gia vẫn như cũ.  Nếu không còn có thị trường đóng tầu thương mại mà chỉ có nhu cầu đóng tầu chiến thì nên giao nó cho quân đội. 

Thay cho lời kết
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia phát triển, và Đảng ta luôn nói lắng nghe mọi ý kiến góp ý, nhưng lắng nghe kiểu như vừa qua, thì rút cục đất nước VN vẫn sẽ đứng ngoài nhân loại, và sự phát triển. Chính sự tôn trọng sự khác biệt, tôn trọng mọi sự sáng tạo, trong đó, có tư duy, mới là động lực kích thích cho dân tộc đó phát triển, và cũng chứng tỏ chính quyền của quốc gia đó mạnh.
Người mạnh là người biết lắng nghe mọi chính kiến khác biệt.

T.V.T

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TIN VĂN GIANG: ĐẮP LẠI CON ĐƯỜNG DẪN RA CÁNH ĐỒNG VỪA BỊ TÀN PHÁ



Trong mấy ngày 17 - 18 - 19 vừa qua, chủ đầu tư dự án Ecopark đưa hàng chục tên xã hội đen đi để bảo vệ máy xúc vào phá cây trồng của bà con xã Xuân Quan - Văn Giang. Hàng trăm người dân đã kéo nhau ra bảo vệ tài sản. Công an huyện VG làm hàng rào chắn ngăn dân để cho máy thi công phá tài sản của dân.  

Với sự yểm trợ của các loại công an, những chiếc xe san ủi đã phá nát vườn chuối và vườn cây cảnh, ruộng lúa đang uốn câu của bà con nông dân.

Những người nông dân tay trắng, nước mắt lưng tròng đứng nhìn những thành quả được đổi bằng thật nhiều nước mắt mồ hôi và...máu !


Chúng cho ủi phá bỏ con đường dẫn ra cánh đồng.

Sáng nay, 21.9.2013, bà con đã cùng nhau đắp lại con đường dẫn ra cánh đồng và bắt đầu trồng chuối, trả lại màu xanh cho cánh đồng đau thương sau trận càn cách đây ít ngày. 

Hình ảnh lúc 09h30 sáng nay:













Phần nhận xét hiển thị trên trang

MẤY Ý NGHĨ TẢN MẠN VỀ THƠ


BÙI MINH QUOC

QUYỀN LỰC THƠ
Thơ cũng là một quyền lực, tôi tin thế.
Hãy cứ xem, dưới các chế độ mà nhân dân bị áp bức, bị chà đạp thì bọn thống trị rất sợ những tiếng thơ chân thực nói tiếng nói của người bị áp bức, bị chà đạp, và chúng tìm mọi cách để dập tắt những tiếng thơ ấy.Nhưng không bao giờ, mãi mãi không bao giờ chúng dập nổi. Đấy là một bằng chứng cho thấy thơ cũng là một quyền lực, nếu không thì việc gì bọn thống trị phải sợ ?

THƠ VÀ NHÀ TIỂU THUYẾT
Tôi tin rằng trong một nhà tiểu thuyết lớn, bao giờ và trước hết cũng là một hồn thơ lớn. Đốt-xtôi-ép-xki là một hồn thơ lớn, dù ông không viết một câu nào theo những tiêu chí thời ông gọi là thơ. Sở dĩ tôi tin thế vì cảm thấy ông nhìn thấu, bằng trực giác thơ chứ không phải bằng con mắt quan sát lạnh lùng, tới tận đáy thẳm chập chờn tranh chấp thiện ác của lòng dạ con người; từng trang viết của ông luôn run rẩy mãnh liệt một xúc cảm thơ trước nỗi thống khổ và niềm khát vọng da diết bất tận của con người thanh tẩy tâm hồn mình để vươn tới cái Đẹp.
Đà Lạt 29.6.2008
BMQ

1
Thi sĩ chật công đường quán nhậu
Hí há phì phà thơ mất máu

2
Đất nước bốn mùa lũ lụt thơ ca
Có giọt chữ nào đọng mảy phù sa ?

