Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

Hay nhở??

Phần nhận xét hiển thị trên trang


CÔNG TY TƯ VẤN, CHẾ TẠO, SẢN XUẤT... THƠ

Thấy dân làng hàng xóm thành lập hết công ty nọ đến công ty kia, ra đời bao nhiêu giám đốc, lão Choẽ sốt ruột lắm. Tiềm lực như nhà lão mà lại thua mọi người nó ư? Lão nông chi điền dày dạn kinh nghiệm như thế thế mà mà lại bó tay trước cơ chế mới này ư? Không được. Không thể chấp nhận được. Phải thay đổi ngay cách làm ăn không thì tụt hậu là cái chắc! Lão Choẽ quyết định mở cuộc họp gia đình để bàn về vấn đề này.
Cuộc họp khẩn cấp, bí mật của gia đình lão được tổ chức ngay tối hôm đó. Không ngờ, vấn đề lão đưa ra lại được cu Chụm hưởng ứng tức thì. Học xong lớp 9, chẳng vào được "cấp 3" nó đang không công ăn việc làm giờ tự nhiên có cái chức trưởng phòng công ty chẳng tốt quá rồi còn gì. Cái Choè, chị nó thì nghĩ không biết nên thành lập doanh nghiệp tư nhân hay công ty trách nhiệm hữu hạn. Ông Choẽ nói như đinh đóng cột: "Đã làm là phải làm cái công ty mới oách, doanh nghiệp tư nhân là cái thá gì". Chỉ có bà Chén (vợ ông) là phân vân. Ruộng đồng như thế, đàn bò đang phát đạt như thế, đã có thương hiệu là "Choẽ bò" rồi giờ lại lập cái công ty, công tiếc liệu có tích sự gì không? Bàn thảo mãi, cuối cùng bà cũng phải theo ba bố con ông Choẽ, thiểu số phục tùng đa số nguyên tắc đó bà phải chấp hành. Tên công ty sẽ lấy hai tên vợ chồng ông ghép vào. Lấy các chữ đầu cho nó tây tây. Công ty TNHH ChoChen do ông trực tiếp làm giám đốc, vợ ông làm phó giám đốc, hai đứa con mỗi đứa giữ chân trưởng một phòng, phòng gì sẽ tính sau. Thế là xong phần chủ trương.
Sang phần triển khai kế hoạch cụ thể. Đau đầu nhất là mục này. Công ty TNHH ChoChen sẽ kinh doanh ngành hàng gì? Điện tử? Điện thoại? Xây dựng? Vận tải? Ăn uống... Những cái đó thiên hạ làm hết rồi giờ mình đi sau có mà chết dấp. Giám đốc bóp trán. Phó giám đốc bỏm bẻm nhai trầu cứ như là việc của ai vậy. Hai trưởng phòng loi choi đưa ra hết nghề nọ, ngành kia song giám đốc Choẽ đều lắc.
Đang lúc bí thì bà Chén lên tiếng: "Bố con ông có công nhận với tôi rằng mấy năm nay xuất hiện nhiều người làm thơ, nhiều câu lạc bộ thơ ra đời không?". "Thì vưỡn! Dưng mà thơ phú thì liên quan gì đến công ty?", ông Choẽ không hiểu hỏi lại. Bà Chén vẫn thủng thẳng nhát một: "Có chứ. Liên quan nhiều là cái chắc. Tôi hỏi ông câu nữa nhé: Ông có muốn trở thành "kẻ sĩ", thành "trí thức" không? Có chứ gì. Đó là tâm lý chung. Con đường nhanh nhất để làm được cái đó chỉ có thơ thôi, ông hiểu chưa?".
Giám đốc Choẽ gật gù. Bà này nói có lý. Thì đấy, xóm ông người ta đua nhau làm thơ, thơ có mặt trong hầu hết các hội nghị, các tiệc tùng, đình đám. Cứ có hai người trở lên là thế nào cũng có thơ. Người nào người nấy đều ra vẻ thi sĩ, trí thức lắm. Kính cận, sách dày cộp kè kè bên người, bút cái túi áo ngực sẵn sàng làm thơ, đọc thơ bất cứ lúc nào. Ngay cả ông đây cũng sản xuất được mấy bài làm vốn giao tiếp nữa là. "Nhưng mà... có liên quan gì đến...". Bà Chén cướp lời: "Ông vưỡn không hiểu à? Liên quan quá đi chứ. Ai cũng làm thơ, ai cũng muốn trở thành nghệ sỹ, trí thức thì đấy là đầu ra cho công ty mình đấy".
Ba bố con ông Choẽ vẫn ngơ ngác ngồi. Quái, sao hôm nay bà này lại vòng vo mãi thế nhỉ. Sốt ruột quá, trưởng phòng Chụm giục: "Thôi, mẹ cứ nói toạc móng heo ra ra bố con con nhờ. Bàn chuyện làm ăn mà mẹ cứ rề rà thế này thì mất hết cơ hội rồi còn gì!". Cái Choè cũng phụ vào: Phải đấy mẹ nói ro rõ hơn xem nào!".
Bà Chén vẫn rề rà: "Tôi ít học nhưng được cái chịu đọc. Để chọn được một ngành nghề kinh doanh thì phải hiểu được thị trường. Thị trường cần cái gì thì ta sản xuất cái đó. Doanh nghiệp lại còn phải chọn cách xem sản xuất như thế nào, sản xuất ra bao nhiêu thì phù hợp. Ý tôi nói lúc nãy là quá trình chọn lựa đấy. Này nhé, nhiều người thích trở thành nghệ sỹ, trở thành trí thức mà đua nhau làm thơ, đua nhau in thơ. Đấy là cái thị trường cần. Phải, thị trường bây giờ là Thơ. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn rất cần thơ. Họ vừa là người sản xuất thơ, vừa là người tiêu thụ thơ. Tuy nhiên, ở huyện ta, xã ta người làm cầu nối giữa sản xuất, tiêu dùng thơ đó thì chưa có. Người làm thơ phải về tận tỉnh, lên tận Hà Nội để in thơ. Có người lấy trộm cả tiền bán lợn của vợ mang về Hà Nội để in thơ. Bao nhiêu tiền in thơ đều bị tỉnh và Hà Nội lấy hết. Tại sao ta không đứng ra làm cái khâu này. Mặt khác, nhiều người loay hoay mãi không làm nổi một bài thơ, tại sao ta không tư vấn cho họ".
Không để cho bà Chén nói hết câu, giám đốc Choẽ vỗ đùi đánh đét một cái: "Giỏi! Bà này giỏi! Thế mà bố con tôi không nghĩ ra. Phải thành lập ngay Công ty tư vấn, chế tạo thơ. Ta phải nắm các khâu từ tư vấn đến sản xuất thơ, từ in ấn xuất bản đến phát hành thơ. Phải đưa thơ vào cuộc sống. Thơ là cái đẹp thanh tao, là điều thiêng liêng mà bất cứ ai cũng ngưỡng vọng. Thị trường, đầu ra là đấy chứ còn đâu nữa. Bỏ vốn ra mua lấy dàn vi tính, mấy cái máy phô tô, mời mấy lão hay thơ của xóm góp vốn, góp chất xám vào là được. Phen này, gì chứ công ty ta sẽ sang nhất, danh giá nhất cho mà xem. Công ty tư vấn, chế tạo sản xuất Thơ ChoChen cơ mà! Đố anh nào cạnh tranh được nhá".
Cả nhà ông Choẽ tối đó vui chưa từng có. Hướng làm ăn mới đang mở ra trước mặt. Đêm đó, trong giấc ngủ, mỗi người đều thấy cái công ty của mình hoành tráng, bay bổng trong mơ. Mãi gần sáng, con bò đầu đàn của lão Choẽ rống lên đòi sổ chuồng thì cả ban giám đốc công ty tư vấn chế tạo sản xuất Thơ ChoChen mới bừng tỉnh để bước vào một ngày mới. Mỗi người theo sự phân công của giám đốc Choẽ gấp rút chạy thủ tục lo cho ra đời cái công ty của mình sớm ra đời.

