Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

HẢI DƯƠNG: CẢ LÀNG BIỂU TÌNH SUỐT CẢ TUẦN ĐỂ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG



Người dân dựng lều, bao vây lối vào Công ty Trường Khánh - Ảnh: T.Hoàng
Vây nhà máy gây ô nhiễm: Nhiều người bị dọa giết


TT - Khoảng một tuần nay, nhiều người dân ở xã Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương liên tục nhận được tin nhắn dọa giết, hành hung, khủng bố bằng “bom xăng”... vì dựng lều bao vây, phong tỏa đường, ngăn cản Công ty TNHH Trường Khánh hoạt động.

Video này được bà con đưa lên mạng:

Nguồn của Video: Mạng Youtube 
Sự việc xảy ra vì Công ty Trường Khánh không có giấy phép, chưa làm các thủ tục đánh giá tác động môi trường nhưng đã tự xây nhà máy sản xuất pro niken gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân. 

Ném “bom xăng”, đổ phân vào nhà 

Ông Nguyễn Văn Hanh (44 tuổi, thôn Châu Xá) cho biết từ đầu tháng 4 người dân phát hiện Công ty Trường Khánh vận hành nhà máy sản xuất pro niken liên tục nhả khói đen vào môi trường. Mỗi lần nhà máy nhả khói, người dân trong xã ngửi được mùi hôi tanh khó chịu gây tức ngực, khó thở. Sau đó người dân kiến nghị đến các cơ quan chức năng nhưng không thấy chính quyền giải quyết. Sau khi tìm hiểu phát hiện Công ty Trường Khánh không có giấy phép hoạt động nhà máy sản xuất pro niken nên ngày 13-6, hàng trăm hộ dân trong xã đã dựng lều chặn đường vào công ty.

Ông Khoa nói pro niken là một hợp chất được làm từ vôi kết hợp với 1% than cốc, 25% bột niken, 10% đá thạch anh đưa vào lò đốt nung chảy tạo ra hợp chất sơ chế. Sau đó pro niken sơ chế này sẽ được xuất sang nước ngoài để tinh chế thành mạ crôm dùng mạ ôtô, xe máy.


 .
Ngày 19-6, có một số người lạ mặt đến yêu cầu người dân tháo dỡ lều bạt nhưng người dân không nghe. Ông Hanh (được người dân cử ra làm đại diện gửi đơn kiến nghị) cho biết ngay hôm sau nhận được tin nhắn từ số điện thoại lạ dọa giết nếu không vận động bà con tháo lều bạt. Chiều 23-6, khi đang trên đường từ ngoài đồng về nhà thì ông Hanh bị năm thanh niên lạ mặt chặn đường, ông quay xe chạy thì những thanh niên này cầm gậy đuổi theo vụt ông. Đêm 24-6, gia đình ông Hanh đang ngủ thì nghe chó sủa và sau đó có người ném vật lạ vào nhà. Khi mở cửa ra, cả vợ chồng ông Hanh choáng váng vì thấy trên tường, trước cửa, sân nhà nhầy nhụa phân trộn với dầu nhớt và bùn được ném vào.

Ông Nguyễn Văn Hanh chỉ vào đống phân trộn lẫn bùn, dầu nhớt bị người lạ mặt ném vào nhà

Đỉnh điểm của sự việc xảy ra đêm 25-6 khi gần chục người dân xã Duy Tân đang ngồi trông lều ở lối vào công ty thì bị khoảng 20 người lạ mặt đến đập phá, quăng “bom xăng” vào đốt lều. Ông Nguyễn Văn Tuấn (50 tuổi, thôn Châu Xá), một trong những người có mặt tại lều hôm đó, kể: “Hôm đấy có tất cả tám người đều là đàn ông ở lại trông lều. Khi chúng tôi đang đánh cờ, có khoảng 20 người đi đến đập vỡ bóng điện chúng tôi treo ngoài đường. Khi đến gần, họ quăng “bom xăng” vào lều, may mà chúng tôi còn thức nên chạy kịp”. Ông Tuấn cho biết thêm những người lạ mặt này đập phá lều, đập vỡ ba xe máy của người dân. Có người vì tiếc xe quay lại thì bị hành hung nên sợ quá phải bỏ chạy. 

Nhà máy hoạt động trái phép, 3 lần đình chỉ không xong 

Ông Lê Văn Kha, chủ tịch UBND xã Duy Tân, cho biết sự việc xảy ra là do Công ty Trường Khánh hoạt động không đúng mục đích, xây nhà máy sản xuất pro niken khi chưa được cấp phép. Theo đó, tháng 10-2011 UBND xã Duy Tân làm hợp đồng cho Công ty Trường Khánh thuê 11.700m2 đất xây dựng công ty sản xuất vật liệu xây dựng là vôi và xây dựng khu vui chơi giải trí, trồng cây lâu năm. Tháng 2-2013, khi phát hiện công ty hoạt động sai mục đích, UBND xã Duy Tân đã đình chỉ hoạt động và yêu cầu Công ty Trường Khánh tự tháo dỡ nhà máy xây dựng trái phép. “Trong quá trình yêu cầu, công ty vẫn cố tình hoàn thiện, xây dựng nhà máy. Công ty không tháo dỡ mà vẫn tiếp tục hoạt động nên người dân mới bức xúc” - ông Kha nói.

Tiếp đó ngày 20-5, UBND huyện Kinh Môn có thông báo về việc dừng hoạt động sản xuất kinh doanh đối với Công ty Trường Khánh vì có vi phạm trong quá trình quản lý sử dụng đất, xây dựng công trình trái phép. Tuy nhiên, Công ty Trường Khánh vẫn không thực hiện theo thông báo này. Ngày 10-6, UBND huyện Kinh Môn tiếp tục có thông báo số 50 yêu cầu Công ty Trường Khánh triệt để chấp hành, ngừng đốt lò nung, dừng mọi hoạt động sản xuất pro niken và hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đánh giá tác động môi trường trước khi hoạt động trở lại. Công ty Trường Khánh không những không chấp hành việc tháo dỡ nhà máy mà tiếp tục đốt lò nung nên người dân xã Duy Tân bức xúc dựng lều phong tỏa lối vào công ty. 