3
Những câu thơ như phóng đến tận cùng mọi điều phải nói
Mà xem ra chưa nói được gì
Đời xám nặng mây chì
Thơ lay phay mưa bấc

4
Sao lắm lúc muốn quăng cả hồn lẫn bút
Cái cây bút nhẹ tênh mà vương nợ chi mà
Nhưng cứ mãi vậy thôi, mãi còng lưng cõng bút
Từng bước nhọc nhằn rút ngắn dặm trời xa.
Đà Lạt 1999

5
Kinh viện nghìn chương nhạt thếch giữa biển đời
Thơ một chữ thật lòng sóng dồi động biển.
Đà lạt 18.05.2009


BI KỊCH HÓT
Tưởng bay ngàn dặm thơ
Hóa vòng vo nhảy nhót
Giữa cái lồng rất to
Tự đan bằng tiếng hót.
Đà Lạt 1997
BMQ
------------------

Phần nhận xét hiển thị trên trang

(Soha.vn) - Viên đại tá "diều hâu" Đới Húc ghét Mỹ đến mức ông ta cho rằng mọi vấn đề của Trung Quốc, từ cúm gà đến bạo loạn Tân Cương... đều do Mỹ.

Đới Húc mang hàm đại tá, hiện đang là giáo sư, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu An toàn và Hợp tác trên biển của Đại học Quốc phòng Trung Quốc, ngôi trường tập hợp rất nhiều gương mặt đại diện phe "diều hâu" của quân đội nước này.

Đới Húc sinh năm 1964, theo học kĩ thuật quân sự và hiện nay là khách mời thường xuyên của các chương trình truyền hình bình luận quân sự của Trung Quốc. Đới Húc từng nằm trong danh sách 9 người nổi bật nhất trên mạng internet của Trung Quốc năm 2010.
Đới Húc
Đới Húc "chém gió" trên truyền hình Trung Quốc

Là một “thế hệ mới” trong danh sách những quân nhân diều hâu của Trung Quốc, nhưng có vẻ Đới Húc còn vượt qua cả các bậc “tiền bối” với những ngôn từ đậm chất thù hằn, đặc biệt là những vấn đề liên quan tới Mỹ. Bất cứ vấn đề bất ổn nào ở Trung Quốc như vùng Tân Cương, Tây Tạng đến những điểm nóng trên thế giới như Senkaku/Điếu Ngư hoặc gần đây nhất là Syria thì trong con mắt của viên đại tá này đều là chiêu bài của Mỹ để “sẵn sàng hạ gục Trung Quốc”.
Đới Húc từng bị “ném đá” tơi bời khi lên viết trên weibo cá nhân rằng “cúm gia cầm có gì mà đáng sợ ? Chết được bao nhiêu đâu mà lo ?” đồng thời tố cáo Mỹ tấn công sinh học Trung Quốc bằng các loại virus H1N1, H7N9 và SARS.
Ít ngày sau đó trước sự phản ứng dữ dội của dư luận trong và ngoài nước, Đới Húc lại cho biết tài khoản mạng xã hội của mình…bị ăn cắp. Nhưng đi kèm với đó là lời khẳng định “những ai phản đối và chống lại đều là chó, phải giết”. Chỉ có điều, đại đa số những người phản đối luận điệu của ông này ở trang weibo cá nhân đều là người Trung Quốc.
Viên đại tá diều hâu này liên tục công kích thậm chí kêu gọi Trung Quốc viện trợ và cùng Syria đánh Mỹ. Đới Húc còn cho rằng những vụ bạo loạn ở Tân Cương là do Mỹ xúi giục, và Mỹ có thể sẽ phát vũ khí cho hàng trăm nghìn người Duy Ngô Nhĩ sẵn sàng đứng dậy khởi nghĩa, đe dọa cắt đứt các đường ống dẫn dầu từ Trung Đông. Ông ta cũng nhấn mạnh Trung Quốc giờ đây phải là nước có khả năng gây ra chiến tranh ở lãnh thổ nước khác, khi đó mới đảm bảo an toàn cho người dân của mình.
Lời lẽ cay nghiệt có phần khoác lác của Đới Húc đã nhiều lần làm dậy sóng trên các trang mạng Trung Quốc. Có người cho rằng Đới Húc là đại diện của chủ nghĩa phát xít khi mở mồm là đòi đánh, đòi giết và chiến tranh. Đới Húc từng lên truyền hình cảnh báo người dân Trung Quốc khi có tin Mỹ chuẩn bị đánh Syria, cho rằng toàn dân hãy sẵn sàng chiến đấu vì sau khi Mỹ đánh Syria sẽ đánh sang cả…Trung Quốc.
Trong quan điểm của viên đại tá này, chiến tranh trong tương lai sẽ không phải giữa các quốc gia, mà là giữa các dân tộc, nền văn hóa và tín ngưỡng. Quan điểm này của Đới Húc làm nhiều người lo ngại trước những chiêu tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang ngày một lớn mạnh ở Trung Quốc.
Mới đây nhất, Đới Húc đã bị một phen muối mặt khi đài Tiếng nói nước Nga bóc mẽ ông này tung tin đồn nhảm về tình hình Syria. Ngày 30/8, Đới Húc dõng dạc viết trên trang weibo cá nhân rằng Tổng thống Nga Vladimir Putin ra lệnh chuẩn bị khẩn cấp cho quân đội, sẵn sàng tấn công Ả Rập Saudi nếu Mỹ đánh Syria. Ngày hôm sau, Tiếng nói nước Nga đã công bố bài báo phủ nhận và cho biết đây hoàn toàn là tin bịa đặt. Cư dân mạng Trung Quốc lên tiếng đòi chính quyền bắt giữ Đới Húc bởi trước đó ít ngày, chính quyền Trung Quốc ra quy định bắt giữ tất cả những cá nhân tung tin đồn thất thiệt trên mạng.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Inrasara: Nhà văn & nỗi sợ


