Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 11 tháng 2, 2013

Bài thơ nhỏ




Viết
Giờ mình chẳng giống ai..
Khi buồn nắc nẻ
Khi vui sụt sùi
Dở hơi
Dở khóc
Dở cười
Xôn xao chẳng đặng
ta chơi một mình
Em còn xinh?
Ta còn xanh?
Bơ vơ hai đứa
Có thành tri âm?



Nhóm Bút Sông Lục đăng tải:



THỨ BẢY, NGÀY 09 THÁNG HAI NĂM 2013

chuc tet












HỒNG GIANG

THƠ
CHÚC TẾT

Văn chương vui thú chợ giời..
Thi nhân
mặc khách
mấy người còn mê?


Thôi đành vui thú sơn khê..
Trăng lên đỉnh núi
Gió về bến sông..
Buồn cho con tạo chổng mông..
Thẳng ngay phận mỏng long đong kiếp người!
Thằng nô khóc
Thị nở cười


Xuân này xem hẳn hơn mười xuân qua!

Bài từ năm cũ..

THẬT ĐÁNG GHÉT

Category: , Tag:
09/01/2011 07:23 am



Đâu phải tại nhà hết gạo?
Lưng ba đồng mỏng dắt mình
Cũng một mảnh vườn, căn nhà trú khi mưa, khi bão
Rượu thơm đủ đãi bạn hiền

Sao canh cánh bên lòng như người mắc nợ?
Không vay
Ta trả hết đời!
Nợ đất, nợ trời, nợ biển
Nợ người
Ta trả sao đây?

Nợ những con đường vừa đi vừa ngẫm ngợi
Nợ những con sông
Sóng vỗ ân tình
Nợ bãi cỏ non
Nợ dòng suối nhỏ
Nợ em nhìn trong mắt anh ..

Ta chỉ có một trái tim làm sao trả đủ?
Câu thơ thơm thảo
Trong lành
Một kiếp sống thừa đáng sợ!
Say yêu
Chưa dám hết mình!


Huyền thoại
Nhật Chiêu 
Bên bờ biển. An Tiêm ngồi trên gành đá. Nhìn khơi xa. Nhìn một cái gì đó ngoài khơi xa. Một màu xanh. Một màu sương. Xa khơi xanh và sương.
Chàng ngồi từ sớm. Biển bắt đầu loang nắng. Nắng hồng và xanh. Biển xanh và hồng. Nhưng vai chàng óng ánh nắng bồ quân.
Bờ biển đầy đá dựng, lô nhô đủ hình thù. An Tiêm im lìm như đá, có hình thù như đá, có trầm tư của đá.
Những người đánh cá ra đi và trở về thường nhìn thấy người đàn ông mắt buồn ấy nhìn ra khơi xa. Mắt chàng buồn. Không phải nỗi buồn thường tình. Nỗi buồn trong mắt chàng có màu biển. Màu xa khơi.
Thân ái chào chàng, rồi vừa đi các ngư phủ vừa thì thào với nhau:
Ông ấy cứ ngồi nhìn biển, làm gì không biết nữa.
Ông ấy nhìn ra khơi. Ông ấy tìm cái gì đó. Hoặc nhớ cái gì đó.
Biển là để bắt cá. Không phải để nhìn. Không bình thường đâu.
Như thể ông ấy đang chờ ai đó ngoài khơi về. Ngồi chờ lâu lắm rồi. Chờ từng ngày.
Không đâu. Ông ấy muốn ra khơi thì có.
Chẳng lẽ ông ấy muốn trở ra hoang đảo?
Sao gọi là hoang đảo. Đó là đảo Dưa hấu. Ông ấy đã biến hoang đảo thành đảo An Tiêm, đảo của những trái dưa mùa xuân.
Vua đã bãi bỏ lệnh lưu đày, cho gọi ông ấy về.
Vua cần ông ấy.
Tại sao lưu đày?
Ông ấy không cần vua.
Ai cần ông ấy? Bọn mình đâu cần ông ấy.
Nhảm! Anh chưa từng ăn dưa hấu à?
Dưa hấu là của chim trắng gieo xuống đất, không phải của An Tiêm.
Sao chim trắng không gieo xuống vườn nhà anh?
Tình cờ thôi mà.
Như tình cờ vợ anh đẻ con cho anh!
Nói lạ!
Tại sao An Tiêm lại chống vua?
Không chống vua. Chỉ sống theo ý mình.
Phải sống theo ý vua.
Như thế không phải là An Tiêm.
Là An Tiêm thì sao nào? Không là An Tiêm thì sao nào? Ngồi im lìm trên đá hằng ngày thì là gì?
Không ai là ai. Chúng ta chỉ là những con cá.
Còn những con cá?
Cũng thế thôi!
Không phải chúng ta bắt cá à?
Có ngày cá sẽ bắt chúng ta, biển sẽ bắt chúng ta. Mà đã từng như thế rồi nếu cá to, ta nhỏ.
An Tiêm nói cá cũng có ý cá, tôi nghe thế.
An Tiêm nói cái đó trước khi im lặng như bây giờ.
Cá có ý cá à? An Tiêm ở trong đầu các người thì có!
Nếu có thần linh, họ sẽ giống An Tiêm.
Không, An Tiêm là con người.

An Tiêm không nghe họ nói, không thấy họ đi. Anh đang tìm kiếm trong sương mù một hòn đảo xa khơi. Một hòn đảo chỉ hiện ra khi có sương mù mùa xuân. Cùng với sương mù ấy nó đến. Và nó sẽ cùng tan với mù sương ấy.
Nó không phải là đảo An Tiêm. Cái đảo mà anh đã chinh phục và biến nó thành trù phú, anh đã để lại cho người khác.
Trong khi đó, dường như bản thân anh lại trở thành một hoang đảo bốn bề lộng gió. Anh muốn một lúc nào đấy sẽ chinh phục hoang đảo ấy, một hoang đảo an tâm.
Anh là đảo. Gió thổi qua đảo. Trăng đi qua đảo. Sóng gió gào thét ngày đêm, bốn mùa. Nhưng an tâm là đảo.
Anh là đảo. Niềm vui xô vào đảo. Nỗi buồn ập vào đảo. Bóng tối và ánh sáng làm phép lạ, cho đảo hiện ra hoặc biến mất trong sương mù. Nhưng an tâm là đảo.
An Tiêm ngồi trên gành đá, bàn tay phải chống cằm, khuỷu tay chống đùi. Trầm tư mà không trầm tư. Chỉ nhìn. Khơi xa.
Đảo khi thì vô hình, khi thì đa sắc.
Có đảo hay không đảo, An Tiêm không biết.
Có thể đó là hòn đảo rỗng không. Không có gì trên đó, cho dẫu là cỏ cây, suối nước. Không có cả chim chóc. Không có những quả dưa mùa xuân.
Có thể đó là hòn đảo thần tiên. Đảo của niềm vui. Lãng uyển bồng hồ. Và không nơi nào đẹp đến thế.
Mình không biết gì về hòn đảo của sương mù mùa xuân này, chàng tự nhủ. Mình chỉ nhìn thấy nó. Nhưng có lần, khi chỉ cho một ngư phủ nhìn về hòn đảo mới hiện, ông ta lắc đầu và bảo rằng không nhìn thấy gì hết.
Nhưng về bản thân mình, ta cũng đâu biết rõ. Trước khi trở thành con nuôi của nhà vua, ta là ai?

An Tiêm trở về làng xưa. Gặp lại vợ con, người làng. Mọi người muốn anh kể chuyện lưu đày, kể chuyện đảo hoang. Anh im lặng.
Nhưng huyền thoại An Tiêm vẫn lan truyền. Và anh biết mình sẽ trở thành bất tử. Nếu anh chết trên hoang đảo thì sao nhỉ? Sẽ không có huyền thoại.
Chỉ vì những trái dưa mùa xuân.
Hằng ngày An Tiêm ra bờ biển, ngồi giữa huyền thoại về chính mình. Nhưng anh đã quên cái gọi là những quả dưa mùa xuân rồi. Xuân gì chứ, bây giờ mùa nào mà chẳng có dưa hấu?
Bây giờ anh chỉ chú tâm đến hòn đảo chỉ hiện ra cùng với sương mù mùa xuân. Trên hòn đảo lúc ẩn lúc hiện này, đã từng có ai đặt chân lên chưa? Nó là ảo hay thực.
Ngồi trên đá nhìn hòn đảo sương mù, anh thấy đảo khi thì mỉm cười thân thiết, khi thì gầm gào đe dọa, khi thì hằn cái bóng nhạo báng lên trời, khi thì làm bộ lạnh lùng lảng xa.