Sáng tháo ống khói, chiều lắp lại 

Ngày 28-6, ông Đỗ Long Vân - phó trưởng Công an huyện Kinh Môn - cho biết cơ quan điều tra công an huyện đang điều tra, xác minh vụ việc người dân tố bị côn đồ hành hung, khủng bố. “Chúng tôi đã cử cán bộ xuống địa bàn để ổn định tình hình trật tự và thuyết phục, vận động người dân tạm thời tháo dỡ lều bạt. Còn việc người dân tố bị hành hung, khủng bố thì chúng tôi đang tiếp tục điều tra” - ông Vân nói.

Ông Tiêu Văn Hồng, chủ tịch UBND huyện Kinh Môn, khẳng định đã lập tổ công tác giải quyết, làm báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh xử lý vụ việc. Ông Lê Văn Kha cho biết thêm: “Chúng tôi đã gọi ông Trần Văn Khoa, giám đốc Công ty Trường Khánh, đến để tìm hướng giải quyết. Công ty đã đồng ý tự tháo dỡ từ ngày 19-6, di chuyển vật liệu xây dựng ra khỏi khu vực. Chính quyền đã yêu cầu ngắt điện bắt buộc công ty ngừng sản xuất. Nhưng người dân vẫn phong tỏa đường nên công ty không đưa xe vào được. Ngày 24-6, chúng tôi đã ép buộc tháo dỡ, công ty đưa xe vào nhưng mới chỉ tháo được ống khói”. Trong khi đó, ông Nguyễn Văn Hanh cho rằng người dân vẫn phong tỏa đường vào vì thấy phía công ty không thực hiện nghiêm việc tháo dỡ. “Phải tháo dỡ toàn bộ nhà máy vì đây là nhà máy xây trái phép. Công ty chỉ tháo ống khói, đến tối lại lắp vào để sản xuất, tiếp tục gây ô nhiễm thì chúng tôi không nghe” - ông Hanh nói.

Tối 28-6, trả lời Tuổi Trẻ, ông Trần Văn Khoa thừa nhận xây dựng nhà máy sản xuất pro niken khi chưa được chính quyền địa phương cho phép. “Tôi xây trên đất đã thuê, vì còn kém hiểu biết về vấn đề đất đai nên tôi làm thiếu thủ tục. Cái này sai, chịu xử lý hành chính theo luật thì tôi sẽ chấp hành” - ông Khoa nói. Ông Khoa cho biết đã đồng ý yêu cầu tháo dỡ máy móc nhưng gặp khó khăn vì đường vào công ty bị người dân bao vây hơn chục ngày nay. “Chính quyền xã yêu cầu tháo dỡ, nhưng không thể bắt chúng tôi tháo hết và di chuyển đi ngay được. Nhà máy chứ có phải cái ôtô đâu mà bắt đánh đi là lái đi được ngay” - ông Khoa nói. Về việc người dân bị dọa giết, bị người lạ đốt lều, ông Khoa khẳng định công ty không liên quan đến việc này.

THÂN HOÀNG
Không phát hiện sớm vì tin vào báo cáo của công ty

Trả lời câu hỏi về việc vì sao suốt quá trình công ty xây dựng trái phép nhà máy sản xuất pro niken mà chính quyền xã không phát hiện, ông Lê Văn Kha nói: “Khi đó chúng tôi cũng phát hiện, nhưng khi đến kiểm tra thì họ nói làm nhà máy để sản xuất vôi đưa vào miền Nam nên chúng tôi không biết họ làm để sản xuất pro niken”.
Nguồn: Tuổi Trẻ 
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nóng nực quá!


Hình ảnh: ...Ngân hà chảy ngược lên cao
Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng bờm
Bờ ao đom đóm chập chờn
Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi...
(Nguyễn Duy)



...Ngân hà chảy ngược lên cao
Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng bờm
Bờ ao đom đóm chập chờn
Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi...
(Nguyễn Duy)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trích TT:

15.
Năm Bính Thân là năm lũ lụt khủng khiếp xảy ra trên lưu vực sông Hồng Hà. Hầu như khắp đồng bằng bắc bộ năm ấy ngập lụt kéo dài. Người ta chưa quên trận lụt Ất Dậu, sau đó là trận đói, người chết như ngả rạ, chỉ cách đó hơn nửa con giáp.
Đê sông Lư bị vỡ ở một vài đoạn gần nơi đổ ra sông Hồng. Nhưng đó là cảnh tượng kinh hoàng xảy ra ít ngày sau khi tôi trở về làng.