NGÀY MỘNG DU

Phần nhận xét hiển thị trên trang




                   Truyện ngắn ( linh tinh phộc)

Ra mở cửa cho chúng tôi là một gã mặt tròn, má phinh phính, tóc lăn quăn, mép sắc lẹm, không có râu. Giọng gã the the hệt giọng quan hoạn, hay được gọi “công công” trong phim dã sử Tàu. T. bảo: “ Thằng cha này quê mãi đâu huyện Con Dê. Thấy bảo năm chiến cuộc biên giới dính mìn lá, không rõ của ta hay địch cụt mất túm của trời cho. Tự nhiên gã mất giọng như bây giờ, chứ trước đây gã là tay tuyên “giáo cụ” có giọng hót trầm ấm mê ly lắm. Chuyện chả có gì mà hắn nói cứ mê đi, tuyệt cú mèo, đám lính tráng cứ ngẩn người ra mà nghe, tin sái cả quai hàm..”
Nó nói thế thì biết thế, chuyện này tôi chẳng quan tâm. Bao năm lăn lóc cuộc đời, ba cái chuyện vặt vãnh này có gì đáng để ý đâu?
Điều tôi quan tâm đến là nàng, chứ không phải tên “bỏ mẹ” này. Nó có ra sao, tốt xấu thây kệ, để tâm đến làm gì? Tò mò, tọc mạch riêng tư của người khác đâu phải là cách hay? Nhưng vì gã xuất hiện đầu câu chuyện này nên phải có tên có tuổi, có chức năng vv. Thế thôi.
Cứ tạm gọi gã là Công đi cho dễ nhớ!
Ngôi biệt thự này tôi gặp đâu đó trong giấc mơ của mình. Giấc mơ tham lam và keo kiệt bất cứ khi nào con người, lúc nào đó trở nên ích kỉ và tàn độc. Nó hiện diện cả nơi thiên đường, địa ngục và cả trần gian này. Chỉ có điều nơi đó không có nàng. Từ lâu trong các giấc mơ của tôi, nàng đã không tồn tại.

Không ngờ nó có thật, biệt thự này, ngay bây giờ, trước mắt tôi.
Gã vệ sĩ mất của nợ vừa nói dẫn chúng tôi qua một khu vườn phía sau biệt thự. Ở đấy có cái am nhỏ, trước am có hòn non bộ và đủ thứ cây sinh vật cảnh. Có bể nước nhỏ cho mấy chú rùa vàng chậm chạp bơi lên bơi xuống. Những giò phong lan treo dọc lối đi. Quãng quãng lại treo một cái lồng chim. Sáo, vẹt, khiếu, chào mào lửa..đủ cả.
Nàng đang ngồi xem ti vi. Đài tàng hình trung ương đang phát một chương chình dân ca dân ciếc gì đấy.
-         Thưa bà, bà có khách đến thăm – gã công công giọng lễ phép.
Nàng không quay lại, nói:
     - Bác đưa các anh ấy vào, pha hộ tôi ấm nước.
Tôi thực sự ngạc nhiên bởi vẻ bề ngoài của nàng. Chừng ấy năm rồi, nàng hầu như không thay đổi. Vẫn làn da trắng, mái tóc dài đen óng ả, đôi mắt đen rợp, cặp môi hồng, những ngón tay dài thanh tú đang đan vào nhau. Nhất là giọng nói vẫn trong trẻo, nao nao lòng người như cất lên tự nơi nào sâu thẳm.. Cảm giác hồi hộp, bồi hồi tôi đã quên, chợt thức..
Tôi không tin thời gian, tạo hóa và lão hóa không làm gì nổi, không thay đổi nàng.
Đến như sắt thép còn han rỉ nữa là?
Vậy mà sao bảo nàng đang đau khổ là vì sao?
Tên bạn T của tôi chả nhẽ nói khống? Hay hắn muốn gợi chút tò mò để tôi dành chút thời gian ít ỏi của mình đánh bạo tới đây? Đến cả mục đích vì cái gì chính tôi cũng chưa hiểu nữa.. Mình đang tỉnh hay mộng du?
Tôi nhéo lên đùi một cái, vẫn đau. Chắc chắn tôi còn tỉnh, không phải mộng..

( Còn nữa..)

Tự cảm

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đừng nhận mình là kẻ sĩ
Khi chỉ còn sĩ diện dở hơi
Bôi đen giấy
Và bôi đen tim óc
Văn chương ư?
Một mớ chán đời!

Nắm bạc vụn
bỗng thấy lòng hăm hở
Cái xoa đầu vui như thể bắt tay..
Bồi bút, bồi bàn, không bồi bên lở!
Ta ngắm ta xưa, 
dở khóc dở cười!

Cảnh Giới Bên Kia Cửa Tử

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cảnh Giới Bên Kia Cửa Tử

Tác giả: Nguyên Ngọc biên soạn

ngày 03, tháng 09, năm 2008 
(do người chết hồi sinh kể lại) 