2013-NVHLaodong.4
Sợ dã thú, con người hợp quần để tạo sức mạnh, các bộ lạc ra đời. Sợ bộ lạc khác, con người tạo lập cộng đồng có tổ chức mạnh mẽ hơn để tránh bị tiêu diệt, nền văn hóa xuất hiện. Sợ sức mạnh siêu nhiên chưa thể lí giải, con người tạo ra tôn giáo. Vân vân… Thế nhưng, ngoài óc thực tế, loài người còn được ban cho trí tưởng tượng. Bên cạnh ổn định cuộc sống vật chất và đảm bảo an ninh thân xác, con người muốn làm giàu sang đời sống tinh thần của mình. Một khi sử dụng đến trí tưởng tượng ấy, tinh thần phiêu lưu được huy động tối đa vào cuộc. Từ đó, sự dũng cảm – không phải là dũng cảm của tự vệ, mà là cái dũng của sáng tạo – có đất sống.
Để thỏa mãn trí tưởng tượng cùng tinh thần phiêu lưu kia, kẻ thám hiểm, đạo sĩ cô đơn, nhà tư tưởng, nhà văn… ra đời. Dĩ nhiên, nếu là nhà văn, phải là nhà văn lớn. Sợ hãi và dũng cảm song hành tồn tại trong suốt lịch sử nhân loại. Cả ở phạm vi cá biệt nhất: văn chương.