Đôi khi đứa con trai mười lăm tuổi của anh ra bãi tìm anh.
Cha sắp đi xa, phải không?
Thế thì con nghĩ sao?
Cho con theo!
Đi thế nào? Đến đâu? Tìm cái gì? Để làm gì? Tất cả những thứ đó ta còn chưa rõ, làm sao cho con đi theo?
Nói thế nhưng An Tiêm thừa biết rằng nếu có thể trả lời tất cả những câu hỏi đó thì cần gì phải ra đi, phải lên đường?
Đứa con trai tiếp tục nằn nì. Nó mơ ước phiêu lưu, mạo hiểm, viễn du, hải hành. Những đảo hoang. Những bờ bến lạ. Đời sống trong thôn làng này quá nhỏ bé, chật hẹp. Ghe thuyền nhỏ, đánh bắt gần bờ nó chán lắm rồi.
Đứa con trai luôn luôn nghe gió và mây gọi nó đi. Đi, đi đâu cũng được. Ra đi, thế thôi. Là lữ khách. Là khách du trần thế. Là đi. Đó là ý nghĩa.
Cha ơi, con là con trai An Tiêm mà.
Thì sao nào?
Thì con sẽ chinh phục đảo hoang. Sẽ tạo lập những vườn cây trái mới, sẽ thành huyền thoại bất tử như cha.
An Tiêm nắm chặt bờ vai hãy còn mềm mại của đứa con trai. Giọng anh vang lên vừa quyết liệt vừa run rẩy.
Huyền thoại à? Huyền thoại nào kia chứ?
Mọi người tôn thờ cha. Con sung sướng và kiêu hãnh biết bao.
Ta chỉ là người bình thường. Bình thường như Trương Chi. Thế mà ngay cả tài ca hát như anh, ta cũng không có. Ước chi ta biết hát. Để không phải lặng im như thế này, nhìn những ban mai và hoàng hôn trên biển. Để không phải tàn hơi lặng lẽ với già nua.
Không. Con yêu cha vì cha là cha mà. Cha là An Tiêm.

Và một sớm mai kia, đứa con mười lăm tuổi của An Tiêm biến mất. Không ai hiểu vì sao cậu lại mất tích. Chỉ một mình An Tiêm. Anh khóc mà không biết mình đang buồn hay vui.
Đứa con trai ấy sẽ tạo huyền thoại mới chăng?
An Tiêm lại ra bờ đá ngồi, nhìn xa khơi. Dõi theo bóng hình chàng thiếu niên kiêu hãnh, lên đường tìm kiếm đảo hoang và những bình minh mới.


NGUYEN at 09/09/2011 10:17 pm comment
Chào HG .NGUYEN ghé chơi, đọc bạn hay lắm. Rỗi qua nhà minh chơi nhé ! Biết Đinh Công Thủy có Blog cho xin địa chỉ nhé, nếu không mình xin số điện thoại Thủy nhé, cám ơn nhiều !
Thường Dân núi Tản at 09/10/2011 09:16 am reply
Cám ơn bạn. số của TH:0912453567( TH không có blgo ) Nhưng bạn là ai vậy, lại cùng tên với một người bạn của tôi?
Thép Rỉ at 09/02/2011 06:31 pm comment
Bài thơ thật hay.Đã sống làm người là đã mắc nợ đời và phải trả suốt đời chưa hết nợ,nợ cơm áo gạo tiền,nợ tình cảm với gia đình,xóm giềng,xã hội...Đó là những người không vay.Còn những người vay không trả thì suốt đời,suốt kiếp nợ mãi....theo luật nhân quả nhà Phật đấy.Chào bạn,chúc bạn vui.Mến!
Thường Dân núi Tản at 09/02/2011 08:14 pm reply
Sống có ý thức về sự tồn tại của mình là một thách thức. Thật khó khăn để làm tròn bổn phận và trách nhiệm. Cám ơn anh đã đọc và góp lời! Kính trọng!
Anna at 09/01/2011 03:43 pm comment
Đời là bể khổ vô biên .Trần gian chỉ là quán trọ.Cuộc sống là nợ đời phải trả mà thôi.
Thường Dân núi Tản at 09/01/2011 05:01 pm reply
Cám ơn bạn đã đọc và góp lời !
Poll at 09/01/2011 02:41 pm comment
"Sân khấu trần gian mịt mù khổ ải Bạn đã từng chán ngán cảnh đau thương Nhưng hãy bền gan chờ ngày chiến thắng Một hồi sau sẽ kết thúc tấn tuồng"                                        Thân mến!                                             
Thường Dân núi Tản at 09/01/2011 03:18 pm reply
Cám ơn bạn, mình cũng mong được như vậy. Xưa nay văn chương thường đứng về phe nước mắt, đứng về phía những ngươpì thiệt thòi, đau khổ. Bản thân nó chưa bao giờ bợ đỡ, cúi mình trước bọn trọc phú, bạo quyền. Bạn cầm bút chắc rõ hơn ai điều đó? Chúc Pôn có thêm tác phẩm mới. ( 4/9 này mình có công việc mấy ngày ở Hà Nội, nếu không bận gặp nhau chút đi, rất nhớ )
Mylove at 09/01/2011 10:38 am comment 
thơ anh hay quá. một bài thơ chứa đựng quá nhiều, anh nghĩ nhiều quá, nghĩ ít thôi anh , thư giãn bên chén trà, tận hưởng cuộc sống anh đang có. chúc anh ngay an vui , tràn ngập yêu thuơng
Thường Dân núi Tản at 09/01/2011 03:13 pm reply 
Cám ơn libra, Vốn dĩ từ lâu đã như vậy rồi. Với lại công việc viết hàng ngày cũng đã quen. Người ta có thể dừng cỗ máy thật dễ dàng, dừng suy nghĩ rất khó. Chúc em ngày cuối tuần và ngày lễ thật vui !
Minh Thu at 09/01/2011 09:43 am comment
Bài thơ HG hay hết nói ! Nhu cầu ta có mấy: Chủ yếu chén trà ..."chén đắng h giang" -Nợ lời yêu , nợ lời nói giữa đàng -Nợ yêu quê ...ngậm bút Chắc thêm nữa thời gian "tù ngục" sẽ nổ tung những khối óc mất thôi ! (biết bầy quạ vẫn đang rình mồi) " đất nước vẫn đứng lên" ! rừng xà nu...kêu gọi ? nợ em yêu ...lời yêu không nói để chí trai còn ngang dọc tung hoành
Thường Dân núi Tản at 09/01/2011 03:09 pm reply
Thực ra cuộc sống của bản thân không đến nỗi nào. (Có thể còn khá hơn một số người) Nhưng ta đâu có viết về mình và cho mình? Trong bối cảnh như hiện tại, còn cười cợt, còn vui vẻ được chẳng lạ lắm sao anh? Cái khốn nạn của cây angten là biết trước khi trời chưa bão, mà chưa có cách nào chống đỡ được. Cảm ơn anh đã chia sẻ và chúc anh có ngày nghỉ vui!
Minh Thu at 09/01/2011 09:09 am comment 
Số máy anh vẫn cũ mà : 0909 547 802 MT
Thường Dân núi Tản at 09/01/2011 03:04 pm reply 
Cám ơn anh!
kimle at 09/01/2011 07:53 am comment
Ai làm anh ghét hở? còn THẬT ĐÀNG GHÉT nữa chứ, bài thơ chứng  tỏ anh đang tự giận mình nữa kìa? sao thế anh? mật bí cho em nghe tí xem nào? mấy ngày kg sang thăm anh rồi, chúc anh vui và bình an nhé, em về đây, hy vọng em kg làm anh THẬT ĐÁNG GHÉT đâu héng?
Thường Dân núi Tản at 09/01/2011 03:04 pm reply
Không thể bưng tai bịt mắt Nhìn, nghe..Thêm bực chính mình KHông ai làm gì đâu Kim ạ. Chẳng qua thấy bất lực của bản thân thôi. Cám ơn em đã chia se và an ủi. Chúc em có nhiều may mắn và thành công !

Thứ Năm, 7 tháng 2, 2013

Nhớ quê

Category: Thơ, Tag:

09/18/2012 08:14 am
 

Có gì đâu mà đưa anh về quê?
quê vẫn nghèo

số phận quê phải thế
Sáng ra đã nghe câu ca từ gốc đa làng kể lể:
"Thế gian lắm kẻ mơ màng..”
gặp cô láng giềng vừa lỡ chuyến đò ngang..

Có gì đâu mà đưa em về quê?
Những lũy tre sẽ không bao giờ xanh lại
Cò đã bay 

những cánh đồng khờ dại..
người thân quen 
Như chưa hề thân quen

Có gì đâu mà đưa bạn về quê?

Những nét hoa văn là nếp nhăn trên trán
Tường nhà ai cao
Như không cần nhớ bạn!
ta đứng một mình, nhấn chuông hồi lâu..