Chiều hôm đó, mẹ tôi phải mang thêm một xuất cơm nữa cho tôi ở ngoài đình. Cho đến lúc đó tôi vẫn chưa được gặp và nhìn thấy mặt cha tôi, dù cả hai cùng bị giam chung một chỗ.
Nơi nhốt cha tôi người ta canh chừng cẩn mật hơn. Ngay cả đến mẹ tôi khi bà mang cơm đến vẫn phải chờ ở bên ngoài. Người ta sẽ mang vào cho cha tôi. Ông ăn xong đồ đựng mới được đêm ra trả cho mẹ tôi mang về, lấy cái đựng cho bữa sau.
Những người giam chung với tôi hình như đã quen với cảnh bức bối. Lại bị đói lâu ngày nên khi người nhà mang cơm đến, họ đón ngay lấy ăn ngấu ăn nghiến. Có người bớt lại một phần, nắm nhỏ lại như quả ổi. Sau đó nhấm nháp như thể cơm là thứ quý giá, ngon lành chưa được biết đến bao giờ, không nên ăn hết ngay một lúc.
Tôi như con chim đang bay nhảy tự do, đột ngột bị giữ lại nơi này, cảm giác ngột ngạt thật khó tả.
Đối với tôi gian nhà này là khối không gian nhỏ bé, chật chội, nồng nặc mồ hôi người tính bằng mi li mét khối.
Kể cả ban ngày, ánh sáng cũng chỉ lờ mờ yếu ớt vì không có cửa sổ. Tôi không làm sao nuốt nổi phần cơm mẹ tôi mang vào. Tất nhiên là cơm canh cũng chẳng có gì đặc biệt. Đối với tôi cơm ngon hay không lúc này không để tâm đến. Tôi chỉ ăn được chút ít rồi cho người bên cạnh. Bác này người hốc hác, ốm nhom, đã mấy ngày nay không có ai mang đồ ăn thức uống cho bác ấy.
Ai đó nói thì thầm: “ Khốn khổ, chả biết ông ấy mắc tội lỗi gì, vợ con đã từ cả. Thôi thì mỗi người san cho ông ấy một chút. Cứ nhịn đói thế này sống làm sao nổi?”.
Đấy là câu chuyện duy nhất tôi nghe được từ lúc vào đây.
Lạ một nỗi cùng chung cảnh ngộ, mà không ai thổ lộ, than vãn với ai một lời. Một nỗi sợ hãi mơ hồ nào đấy khiến người ta phải thận trọng, e dè lẫn nhau. Mỗi người là một thế giới tối tăm và bí hiểm không thể sẻ chia và thông cảm được cho nhau!
Tôi cố gắng dò hỏi để biết thêm đang xảy ra chuyện gì bởi từ lâu mình vắng nhà. Mọi cố gắng tìm hiểu của tôi đều không thành. Cuối cùng tôi chẳng biết thêm chuyện gì ngoài những chuyện vô thưởng vô phạt.
Đêm tối chụp xuống rất nhanh.
Cái nóng oi ả ngày hè như dồn cả vào lúc đầu hôm, nóng bức không thể tả nổi. Quần áo tôi mặc trên người mồ hôi túa ra ướt như bị nước mưa.  Ngoài trời thỉnh thoảng lòe lên ánh chớp. Ai nấy cũng mong trời đổ xuống cơn mưa. Chỉ có cơn mưa mới có thể làm dịu nóng bức vào lúc này. Mấy mảnh quạt mo, gió quẩn gần như chả có tác dụng gì. Lại thêm muỗi vo ve xà vào mặt, vào cổ. Giống ký sinh này hình như không sợ nóng bức, càng nồng oi, chúng lại càng hăng hái lăn xả vào những con người khốn khổ, không mùng màn, năm co ro trên nền đất.
Mấy ngày đi đường cực nhọc, dồn dập bao nhiêu chuyện choáng váng bất ngờ, đầu óc tôi như mụ đi, không còn khả năng suy nghĩ gì nữa.
Tôi thiếp đi trong giấc ngủ đầy mộng mị..
Tôi thấy mình đang qua một con sông rộng, nước to, không nhìn thấy bến bờ nơi đâu? Thuyền thì mong manh, chắp vá bằng những mảnh gỗ đã mục ải, nước đang rò rỉ, tràn vào lòng thuyền qua những mối ghép nứt nẻ.
Bốn bề hoang vắng đến rợn người. Chỉ nghe thấy tiếng nước réo ào ào, cuộn lên mặt sộng những đụn nước trắng xóa hình con voi rờn rợn.
Người lái đò không biết đã biến mất từ khi nào? Có thể ông ta đã bị sóng đánh ngã nhào xuống sông, có thể ông đã nhảy xuống bơi vào bờ??
        Tôi cuống cuồng trên chiếc thuyền không lái, chưa biết tính cách nào. Chợt một cột nước dựng đứng ngay trước mũi thuyền, rồi đổ ập xuống. Trời đất trắng đục một mầu. Không còn nghe thấy gì, nhìn thấy gì nữa.. Tôi bất lực, nhắm mắt lại, bỏ mặc cho cảnh ngộ muốn đến đâu thì đến!
Tôi cứ thế trôi qua những cánh đồng cây ngả nghiêng, xơ xác. Qua những cụm tre làng chỉ còn túm ngọn vật vờ ngả nghiêng theo dòng. Những con trâu hốt hoảng co ro đứng trên mái nhà. Không hiểu sao những mái rạ mỏng manh như thế lại không bị sụp xuống dưới sức nặng của những thân trâu?
Tôi thấy mình là một chiếc lá, rách nát, bỏng rát trôi đi.. Một con trâu từ đâu xồng xộc lao đến dẵm lên ngực tôi đau nhói, làm tôi bất thần tỉnh dậy. Tôi vừa qua một cơn ác mộng thực tại, hay là điềm báo trận lũ sắp xảy ra? Điều này mãi cả sau này tôi vẫn không tự giải thích được cho mình!
Thì ra tôi đang mơ giấc mơ khủng khiếp của riêng mình. Không có con trâu nào cả. Cảm giác đau ban nãy là có ai đó hoảng hốt dẫm lên ngực tôi, khiến tôi đau ê ẩm.
Hình như bên ngoài đang xảy ra chuyện gì đó. Một người cùng phòng đang tìm cách ngó ra bên ngoài qua lỗ thủng nhỏ gần chỗ tôi nằm. Ông ta vô ý đã dẫm phải tôi..




( Còn nữa..)



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Giới thiệu sách

Rồng nằm, Cọp ẩn: Liệu Trung Quốc và Ấn Độ có thể khống chế phương Tây được chăng?

Đỗ Kim Thêm


Giới thiệu sách: Prem Shankar Jha, Crouching Dragon, Hidden Tiger: Can China and India Dominate the West? Soft Skull Press, Berkely, 2010, ISBN 13: 978-1593762483