LTS : Hiện nay, luân hồi tái sinh là một đề tài nóng bỏng ở xã hội phương Tây nói chung và Mỹ nói riêng. Chương trình "60 minutes" ngày 30.10 cách đây vài năm có đề cập đến vấn đề luân hồi tái sinh và báo cáo hiện có đến 78% người Mỹ (vào khoảng 195.000.000) tin có kiếp trước kiếp sau. Raymond Moody, giáo sư triết học, bác sĩ y khoa, là một nhà nghiên cứu người Mỹ tiền phong về vấn đề luân hồi tái sinh, nói rằng, sự hiểu biết về hiện tượng có đời sống khác sau đời sống này (life after life) đã được giấu nhẹm rất kỹ cho đến bây giờ. Nếu ai muốn tìm hiểu xem người Mỹ nghĩ thế nào về luân hồi chỉ việc vào thăm Google, gõ chữ "book on reincarnation" thì sẽ thấy một con số khổng lồ, hơn 2.000.000 tài liệu gồm sách và các bài luận giải về nhân quả và luân hồi... 
Nguyên Ngọc biên soạn 
Cách đây 31 năm, khi cho in cuốn sách đầu tiên "Life After Life" sau nhiều năm tiếp xúc với những bệnh nhân chết đi sống lại, bác sĩ Moody nói, ông chỉ ghi lại trung thực những câu chuyện này mà không cố ý chứng minh là có một đời sống khác sau khi chết. Ông cũng nói thêm rằng, hiện nay chưa có ai có thể đưa ra một bằng chứng cụ thể để chứng minh có 1 cảnh giới bên kia cửa tử, nhưng người ta cũng không thể phủ nhận kinh nghiệm của hơn 8 triệu người lớn ở Mỹ và mấy triệu trẻ con nữa, những người sống lại sau cái chết lâm sàng đã kể những gì họ thấy được sau khi rời khỏi xác thân vật lý.
Bác sĩ Moodu kể, lần đầu tiên ông được nghe tả về cảnh giới bên kia cửa tử do người chết hồi dương kể lại (kinh nghiệm cận tử) là khi ông còn là một sinh viên y khoa triết học ở đại học Virginia. Một giáo sư dạy môn tâm thần học kể lại cho sinh viên nghe chính ông đã "chết" đi rồi sống lại 2 lần, cách nhau 10 phút. Ông kể lại những chuyện ly kỳ ông được chứng kiến trong thời gian ông "chết". Thoạt nghe thì anh sinh viên Moody cũng lấy làm lạ nhưng không có ý kiến gì. Anh chỉ giữ cái băng thu âm câu chuyện này để làm tài liệu thôi. Mấy năm sau, ông Moody bây giờ là giáo sư triết ở 1 trường đại học ở Bắc Carolina. Trong 1 buổi giảng dạy về thuyết bất tử (Phaedo) của Plato, nhà hiền triết nổi tiếng của Hy Lạp thời cổ đại, một sinh viên xin gặp riêng để hỏi thêm về vấn đề sống chết, vì bà của chàng ta đã "chết" trên bàn mổ, sau đó hồi sinh và kể những câu chuyện bà đã chứng kiến rất hấp dẫn. Giáo sư Moody yêu cầu anh sinh viên này kể lại từng chi tiết và ông rất đỗi ngạc nhiên khi thấy những chuyện xảy ra cho bà già này gần giống với những mẩu chuyện ông được nghe từ thầy của ông mấy năm về trước. Từ đó, ông cố ý thu thập tài liệu về hiện tượng chết đi sống lại. Ông cũng đưa vấn đề này vào trong các bài giảng của ông, nhưng không đề cập gì đến 2 trường hợp ông được nghe. Ông nghĩ rằng, nếu có nhiều người chết đi sống lại thì thế nào sinh viên cũng sẽ nói ra trong các giờ triết. Quả vậy, trong mỗi một lớp học chừng 30 sinh viên, khi nào cũng có một anh xin gặp riêng sau giờ học để kể cho ông nghe một câu chuyện chết đi sống lại. Có điều lạ là, những mẩu chuyện này có nhiều tình tiết giống nhau, tuy người có kinh nghiệm chết đi sống lại gồm nhiều thành phần khác nhau, khác về tôn giáo, về học vấn, và địa vị xã hội.