Quê vẫn là quê

Sao lòng nao nao
Sông xưa bến cũ
Thủa nào khác xa?
Con đò có đợi người qua?
Đường thôn còn có bóng đa đợi mình?
Xứ Đoài ..
sao cứ lặng thinh?

Thứ Tư, 6 tháng 2, 2013

Tiểu luận

Về truyện ngắn và cực ngắn  [chuyên đề  TRUYỆN CỰC NGẮN]
(Hoàng Ngọc-Tuấn dịch)
Lời người dịch:
Dưới đây là một số đoạn trích từ hai tiểu luận "Algunos aspectos del cuento" (Vài phương diện của truyện ngắn), và "Del cuento breve y sus alrededores" (Về truyện cực ngắn và những dạng tương cận) của Julio Cotázar (1914-1984) nhà văn Á Căn Đình, một trong những tên tuổi hàng đầu của văn chương thế kỷ 20, là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết -- nổi bật nhất là Rayuela (Nhảy cò cò, 1963), một tác phẩm hết sức độc đáo về nhiều phương diện -- và nhiều truyện ngắn (và cực ngắn) rất lạ thường. Thật thú vị, Julio Cortázar gọi những truyện cực ngắn là "những truyện chạy đua với đồng hồ" (los cuentos contra el reloj).
-------------------------------------------------------------------------------------------
Vài phương diện của truyện ngắn
[...]
Trong nỗ lực nắm bắt tính cách độc đáo của truyện ngắn, người ta thường so sánh nó với tiểu thuyết, một thể loại phổ thông hơn rất nhiều và có rất nhiều quy tắc đã được đặt ra cho nó. Chẳng hạn, chúng ta thấy rằng tiểu thuyết mở rộng câu chuyện từ trang này sang trang khác, và do đó kéo dài thời gian cần có để đọc nó, và nó chỉ dừng lại khi đề tài đã được khai triển đúng mức; truyện ngắn, ngược lại, khởi sự với ý niệm về một giới hạn, và trước hết là một giới hạn vật chất (límite físico), chính vì vậy mà ở Pháp, khi một truyện ngắn kéo dài hơn hai mươi trang, nó được gọi là "nouvelle" (truyện vừa), một thể loại gát chân này lên truyện ngắn và chân kia lên tiểu thuyết.
Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể dùng phim truyện và nhiếp ảnh như một phương tiện loại suy để so sánh tiểu thuyết và truyện ngắn. Phim truyện, trên nguyên tắc, là thể loại "bỏ ngỏ" (“orden abierto”) [không bị giới hạn về độ dài], giống như tiểu thuyết, trong khi một bức nhiếp ảnh có giá trị phải tiên liệu được cái giới hạn bị quy định bởi tầm thu ảnh hẹp của ống kính và tác dụng mỹ học mà nhiếp ảnh gia có thể tạo nên trong chính cái giới hạn này. Tôi không biết bạn đã từng nghe một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp nói về nghệ thuật của mình hay chưa; tôi cứ ngạc nhiên mãi khi nghe những điều ấy giống hệt như những điều mà một người viết truyện ngắn có thể nói. Những bức nhiếp ảnh tuyệt hảo cỡ tác phẩm của Cartier-Bresson hay Brassai đã định nghĩa nghệ thuật nhiếp ảnh như một nghịch lý rành rành: nó cắt ra một mảnh nhỏ của hiện thực, đặt mảnh ấy vào trong những giới hạn nào đó, nhưng nhờ vậy tác phẩm sẽ bung ra như một cú nổ làm mở toang một hiện thực rộng lớn hơn rất nhiều, như một nhãn giới đầy sức mạnh làm thăng hoa phần hồn của cái nhìn qua ống kính. Trong khi phim truyện, cũng như tiểu thuyết, để nắm bắt cái hiện thực rộng hơn và đa phương hơn, cần phải phát triển sự tích lũy những tiểu tiết (chứ không gạt bỏ chúng đi, dĩ nhiên) như một tổng hợp đa phức nhằm dẫn đến điểm cao trào của tác phẩm, thì một bức nhiếp ảnh hay một truyện ngắn xuất sắc lại có lối tiếp cận khác hẳn: người chụp ảnh hay người viết truyện ngắn phải chọn lựa và đặt giới hạn cho một hình ảnh hay sự kiện để biến nó thành một dạng "khai nhãn" (apertura), một quá trình lên men nâng trí tuệ và cảm xúc vượt qua cái giai thoại thị ảnh hay văn chương (la anécdota visual o literaria) mà tác phẩm nhiếp ảnh hay truyện ngắn chứa đựng.
Một nhà văn Á Căn Đình rất mê xem đánh quyền Anh có lần bảo tôi rằng trong trận võ đài xảy ra giữa cái văn bản hấp dẫn và độc giả của nó, tiểu thuyết thắng nhờ đánh kéo dài để lấy điểm kỹ thuật, còn truyện ngắn thì phải thắng nhờ cú đo ván. Đúng vậy, tiểu thuyết từng bước làm tăng tác động đối với độc giả, trong khi một truyện ngắn hay thì phải gọn sắc, thấu cáy, và không khoan thứ ngay từ câu đầu tiên. Nói thế cũng chưa phải là thật đúng, vì người viết truyện ngắn giỏi là một võ sĩ quyền Anh rất khôn ngoan, và những cú đấm đầu tiên của y cũng có lúc dường như chẳng ăn nhằm gì, nhưng kỳ thực đó là lúc y đang nhứ cho thế thủ chắc nịch của đối phương phải lạng quạng và sơ hở.
Hãy thử lấy bất cứ truyện ngắn thật hay nào đó mà bạn thích, và thử phân tích trang đầu tiên của nó. Tôi hẳn rất ngạc nhiên nếu bạn tìm thấy bất cứ những yếu tố vu vơ nào chỉ được bày ra lấy có. Người viết truyện ngắn biết rằng y không thể làm việc bằng sự tích lũy, rằng thời gian không phải là lợi điểm của y; y chỉ có thể vận động trong chiều sâu, theo đường thẳng đứng, bất kể từ dưới lên hay từ trên xuống trong cái không gian chữ nghĩa. Và điều này, nghe như một ẩn dụ, kỳ thực lại diễn tả đúng cốt lõi của phương pháp viết. Thời gian và không gian của truyện ngắn phải ở trong tình thế như bị mắc lời nguyền, bị nén dưới sức nặng của tinh thần và sức nặng của hình thức để đạt đến sự "khai nhãn" mà tôi đã nói. Chúng ta chỉ cần đặt câu hỏi tại sao một truyện ngắn nào đó dở tệ. Chẳng phải cái đề tài làm nó dở tệ, bởi trong văn chương chẳng có đề tài hay hay dở, mà chỉ có cách xử lý hay hay dở đối với một đề tài. Một truyện dở tệ cũng không phải vì những nhân vật trong truyện chẳng có gì thú vị, bởi ngay cả một hòn đá cũng trở thành thú vị nếu nó được một cây bút như Henry James hay Franz Kafka lưu ý đến. Một truyện dở tệ là khi nó thiếu cái sức căng thẳng cần có ngay từ những chữ đầu tiên hay những hình ảnh đầu tiên.
[...]
Mỗi truyện ngắn hảo hạng giống như một hạt cây trong đó có thân đại thụ đang ngủ yên. Thân đại thụ ấy sẽ lớn lên trong chúng ta, bóng mát của nó sẽ phủ rợp ký ức của chúng ta.
[...]
Nguyên tác: ""Algunos aspectos del cuento", trong tập san Casa de las Américas, No.15 (1962) và No.16 (1963).
-------------------------------------------------------------------------------------------
Về truyện cực ngắn và những dạng tương cận
[...]
Tôi đang nói về truyện ngắn đương đại, hãy thử bắt đầu với Edgar Allan Poe, câu chuyện được vận dụng như một cỗ máy hoàn hảo để thực hiện nhiệm vụ tự sự của nó với những phương tiện dè sẻn nhất; nói vắn tắt, sự dị biệt giữa một truyện ngắn và cái người Pháp gọi là nouvelle và người Anglo-Saxon gọi là long short story đặt cơ sở trên cuộc chạy đua bất toại với thời gian, mà thắng lợi của cuộc chạy đua ấy là một truyện ngắn thượng hạng; chúng ta có thể nghĩ ngay đến những truyện "The Cask of Amontillado"[1], "Bliss"[2], "Las ruinas circulares"[3], và "The Killers"[4].
Điều này không có nghĩa là những truyện dài thì không thể hoàn hảo như thế, nhưng tôi thấy dường như khá hiển nhiên rằng những truyện ngắn tiêu biểu nhất trong vòng một trăm năm qua đã được xây dựng từ sự loại trừ không thương tiếc tất cả những thuộc tính của thể loại nouvelle và tiểu thuyết: tính cách xã luận hoá, sự đa ngôn, những sự tiết lộ tiệm tiến, và những kỹ thuật tự sự khác; nếu một long short story của Henry James hay D.H. Lawrence có thể được xem như mẫu mực sáng chói của thể loại này, thì chúng ta phải đồng ý rằng những tác giả ấy đã được hỗ trợ bởi sự tự do mở rộng đề tài và câu chữ để đạt mục đích, trong khi đó thì điều đáng kinh ngạc về những truyện chạy đua với đồng hồ (los cuentos contra el reloj) là chúng tạo ra được một cú sét đánh từ một nhúm chất liệu tối thiểu...
[...]
Nguyên tác: "Del cuento breve y sus alrededores", trong tập san El Urogallo (Dec.1969).
_________________________
[1]Truyện của Edgar Allan Poe.
[2]Truyện của Katherine Mansfield.
[3]Truyện của Jorge Luis Borges.
[4]Truyện của Ernest Hemingway. 

Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013

Bài từ nhà nát chuyển về

AI MUA SÔNG TÔI BÁN SÔNG CHO?

Category: Thơ, Tag:
05/25/2012 06:47 am
Con gái giục bố xin việc
Con trai điện về hỏi tiền
Học hành kiểu gì không biết?
Môn nào không tiền
Không nên?

Anh Pha giờ làm thợ chữ
Chữ mang ra chợ không đành
Đời giờ cần lợi thiết thực
Mấy người khát chữ
cầu danh?

Chỉ còn trăng thanh, gió mát
Phố phường ô nhiễm cần mua?
Hay địa chủ cần mua đất?
Vì con
Vui vẻ lên chùa!

Đất đai xem chừng cũng rẻ
Hỏi mua,
Hỏi bán,
Như đùa!
Có con sông dài ra bể..
Giờ đang cần bán,Ai mua?


“Những ngã tư và những cột đèn”: đi tìm thời đang mất

Lòng ngã tư mưa lằng nhằng cột điện...
- Trần Dần -

Người ta đọc Những ngã tư và những cột đèn như một truyện tâm lý, phản gián, phiêu lưu,... Tôi đọc nó như một bài thơ, một nhật ký về nhật ký, một tiểu thuyết phản-tiểu-thuyết.

1. Một bài thơ ám ảnh
Một cái tựa có lẽ là dài nhất trong những cái tựa của Trần Dần. “Những ngã tư và những cột đèn” vang lên thật khác thường bên cạnh “Người người lớp lớp”, “Bài thơ Việt Bắc”, “Động đất tâm thần”, “Nhất định thắng”, “Đêm núm sen”, “Cổng tỉnh”, “Jờ Joạcx”, “Con trắng”, “Mùa sạch”, “Sổ bụi”, “Thơ mini”,...
Một cái tựa dài 7 âm tiết với một nhịp vừa chậm rãi vừa dồn dập. “Những ngã tư và những cột đèn” gợi một bức tranh tĩnh. “Những ngã tư và những cột đèn” cũng gợi một chuyển động, một vận tốc.
Một cái tựa chia làm hai vế, mỗi vế 3 chữ - “những ngã tư” / “những cột đèn” -, đều bắt đầu bằng “những”, nối với nhau qua chữ “và”, tạo một thế đối xứng nhưng đối lập. Đối lập về ngữ âm: âm điệu vế thứ nhất căng lên nhờ thanh ngã và thanh ngang, trong khi âm điệu vế thứ hai trầm xuống nhờ thanh nặng và thanh huyền. Đối lập về hình ảnh: “những ngã tư” là những đường thẳng cắt nhau còn “những cột đèn” gợi những đường thẳng song song.
Một cái tựa với những vang vọng và dự đoán. Trước đó và sau này, sáng tác của Trần Dần luôn có những ngã tư: “ngã tư khuya”, “ngã tư buồn”, “ngã tư xưa” của Cổng tỉnh, “ngã tư năm ngoái” của Không đề số 4, “nữ ngã tư” của Jờ Joạcx, “ngã tư vắng” của Chín bức thư mưa, “ngã tư mù” của Sổ thơ 1976, “ngã tư đen” của Thơ mini 1988-1989,...
Cột đèn cũng là một hằng số trong thế giới Trần Dần: “cột đèn mù” của Cổng tỉnh, “cột đèn câm” và “cột đèn gù” của Chiều vô lễ, “cột đèn mùa” hay “Cột đèn mưa” của Mùa sạch, “cột đèn một chân” của Con Trắng, “cột đèn lằn lằn” của Jờ Joạcx, “cột đèn cao gót” của Sổ bụi 1979,...
Cũng không phải là lần duy nhất “ngã tư” và “cột đèn” xuất hiện cùng nhau. Chúng xoắn vào nhau trongCổng tỉnh - “Lòng ngã tư mưa lằng nhằng cột điện” -, nhưng lại tách riêng rẽ trong Sổ bụi 1979 - “Vẫn ngã tư. hiệu thuốc. cột đèn mù”. Nhưng có lẽ chỉ trong cái tựa “Những ngã tư và những cột đèn”, chúng mới hiện lên thuần khiết – không tính từ không bổ ngữ – và trong một thế cân bằng – với những tỷ lệ hài hòa.
“Những ngã tư và những cột đèn” sẽ chạy xuyên qua tiểu thuyết, là cửa mở nhưng cũng là chốt khóa:“Lát sau, để phá vỡ im lặng, tôi hỏi Dưỡng muốn đặt tên sách, là gì. Dưỡng trả lời ngay, không một giây suy nghĩ. Dưỡng nói: “Những ngã tư và những cột đèn”.” Nhưng thay vì đặt dấu chấm hết, nó hướng người đọc đến một tác phẩm khác. “Những ngã tư và những cột đèn” trở thành những âm vang, những tiếng dội, ở bên trong và bên ngoài tiểu thuyết.
“Những ngã tư và những cột đèn” có cấu trúc của một bài thơ, với 9 điệp khúc:
   “Tháng sáu 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ hai hay chủ nhật. Những xê dịch lủng củng, lỉnh kỉnh, của các con số, làm sao giúp tôi luôn luôn 37° không lên cơn sốt? Bên này cửa sổ tôi tím: có nhật kí và bản sao nhật kí, có lọ mực tím và bản thảo lem nhem mực tím. Bên kia cửa sổ tôi xanh: có sáu cây bàng lá xanh và nhiều căm nhông xanh quân sự đậu, có tháng sáu vắng và phố thời chiến vắng lặng.”(tr.13)[1]
   “Tháng sáu 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ ba hay chủ nhật. Bên ngoài cửa sổ tôi xanh lúc này, có sáu cây bàng lá xanh, và nhiều căm nhông xanh quân sự đậu, có tháng sáu vắng lặng, và phố thời chiến vắng lặng.” (tr.25)
   “Tháng bảy 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ tư hay chủ nhật. Bên này cửa sổ tôi tím, có lọ mực tím, và bản thảo lem nhem tím, có nhật kí, và bản sao nhật kí.” (tr.67)
   “Tháng tám 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ năm hay chủ nhật. Bên này cửa sổ tôi tím: có nhật kí và bản sao nhật kí, có lọ mực tím, và bản thảo lem nhem mực tím.” (tr.74)
   “Tháng mười một 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ sáu hay chủ nhật. Bên kia cửa sổ tôi xanh, có sáu cây bàng rụng lá, và nhiều căm nhông xanh quân sự đậu, có tháng mười một vắng lặng, và phố thời chiến vắng lặng.” (tr.110)
   “Tháng mười hai 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ bảy hay chủ nhật. Cả tuần nay, bên cửa sổ tôi tím, có nhật kí, và bản sao nhật kí, có lọ mực tím, và bản thảo lem nhem mực tím.” (tr.165)
   “Tháng một 1966. Tôi ngồi một ngày không rõ có phải chủ nhật. Nếu đúng chủ nhật, cửa sổ tôi thế nào cũng tím, và bên cửa sổ sẽ có nhật kí và bản sao nhật kí, sẽ có lọ mực tím và bản thảo lem nhem mực tím.” (tr.194)
   “Tháng ba 1966. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ năm hay thứ sáu, thứ bảy hay chủ nhật. Những xê dịch lủng củng, lỉnh kỉnh, của các con số, làm tôi bỗng dưng lên cơn sốt 37°. Bên cửa sổ tôi tháng ba, có nhật kí tím, và bản sao nhật kí, có lọ mực tím, và bản thảo lem nhem mực tím.” (tr.256)
   “Tháng sáu 1966. Tôi chờ ngày chủ nhật, để đóng cửa một nhật kí. Sáng nay, tôi ra phố lúc 6 giờ. Để ở lại hồi lâu trên hè, mà nhìn về cửa sổ. Bên này cửa sổ tôi xanh, có sáu cây bàng lá xanh, lá bàng che cửa sổ. Có nhiều căm nhông xanh quân sự đậu, mui chạm tán bàng. Bên kia cửa sổ tôi tím, có lọ mực tím, và bản thảo lem nhem mực tím. Có nhật kí, và bản sao nhật kí.” (tr.336).
Nếu 9 điệp khúc mang một số thông tin nào đó về nhân vật “tôi”, thì rất nhanh ta nhận thấy cái mà Trần Dần tìm kiếm, trên hết vẫn là một cảm xúc mỹ học. Nằm ngoài logique kể chuyện của văn xuôi thông thường, 9 điệp khúc lôi cuốn chúng ta bởi một tiết tấu, một vận tốc, một cú pháp, một cách diễn đạt, tất cả đều khác thường. 9 điệp khúc là những cơn sóng nhỏ làm nhịp cho hơn 300 trang của tác phẩm. 9 điệp khúc như 9 bức tranh với “bên này” và “bên kia”, với những hình khối – “quyển sổ”, “lọ mực”, “cây bàng”, “căm nhông” – cùng hai gam chính là “xanh” và “tím”. Xanh và tím đã gặp trong Cổng tỉnh“Thì đi thôi! Có phố nào xanh/Hoa lay hàng dậu tím?”“Tôi cô đơn trời xanh cô đơn trời tím”. Xanh và tím cũng từng gắn với Cột đèn câm“Tôi có vệ tinh/rồi có nhà ga xanh/nhà ga tím/trong một vũ trụ/chẳng hiền lành”. 9 điệp khúc vừa lặp lại vừa biến tấu. 9 điệp khúc không tuân theo một nguyên tắc nào khác ngoài cảm hứng về cái Đẹp.
9 cũng là một con số rất Trần Dần. Trong Chín bức thư mưa, 9 là một ngẫu hứng: “Ai xui nhà ươm chín mái?/Tơ ngâm chín vại/Dâu xanh chín bãi/Tằm ngã - chín nong”. Trong Những ngã tư và những cột đèn, đoản khúc mang tên “9 giờ khói” là một ứng tấu gồm 36 từ “chết” ở đó âm thanh và ngữ nghĩa không ngừng xô đẩy nhau trong một cuộc đua khó phân thắng bại:
“Chết tươi. Chết héo. Chết đau. Chết điếng. Chết cứng. Chết đứng. Chết nằm. Chết đêm. Chết thêm. Chết khiếp. Chết dần. Chết mòn. Chết toi. Chết ngóp. Chết ngất. Chết tất. Chết cả. Chết lử. Chết lả. Chết đứ. Chết đừ. Chết ngay. Chết quay. Chết ngỏm. Chết ngoẻo. Chết thối. Chết nát. Chết hết. Chết sạch. Chết tái. Chết tím. Chết ngồi. Chết sáng. Chết chiều. Chết bỏ. Chết dở.” (tr.259-260).
Ở một đoạn khác trong Những ngã tư và những cột đèn, Trần Dần cắt ngang tâm sự của Dưỡng, để chạy theo tiết tấu “thu”: “Lác đác xe đạp bộ hành, là bộ hành thu, là xe đạp thu, là lác đác thu”. Và “thu” sẽ theo Trần Dần sang Mùa sạch, làm một hành trình mới:
   Mứt kẹo thu ngòn ngọt môi thu
   Tăcxi thu vòn vọt phố thu
   Mayô thu đòn đọt ngực thu
   Thể thao thu thon thót nữ thu
   Yach thu tì tọt buồm thu
   Sao thu bòn bọt chiều thu
Rõ ràng những “con chữ” (từ của chính Trần Dần) lôi cuốn ông hơn cả. Thường xuyên chúng kéo ông ra khỏi câu chuyện, làm ông quên lãng cốt truyện, để mặc ông với những thi hứng bất ngờ. Dường như ngay trong văn xuôi, con chữ bao giờ cũng là điểm xuất phát và cái đích của ông. Bất chấp các thông luật ngữ nghĩa và cú pháp, Trần Dần ghép các con chữ với nhau, tạo ra những từ hoàn toàn mới: “cột đèn lằn lằn”, “cột đèn gù”, “cột đèn mùa”, “Cột đèn mưa”,... là những từ chỉ có trong Từ-điển-Trần-Dần.
Trần Dần đối xử với Những ngã tư và những cột đèn như đối xử với thơ.