VẤN ĐỀ

Các báo cáo quốc tế đều đi đến kết luận chung là những thành tựu kinh tế đầy ấn tượng của Trung Quốc và Ấn Độ đang đe doạ thế giới. Điển hình là BRIC Report của Goldman Sachs 2004 tiên đoán đến năm 2040 TSLQG Trung Quốc sẽ vượt xa Hoa Kỳ và Ấn Độ sẽ vượt Nhật Bản. CIA Report Hoa Kỳ cũng xác nhận mức sản xuất hàng hoá của Trung Quốc và cung ứng dịch vụ của Ấn Độ trong tương lai sẽ dẫn đầu. Sự trổi dậy này đang gây nhiều lo âu và tranh cải trong công luận tại các nước phương Tây.
Lo âu càng có cơ sở khi ưu thế ngoại thương của hai nước gia tăng và khả năng ứng phó của chính giới phương Tây thu hẹp hơn, vì Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản chưa chấm dứt thời kỳ suy trầm và nợ công lại tràn ngập làm cho tiềm năng phục hồi kinh tế trở nên mơ hồ. Do đó, phương Tây sớm muộn gì sẽ bị Trung Quốc và Ân Độ khống chế và nguy cơ này là một hiện thực khách quan.
Nhưng ngược lại, Prem Shankar Jha giải toả được lo âu khi lập luận là hai nước không đủ sức tạo được vị thế siêu cường quốc tế, vì cả hai không có thể chế thích hợp để giải quyết những bất công xã hội và xung đột chính trị. Mọi kế hoạch của chính giới phương Tây không thể chỉ dựa trên thành tựu kinh tế, mà còn cần các các yếu tố khác, toàn diện hơn của hai nước này. Đó là nội dung thông điệp của tác giả trong tác phẩm "Rồng nằm, Cọp ẩn: Liệu Trung Quốc và Ấn Độ có thể khống chế phương Tây được chăng?" mà bài viết sau đây sẽ giới thiệu.

TÁC GIẢ

Prem Shankar Jha, người Ấn, học Triết, Chính trị và Kinh tế tại Đại học Oxford (Anh). Ông làm việc cho cơ quan UN Special Fund, UNDP, thuộc UNO, làm tư vấn thông tin kinh tế cho Thủ Tướng V. S. Singh. Về sau, ông là biên tập viên kinh tế cho các nhật báo và tạp chí The Hindustan Time, The Hindu, The Times of India, Economic Times và Financial Express của Ấn và The Economist của Anh. Ông nổi danh với các sách như ”Kashmir 1947: the Origins of a Dispute” và “The End of Saddam Hussein’s Iraq – History through the Eyes of the Victim”.