Khi Moody theo học y khoa năm 1972 thì ông đã có một hồ sơ dày cộm về những trường hợp chết đi sống lại. Ông bắt đầu nói đến công cuộc nghiên cứu của ông với những người ông gặp ở trường y. Sau đó, theo lời yêu cầu của một người bạn, ông nhận lời thuyết trình về hiện tượng chết đi sống lại tại 1 Hiệp hội Y sĩ và nhiều hội đoàn khác. Và sau mỗi buổi thuyết trình, thế nào cũng có người đứng lên kể lại kinh nghiệm chết đi sống lại của chính mình. Dần dà ai cũng biết tiếng ông, nên nhiều bác sĩ đã giới thiệu những bệnh nhân họ cứu sống được mà có những kinh nghiệm lạ lùng trong thời gian họ "chết". Sau khi vài tờ báo đăng tải tin tức về công cuộc nghiên cứu của ông thì nhiều người tự động gửi những mẩu chuyện tương tự xảy ra với họ. Ông quyết định chỉ chú ý đến trường hợp những người do bác sĩ chứng thực là đã chết lâm sàng (tim ngừng đập, thần kinh não ngưng hoạt động) rồi được cứu sống lại, và trường hợp những người bị tai nạn, hồn lìa khỏi xác ngay nhưng sau đó lại hoàn hồn, đã kể những sự việc họ chứng kiến.
Trong mấy trăm câu chuyện chết đi sống lại mà tác giả trực tiếp được nghe, Moody nhận thấy, tuy kinh nghiệm của mỗi người có điểm khác nhau nhưng tựu trung thì có thể nói có chừng 15 điểm mà ông thấy người ta hay nhắc nhở : 
1. Ngôn ngữ bất đồng
Người nào cũng tỏ vẻ bực bội rằng, ngôn ngữ ở cõi trần không thể diễn tả đúng những sự việc xảy ra ở cõi giới bên kia. Một người trong số đó nói : "Tôi biết, thế giới mà tôi được thấy là một thế giới có hơn 3 chiều, nên không thể nào diễn tả được hết những điều tôi muốn nói với thứ ngôn ngữ 3 chiều của chúng ta". 
2. Nghe tin mình đã chết
Nhiều người kể rằng, họ được nghe chính bác sĩ hay những người ở bên cạnh nói rằng họ đã chết. Bà Martin kể : "Tôi vào bệnh viện nhưng họ không tìm ra bệnh. Bác sĩ James đưa tôi sang phòng X quang để chụp ảnh gan tìm bệnh. Vì tôi bị dị ứng với nhiều thứ thuốc nên họ thử trên cánh tay tôi trước. Thấy tôi không có phản ứng gì, họ liền tiêm cho tôi thứ thuốc ấy. Nhưng lần này tôi bị phát dị ứng liền và chết ngay sau đó. Tôi thấy bác sĩ ở phòng X quang vừa chích thuốc cho tôi, bước đến nhấc máy điện thoại. Tôi nghe rõ ông quay từng con số và giọng nói của ông : "Thưa bác sĩ James, tôi đã giết bệnh nhân của ông. Bà Martin chết rồi". Nhưng tôi biết tôi không chết. Tôi cố cử động, cố tìm cách nói cho họ biết là tôi chưa chết nhưng tôi không thể làm gì được. Rồi thấy họ làm thủ tục cấp cứu. Tôi nghe họ nói cần bao nhiêu "cc" thuốc chích cho tôi, nhưng tôi không có cảm giác gì khi mũi kim chích vào da. Tôi cũng không có cảm giác gì khi họ chạm vào người". 
3. Tâm an bình và tịch tịnh
Số đông kể rằng, họ tận hưởng được một cảm giác rất an lạc, thật khoan khoái khi mới thoát ra khỏi cái xác của mình. Một người bị bất tỉnh ngay sau khi bị thương nặng ở đầu kể rằng, khi mới bị chấn thương thì anh cảm thấy đau nhói, nhưng chỉ một thoáng thôi, rồi sau đó anh có cảm tưởng như mình đang bềnh bồng trôi trong 1 phòng tối. Mặc dù hôm ấy trời lạnh lắm mà anh cảm thấy rất ấm áp trong khoảng không gian âm u này. Anh thấy tâm thần mình bình an thoải mái lạ lùng và anh chợt nghĩ "chắc là mình đã chết rồi". 
Một bà vật vã, đau đớn và ngất đi sau một cơn đau tim. Khi được cứu tỉnh bà kể : "Tôi bắt đầu thấy sung sướng lạ, mọi lo âu buồn phiền biến mất, chỉ còn lại một cảm giác bình an, thoải mái, thanh tịnh. Tôi không còn cảm thấy đau đớn nữa".
4. Âm thanh
Nhiều âm thanh lạ được tả lại, hoặc khi sắp chết hoặc khi vừa tắt thở. Một người đàn ông "chết" trong vòng 20 phút trên bàn mổ kể lại, rằng ông đã nghe một tiếng kêu ù ù rất khó chịu. Tiếng kêu như phát ra từ trong đầu mình chứ không phải từ bên ngoài. Một người đàn bà kể, khi vừa ngất đi thì bà nghe một tiếng rì rì lớn và bà cảm thấy đang chơi vơi bay lộn lòng vòng trong không gian. Bà còn nghe một thứ tiếng khác cũng khó chịu lắm, như tiếng động lạch cạch, tiếng va chạm hay tiếng rống mà cũng như tiếng gió hú. Những người khác thì nghe một âm thanh dễ chịu như âm nhạc, như trường hợp một bệnh nhân "chết" trên đường đi đến bệnh viện, khi được cứu tỉnh lại ông kể : Ông đã nghe 1 âm thanh như âm ba của nhiều cái chuông nhỏ từ đằng xa theo gió vọng lại, làm ông nghĩ đến mấy cái chuông gió của Nhật, và ông chỉ nghe 1 âm thanh này thôi. 
5. Đường hầm tối
Ngay vừa khi nghe tiếng động thì người ta cảm thấy như bị hút mạnh vào một khoảng không gian tối. Người thì nói giống như một hang động; người thì bảo sâu hút như một cái giếng; người khác thì mô tả như một khoảng không, một đường hầm, một ống xoắn, một cái chuồng, thung lũng, ống cống, hoặc khoảng không của một hình vật thể hình trụ. Tuy được diễn tả khác nhau nhưng điều này cho thấy, người nào cũng trải qua kinh nghiệm này. Một bệnh nhân kể : Khi tim anh ngừng đập vì bị dị ứng với thuốc mê thì anh thấy mình như bay qua một khoảng không tối tăm như một đường hầm, với tốc độ cực nhanh như một con tàu đang lao đầu bay xuống ở 1 công trường giải trí. 
6. Giây phút bước ra khỏi xác
Tuy ai cũng biết rằng, cái "Ta" gồm 2 phần : thân và thức, nhưng ít ai hiểu biết được phần Thức vì cho rằng, có thân xác vật lý thì trí óc mới hoạt động được, không thể nào có 1 đời sống nào khác ngoài đời sống với tấm thân vật lý này. Cho nên, trong quá trình chết đi sống lại, ai cũng bị ngạc nhiên quá mức khi họ được ngắm nghía thân xác bất động của họ. 