2. Nhật ký và gương
Trong nhật ký của mình, Dưỡng ghi lại những sự kiện, sự việc liên quan đến cá nhân cũng như các tâm tư tình cảm của anh ta. Có thể nói “Tôi” là chủ đề trung tâm của nhật ký này, ở đó Dưỡng luôn phân tích, hạch hỏi, ngay cả những xúc động nhỏ nhất, vô định nhất, của tâm hồn mình: “Tôi nằm, toàn thân trắng nhợt, trên chiếc chăn trắng. Những lỗ thủng bầu trời ngoài cửa sổ trắng, thêm cơn mưa trắng, không dứt từ chiều qua, bên trong tôi cũng trắng, vì tôi chẳng nghĩ được cái gì, chẳng muốn làm gì.” (tr.127). Cũng trong nhật ký, Dưỡng tiến hành nhiều cuộc phân thân: “Tôi đến trước gương, nhòm vào cái bóng mặt tôi, thấy cũng xấu xí, làm tôi chỉ muốn cho một quả đấm. Cuối cùng, không hiểu sao tôi chìa tay, để bắt tay, với bóng” (tr.147). Không phải ngẫu nhiên mà trong nhật ký của Dưỡng có nhiều gương đến thế, bởi soi gương là phương tiện hữu hiệu có lẽ bậc nhất cho quá trình tự phân. Để Dưỡng tách làm ba giữa “tôi”, “sọ” và “bóng”: “Song tôi im lặng. Sọ tôi cũng im lặng. Cái bóng tôi trong gương cũng im lặng” (tr. 171). Để Dưỡng được là “thằng một nghìn căn cước”: “Tôi đi lại trong buồng, mỗi lần đi qua gương, lại nhìn mặt tôi, một cái. Mỗi lần đi qua gương, tôi lại chửi, một câu. Tôi thằng sắp chết. Tôi thằng nhọ, thằng dằn di. Tôi thằng bị phạt, phải làm kiểm điểm. Tôi thằng câu nhái. Tôi thằng iêu ảnh truồng. Tôi thằng nghiện trinh thám. Tôi đứng lại trước gương, tôi nhìn vào mặt, thằng trong gương. Trước mặt tôi, là thằng vợ bỏ. Thằng một nghìn căn cước” (tr.149). Để Dưỡng còn được một chút hài hước trong muôn vàn tuyệt vọng: “Tôi đi lại trong buồng, tự nhủ kiếp sau, có lộn về Hà Nội, tôi sẽ làm cán bộ, để iêu quí, toàn bộ nhân loại...” (tr.149), như sau này Trần Dần thốt lên: “họ hôm nay chơi tôi 1 lít đắng. 7 kilô cay. 10 mặt trời rù. 100 hành tinh chết. tôi không trả thù lại họ 1 câu thơ?” (Sổ bụi 1980-1981).
Dưỡng hay soi gương. Ở nhà: “Trước khi ra khỏi nhà buổi sáng lúc rạng đông, tôi đều ra trước gương, để nhìn bóng tôi trong gương. Bốn mắt nhìn nhau dứt không ra” (tr.192). Ở mọi nơi: “Trong hiệu ảnh có cái gương, để tôi nhìn bóng tôi, để thấy bóng tôi áo dạ xanh công nhân, quần xanh công nhân” (tr.240). Dưỡng nhìn mọi thứ qua gương: “Vừa uống, tôi vừa đi lại, trước gương, thấy lá lả lả rơi trong gương, vườn cũng lả tả lá” (tr.288), mọi người qua gương: “Tôi nhìn anh Thái trong gương. Sau lưng anh Thái, là cửa sổ. Sau cửa sổ, là mưa. Lúc ấy là 9 giờ 20, buổi sáng” (tr.181). Cũng không phải ngẫu nhiên chụp ảnh là niềm say mê lớn của Dưỡng. Ngắm bản thân và thế giới qua gương và ống kính cho phép Dưỡng có một khoảng cách cần thiết để trở thành “kẻ lạ” với chính mình, với những gì anh ta thân quen nhất. Đó là giai đoạn tiên quyết trên con đường đi tìm bản thể, đi tìm câu trả lời cho “Tôi là ai?”.
Viết về bản thân và soi gương là hai hành động thường liên quan mật thiết với nhau. Gương dường như là một ẩn dụ không thể thiếu được trong các tác phẩm thuộc loại tự truyện. Người tình của M.Duras mở ra với hình ảnh nữ văn sĩ ngắm mình trong mắt một người đàn ông xa lạ: “Một ngày nọ, khi tôi đã lớn tuổi, trong một tiền sảnh công cộng, một người đàn ông tiến đến bên tôi. Ông ta tự giới thiệu, rồi nói: ‘Tôi biết bà từ rất lâu rồi. Ai cũng nói khi còn trẻ bà rất đẹp, nhưng tôi đến để nói với bà rằng với tôi hiện giờ bà đẹp hơn thời ấy. Tôi không thích khuôn mặt thiếu nữ của bà bằng khuôn mặt bà đang có, khuôn mặt bị tàn phá’.” Rồi bà viết tiếp: “Ngay từ lúc khởi đầu của đời tôi, mọi sự đều đã là quá muộn...” [2] .Chính cái “gương” này, qua các câu hỏi – “tôi là ai?”, “người ta nhìn tôi như thế nào?”, “tôi trong mắt kẻ khác có còn là tôi?” – đã đưa Duras trở về với quá khứ, lần tìm những mắt xích đời mình, lý giải hành trình đến với văn học bằng bi kịch với người tình Hoa Bắc.
Trong Những ngã tư và những cột đèn, Trần Dần có một thử nghiệm khác: ông cho Dưỡng soi mình cùng lúc trong hai cái gương, một gương thật và một gương ảo - con mắt của kẻ đối diện: “Tôi nhìn vào gương để tìm bóng tôi, như thường lệ, nhưng chỉ thấy một anh Thái đang nhìn tôi, chăm chú” (tr.181). Ngay trang sau, ý tưởng này lại được Dưỡng mô tả một lần nữa trong nhật ký, chứng tỏ vị trí đặc biệt của nó: “Trong lúc nói anh Thái vẫn nhìn tôi chăm chú. Thực ra, cũng nhiều lúc anh nhìn ra chỗ khác, để tôi lại phải bối rối, tìm mắt anh trong gương, nhiều lần như vậy” (tr.182). Ở đây, gương thật và gương ảo lồng vào nhau, để cho Dưỡng được soi mình trong một chuỗi gương. Độc giả, cũng như Dưỡng, chông chênh giữa nguyên bản và dị bản. Chân lý không tồn tại, tất cả đều chỉ là phản chiếu, là âm hưởng của những cái nhìn chủ quan?