NỘI DUNG

Trong lời giới thiệu tác giả đề ra mục tiêu là so sánh và lý giải những thành tựu và thách thức của hai nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ để phản chứng mối lo âu hiện nay của công luận. Trong phần đầu tiên tác giả trình bày những nét tương đồng và tương phản của hai nền kinh tế này.
Trong chương đầu, ông phân tích các đường hướng cải cách qua tiến trình trong lịch sử và thách thức của tương lai bằng cách mô tả các đặc điểm tăng trưởng và hậu quả cho hai nước. Dù cùng đạt nhiều thành tựu, nhưng trong thực tế các biện pháp thực hiện của Trung Quốc và Ấn Độ có nhiều dị biệt. Dù khác nhau về cơ cấu dân số, kinh tế chuyên ngành và hệ thống chính trị nhưng hai nước có một điểm chung là đang sống trong một thời kỳ chuyển hoá từ kinh tế hoạch định sang thị trường và cùng theo đuổi một mục tiêu là tăng trưởng kinh tế trong khuôn khổ ổn định xã hội.
* * *
Trong phần kế tiếp ông đào sâu các vấn đề chính của kinh tế thị trường XHCN mang đặc trưng Trung Quốc qua bốn chương sách. Tựu trung, đặc điểm chính của nền kinh tế là tư bản nhà nước. Nhưng nhà nước không là toàn bộ hệ thống kinh tế thuần nhất tập trung hoạch định mà là một cơ chế hỗn loạn có đến 70.000 trung tâm quyền lực với sáu cấp độ khác nhau từ trung uơng, địa phương và khu vực và có năm loại cán bộ cao cấp có thẩm quyền để quyết định vận mệnh cho nền kinh tế. Dù cơ chế thị trường thành hình qua cải cách táo bạo và tốc độ tăng trưởng của kinh tế gây nhiều ấn tượng, nhưng hiện nay chỉ có 50 % các sản phẩm công nghiệp là do thị trường quyết định.
Trong một hệ thống công quyền phức tạp, thiếu kiểm soát và cơ chế thị trường không hiệu năng, làm sao phép lạ kinh tế đã xãy ra như trong thời gian qua? Tác giả giải thích là thành công do các doanh nghiệp quốc doanh và giai cấp trung gian tác động, tầng lớp mới đứng giữa chính quyền và dân chúng. Ông triển khai khái niệm này như là một lý thuyết cơ bản để giải thích. Thực ra, khái niệm Intermediate Class là của Michal Kalecki đề ra trong tác phẩm "The Politics and Economics of Intermediate Regimes" mà tác giả tham chiếu cùng với Communist Manifesto của Karl Marx. Nhưng Marx cho là giai cấp này phản động hơn là tiến bộ vì ngăn chận bánh xe tiến hoá của lịch sử.
Tăng trưởng không do cải cách chính trị hay luật pháp mà là do giai cấp trung gian tác động. Thành phần này còn được gọi là tư bản thân tộc, có vây cánh với chính quyền địa phương, khôn ngoan biết sử dụng những biện pháp ưu đãi thuế khoá và đầu tư trong thời kỳ đầu tiên cải cách. Họ sử dụng tiền do nhà nước tài trợ để đầu tư, một hình thức không sợ mất vốn riêng và nguy hiểm khi thua lỗ, cấu kết nhau hơn là cạnh tranh. Họ thành công vì biết trục lợi qua các biện pháp thu mua nhà đất rẻ tiền và đầu tư độc quyền vào một số lĩnh vực chiến lược. Vì có bao che chính trị nên họ không có tinh thần sáng tạo và sợ nguy hiểm phá sản như doanh nhân phương Tây.
* * *
Khi bàn về nền kinh tế Ấn Độ, hai chủ đề mà tác giả thảo luận là tại sao tăng trưởng chậm chập và giai cấp trung gian lại không thành đạt như tại Trung Quốc.
Phát triển thị trường Ấn kéo dài từ 1951 đến 1991. Tăng trưởng chậm không đơn thuần do kinh tế hoạch định sai lầm, mà còn nhiều lý do thuộc về cấu trúc. Trong những năm 50, nền kinh tế chiụ ảnh hưởng phương thức kế hoạch theo Liên Xô, nhưng mềm dẻo hơn. Từ thập niên 80 về sau, Ấn hướng theo mô hình của Nam Hàn. Khác với Trung Quốc, cơ chế thị trường và doanh giới tư nhân Ấn đã có sẳn có từ thời thuộc địa. Bên cạnh những doanh nghiệp lớn còn có những doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng không đóng vai trò quan trọng, vì không có khả năng đương đầu với doanh nghiệp lớn và không được chính quyền hỗ trợ.
Năm 1957 để đối phó với tình trạng khan hiếm ngoại tệ chính quyền Ấn áp dụng chính sách khắc khổ, đình chỉ các biện pháp nhập khẩu các mặt hàng tiêu thụ và không hỗ trợ gia tăng xuất khẩu. Cả hai gây ảnh hưởng đến thị trường bông vải và hàng dệt và làm kinh tế phát triển trì trệ. Các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ được chính quyền chú trọng hơn. Nhờ hưởng nhiều biện pháp đặc ân của chính phủ và có khả năng phá vỡ các rào cản mậu dịch dần dần các doanh nghiệp này đi vào vị thế độc lập. Họ thực sư bắt đầu gây tác động tăng trưởng và thành một giai cấp trung gian.
Từ năm 1992 để có cơ hội hội nhập vào kinh tế thế giới trong thời kỳ toàn cầu hoá chính quyền hủy bỏ các biện pháp khắc khổ và gia tăng các biện pháp giải phóng mậu dịch. Doanh nghiệp nhỏ chuyển mình và đóng vai trò quan trọng hơn. Khác với Trung Quốc giai cấp trung gian tại Ấn ngoài giới tiểu thương còn có người cho vay nặng lãi và nông gia giàu có điạ phương, họ có nhiều ảnh hưởng trong các cuộc bầu cử hay các biện pháp phát triển thị trường. Vì không có phương tiện canh tân kỹ thuật như các doanh nghiệp lớn, nên doanh nghiệp nhỏ không thể tác động đến việc cung ứng sản phẩm rẻ tiền cho thị trường thế giới như công xưởng Trung Quốc. Khi nền kinh tế Ấn tự do hơn, Intermediate Regimes bắt đầu thành hình, dù khá muộn màng.
* * *
Sau khi trình bày những nguyên nhân đưa tới thành tựu kinh tế, tác giả phân tích những hậu quả xãy đến cho hai nước mà bất ổn xã hội và xung đột chính trị là hai thách thức nghiêm trọng.
Động loạn xã hội tại Trung Quốc có nhiều lý do. Do các biện pháp chiếm đất, bồi thường rẻ, nông dân không sống được với giá nông phẩm rẻ phải ra thành phố mưu sinh. Đến thành phố tìm việc trong các khu vực xây dựng công nghiệp và không có hộ khẩu, nên nông dân tạo thêm bất ổn tại thành thị, phân biệt đối xử con nguời qua chế độ hộ khẩu cư trú là một đặc thù của Trung Quốc. Những biện pháp hỗ trợ quá mức cho thị dân tạo bất quân bình về phân phối lợi tức cho nông dân.