Thực khó tưởng tượng được tâm trạng của những người này, khi họ thấy mình đứng đây mà sao lại còn có thân hình mình nằm bất động ở đằng kia ! Khi hồn vừa lìa khỏi xác, họ chưa ý thức được mình đã chết nên ngẩn ngơ không hiểu được hiện tượng này. Nhiều người muốn nhập vào xác mình lại nhưng không biết làm sao. Có người rất hoảng sợ nhưng cũng có người không sợ hãi. Một bệnh nhân nói : "Bệnh tôi trở nặng, bác sĩ buộc phải vào nhà thương. Sáng hôm ấy tôi thấy một lớp như sương mù bao phủ quanh tôi và cùng lúc ấy tôi thấy mình bước ra khỏi xác. Tôi thấy mình bềnh bồng bay lên phía trên và nhìn xuống cái xác mình nằm ở giường. Tôi không thấy sợ hãi chút nào, chỉ thấy một cảm giác bình yên trong một khung cảnh êm ả thanh bình. Và tôi nghĩ, có lẽ tôi đang đi về cõi chết. Tôi tự nhủ, rằng nếu tôi không nhập trở lại được vào cái xác kia thì tôi chết thật rồi, và như vậy cũng không sao".
Nhiều người nói rằng sau giây phút hoang mang lúc đầu, dần dà họ thấy giác quan mới của thể hồn bén nhạy hơn. Họ có thể nhìn thật xa, nghe thật rõ, đọc được ý nghĩ của người khác, và chỉ cần nghĩ đến chỗ nào họ muốn đi thì đã thấy mình ở đó rồi. Nhưng vì họ không trao đổi gì được với những người xung quanh nên họ thấy cô đơn buồn tủi.
7. Gặp những thể hồn khác
Nhiều người kể lại, họ chỉ cảm thấy cô đơn trong chốc lát thôi, sau đó họ được gặp gỡ và chuyện trò với những người thân, bạn bè quá cố. Một người phụ nữ kể lại cuộc vượt cạn khó khăn, bà bị mất máu rất nhiều trong khi sinh. Lúc đó bà nghe bác sĩ nói là bà không sống được nhưng bà thấy mình vẫn tỉnh táo và ngay khi ấy bà thấy nhiều người vây quanh bà nhưng chỉ thấy mặt thôi. Họ đông người lắm, lơ lửng ở trên trần nhà. Bà nhận ra đó là những người thân và quen đã qua đời, bà thấy bà ngoại của mình và một cô bé bạn học hồi nhỏ cùng nhiều người bà con quen biết khác. Ai cũng có vẻ tươi cười như chào đón bà ở xa về. 
Một người khác kể rằng sau khi người bạn thân tên Bob chết vài tuần thì ông cũng suýt chết. Ông thấy mình bước ra khỏi thể xác vật chất và có cảm tưởng như Bob đang đứng cạnh mình. Ông biết đó là Bob nhưng lại trông không giống như hồi còn sống. Tuy nhìn thấy Bob, nhưng không phải nhìn bằng mắt vì chính ông cũng không có mắt ! Nhưng lúc ấy ông không nghĩ đến điều này là lạ vì ông không cần có mắt mà vẫn thấy. Ông hỏi Bob : "Bây giờ tôi phải đi đâu, chuyện gì đang xảy ra ? Có phải tôi chết rồi không ? Nhưng Bob không nói gì cả. Suốt mấy ngày tôi ở bệnh viện, Bob luôn ở bên cạnh tôi nhưng vẫn không trả lời những câu hỏi của tôi cho đến ngày bác sĩ tuyên bố là tôi đã thoát chết thì Bob bỏ đi".
8. Đối diện với người ánh sáng
Tuy tình tiết về kinh nghiệm "chết" của mọi người khác nhau nhưng ai cũng nói đến cuộc gặp gỡ một vị thân toàn ánh sáng. Đây có lẽ một chi tiết lạ lùng nhất đã làm thay đổi cuộc đời của những người chết đi sống lại. Lúc đầu, vị này hiện ra trong thứ ánh sáng lờ mờ, rồi ánh sáng trở nên rõ dần và sau cùng thì hiện toàn thân trong một thứ ánh sáng rực rỡ. Có điều lạ là, tuy rực rỡ nhưng không làm chói mắt. Tuy vị này hiện ra như một tòa ánh sáng mà ai cũng hiểu đây là một người với đầy đủ cá tính nhân phẩm của một cá nhân. Vị này đã ban phát cho họ một tình thương yêu không thể dùng lời nói mà diễn tả được và ai cũng quyến luyến muốn kề cận vị này. Có một điều lý thú là hầu hết mọi người đều tả dung mạo, phong cách của người ánh sáng này giống nhau nhưng khi được hỏi người ấy là ai thì mỗi người nói một cách khác, tùy theo niềm tin tôn giáo của họ. 
9. Nhìn lui quãng đời mình
"Người ánh sáng" nhắc nhở người chết tự kiểm thảo đời mình, và cho người chết xem lại quãng đời của mình rõ ràng như được chiếu trên màn ảnh lớn, từ lúc còn nhỏ ở với cha mẹ, lớn lên đi học, đỗ đạt, công danh sự nghiệp ...đều hiện lên rất rõ. "Người ánh sáng" nhắc nhở rằng, ở trên đời không có gì quan trọng ngoài tình thương. Một người kể rằng, khi ông được xem quãng đời niên thiếu của ông với cô em gái, người mà ông rất thương yêu; "người ánh sáng" cho ông xem những lúc ông hành động một cách ích kỷ hay tỏ lòng trìu mến săn sóc em mình. "Người ánh sáng" nhấn mạnh đến việc nên giúp đỡ người khác. Dường như vị này rất chú tâm đến sự học hỏi, cứ nhắc nhở ông phải lo trau dồi sự hiểu biết của mình và nói rằng, sau khi thật sự giả từ thế gian để sang cõi này ông cũng vẫn phải tiếp tục học hỏi, vì đó là một qui trình không gián đoạn. 
10. Ranh giới giữa hai cõi
Nhiều người nhớ rằng, họ đi dần đến một chỗ giống như một bờ ranh, một bờ sông, một cánh cửa, một vùng sương mù màu xám, một hàng rào, hay chỉ như một đường vẽ dưới đất. Một người bệnh tim kể : "Sau khi lìa khỏi xác, tôi thấy mình đang đi trên một cánh đồng thật đẹp, toàn một màu lục, nhưng khác hẳn màu lục của thế gian và chung quanh tôi tràn ngập một thứ ánh sáng kỳ diệu. Xa xa đằng trước là một cái hàng rào, tôi vội rảo bước sang về phía đó thì thấy một người phía bên kia đang tiến về hàng rào như để gặp tôi, nhưng bỗng nhiên tôi có cảm tưởng bị kéo thụt lùi, và người phía bên kia thì ngoảnh lưng lại đi về hướng xa hàng rào". 
11. Trở lại cõi trần
Dĩ nhiên, tất cả những người có kinh nghiệm chết này đều sống lại. Và điều đáng nói là tất cả đều đổi khác sau khi nhìn thấy thế giới bên kia. Phần đông nói rằng, khi vừa tắt thở, họ tiếc nuối thân vật lý lắm, và cố tìm cách trở lại. Nhưng dần dà khi thấy nhiều điều mới lạ ở cảnh giới bên kia thì họ không muốn trở về nữa, nhất là những người đã được gặp gỡ "người ánh sáng" và được vị này ban cho một thứ tình thương bao la vô điều kiện. Nhưng có người thì muốn trở về để tiếp nối một công việc đang dở dang, hay vì các con đang còn nhỏ. Có người nghĩ rằng vì người thân của họ níu kéo, cầu nguyện nên họ không "đi" được như câu chuyện sau đây : "Tôi săn sóc một người cô già. Cô bệnh lần này khá lâu. Đã mấy lần cô tắt thở, nhưng lại được cứu sống, có lẽ vì mọi người trong gia đình ai cũng thương cô và cầu nguyện cho cô bình an. Một hôm cô nhìn tôi và bảo : "Joan, cô đã thấy cõi giới bên kia đẹp lắm. Cô muốn ở lại bên đó nhưng con và mọi người cứ cầu nguyện cố giữ cô lại bên này nên cô không đi được. Thôi, con nói mọi người đừng cầu nguyện cho cô nữa". Và chúng tôi ngưng cầu nguyện thì cô mất một cách bình yên sau đó". 