3. Nhật ký về nhật ký
Người ta thường chỉ chú ý đến nhật ký của nhân vật Dưỡng, nhưng Những ngã tư và những cột đèn còn có một nhật ký nữa, không kém phần quan trọng: đó là nhật ký của nhân vật nhà văn.
Về mặt thẩm mỹ, hai nhật ký này là hai vật thể, hai cái “tôi”, hai giọng điệu, hai thời gian, hai cảnh trí, hai không khí, hai tiết tấu hoàn toàn khác nhau. Nhật ký của Dưỡng có một hình hài cụ thể: “ba cuốn sổ tay, khổ 20x18, loại bìa dằn di”, viết bằng “mực tím”. Nhật ký của nhân vật nhà văn, không được mô tả về mặt hình thức, nhưng nó ẩn hiện trong suốt tiểu thuyết: chính với nó, mà Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần mở ra và khép lại.
Nhật ký của Dưỡng bắt đầu một tối “không chính xác” của “Đông 1954” và kết thúc “một ngày không rõ” của “Đông 1955”. Nhật ký của nhân vật nhà văn bắt đầu “Tháng sáu 1965” và kết thúc ”Tháng sáu 1966”. Nhật ký của Dưỡng mở ra với: “Đông 1954. I như trong thánh kinh: tôi bắt đầu viết nhật kí bằng mực tím. I như trong thánh kinh: tôi chạy trốn. Và cũng i như trong thánh kinh: 24 giờ trước khi bắt đầu nhật kí, tôi tháo hết đạn, vứt xuống cống. Tôi mang súng sang nhà chị Hòa, vào một lúc do dự, giữa chiều và tối. Chị lên nhà trên tiếp tôi... (tr.15). Còn nhật ký của nhân vật nhà văn mở ra với: “Tháng sáu 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ hai hay chủ nhật. Những xê dịch lủng củng, lỉnh kỉnh, của các con số, làm sao giúp tôi luôn luôn 37° không lên cơn sốt? Bên này cửa sổ tôi tím: có nhật kí và bản sao nhật kí, có lọ mực tím và bản thảo lem nhem mực tím. Bên kia cửa sổ tôi xanh: có sáu cây bàng lá xanh và nhiều căm nhông xanh quân sự đậu, có tháng sáu vắng và phố thời chiến vắng lặng...” (tr.13).
Nếu nhật ký của Dưỡng, như ta đã thấy, xoáy vào cuộc sống nội tâm, thì nhật ký của nhân vật nhà văn thuộc lĩnh vực công việc. Không phải nhẫu nhiên mà trong đó anh ta tự vẽ mình ngồi trước nhật ký của Dưỡng. Bức chân dung tự họa sẽ trở đi trở lại trong suốt tác phẩm, như là motif chính: “Bên này cửa sổ tôi tím: có nhật kí và bản sao nhật kí...”. Ở một đoạn khác, anh ta cụ thể hơn: “Sáng nay không ra phố, tôi làm việc, trên những cuốn nhật kí, bìa dằn di. Tôi dừng lại, để đặt ở đây, một loạt câu hỏi. Nhật kí của Dưỡng, dường như, không đi theo mọi quyển lịch thân quen...” (tr.25).
Trong nhật ký của mình, Dưỡng không ngừng suy nghĩ về động tác ghi nhật ký, coi đó là một hoạt động không bột phát mà có ý thức: “Nhưng lúc này ghi nhật kí, tôi mới hiểu là...” (tr.177). Với Dưỡng, quyết định ghi nhật ký đã trở thành một cái mốc quan trọng trong đoạn đời này của mình. Nó phân ra “trước nhật kí” và “sau nhật kí”: “23 giờ trước nhật kí, tôi cải trang làm thợ...” (tr.16), “24 giờ trước nhật kí, tôi nói với chị Hòa...” (tr.19), “24 giờ sau: thế là tôi đã bắt đầu nhật kí, từ 5 giờ, bằng mực tím...” (tr.21).
Trong nhật ký của mình, nhân vật nhà văn quan sát, trình bày, mổ xẻ, phân tích nhật ký của Dưỡng để qua đó đi đến những những nhận xét tổng quát về thể loại tự truyện này, dưới khía cạnh lý thuyết. Anh ta đưa ra những câu hỏi thiết yếu: Người ta viết nhật ký nhằm mục đích gì? Nhật ký thuộc về phạm trù công hay tư? Nói cách khác, nhật ký được viết cho ai? Vì sao người ta lại quyết định xuất bản nhật ký? Khi nào nhật ký trở thành văn học? Trong nhật ký của mình, cho đến tận cùng, nhân vật nhà văn vẫn liên tục trình bày những nghi vấn:
   “Tôi không biết, có phải người ta chỉ viết, nhất là viết nhật kí, để đổ bớt bi kịch, lên giấy? Người ta cũng bắt đầu viết, khi linh cảm về một, hoặc nhiều tai họa, sẽ xảy đến? Nhưng cũng có những người, đời đầy bi kịch, chưa một lần viết, một cái gì. Rồi cũng có những người, không kinh nghiệm đau khổ, lại viết, như một lí do để sống.” (tr.337).
Nhật ký của nhân vật nhà văn, vì vậy, có thể được đọc như một “nhật ký về nhật ký”:
   “Cách đây đúng một năm, Dưỡng trao cho tôi ba cuốn nhật kí. Anh nói chiến tranh sẽ ngày một khốc liệt. Lúc ấy, tôi lí giải động tác trao nhật kí của anh, như thế này: anh muốn tâm sự với người khác. Bởi vì, ghi nhật kí thực chất không nhằm bảo vệ tính chất riêng tư. Ghi nhật kí là một động tác thỏa mãn nhu cầu đối thoại không thể, với người khác. Xuất bản nhật kí do vậy, chỉ là diễn biến tất iếu, của động tác ghi nhật kí” (tr.256).
Không ngừng lật xuôi lật ngược vấn đề, anh ta viết tiếp:
   “Một năm sau, í kiến của tôi, về động tác trao nhật kí của anh, thay đổi. Một năm sau, tôi lí giải thế này: anh muốn từ bỏ, một quãng đời. Nhật kí, thực chất là một tài sản riêng tư, dù không vì mục đích bảo vệ tính chất riêng tư. Cho nên động tác ghi nhật kí thực chất là tư hữu hóa những sự kiện. Dưỡng từ chối đọc lại nhật kí, và do vậy, sẽ từ chối không đọc 3/4 bản thảo của tôi. Nhưng anh không cất giấu, hoặc hủy bỏ toàn bộ nhật kí, bởi vì động tác hủy bỏ, chỉ khẳng định quyền sở hữu tuyệt đối của anh, và lại làm anh nhớ mãi. Cách duy nhất để quên nhật kí, là đưa nhật kí, từ sở hữu của một cá nhân anh, thành sở hữu của vô số người khác. Động tác xuất bản nhật kí của anh, chính là để anh mất đi, mọi quyền hạn với nhật kí” (tr.256).
Hai nhật ký. Một của nhân vật, một của nhà văn. Một mang tính thực tiễn, một mang tính lý thuyết. Trái ngược nhau nhưng bổ xung nhau, và nhất là không thể tách rời nhau: chúng chỉ có ý nghĩa khi được đọc song song. Chính vì thế mà Trần Dần đã phân nhỏ chúng ra, rồi đan chúng vào nhau theo lối cài răng lược. Như vậy, trong Những ngã tư và những cột đèn, Trần Dần đã tiến hành một nghiên cứu sâu sắc về nhật ký. Đương nhiên, về mặt hình thức, nó không thể không gợi đến Buồn nôn (1938) của Jean-Paul Sartre hay Nhật ký người điên (1918) của Lỗ Tấn, là những cuốn sách nổi tiếng dưới dạng nhật ký hư cấu mà có lẽ Trần Dần không những đã đọc mà còn lấy cảm hứng từ đó. Nhưng nếu tác phẩm của Sartre và Lỗ Tấn quan tâm nhiều hơn đến lĩnh vực triết học, thì Những ngã tư và những cột đèn, bằng cách lồng hai nhật ký vào nhau để trực tiếp khảo cứu những vấn đề nền tảng của lối viết nhật ký, Trần Dần đã đi rất xa trên bình diện sáng tác cũng như lý luận.[3] Trước đó và sau này, nhật ký không ngừng lôi cuốn ông, để chúng ta có GhiCổng tỉnhSổ bụi... là những sáng tạo khác nhau của loại hình văn học này.