Đầu tư không phối hợp và phát triển không đồng bộ gây thiệt hại về sử dụng tài nguyên và môi sinh mà dân địa phương là nạn nhân. Tranh chấp giữa giai cấp trung gian mới gây xung đột chính trị, mà hậu quả là chính quyền trung ương không còn khả năng kiểm soát các hoạt động của địa phương, tranh chấp quyền lực giữa chính quyền Thượng Hải và Trung uơng là thí dụ điển hình. Ngoài việc chứng minh các bất ổn tác giả còn bàn đến các trở lực cho cải cách và dân chủ hoá.
Dị biệt mức độ tăng trưởng giữa nông thôn và thành thị ngày càng gay gắt, trong khi xung đột chính trị giữa trung ương và địa phương trong việc dành đặc quyền đặc lợi càng trầm trọng hơn. Chính quyền dù có ý thức sự cách biệt giàu nghèo của dân chúng và lãnh đạo và trình độ phát triển của địa phương nhưng không có biện pháp phối hợp hữu hiệu để đem lại quân bình. Thách thức này ảnh hưởng đến tính chính thống về sự lãnh đạo của Đảng. Chính quyền không có thiện chí tạo ra những cải cách chính trị quan trọng vì lo sợ động loạn càng lan rộng sẽ nguy hiểm hơn cho sự sinh tồn của chế độ. Do đó, các biện pháp nhằm tăng cường sự kiểm soát của Đảng ở điạ phương càng được đẩy mạnh hơn. Thiếu truyền thống nhà nước pháp quyền nên các biện pháp dân chủ hoá theo mô hình phương Tây là điều bất khả thi.
Tuy nhiên, tác giả cho là có thể giải quyết vấn đề chính thống cho lãnh đạo và có hai đề nghị cải cách bước đầu cho tiến trình dân chủ hoá. Một là từ nay Đảng viên phải được dân chúng bầu cử công khai và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hai là phải xây dựng nền tư pháp độc lập theo nhà nước pháp quyền và tách khỏi Đảng quyền.
* * *
Bất ổn xã hội và xung đột chính trị tại Ấn Độ khác biệt hơn về hình thức và mức độ nếu so với Trung Quốc. Ấn Độ hãnh diện vì thưà hưởng hệ thống luật pháp cùa Anh và có truyền thống sinh hoạt chính trị dân chủ, nhưng tham nhũng diễn biến khác và trầm trọng hơn. Theo tác giả có nhiều lý do giải thích. Thứ nhất, quy chế công chức cho phép đặc miễn truy cứu các tội phạm hình sự. Đây là một đặc quyền hiến định quy định trong thập niên 30 dành cho công chức Anh thời thuộc địa. Sau khi tu chỉnh hiến pháp năm 1948 đặc quyền được giữ lại cho công chức Ấn và gây hậu quả bất lợi cho đến ngày nay. Tác giả cho là tại Ân không thể gọi là tham nhũng (corruption) do tư bản thân tộc cậy quyền phạm luật và mua chuộc nhau, mà là hình thức tống tiền công khai (extortion) khắp mọi tầng lớp và mọi nơi theo kiểu của Ý và Liên Xô. Mối quan hệ giữa dân chúng và chính quyền không bình đẳng theo hiến pháp quy định, mà thực tế thái độ gia trưởng cửa quyền thời thực dân vẫn còn phổ biến tại các cơ quan công quyền.
Động loạn tại nông thôn Ấn Độ xãy diễn lan rộng hơn và tổ chức chống đối chính quyền chặt chẽ hơn Trung Quốc, mà Naxaliles, một tổ chức sách động nông dân vũ trang nổi dậy theo mô hình Mao là thí dụ. Tình hình trầm trọng hơn khi ảnh hưởng toàn cầu hoá lan rộng và các biện pháp công nghiệp hoá được áp dụng từ năm 1992. Thị trường dệt nội địa bị hàng Trung Quốc cạnh tranh và triển vọng xuất khẩu bông vải giảm đi làm công nhân điêu đứng. Nông dân bị ảnh hưởng nặng nề khi hệ thống ngân hàng không còn cho vay canh tác vì triển vọng xuất khẩu nông sản bị hạn chế. Nông dân chỉ còn cách là vay nặng lãi của tư nhân địa phương để có phương tiện tiếp tục. Họ không thể mưu sinh vì trả lãi suất qúa cao. Theo tác giả, có ít nhất 100.000 nông dân tự tử từ năm 1998 đến 2003 để thoát cảnh nợ nần.
* * *
Để so sánh giữa tình hình Trung Quốc và Ấn Độ tác giả nêu lên một vài điểm chính. Cả hai giới tư bản thân tộc tại Trung Quốc và công chức Ấn Độ gây tác hại cho tăng trưởng. Trong nông nghiệp, cả hai biết sử dụng đặc quyền trong các biện pháp miễn thuế, định giá rẻ truất hữu ruộng đất để làm lợi cho riêng mình. Trong công nghiệp, cả hai sử dụng tiền ngân hàng nhà nước để đầu tư nhưng vô trách nhiệm và đặc quyền cấu kết với nhà đầu tư để hưởng lợi. Trình độ phát triển cơ cấu hạ tầng của Ấn Độ tụt hậu ít nhất là 15 năm so với Trung Quốc. Bang giao hai nước sẽ còn nhiều trở ngại vì tranh chấp biên giới và vấn đề Tây Tạng. Theo tác giả, Trung Quốc nên tiếp tục theo đuổi công nghiệp chế biến hàng thương phẩm trong khi Ấn Độ sẽ thuận lợi hơn khi mở rộng cung ứng dịch vụ cho phương Tây.
Trước trào lưu suy trầm của kinh tế thế giới cả hai bắt đầu ý thức cải cách phương thức tăng trưởng bằng những biện pháp khích hoạt cho nền kinh tế nội địa, thay vì tập trung cho ngoại thương như trước đây. Tác giả cho là cả hai tiếp tục sai lầm và làm cho tình hình trầm trọng hơn. Thay vì đầu tư nhiều hơn vào khu vực nông thôn để giúp nông dân gia tăng lợi tức, Trung Quốc lại đầu tư cải thiện cơ cấu hạ tầng và hỗ trợ cư dân thành thành thị. Ấn Độ gia tăng kinh phí để kích thích mãi lực tiêu thụ cho dân thành phố và nông thôn trong khi chỉnh trang các cơ sơ hạ tầng tụt hậu theo tác giả là ưu tiên. Các biện pháp hỗ trợ tài chính hiện nay hầu như không giải quyết các vấn đề bất công xã hội hay xung đột chính trị.
* * *
Tóm lại, dù kinh tế có thể tiếp tục tăng trưởng ở mức khiêm nhường do suy trầm toàn cầu, nhưng Trung Quốc không có các cải cách thể chế dân chủ để giải quyết công bình xã hội và xung đột chính trị; Ấn Độ dù có thể chế dân chủ đại nghị, nhưng tham nhũng trầm trọng và cơ cấu hạ tầng tồi tệ hơn nên các khó khăn tương tự cũng không thể giảm đi. Với một tương lai bất định, cả hai không có cơ hội trổi dậy như một siêu cường để có thể chế ngự phương Tây. Do đó, tác giả kết luận mọi lo sợ của phương Tây là hoang tưởng.