Phần đông nói rằng, họ không nhớ đã "trở về" như thế nào. Họ nói, họ chỉ thấy buồn ngủ, rồi mê đi và khi tỉnh dậy thì thấy mình nằm trên giường bệnh như trước khi được sang thế giới bên kia. Nhưng cũng có người nhớ rõ chi tiết khi được trở về. Một người kể, khi hồn vừa lìa khỏi xác, ông thấy mình bị cuốn đi nhanh qua con đường hầm tối. Khi sắp sửa ra khỏi đường hầm thì ông nghe ai gọi giật tên mình ở phía sau, và bất thần ông bị lôi tuột trở lại. Một ông khác kể là, hồn ông bay lên trần nhà nhìn xuống thấy bác sĩ, y tá đang cuống quýt cứu chữa. Khi bàn sốc đặt vào ngực, toàn thân ông giật nẩy lên và đúng lúc đó ông bị rớt xuống thẳng đứng như một tảng đá và chui tuột vào thân thể trên giường. Một người khác thì thấy hồn thoát ra từ đỉnh đầu, như được tả trong cuốn "Tử Thư Tây Tạng".

12. Kể lại kinh nghiệm "chết"
Những người đã trải qua kinh nghiệm này nhớ rất rõ là, họ đã ngạc nhiên sửng sốt khi chứng kiến những sự việc đang xảy ra cho họ. Họ bảo chúng đã thật sự xảy ra chứ không phải do trí tưởng tượng hay ảo giác. Tuy thế, nhiều người không dám kể hoặc chỉ kể cho một vài người thân mà thôi, vì họ biết ở xã hội này không ai tin những chuyện như thế, và còn cho là họ bị bệnh tâm thần. Một cậu bé kể cho mẹ nghe, nhưng vì em còn nhỏ nên bà mẹ không để ý đến những lời em kể, từ đó em không kể cho ai nghe nữa. Người thì cố kể cho mục sư của mình nghe nhưng bị vị này phê bình là mình bị ảo giác. Một cô học trò trung học muốn kể cho bạn nghe kinh nghiệm lạ lùng của mình nhưng bị cho là tâm thần nên đành nín lặng. Vì vậy, ai cũng cứ tưởng chuyện này chỉ xảy ra cho một mình mình thôi. Khi bác sĩ Moody nói với họ rằng, có nhiều người đã có kinh nghiệm tương tự thì họ có vẻ mừng, vì thấy không phải mình "điên", không phải chỉ một mình mình thấy những chuyện lạ lùng của cõi giới bên kia. 
13. Thay đổi tâm tư
Như đã trình bày trên, những người trải qua kinh nghiệm này thường thường không muốn kể với ai, nhưng họ cảm thấy những gì họ kinh nghiệm đã để lại một dấu ấn sâu xa trong đời họ, đã mở rộng tầm mắt của họ, đã thay đổi hẳn lối nhìn của họ về cuộc đời. Một ông tâm sự : "kể từ ngày ấy, tôi thường tự hỏi, tôi đã làm gì với cuộc đời của tôi, và khoảng đời còn lại này tôi sẽ phải sống như thế nào. Ngày trước muốn gì là tôi làm liền, không suy nghĩ đắn đo. Nay thì tôi thận trọng lắm. Trước khi hành động tôi thường tự hỏi lòng mình xem việc này có đáng làm hay không hay chỉ có lợi cho bản thân thôi ? Nó có ý nghĩa gì, có ích lợi gì cho đời sống tâm linh không ? Tôi không phê phán người khác, không thành kiến, không tranh cãi. Và tôi thấy hình như mình hiểu rõ mọi sự việc chung quanh một cách đúng đắn hơn, dễ dàng hơn". 

Nói chung, những người chết hồi sinh đều thấy đời mình có một mục đích rõ ràng hơn, tâm tư thoải mái hơn, đầu óc rộng rãi cởi mở hơn, tình thương yêu nhiều hơn, và nhấn mạnh đến đời sống tâm linh, cũng như một đời sống khác sau khi chết. Họ như sực tỉnh khi thấy xưa nay mình chỉ "mãi sống", và lúc nào tâm tư cũng lo lắng, mưu cầu, sắp đặt cho ngày mai, hay luyến tiếc quá khứ mà quên sống với giây phút hiện tại. Họ khám phá rằng, đời sống tinh thần thật sự quí báu hơn đời sống vật chất nhiều; rằng thân xác vật lý chỉ là nơi tạm trú cho phần tâm linh. Và họ đều nói đến bài học từ "người ánh sáng" : Ở trên đời, tiền tài, danh vọng hay bằng cấp cao cũng không đáng gì, chỉ có tình thương, ý tưởng phụng sự người khác mới đáng kể. Thông điệp thứ hai từ "người ánh sáng" là : Mọi người nên trau dồi trí tuệ và tình thương, vì sống và chết là một quá trình được tiếp nối không ngừng.

Một anh chàng trẻ tuổi đang học làm tu sĩ Tin Lành kể, trước kia anh nghĩ chỉ có những người theo giáo phái của anh mới được cứu rỗi, còn ngoài ra tất cả đều là tà đạo và sẽ phải xuống hỏa ngục hết. Sau khi gặp "người ánh sáng" thì anh thay đổi hoàn toàn. Anh thấy vị này hiền hòa, nhân từ chứ không như niềm tin về sự trừng phạt những người không tin mình như Thánh Kinh miêu tả. Vị này không hề hỏi han gì về giáo phái của anh đang theo mà chỉ hỏi anh có biết yêu thương người khác không.

14. Quan niệm mới về cái chết
Sau khi được thấy cảnh giới đẹp đẽ bên kia, không còn ai sợ chết nữa. Nói như thế không phải là họ chán sống và muốn đi tìm cái chết. Trái lại, họ thấy quý đời sống hơn và hiểu rằng đời sống này là một môi trường tốt cho họ học hỏi. Họ cho rằng, vì còn nhiều việc cần phải làm nên họ mới "bị" trả về và làm cho xong, để sau này được ra đi 1 cách nhẹ nhàng. 
Một người kể : "Kinh nghiệm này đã thay đổi hẳn cả cuộc đời của tôi mặc dù chuyện này đã xảy ra lúc tôi mới 10 tuổi. Từ đấy tôi tin tưởng hoàn toàn rằng, có một đời khác sau đời sống này và tôi không hề sợ chết. Tôi thường tự cười thầm mỗi khi nghe có người cho rằng chết là hết". 
Có người thì ví cái chết như là một sự di chuyển từ một nơi này sang một nơi khác, hay từ một con người vật chất sang một thể tâm linh cao hơn. Có một bà, sau khi thấy có nhiều người thân đến chào, có cảm tưởng như mình được đón tiếp về nhà sau một thời gian đi chơi xa. Người khác thì nói rằng, dùng từ "chết" để tả lại cảnh tượng này là không đúng, vì đây giống như một sự thay đổi chỗ ở. Một người khác nữa thì ví thân thể mình như là nhà tù, và khi chết thì được thoát ra khỏi cái ngục tù đó !
15. Chứng cớ cụ thể
Dĩ nhiên, có nhiều người đặt câu hỏi, những chuyện do người chết hồi sinh kể lại có thể tin được không, có chứng cớ gì không ? Câu trả lời là có. Thứ nhất, các bác sĩ thấy các bệnh nhân đã tắt thở, tim đã ngừng đập, nên họ mới dùng phương pháp cấp cứu, vậy mà sau khi hồi sinh, bệnh nhân đã dùng danh từ y khoa kể lại đầy đủ chi tiết những gì xảy ra trong khi họ nằm bất động trên giường ! 
Một cô gái sau khi lìa khỏi xác đã đi qua phòng bên cạnh và thấy chị mình đang ngồi khóc và kêu thầm "Kathy, đừng chết, em ơi đừng chết". Sau khi hồi tỉnh, cô kể lại chi tiết này và chị cô không hiểu sao cô lại biết rõ như vậy. Một nạn nhân kể lại đầy đủ tình tiết về những người chung quanh, họ đã nói những gì, ăn mặc ra sao..v..v... Một bà kể, khi hồn lơ lửng trên trần nhà, bà thấy một chùm chìa khóa trên một nóc tủ. Chùm chìa khóa này của một bác sĩ, trong lúc vội vàng đã vứt lên đó đã mấy ngày trước và quên bẵng đi...
Đó là toàn bộ những câu chuyện được bác sĩ Raymond Moody viết lại. Những ai muốn tìm hiểu chi tiết về cảnh giới bên kia cửa tử có thể tìm đọc tài liệu nghiên cứu của nhiều tác giả người Mỹ. Chỉ cần vào Google và ghi "the life beyond" thì sẽ thấy vô số tài liệu. Khi đọc cuốn "Tử Thư Tây Tạng" (Tibetan Book of The Death), tôi thấy có nhiều điểm tương đồng với cảnh giới được diễn tả trong cuốn "Life After Life" của bác sĩ Raymond Moody. Có một điều lạ là, những người chết đi sống lại đều nói đến một luồng ánh sáng, hay 1 người sáng, mà họ cho là thiên thần, tùy vào lòng tin tôn giáo của họ. Và cuốn Tử Thư Tây Tạng thì nói rất rõ đó là Đức Phật Tỳ Lô Giá Na ngự trong biển sáng.
Người ánh sáng được diễn tả trong cuốn sách của bác sĩ Moody không nói mình là ai. Vị này dường như thương mến tất cả mọi người và dạy mọi người rằng làm người phải biết thương thân mình và thương người khác; rằng hành trang mà người chết có thể mang theo chỉ là tình thương thôi, một thứ tình thương vô vị kỷ. Tôi thấy những lời dạy này cũng quen thuộc như những lời dạy của Đức Phật.