1. Hắn bị ném vào thế giới ngôn ngữ đó trong cộng đồng văn học đó. Ở đó, cộng đồng lớn nhất là Hội Nhà văn Việt Nam, tiếp đến là các chi hội địa phương, rồi bạt ngàn câu lạc bộ thơ văn các loại rải rác khắp đất nước. Hắn sống trong đó, thở hơi thở bầu khí quyển nền văn học đó. Không thể khác. Để tồn tại, hắn phải phấn đấu vào tập thể đó, gò mình chấp nhận vài khế ước cộng đồng. Hắn cần đút túi tấm thẻ Hội Nhà văn, để được cộng đồng hay ít nhất – tập thể kia gọi là “nhà thơ”, “nhà văn”. Sợ không là gì cả, không ai biết đến sự tồn tại của mình, hắn cần đồng hóa với một tập thể lớn hơn. Như kẻ hâm mộ tự đồng hóa với thần tượng, Zidane hay Micheal Jackson. Như công dân đồng hóa với quốc gia, tôi người Mỹ, mà Mỹ thì oách hơn Maroc là hẳn rồi.
Trước tập thể to lớn kia, hắn sợ đứng một mình. Hắn sợ cô đơn – cô đơn như là định phận của nhà văn.
Viết, hắn không những bị chi phối bởi tập thể chuyên môn, mà còn vì một tập thể khác lớn hơn mà sinh phận hắn gắn vào: nghề nghiệp (giáo chức chẳng hạn), dòng tộc, hay cơ chế chính trị của quốc gia hắn sống. Viết, mắt hắn luôn dè chừng lắm lét nhìn trước ngó sau, xem sinh viên hắn nghĩ sao khi đọc đến trang viết lạ lẫm này, bà con họ hàng phản ứng thế nào trước câu thơ táo bạo kia. Rồi đoạn văn nhạy cảm nọ có bị dao kéo kiểm duyệt của chế độ cắt xén không? Dù một mình trước trang giấy, hắn vẫn không cô đơn. Hắn sợ. Sợ tác phẩm không được in, nếu in thì bị dư luận phê phán, hay lớn hơn – bị thu hồi. Sợ, hắn tự kiểm duyệt, sao cho vừa vặn với tầm mong đợi của số đông, của thứ mĩ học đang lưu hành được cộng đồng chấp nhận.
Chịu chan hòa với đồng nghiệp, chịu tự kiểm duyệt nhưng hắn vẫn bị nỗi sợ hãi ám. Bao nhiêu là sợ hãi, như loài ma, không thoát ra được. Sợ dư luận hờ hững, hắn cần đến buổi ra mắt sách, cần đến báo chí giới thiệu. Sợ bị nhà phê bình chê, hắn xun xoe đủ kiểu để tránh làm nhà này mất lòng. Sợ bị hiểu sai, bị chụp mũ, hắn thêm tâm lí định hướng dư luận. Ý tôi thế đó, đoạn văn trên nghĩa thế này, xin đừng hiểu lầm tôi… Dòng chữ cuối cùng đã kết, cuốn sách đã ra khỏi nhà in, hắn vẫn chưa thôi nơm nớp lo sợ. Hắn không chịu để chính tác phẩm tự vệ, mà luôn ngoảnh lại để bảo vệ “đứa con tinh thần” của mình. Nhà văn nói thay tác phẩm, là điều nhảm nhất trong tất cả điều nhảm diễn ra trong sinh hoạt văn học Việt Nam, thời gian qua.
Cuối cùng, sợ tác phẩm chết trước khi tác giả qua đời, là nỗi sợ lớn nhất của hắn. Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, tên tuổi hắn cùng lắm chỉ nằm ở góc khuất trong Kỉ yếu của Hội ở mỗi mùa Đại hội. Có khi nó chỉ có mặt mơ hồ đâu đó nơi dấu ba chấm (…), rất tội. Viết, hắn hi vọng để lại dấu ấn hoành tráng hơn, trong văn học sử. Nạn chạy hội thảo, nạn tự làm tuyển tập dăm năm qua trong văn giới như một thứ dịch, là rất điển hình. Một điển hình nhảm của nền văn học nước nhà. Lo lắng văn chương mình bị thời gian gặm nhắm, hắn hối hả gom tất cả trang viết qua vài chục năm sáng tác, “gạn đục khơi trong”, để làm tuyển. Lắm lúc “tinh tuyển”. Tinh tuyển có khi lên tới… mấy trăm trang! Các bài báo viết vội, bài giới thiệu sách khen lấy được, mấy phát biểu cảm tưởng vu vơ, vân vân… cũng được thu gom về làm tuyển. Làm, và chạy biếu thư viện từ trung ương đến địa phương, lớn nhỏ chẳng chừa. Tuyển, để không ai đọc cả. Thương!