4. Hai nhật ký và một hành trình đi tìm thời đang mất
Nhưng có lẽ điểm gặp lớn nhất của Dưỡng và nhân vật nhà văn là thời gian. Làm thế nào để níu giữ thời đang mất? Đó là câu hỏi mà cả hai cùng đặt ra. Nhật ký của họ vì vậy tràn ngập những suy nghĩ về hiện tại đang diễn ra, hoang mang vì sự ngắn ngủi, mong manh, gần như không tồn tại của nó. Hiện tại: “một cái chớp mắt” với người này, “một dấu chấm lẻ loi” với người kia. “Trong Những ngã tư và những cột đèn, “hiện tại” được nhắc đến 30 lần, “lúc này” 60 lần, “hôm nay” 85 lần, “bây giờ” 146 lần. Với hai nhân vật chính, thời gian không chỉ là ám ảnh, mà còn được đưa ra quan sát, thử nghiệm, chứng minh. Cả hai cùng loay hoay với một hình ảnh — đường tuyến tính của thời gian:
Dưỡng viết: “Tôi không nhớ đã nhìn thấy ở đâu, một bức họa đường tuyến tính của thời gian, như thế này: hai đầu của đường tuyến tính, chạy cả về hai phía vô định, và biến mất. Hóa ra quá khứ và tương lai chiếm hết cả chiều dài thời gian, hiện tại chẳng là cái gì, chỉ là một cái chớp mắt, chỉ là một phần rất nhỏ, của cái chớp mắt.” (tr.32).
Nhân vật nhà văn viết: “Hóa ra tôi và Dưỡng cùng bị ám ảnh, bởi cùng một đường tuyến tính cổ điển, của thời gian. Hiện tại, là một cái chớp mắt ngắn ngủi, nhưng nhiều í nghĩa, và nặng nề làm sao. Hiện tại, là một dấu chấm lẻ loi, vứt đi không được” (tr.67).
Ghi nhật ký thường đồng nghĩa với Viết ở thời hiện tại. Về hình thức, mỗi lần viết, công việc đầu tiên của người ghi nhật ký là đánh dấu thời gian đang diễn ra: cụ thể ngày-tháng-năm, đôi khi cả giờ-phút. Về nội dung, quan tâm lớn nhất của người ghi nhật ký là những suy nghĩ, tình cảm anh ta đang sống.[4] VớiNhững ngã tư và những cột đèn, Trần Dần sẽ cho các nhân vật của mình làm nhiều thử nghiệm khác nhau để khảo sát quyết liệt định nghĩa đó.
Với Dưỡng, thường xuyên, động tác ghi nhật ký thể hiện niềm tin “vĩnh cửu hóa hiện tại”. Trong một đoạn nhật ký dài 5 trang, Dưỡng ghi lại các sự việc và cảm xúc trong một buổi sáng, nhưng tất cả đều được coi là xảy ra cùng một lúc: 6 giờ 21. “6 giờ 21” vì thế sẽ được lặp đi lặp lại 20 lần: “6 giờ 21 tôi uống cạn cốc càphê. Không có gì xảy ra, nhưng càphê làm bụng tôi cồn cào. 6 giờ 21 tôi khóa cửa...”(tr.324). Một thử nghiệm khác: vào “một buổi chiều tháng mười nắng nhóe”, nhưng Dưỡng quyết định đi chúc Tết mẹ. Anh ta “xáo trộn lại các tờ lịch, để lúc nào (...) muốn mùa đông, là có mùa đông, để lúc nào cũng hiện tại” (tr.33). Bằng cách đó, Dưỡng hy vọng thời gian ngừng trôi, để khoảnh khắc đang sống được tồn tại mãi mãi. Nhưng khi hiện tại tồi tệ quá, thì Dưỡng lại muốn nó đi nhanh hơn. Và anh ta làm một thử nghiệm mới: không ghi ngày tháng thật trong nhật ký, mà chỉ đánh số “ngày số 1”, “ngày số 2”, v.v. Qua đó, Dưỡng mong “ngày đến sau sẽ đẩy lùi, ra xa những ngày đến trước.” (tr.112). Trong những ngày tăm tối nhất, Dưỡng muốn đứng bên ngoài thời gian, để hiện tại “là ngày không mùa, là lúc không giờ, là giờ ngoài đồng hồ, là ngày ngoài quyển lịch” (tr.104). Đây là một thử nghiệm khác để Dưỡng chạy chốn hiện tại: vứt bỏ lịch, chỉ ghi giờ, nhưng theo chiều ngược lại, và lẫn lộn sáng, tối, đêm. Kết quả là anh ta cho thời gian chạy theo thứ tự như thế này: “0 giờ đêm”, “11 giờ tối”, “10 giờ sáng”, “9 giờ tối”, “8 giờ sáng”,... (tr.195-196).
Với nhân vật nhà văn, hiện tại dường như cũng là đối tượng quan tâm hàng đầu. Nó giải thích vì sao bên cạnh việc phân tích nhật ký của Dưỡng, anh ta cảm thấy nhu cầu ghi nhật ký cho chính mình. Ghi nhật ký, sống ở thời hiện tại, giúp anh ta tạo thế cân bằng với động tác “đi ngược lại thời gian”, quay lại 11 năm trước, để viết cuốn tiểu thuyết về Dưỡng. Vì vậy, dù dành phần lớn nói về quá khứ của Dưỡng, thì trong Những ngã tư và những cột đèn hiện tại dường như vẫn là mạch chính. Thời khắc đang sống không ngừng được ghi chép, mô tả. Thường xuyên, cảnh trí bên ngoài hiện lên như bằng chứng của hiện tại đang diễn ra: “Tôi để cửa sổ mở, để nghe tiếng phản lực lên xuống, liên tiếp từ sớm đến giờ. Đấy là những cuộc tuần tra trên không. Nội thành đã đi sơ tán từ lâu” (tr.336).
Cũng thường xuyên, nhân vật nhà văn so sánh Dưỡng của thời hiện tại với Dưỡng của thời quá khứ:“Lần gặp Dưỡng tháng mười một vừa rồi, tôi thấy anh thay đổi nhiều” (tr.195), “trước mặt tôi lúc ấy, là một anh Dưỡng đã từ giã thú vui uống càphê buổi sáng, và xa lạ với những day dứt của nhật kí” (tr.75). Tương tự, khi gặp nhân chứng về quãng đời Dưỡng 11 năm trước, anh ta luôn đặt họ trong thời hiện tại:“Chị Trinh bây giờ bán hàng giải khát, ở mậu dịch phố Huế. Tóc chị bây giờ uốn cong quả dưa. Không cười, mà hai má vẫn lũm đồng tiền”.
Nhưng rất nhanh, ta hiểu rằng nhân vật nhà văn, cũng như Dưỡng, thiết lập một mối quan hệ bất thường với hiện tại. Nếu nhật ký của anh ta vừa ghi chép rõ ràng tháng và năm: “Tháng sáu 1965”“Tháng mười hai 1965”,... thì ngay sau đó anh ta lại chứng tỏ không quan tâm đến ngày: “Tôi ngồi một ngày không rõ thứ hai hay chủ nhật”“Tôi ngồi một ngày không rõ có phải chủ nhật”,... Rõ ràng anh ta từ chối đưa ra một hiện tại hoàn toàn xác định: “Một ngày đầu năm, tôi ra thư viện quốc gia...”“Một ngày tháng ba tôi đến, tìm Dưỡng như đã hẹn”. Bằng cách như vậy, anh ta chuyển thời gian từ tập thể sang cá nhân. Hiện tại của anh ta không tuân theo quy luật của đồng hồ, mà hoàn toàn mang tính chủ quan. Nó là thời gian của cá nhân, với những nguyên lý riêng, bí hiểm nhất, cuồng dại nhất.
Tác phẩm của Trần Dần vì vậy là một tiểu thuyết về thời gian. Đúng hơn, qua nhật ký, ông cho các nhân vật của mình thể hiện cách ứng xử của họ với hiện tại, quá khứ và tương lai. Trong Những ngã tư và những cột đèn, không ít lần Trần Dần nhắc lại cái tựa day dứt đó, nhưng một đôi lần ông thêm chữ “ngày” để đưa nó từ phạm trù không gian sang phạm trù thời gian: “Lại những ngã tư và những cột đèn, nhưng là cột đèn ngày, là ngã tư ngày” (tr.286), “Gió lốc nhốc kéo, những vệt lá, những vệt bụi, những vệt gì nữa không biết, mà cứ tím ngắt, làm láo nháo những ngã tư và những cột đèn. Là những ngã tưngày, những cột đèn ngày” (tr.296). Ghi nhật ký hay đi tìm thời đang mất?