T.K:

Phần nhận xét hiển thị trên trang

chữ tháng tư
 
hắn đi tới quyết định
cần phải vượt qua bốt barrier chữ thứ 27
nếu muốn trở về quê nhà sự sống
để ngủ & thả phóng sức chạy của cơn mơ
 
từ một khẩu hiệu
chữ T lung lay rơi xuống ngã ba
hắn nhặt lên tiếng chim mang khuôn mặt người đàn bà úng nắng
đem tóc chế ngự sự truy đuổi của đêm
trong khu vườn rào kẽm gai hắn đã thấy
nháng những vó ngựa hung hãn cuộn mình
là bài hát dưới vùng bóng hôn mê
về sự nổi loạn của chữ Ư cùng dấu lửa dưới lòng chân tỉnh thức
 
hắn ngồi gần bên vết thẹo gọn gàng
khi những dùi cui cùng lưỡi hái thét gào biến dạng
làm chữ D treo trời
chuông mộng du kích rền trăng cuối tháng
dẫn hắn khám phá thấy ngòi nổ một đường gió
từ vòm miệng buổi sớm đẻ ra chữ O
từ chính nỗi kinh hoàng
hắn thấy mình bay lên
 
 
 

Ta chẳng là gì..

Phần nhận xét hiển thị trên trang




Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

Pamuk, Orhan: Anh viết cho ai?