2. Từ bao nỗi sợ kia, nhà văn – dù được liệt vào nòi sáng tạo, vẫn thích đi trên con đường mòn. Sợ đi lệch lối mòn các bậc văn hào thi bá đã đi, sợ khác truyền thống, sợ khác cả người viết cùng thời. Nhưng sáng tạo là gì, nếu không phải là thả cho trí tưởng tượng bay bổng, khai phá xứ miền xa lạ để làm ra cái mới. Ý thức được sứ mệnh cao cả này, không ít nhà văn đã thử nhập vào phong trào cách tân. Họ đã dám làm khác thế hệ đi trước, khác đàn anh đàn chị hôm qua, thế rồi bởi rất nhiều nguyên do, họ không dám chặt đứt cây cầu vừa bước qua, để còn cơ may trở lại. Họ vẫn ở lại, ở lại để giống nhau. Giống người viết cùng thời. Xuất phát điểm vẫn là do sợ hãi, sợ cô đơn. Sợ rơi lạc khỏi bầy đàn.
Làm thế nào nhà văn Việt Nam hôm nay có thể thoát khỏi bóng ma sợ hãi kia?
Mở mắt chào đời, hắn nhìn thấy cha mẹ, anh chị, thấy cô bác, anh họ chị họ, ông bà họ nội ngoại, dì dượng gần xa, vô thiên lủng… Chớ gì ai dại dột đi phản đối truyền thống đùm bọc ấm áp đó. Nhưng lạ là dường tất cả sẵn sàng chỉ tay khuơ khoắng nên thế này với không được thế nọ đầy quyền uy, đe nạt. Nề nếp gia phong luôn được đặt lên hàng đầu, trói buộc tiềm năng sáng tạo của cá nhân. Truyền thống gia đình Việt Nam dạy con cháu yêu quý sự ổn định hơn là đam mê tinh thần mạo hiểm khai phá. Từ đó, cá nhân sớm hài lòng với thành quả nhỏ bé đạt được, chứ không nỗ lực theo đuổi mục đích to lớn hơn.
Gia đình đã vậy, nhà trường cũng chẳng hơn. Thực tế, môn triết học – được cho là môn học nền tảng của mọi nền tảng giúp con người suy nghiệm cuộc sống chiều sâu – đến hôm nay vẫn chưa có mặt nghiêm túc trong các Đại học Việt Nam. Không có truyền thống triết học, ta cũng chưa sẵn sàng cho truyền thống đó. Ngồi giảng đường, sinh viên không được khuyến khích suy tư độc lập, thì làm gì hi vọng sau đó họ phát kiến ý tưởng mới lạ, liều lĩnh khai phá lối viết mới mẻ, dám thể hiện mình (không phải thể hiện cái tôi chủ quan èo uột hay lớn lối như đã) mà không ngại thất bại. Còn xã hội mênh mông ngoài kia thì miễn bàn. Bởi xã hội là gì, nếu không là các cá nhân họp lại?
Bao nhiêu là nỗi sợ hãi vây bủa nhà văn. Dưới hay trên, ngoài và trong, xa và gần! Sợ bị soi mói, bị chụp mũ. Sợ cho mình, sợ cho nhau và sợ nhau, nên người viết rất sợ mình viết không giống ai. Vừa viết, ta vừa liếc sang kẻ bên cạnh. Ta sợ đi một mình. Là nỗi chưa đủ cô đơn cho sáng tạo. Cô đơn đầu tiên và cuối cùng. Sự cô đơn cần thiết để tạo nên tác phẩm lạ biệt.
Chưa đủ cô đơn trong giai đoạn đầu tư thai nghén. Nhà văn bị cuốn vào cuồng lưu hội hè đình đám, hội thảo chòm nhóm. Văn chương chưa ra trường phái đã biến thành phe phái. Chưa đủ cô đơn khi đối diện với trang giấy/ màn hình trắng. Bao nhiêu bóng ma u ám, giọng nói mơ hồ lởn vởn trong ta, quanh ta, sẵn sàng đe dọa thân xác ta, uy hiếp tinh thần ta. Nó lên tiếng thì thầm vào tai hay trừng mắt răn đe, riết rồi ta lơi tay hay bẻ cong ngòi bút lúc nào không biết. Chưa đủ cô đơn cả lúc tác phẩm đã sinh hạ. Ta dỏng tai nghe ngóng dư luận về nó, rằng nó có vấn đề gì không, các nhà phê bình có để mắt đến nó và, tệ hơn cả là ta mãi tư thế đứng ra bảo vệ nó khi nó bị chê bai.
Bấy lâu, nhà văn Việt Nam luôn là con người của số đông. Số đông trong giới văn nghệ, số đông giữa người đọc và, số đông cả khi chỉ ngồi một mình, cô độc! Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo, nhà văn không dám sống tới cùng tư tưởng chọn lựa, không dám viết tới cùng, và nhất là không dám theo đuổi đến cùng dự án lớn lao không giống ai của mình [nếu hắn may mắn nghĩ ra được và hoạch định trước đó]. Mà đã sợ hãi, thì làm gì có sáng tạo đúng nghĩa!