5. Tiểu thuyết phản-tiểu-thuyết
Trong Những ngã tư và những cột đèn, ngay từ trang đầu tiên, chúng ta được biết nhân vật nhà văn đang viết một cuốn tiểu thuyết, với nội dung và độ dày được chỉ ra khá rõ ràng: “Tôi chuẩn bị một cuốn sách, chép lại từ 250 trang nhật kí, lem nhem mực tím, xen lời kể các nhân chứng, của chiến tranh, của tình bạn, tình iêu”.
Qua nhật ký của anh ta, người đọc tham dự vào những giai đoạn khác nhau của sáng tạo, những thăng trầm của cuốn tiểu thuyết đang viết: “Hôm qua, tôi đã ghi thêm như thể cho riêng tôi, vào cuốn sách một câu ngắn...” (tr.76). “Từ nhiều ngày nay, tôi bơi trong chương kết” (tr.336).
Chưa hết, anh ta đưa bản thảo cho các nhân vật liên quan đọc - Trinh xem mất một đêm, Thái nhạc nhiên khi biết mình “là một nhân vật, của cuốn truyện” (tr.203). Thậm chí anh ta còn thay đổi theo yêu cầu của họ: Dưỡng muốn sửa “một chi tiết sơ suất” và muốn thêm một đoạn “về chị Hòa”. Ngay cả tựa sách, anh ta cũng hỏi ý kiến nhân vật chính: “...tôi hỏi Dưỡng muốn đặt tên sách, là gì.” (tr.339). Anh ta không quên ghi lại phản ứng của nhân vật khi đọc bản thảo: Trinh khóc, còn Dưỡng dấu xúc động trong im lặng.
Chưa hết, anh ta nói về cuốn sách sau khi in, về những độc giả quen biết, bằng xương bằng thịt: “Chị Trinh nói với tôi: “(...) Bao giờ sách in, anh cho em một cuốn, anh kí tên để kỉ niệm”” (tr.338), “Thái kể: “(...) Bao giờ sách ra, tôi sẽ lấy hai bản, một cho riêng tôi làm kỉ niệm, một cho thêm vào hồ sơ của Dưỡng...”” (tr.203). Anh ta cũng hình dung ra thái độ của Dưỡng khi đó và hướng tới những độc giả tương lai: “Khi sách của tôi xuất bản, thành hàng nghìn cuốn, anh sẽ bình thản đọc nó, như đọc nhật kí người không quen, từ vị trí một độc giả.” (tr.257).
Đọc tiểu thuyết của Trần Dần, người ta không ngớt hoang mang: Vậy “cuốn sách” đó đâu? Vì sao ta biết tất cả, nhưng hình như lại không biết gì, về nó? Nó chính là cuốn sách ta đang đọc? Nhân vật nhà văn có phải là Trần Dần? Thay vì trả lời, Trần Dần tung thêm hỏa mù. Đến trang chót, ông hé lộ: tiểu thuyết của nhân vật nhà văn cũng có tên như tiểu thuyết của ông - “... tôi hỏi Dưỡng muốn đặt tên sách, là gì. Dưỡng trả lời ngay, không một giây suy nghĩ. Dưỡng nói: “Những ngã tư và những cột đèn” .” Đương nhiên, những câu hỏi trên vĩnh viễn là ẩn số. Để ta được đọc một cuốn sách thật và một cuốn sách ảo. Để ta mãi mãi đi tìm cuốn sách hiện hữu nhưng vô hình ấy. Với Trần Dần, cuốn sách đẹp nhất là cuốn sách chưa bao giờ viết.
Trần Dần không phải là nhà văn đầu tiên trích nhật ký của nhân vật. Trần Dần cũng không phải là tác giả đầu tiên cho nhân vật viết một tiểu thuyết trùng tên với tiểu thuyết của mình. Trước ông, năm 1926, trongNhững kẻ làm bạc giả (Les Faux-monnayeurs), André Gide đã trích nhật ký của Edouard trong đó nhân vật này nói về cuốn sách anh ta đang viết, cũng mang tên Những kẻ làm bạc giả. Nhưng tiểu thuyết của Gide không làm chúng ta chao đảo theo kiểu Những ngã tư và những cột đèn, vì ngoài cái tựa “ảo cảnh”, cuốn sách của Edouard không có gì giống cuốn sách của Gide. Hơn nữa, nếu quả là trong khi viếtNhững kẻ làm bạc giả, Gide có viết một cuốn nhật ký mà sau này được in dưới tựa đề “Nhật ký Những kẻ làm bạc giả”,[5] thì thử nghiệm của Trần Dần có vẻ bất ngờ hơn: Gide cho ta có hai cuốn sách riêng biệt trong khi Trần Dần lồng chúng vào một cấu trúc phức tạp, để cuối cùng ta có tiểu thuyết trong tiểu thuyết, nhật ký trong nhật ký, tiểu thuyết về nhật ký, nhật ký về tiểu thuyết.
Như thế, Trần Dần, cũng như Gide, đã mở toang cánh cửa vẫn luôn đóng kín của hậu trường văn học.[6]Là những nhà văn đích thực, mối quan tâm trên hết của họ vẫn là Viết. Viết, không bổ ngữ. Viết như một ám ảnh, một thao tác, một thử nghiệm, một bí ẩn, một mục đích – cuối cùng và duy nhất.
Mặt khác, khi viết Những ngã tư và những cột đèn, dường như Trần Dần đã dự cảm được sinh mệnh bất thường của bản thảo. Hoàn thành năm 1966, nằm tại Sở công an Hà Nội suốt hai thập kỷ, được tự do năm 1988 nhưng lại lần lượt bị các nhà xuất bản từ chối, nó quay về ngăn kéo của Trần Dần tiếp tục ám ảnh ông.[7] Như vậy, tiểu thuyết phải đợi hết thảy 45 năm mới gặp được độc giả đầu tiên. Cho đến hôm nay, hai năm sau đó, vô vàn những tiếng vang từ công chúng chứng tỏ rằng nó đang bước vào một cuộc sinh tử mới, dễ chịu hơn (vì được đọc) nhưng không kém phần lý thú (vì có nhiều cách đọc). Để chúng ta thêm một lần băn khoăn: Tác phẩm, tác giả, nhân vật, ai có số phận phiêu lưu hơn? Lại một câu hỏi không lời đáp. Nhưng có lẽ vẫn chưa là câu hỏi cuối cùng.
Gần nửa thế kỷ trước, khi miền Bắc xã hội chủ nghĩa chỉ dùng văn chương mậu dịch, thì Trần Dần viết tiểu thuyết phản-tiểu-thuyết. Trong câm lặng, ông ươm những cái mầm. Cho tương lai.

Paris, tháng tư năm 2012