Phần nhận xét hiển thị trên trang


Đoàn Khương Duy chuyển ngữ

Anh viết cho ai? Hơn ba mươi năm có lẻ vừa qua — kể từ lúc tôi thành nhà văn — đây là câu hỏi tôi được nghe nhiều nhất từ phía độc giả lẫn cánh báo chí. Động cơ tuỳ thuộc vào thời gian và nơi chốn, cũng như còn tuỳ vào mức độ tò mò của mấy người đó, nhưng khi hỏi thế thì tất cả mọi người đều có cùng giọng điệu ngờ vực và khinh khỉnh.
Vào giữa thập niên bảy mươi, lúc tôi quyết định trở thành tiểu thuyết gia, câu hỏi ấy phản ánh quan điểm thường thấy ở mấy kẻ thô thiển cho rằng nghệ thuật và văn chương là những thứ xa xỉ khó lòng đáp ứng được ở một nước nghèo không thuộc phương Tây đang vật lộn để gia nhập được vào thời hiện đại. Cũng có ý cho rằng nếu người nào đó “được giáo dục và có học thức cao giống anh” thì hắn có thể phụng sự quốc gia theo hướng có ích hơn bằng cách trở thành bác sĩ chống dịch bệnh hay kĩ sư cầu đường. (Jean-Paul Sartre tin vào quan điểm này hồi đầu thập niên 1970 khi ông nói ông sẽ không sa vào chuyện viết tiểu thuyết nếu là một trí thức ở Biafra.)
Những năm sau, mấy tay chất vấn đó càng thích thú chuyện tìm hiểu xem ở trong xã hội mà tôi đặt niềm hi vọng vào thì bộ phận nào có thể đọc và ngưỡng mộ tác phẩm của tôi. Tôi biết đây là câu hỏi đầy mưu mẹo, bởi nếu tôi không trả lời “tôi viết cho những người nghèo nhất và những ai bị áp bức nhất trong xã hội!” thì hẳn là người ta sẽ gán cho tôi cái tội bảo vệ lợi ích mấy tay chủ đất và tư sản ở Thổ-nhĩ-kì — ngay cả khi người ta nhắc tôi rằng bất kì nhà văn hoà nhã và trong sáng nào mà khẳng định rằng mình viết cho nông dân, công nhân và những kẻ bần cùng thì ắt là sẽ viết cho những người ít học thức. Hồi thập niên 1970, khi mẹ hỏi tôi viết văn dành cho ai, giọng điệu buồn rầu và đầy lo lắng của bà cho tôi biết bà thực sự muốn hỏi thế này: “Con tính lo cho thân mình ra sao đây?” Và khi mấy người bạn hỏi tôi viết cho ai, chỉ cần nghe giọng có chút chế giễu là đủ biết ý họ rằng không ai muốn đọc sách do một người như tôi viết ra.
Ba mươi năm qua đi, tôi càng bắt gặp câu hỏi này thường hơn. Chuyện này liên quan đến sự kiện mấy cuốn tiểu thuyết của tôi đã được dịch sang bốn mươi ngôn ngữ. Đặc biệt trong suốt mười năm qua, tôi nhận được nhiều cuộc phỏng vấn hơn bao giờ hết, và mấy tay phỏng vấn có vẻ lo lắng tôi có thể hiểu sai ý, thế là họ cứ hay thêm vào: “Anh viết bằng tiếng Thổ-nhĩ-kì, vậy anh viết chỉ dành cho người Thổ-nhĩ-kì hay lúc này anh còn nghĩ tới lượng độc giả ở phạm vi lớn hơn mà anh đã có được nhờ những bản dịch?” Bất kể chúng tôi nói chuyện ở trong nước Thổ-nhĩ-kì hay bên ngoài thì câu hỏi luôn kèm theo một nụ cười ngờ vực, khinh khỉnh, chuyện đó khiến tôi phải đi đến kết luận rằng nếu tôi muốn tác phẩm của mình được chấp nhận là thứ đúng đắn và chân thật, chắc tôi phải trả lời, “Tôi chỉ viết cho người Thổ-nhĩ-kì thôi”.
Trước khi thẩm tra bản thân câu hỏi — bởi nó không thành thật cũng chẳng nhân văn — ta phải nhớ sự trỗi dậy của tiểu thuyết trùng với sự xuất hiện nhóm quốc gia độc lập. Khi những cuốn tiểu thuyết vĩ đại của thế kỉ mười chín đang hình thành, thì nghệ thuật tiểu thuyết chính là nghệ thuật quốc gia dù xét theo bất kì nghĩa nào. Dickens, Dostoyevsky và Tolstoy viết cho tầng lớp trung lưu mới nổi, họ là những người có thể nhận ra mọi thành phố, con đường, căn nhà, phòng ốc và mọi cái ghế trong mấy cuốn sách của những tác gia được cả nước kính trọng; nó có thể nuông chiều cho ta có được những niềm vui thoả giống như bên ngoài thế giới thực và nó bàn đến những ý tưởng giống nhau. Vào thế kỉ mười chín, tiểu thuyết của những tác gia quan trọng trước tiên xuất hiện trong mấy tờ báo quốc gia ở phần phụ thêm cho mục văn hoá, nghệ thuật, bởi các tác gia này khi ấy nói chuyện với cả nước. Bằng giọng trần thuật của họ, ta có thể cảm giác được nỗi bất an của kẻ yêu nước luôn khắc khoải trong lòng, ước ao sâu kín của họ là mong muốn đất nước mình phát triển thịnh vượng. Đến cuối thế kỉ mười chín, đọc và viết tiểu thuyết chính là tham gia vào cuộc bàn luận mang tầm vóc quốc gia về những vấn đề hệ trọng của đất nước.
Nhưng ngày nay, hành động viết tiểu thuyết mang một nghĩa khác hẳn, và chuyện đọc tiểu thuyết văn học cũng thế. Thay đổi đầu tiên xuất hiện hồi nửa đầu thế kỉ hai mươi, khi việc dấn thân của tiểu thuyết văn học vào chủ nghĩa hiện đại đã giành cho nó một địa vị trong nền nghệ thuật cao cấp. Cũng quan trọng như vậy là những thay đổi trong lĩnh vực truyền thông mà ta đã thấy hơn ba mươi năm qua: Trong thời đại phương tiện truyền thông xuất hiện toàn cầu, nhà văn không còn là người cất lên tiếng nói trước nhất và duy nhất với tầng lớp trung lưu của chính đất nước họ, mà họ là những người có thể cất tiếng nói, ngay tức thì, với các độc giả của “tiểu thuyết văn học” trên khắp thế giới. Các độc giả văn chương ngày nay chờ đợi một tác phẩm mới của García Márquez, Coetzee hay Paul Auster cũng y như các bậc cha ông ngày trước trông chờ cuốn sách mới của Dickens — coi đó là tin tức nóng hổi nhất. Các tiểu thuyết gia văn học có lượng độc giả trên thế giới thuộc dạng đó lớn hơn rất nhiều so với lượng độc giả có thể chạm tới sách của họ ở trong nước.
Nếu ta khái quát hoá câu hỏi — nhà văn viết cho ai? — thì ta có thể nói họ viết cho độc giả lí tưởng của mình, cho những người thân thương của mình, cho chính mình hoặc không dành cho ai hết. Đây là sự thật, nhưng không phải là toàn bộ sự thật. Bởi ngày nay các nhà văn còn viết cho những người đọc sách họ nữa. Từ điều này ta có thể suy ra ngày nay các nhà văn ngày càng ít viết cho đa số những người trong nước (những người không đọc sách họ) hơn so với thiểu số độc giả trên toàn thế giới, những người hay đọc sách họ. Thế là ta biết: Những câu hỏi chọc tức, và những ngờ vực về ý định đúng đắn của nhà văn, tất cả đều phản ánh tâm trạng trạng bất an cho cái trật tự văn hoá mới hiện nay vốn được hình thành từ hơn ba mươi năm qua.
Những người thấy phiền nhất là những kẻ định hướng dư luận và những viện văn hoá ở các nước không thuộc phương Tây. Họ ngờ vực về thế đứng của mình trên thế giới, còn trên đấu trường quốc tế thì họ không sẵn lòng bàn luận về những cuộc khủng hoảng quốc gia hay những vết nhơ trong lịch sử của mình, những nhóm người như thế tất nhiên sẽ nghi ngờ những tiểu thuyết gia, những người nhìn lịch sử và chủ nghĩa dân tộc từ góc nhìn phi dân tộc chủ nghĩa. Theo quan điểm của họ, tiểu thuyết gia nào không viết cho chính độc giả trong nước thì người đó đang ngoại lai hoá đất nước cho “nước ngoài tiêu thụ” và tạo ra các vấn đề thiếu cơ sở trong thực tế. Cũng có mối nghi ngờ tương tự ở phương Tây, khi mà độc giả Tây phương tin rằng văn chương địa phương nên duy trì tính địa phương, thuần khiết và trung thành với cội rễ dân tộc; họ có nỗi sợ thầm kín rằng một nhà văn viết cho độc giả quốc tế và rút tỉa từ những truyền thống bên ngoài nền văn hoá của mình thì sẽ làm mất đi chân tính của mình. Người cảm nhận được sâu sắc nỗi sợ này là một độc giả mong mỏi được mở sách ra và tiến vào xứ ngoại quốc bị tách li khỏi thế giới xung quanh, mong mỏi được quan sát trận cãi nhau của nội bộ đất nước đó, cũng tựa như người ta thích nghe lóm nhà hàng xóm cãi nhau vậy. Nếu nhà văn lên tiếng cho một nhóm người đọc bao gồm cả những độc giả ở những nền văn hoá khác nói những ngôn ngữ khác, thì cõi tưởng tượng này cũng sẽ tan biến.
Bởi lẽ mọi nhà văn trong sâu thẳm lòng mình đều muốn viết chân thật, cho nên — ngay cả sau ngần ấy năm trôi qua — tôi vẫn thích được ai đó hỏi tôi viết văn cho ai. Tuy nhiên, trong khi tính chân thật của nhà văn phụ thuộc vào khả năng dấn thân vào thế giới anh đang sống, thì nó cũng phụ thuộc nhiều vào việc anh phải có khả năng hiểu được rằng vị thế bản thân anh cũng sẽ thay đổi trong thế giới đó. Không có một thứ độc giả lí tưởng, thoát ra khỏi nhãn quan thiển cận và không bị cản trở bởi những điều cấm đoán của xã hội hay những huyền thoại của dân tộc, cũng như không có một thứ tiểu thuyết gia lí tưởng. Thế nhưng — dù viết cho dân tộc hay cho quốc tế — thì bao giờ cuộc truy tầm độc giả lí tưởng của một nhà văn cũng bắt đầu bằng cách tưởng tượng vị độc giả ấy có tồn tại, và rồi bằng cách viết những cuốn sách mà tâm trí luôn nghĩ về người đó.

Chuyển ngữ tại Sài-gòn
20130320

---------