3. Thế nhưng, đâu đây vẫn có kẻ chinh phục được nỗi sợ, dám tách đàn để làm cuộc đi cô độc. Vẫn có nhà văn viết mà không hề bị ám ảnh bởi bóng ma kiểm duyệt nào bất kì. Vẫn còn tên tuổi dám thách thức tầm mong đợi của độc giả, mà không sợ thất bại.
Triết học hiện sinh đặt nền tảng trên cảm thức xao xuyến angoisse. Con người bị ném vào thế giới, rùng mình khi ý thức sinh phận nhỏ bé đầy hữu hạn trước vũ trụ vô cùng. Nỗi sợ hãi căn nguyên vồ chụp lấy hắn. Hắn chạy tìm chỗ bấu víu, cố vùng vẫy, vẫn không thoát ra được. Cảm thức kia luôn trở lại và ở lại. Đức Phật cho rằng chỉ khi con người ý thức sâu thẳm nỗi sợ căn nguyên kia, sống với nó và chinh phục nó, con người mới tìm được chân hạnh phúc.
Con của loài người không có đất gối đầu, nên cần đến bàn tay an ủi vỗ về – ai nói thế? Lạ, nhà văn lại là loài, hay đúng hơn là kẻ tự nguyện chọn vô sở trú trên bước đường cô độc và bất trắc của sáng tạo. Tiếp nhận truyền thống, sở hữu ngôn ngữ dân tộc, là thành viên của Hội đủ loại… nhưng hắn phải cô đơn toàn phần khi đối mặt với trang viết. Đó chính là khoảng trắng của sáng tạo, là quê hương thân yêu của hắn. Khoảng trắng đầy bóng tối, nguy cơ làm hắn run rẩy, chùn bước. Chính tại đây – như Đức Phật đòi hỏi kẻ tu hành vô bố úy trước cái KHÔNG – nhà văn cũng tự giữ tâm trí không nao núng,không sợ hãi trước khoảng trắng này.
Vậy, làm thế nào một nhà văn có thể trụ vững, mà không thối chuyển? Không gì khác! Hắn hiểu mệnh, nhận mệnh và, yêu mệnh. Yêu mệnh Amor Fati theo nghĩa mạnh mẽ nhất của từ.
Nhà văn là kẻ sống thời đại mình, phơi trần toàn bộ con người mình ra với nó – trọn vẹn. Trong lúc thời cuộc ẩn chứa đầy rẫy tai ương rình rập. Sợ hãi, hắn đã từng đui điếc trước thời cuộc, chui vào vỏ sò cô độc, viết vọng ra. Không ít kẻ chạy thoát thân, như đám chuột vội vã rời bỏ con tàu sắp đắm; rồi khi đã yên ấm, từ ngoài viết vào, như thể một cách ban bố. Số khác chọn cho mình quyền vô trách nhiệm với cuộc sống nhân quần, sống chết mặc bây… Có thể không? Khi tất cả đã bị đẩy xuống tàu, con tàu thời đại. Nhà văn không thể chọn lựa, dù hắn biết con tàu hôi rình và, trong đó bao nhiêu là kẻ thô bạo, sẵn sàng quăng ném hắn xuống biển đen.
Thức nhận định phận, nhà văn học chấp nhận cư trú trên đường biên nhiều bấp bênh bất trắc, chịu sự co kéo giằng xé giữa miếng bánh béo bở của quyền lực và sự cô đơn bần hàn của sáng tạo. Hắn không sợ cô đơn, không sợ cô độc, cả không hãi cô lập. Hắn hiểu sâu thẳm rằng sinh phận của hắn là trở về với trang viết, cô đơn trước trang viết, một cô đơn toàn phần. Nỗi cô đơn không ai có thể lấy đi của hắn. Là giấc mộng của hắn. Hắn yêu nó như là quê hương mình, ngôi nhà vĩnh cửu mà định mệnh đã dành cho hắn.
Chắc chi thiên hạ đời nay
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao.
(Nguyễn Trãi)
Suốt chiều dài lịch sử văn học, kẻ sáng tạo luôn bị rầy. Ở đâu cũng vậy, chế độ nào cũng thế. Solzhenitsyn sau thời gian dài chịu tù đày, đã bị trục xuất khỏi quê hương. Kazanzakis bị mạt sát, rẻ rúng ở Hi Lạp. Sách Henri Miller bị cấm bán thời gian dài tại Mỹ đến nỗi người Mỹ phải mua lậu sách ông từ Pháp mang về. Mới nhất, Orhan Pamuk bị đại đa số trí thức Thổ Nhĩ Kì tẩy chay, đành sống cuộc đời bán lưu vong…
Bị rầy, kẻ sáng tạo luôn nhớ nhung miền “chiêm bao” vời vợi. Cho bị rầy, chấp nhận “hòa” vào nỗi “non nước” để “thiên hạ đời nay” rầy, nhưng hắn vẫn không thôi nhớ nhung. Trăm bận quyết dứt áo ra đi, trăm lẻ một lần mang thân trở lại. Sự giằng xé co kéo diễn ra ngay trong tâm thức kẻ sáng tạo. Kéo dài, và thường trực. Cuộc chiến tinh thần – theo cách nói của Rimbaud – như muốn hủy hoại hắn. Hắn quyết hóa giải để hòa giải chúng, dịch chuyển “non nước” vào trong “chiêm bao”, biến “non nước” làm một phần không thể thiếu của “chiêm bao”, cho chính sự “rầy” chốn “non nước” kia thành chất liệu làm giàu sang xứ miền “chiêm bao” mộng huyễn của hắn.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