NHẬN XÉT

Đối với độc giả phương Tây đóng góp xuất sắc của tác giả là phần trình bày về thực tế phát triển của hai thị trường Trung Quốc và Ấn Độ. Với nhiều tư liệu và dẫn chứng công phu tác giả đem lại những thí dụ có giá trị thuyết phục, đặc biệt các chi tiết về bất ổn xã hội và tranh chấp chính trị. Đóng góp lý thuyết Intermediate Class có phần hạn chế hơn. Sử dụng lý thuyết để mở lối cho khảo hướng, nhưng tác giả lại không dùng lý thuyết để đúc kết vấn đề, nhất là trình bày những giới hạn của lý thuyết để giải thích cho sự trổi dậy. Vấn đề tăng trưởng phức tạp hơn nhiều. Những thành tựu trong công nghiệp thông tin, điện ảnh và dược phẩm của Ấn chỉ giải thích bằng viễn kiến của chính giới, sự hợp tác quốc tế của doanh nghiệp và nổ lực hiếu học của giới trẻ Ấn là chính. Do đó, lý giải về tăng trưởng cũng cần các lý thuyết khác bổ sung.
Độc giả người Việt thất vọng hơn vì tác giả không mang đến những lý giải mới lạ. Tác hại tham ô của các nhóm lợi ích vô trách nhiệm và tương lai đen tối của công nhân và nông dân là đề tài quen thuộc. Đảng viên phải do dân bầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật là một ý kiến mới lạ và có thể thích hợp cho Việt Nam. Tuy nhiên, tác phẩm này đem lại một giá trị cảnh báo đặc biệt: mô hình kinh tế của Trung Quốc hay Ấn Độ không là một lý tưởng để noi theo vì bất ổn xã hội, tranh chấp chính trị và phá hủy môi sinh là những hậu quả mà Việt Nam không có phép lạ nào trong việc tìm ra khả năng mới để giải quyết vấn đề. Nếu như tác giả chứng minh Trung Quốc không đe doạ trực tiếp cho phương Tây là đúng, thì ngược lại, tác giả sẽ sai lầm khi những nguy cơ này là hiện thực cho tương lai Việt Nam vì có nhiều lý do khác tác động.
Trao đổi kinh nghiệm tăng trưởng là đề tài được Amartya Sen bàn đến qua mối quan hệ văn hoá giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Trong tiểu luận “Passage to India” Sen cho là hệ thống dân chủ đa đảng, phương tiện truyền thông đại chúng và các biện pháp cải thiện y tế công cộng tại Ấn Độ là bài học cho Trung Quốc. Tinh thần vô úy trước bạo lực, nhiệt tình thảo luận công khai trước những bất đồng, sẵn sàng chấp nhận phê bình để sửa sai là truyền thống đặc sắc của Phật giáo mà Trung Quốc có thể áp dụng vào những cải cách chánh trị. Ngược lại, Ấn Độ sẽ học được những biện pháp cải cách kinh tế của Trung Quốc. Bản dịch Việt ngữ tại http://bit.ly/15v23eV.
Hiện nay trên thị trường đã có nhiều sách Anh ngữ bàn về đề tài liên quan này, xin liệt kê để độc giả quan tâm tiện tra cứu:
1. Pranab Bardhan, Awakening Giants, Feet of Clay: Assessing the Economic Rise of China and India, Princeton: Princeton University Press, 2010;
2. Wendy Dobson, Gravity Shift: How Asia´s New Economic Powerhouses Will Shape the 21st Century, Toronto: UTP Publishing, 2010;
Sahlendra D. Sharma, China and India in the Age of Globalization, Cambridge: Cambridge University Press, 2009;
3. Jonathan Holslag, China and India: Prospects for Peace, New York: Columbia University Press. 2010.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

MEDIEVAL


MEDIEVAL


Chả hiểu vì mùa hè ngột ngạt
Hay vì xem phim ở Megastar
Đêm qua người nông dân tự dưng nằm mơ
Một cơn mơ buồn đồng nát
Thể loại medieval ...

Ở một vương quốc nọ
Thời chó mặc váy lính
Thỉnh thoảng lũ vệ binh lại phải tống cổ một ai đó vào tù
Vì tội cả gan chê cứt nhà vua thối

Các thánh đường và chùa chiền bỗng đông nghìn nghịt
Thiên hạ kéo đến cầu nguyện, ăn chay và thiền
Tập hít thở và giữ gìn
Tập chung sống với oan khiên
Với cứt và rác rưởi
Quan trọng nhất là giữ gìn miệng lưỡi

Mặt trời ủ rũ mọc và lặn
Những đám mây cau có đến lạ lùng

Kinh thành đất chật người đông
Hở cái là xì xào chuyện bí sử thâm cung
Ngoài đường lan tràn tin cướp-giết-hiếp
Những kẻ mạng Hỏa máu nóng nhiều lúc nổi cơn khùng
Thần khẩu hại xác phàm
Bọn vệ binh lại thừa việc để làm
Nhà tù chả mấy chốc mà quá tải

Thời medieval
Thiên hạ lầm lì chui vào vỏ bọc
Nhìn mà như không thấy
Thấy mà như không nghe
Nghe mà như không hiểu
Mỗi lần tiếng vó ngựa đi qua
Lại khẽ cúi đầu và mím môi nín lặng
Thỉnh thoảng đông qua, xuân đến
Kẻ sỹ trút lòng mình vào nét bút
Vẽ những bức tranh rực lửa
Rồi mang treo kín đáo trong nhà

Người của triều đình dõng dạc cầm loa
" Cứt của nhà vua không bao giờ thối
Những kẻ bất kính cả gan sẽ bị tội chém đầu ... "

Để nhổ tận gốc những lời xì xào
Triều đình sẽ lập hội đồng giám định
Để chứng minh cứt hoàng đế là thơm

Vào một ngày chán chường
Hội đồng lạnh lùng phán quyết
" Những kẻ cả gan phạm huý nọ
Đều có vấn đề về thần kinh
Đễ giữ gìn sức khoẻ của vương quốc
Chúng sẽ bị hành hình ... "

Mặt trời lại ủ rũ mọc lên
Những đám mây lại lạ lùng cau có
Bọn vệ binh lại xếp hàng và đồng thanh mấp máy
" Đức vua muôn năm ! "

Có tiếng chó tru vào giữa đêm rằm
Lúa ngoài đồng cúi gục 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

Trích TT của Ngổ:




Tôi nằn nì một lúc, cũng không có kết quả gì. Chợt từ phía trong đình có tiếng gọi của một người mặc áo sơ mi màu xanh sĩ lâm vọng ra:
- Đồng chí nào ở ngoài đó đưa tên Tính vào gặp tôi!
Cu Tèo bỗng trở nên phấn chấn:
- Báo cáo thượng cấp, tôi nghe rõ!
Quay sang tôi, anh ta bảo:
- Đi theo tao, thượng cấp muốn gặp mày!
Tôi chưa biết thượng cấp là ai? Gọi tôi về việc gì?
Còn đang ngơ ngác, cu Tèo đẩy mạnh vào vai, làm tôi suýt ngã:
- Đi!
Cu Tèo chỉ cho tôi vào phía tam quan. Nơi ngày trước dân làng vẫn để bộ kiệu, cờ phướn sau lễ hội. Bây giờ không hiểu những thứ ấy đã được mang đi đâu?
Người ta đã quét dọn sạch sẽ, kê hai dãy bàn ở hai bên. Một bàn đang có hai người ngồi đối diện nhau, tờ giấy và cây bút đặt trước mặt.
Bàn bên kia một người cao dong dỏng, dáng thư sinh đang đợi tôi. Anh ta hất hàm hỏi tôi:
- Về bao giờ?
Tôi rất khó chịu trước câu hỏi trống không ấy. Dù sao tôi cũng là con người, có tên có tuổi, nhưng vẫn trả lời:
- Dạ em mới về!
Anh ta cau mặt, chỉnh luôn:
- Ở đây xưng hô không có anh em, hiểu chửa? Trả lời phải “thưa ông” và xưng “tôi”, rõ chửa?
- Dạ “thưa ông”rõ!
Nét mặt anh ta dãn ngay, có vẻ hài lòng. Tôi không ngờ bài học đầu tiên khi trở về, tôi “trả bài” tốt như thế!~
Nom mặt, anh ta cũng chỉ hơn tôi đến bốn, năm tuổi là cùng. Ông cái nỗi gì? Không biết ai quy định ra như thế? Nhưng lúc này tôi đâu còn chọn lựa nào khác?
        Ngay từ lúc bước chân về đến nhà, dù vô tâm, vô ý đến đâu, tôi cũng không thể không biết hoàn cảnh hiện nay của mình là như thế nào?
Người ấy lại hỏi:
- Anh có biết gọi anh lên đây vì việc gì không?
- Dạ không ạ!
Người ấy nhìn tôi từ đầu đến chân như thể muốn lượng định điều gì đó. Hồi lâu mới nói:
- Gia đình anh bị quy thành phần địa chủ, anh đã biết chưa?
- Dạ biết!
- Xét thấy anh còn trẻ, mức độ ảnh hưởng của giai cấp bóc lột chưa nặng nề, còn có khả năng giáo dục để thay đổi, nên hôm nay chúng tôi cho gọi anh về. Thứ nhất thông báo cho anh biết tình trạng của gia đình anh. Bố anh làm bố anh chịu. Việc đấy nhà nước sẽ xử lý. Bố anh có tội ác với nhân dân, nhân dân dứt khoát không khoan nhượng! Chỉ thông báo cho anh biết thế thôi, tạm thời chưa liên quan đến bản thân anh. Thứ hai mở đường cho anh chọn lựa..
Nói đến đây người ấy dừng lại, có ý thăm dò..
Còn tôi chưa hiểu ý anh ta nói “mở đường” là mở cái gì? như thế nào? Toàn những từ ngữ ghê gớm tôi từ cha sinh mẹ đẻ, giờ mới nghe lần đầu!
Tốt nhất trong trường hợp này nên im lặng, đừng hỏi và nói gì vào lúc này!
Tôi không phải đợi lâu, anh ta đưa tôi tờ giấy:
- Nếu anh cam kết với chúng tôi từ nay trở đi dứt khoát không quan hệ, liên can gì nữa, coi như anh sẽ không phải chịu trách nhiệm gì. Chúng tôi sẽ để anh tiếp tục học tập. Còn nếu không, anh sẽ bị xử lý vì tội liên quan. Anh thấy thế nào?
Tôi choáng váng như vừa bị một nhát búa nặng đập vào đầu. Cảm giác đau nhói chạy dọc sống lưng, tê cứng người.
Nhưng tôi vẫn đủ tỉnh táo để hiểu anh ta vừa nói gì?
Như thế khác nào người ta đang yêu cầu tôi từ bỏ tình cảm cha con của tôi với người sinh ra tôi?
Mà bố tôi đâu có tội gì?
Hình như đó là cái tội từ trên trời rơi xuống, tôi không bao giờ hiểu được. Nước mắt tôi giàn dụa, chưa bao giờ tôi thấy đau đớn, chua xót như lúc này!
Người kia ấn cây bút vào tay tôi. Tay tôi run lẩy bẩy như  ký vào án tử của chính mình. Cây bút mấy lần rơi xuống bàn. Những giọt mực rơi xuống hòa cùng nước mắt loang lổ trang giấy màu rơm đen xỉn..
Người kia bực bội ra mặt, anh ta gọi người đeo súng trường đứng gần đấy:
- Đưa nó vào phòng phía sau. Khi nào nó suy nghĩ được, muốn viết, đưa nó lên. Nhớ là không cho đi đâu!

Người tuổi trẻ đưa tôi vào một gian tôi tối. Bên trong có mấy người tay bị trói quặt ra đằng sau.
 Tôi vẫn còn may, chân tay không bị trói, nhưng cửa bên ngoài đã đóng lại!

Lúc ấy tôi vẫn chưa biết mẹ tôi đã được gặp bố tôi chưa? Ông hiện đang bị giam ở đâu?
Một bác cao gầy, theo ngụy quân người cùng làng biết tôi, bảo:
- Bố mày hơi bị nặng nên phải giam riêng. Nhưng mà đừng lo cháu ạ. Không sao đâu!
Cách an ủi của ông ấy làm tôi đâm lo thêm.

Không biết giờ này bố tôi ăn ở như thế nào? Chắc khổ hơn chỗ chúng tôi ở đây, tôi nghĩ thế!


( Còn nữa..)



Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHÂN DÂN




NHÂN DÂN



Ôi nhân dân, một nhân dân như thế!
(Bùi Minh Quốc)


Nếu đến một ngày không có nhân dân
Các ông quan hẳn hài lòng biết mấy
Không có những đoàn người xếp hàng xô đẩy
Cửa công đường sạch bóng như gương!

Không có nhân dân sẽ chẳng bị tắc đường
Cảnh sát giao thông vào bóng cây tránh nắng
Cổng bệnh viện suốt bốn mùa yên lặng
Bác sĩ ra sân chơi ten-nis tưng bừng.

Không có nhân dân, chẳng ai ở núi rừng
Biên giới co dần về bên hông nhà chính phủ
Công viên sẽ chỉ còn chim với thú
Người bán vé bâng khuâng cất tiếng hát thành lời.

Không có nhân dân quả thật rất tuyệt vời
Tôi nghĩ thế, và tôi tin như thế
Không ai ăn gian, chẳng kẻ nào trốn thuế
Quan chức rung đùi thưởng thức Trịnh Công Sơn.

Hoàng Đình Quang
Viết ở cổng Bệnh viện Ung Bướu -TPHCM
Phần nhận xét hiển thị trên trang