bằng cấp chuyên gia thơ


 
“Nhà thơ lỡ thời là nhà thơ hay. Nhà thơ theo thời là nhà thơ dở. Nhà thơ vượt thời là nhà thơ ngốc. Mời các chuyên gia bình luận phát biểu ấm ớ này và biểu bài thơ bên dưới đi chỗ khác chơi!”  LDV
ấy này là thời đại của các chuyên gia 
huấn luyện khóa ngắn hạn 
chỉ cần chiều cao và giọng vênh quả quyết 
mua nhà cần chuyên viên địa ốc 
giảm cân cần chuyên gia dinh dưỡng 
nghệ sĩ tìm cố vấn hình tượng 
thơ cũng đua đòi giám định thẩm mỹ đương đại
ngôn ngữ chuyên gia phải đầy phán quyết 
lấp liếm thiển cận 
có hoặc không 
hay hoặc dở 
chắc chắn không là có-thể, tùy theo 
thái độ lưỡng lự 
phản ánh 
điều không đáng tin 
thiếu tầm đổi mới 
thơ ngập ngừng là thơ sắp lỗi thời 
chuyên gia rởm thường lộ nước đôi
nhận định sai lệch không bao giờ nằm ở cổ chai 
sấn sổ 
biếng nhác 
thâu hẹp 
ảo tưởng quá đà 
của ta 
của người 
hay của thơ người ý ta suy diễn ra 
hay thơ ta tùy tiện áp đặt người
khi đối diện sức ảnh hưởng tương lai 
thơ phản ánh thời đại 
hay đại loại những thế lực ngược lại 
các nhà tư vấn chữ nghĩa nghiệp dư 
các chuyên viên thẩm định thơ tự xưng 
chen lấn vào khung bình luận 
công cộng cao tiếng dõng dạc 
nguyên âm hóa hội chứng tự kỷ 
lẽ ra 
mắt nên liếc trái những bài thơ 
cầu viện

Phần nhận xét hiển thị trên trang