Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

Ghi chép của Phạm Xuân Nguyên


unnamed
Phạm Xuân Nguyên (phải) và Cao Hành Kiện
1. Cao Hành Kiện rời Trung Quốc sang Pháp năm 1989. Từ đó là không về. Không được về. Trong cuộc trò chuyện với ông tại nhà riêng ở Paris, tôi có hỏi chuyện này, ông nói vậy. Hội thảo quốc tế “Tác phẩm tiểu thuyết và sân khấu của Cao Hành Kiện, giải Nobel văn học 2000” do Đại học Provence tổ chức có đông người Hoa. Các nhà nghiên cứu văn học gốc Hoa đến từ Anh, Mỹ, Australia, Đài Loan, Hồng Kông cùng với các đồng nghiệp của họ đến từ Thụy Điển, Hàn Quốc, Việt Nam, Nhật Bản. Ông vui với họ, vui với tất cả. Thân tình, gần gũi. Nhưng ông là nhà văn sống độc lập và tự do. Lâu rồi ông không đọc văn chương Trung Quốc, trong cũng như ngoài. Sang Pháp sống, ông chẳng để mình bị lôi kéo vào một cộng đồng Hoa kiều nào. Ông là ông, một công dân Pháp gốc Hoa, nhưng là một nhà văn. Một nhà văn viết tiếng Trung và tiếng Pháp, chứ không phải một nhà văn Trung Quốc. Tính từ “chinois” ở đây để chỉ ngôn ngữ, không phải để chỉ quốc tính.
Khi giải Nobel văn chương 2000 được trao cho ông, chính quyền Trung Quốc đã lên tiếng phản đối. Rằng là làm vậy Ủy ban Nobel đã lấy tiêu chí chính trị để đo văn học. Rằng là Trung Quốc có nhiều nhà văn và tác phẩm nổi tiếng thế giới mà chắc Ủy ban Nobel ít biết. Rằng là như thế giải Nobel bị mất uy tín. Rằng là… Trong báo cáo đọc tại hội thảo tôi đã kể lại việc Cao Hành Kiện bị “vạ lây” ở Việt Nam như thế nào vì chuyện này. Ông nghe, và hiểu. Cho nên, ông đã vui vẻ nhận từ tay tôi hai bản dịch Linh sơn (của Trần Đĩnh dịch từ tiếng Pháp và của Hồ Quang Du dịch từ tiếng Trung) và tập truyện ngắn của ông sang tiếng Việt mà không hề căn vặn chuyện bản quyền. Tôi vui vì trao được chúng cho ông. Tôi chỉ nghĩ đơn giản làm thế để ông biết tác phẩm của ông đã đến được Việt Nam, đã được dịch, in và đọc ở nước tôi. Nhưng trước ông, trước các đồng nghiệp và cử tọa dự hội thảo hôm đó, trao sách cho ông rồi, vui rồi, tôi lại cảm thấy một nỗi buồn.
 2. Cao Hành Kiện xuất hiện đầu tiên, với tôi, là tại nhà hát Opera Marseille. Đêm đó vở opera “Tuyết tháng tám” của ông lần đầu tiên ra mắt công chúng châu Âu tại đây. Chúng tôi, các đại biểu dự hội thảo, được vé mời xem. Nội dung vở là kể về hành trạng của Huệ Năng, tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Hoa. Cao vốn là người không tin vào những chủ thuyết đại ngôn tuyên bố cứu thế cứu đời nên cái cách mà vị Lục tổ Thiền hành xử khi được trao y bát để truyền đạo khiến ông thích thú. Huệ Năng dạy rằng ai cũng có thể giác ngộ thành Phật nếu biết phá chấp và sống hòa đồng với thế giới. Vở opera gồm 2 hồi 9 cảnh, kịch bản Cao Hành Kiện, âm nhạc Xu Shuya, diễn trong 2h15’. Hai cảnh kết: Huệ Năng báo cho các môn đệ biết mình sẽ mất vào tháng 8 và đốt chiếc áo cà sa vì ai cũng có thể giác ngộ thành Phật thì chẳng còn cần phải chọn người kế nghiệp tổ. Khi ông mất, tuyết phủ núi: tháng tám mà có tuyết ư? Thời gian trôi qua, tư tưởng của Huệ Năng bị hiểu sai lạc, nhà chùa thành ra như một thế giới hỗn loạn, và cuối cùng bị thiêu cháy. Đấy có phải là ngọn lửa tẩy rửa? Vở diễn khép lại ở ngọn lửa bốc lên thiêu cháy ngôi chùa, sau đó là bầu không khí tĩnh lặng êm đềm bao phủ tất cả. Đó là nghĩa “vô thường” của Thiền tông mà vở diễn muốn truyền đến cho người xem.
Áp phích vở “Tuyết tháng tám” ở Nhà hát Opera Marseille
 Một vở diễn độc đáo do sự phối hợp của Nhà hát Opera Marseille và Trường cao đẳng nghệ thuật biểu diễn quốc gia Đài Loan, với gần hai trăm diễn viên hát tiếng Trung và tiếng Pháp, dàn nhạc Marseille và dàn nhạc Đài Loan. Kịch bản âm nhạc (livret) được phóng chiếu lên cho người xem theo dõi nội dung. Dựng cảnh và trang trí là do tự tay Cao, những bức phông lớn ông vẽ bằng mực tàu. Cả phòng xem rộng lớn chật kín người im phắc, nghe và xem. Kết thúc, từng nhóm diễn viên lần lượt ra chào. Tiếng vỗ tay kéo dài. Và khi cuối cùng Cao xuất hiện cùng với nhạc sĩ và diễn viên chính thì mọi người vỗ tay dồn dập, hồi lâu. Mãi khi khán giả đã về hết, nhân viên nhà hát đã ra hiệu đóng cửa, ông vẫn còn bị vây bọc giữa các đại biểu hỏi han trò chuyện. Bên ông là Goran Malmqvist thành viên Hàn lâm viện Thụy Điển, Tchen Yu-Chiou bộ trưởng cố vấn cho tổng thống Đài Loan, Mabel Lee giáo sư Đại học Sydney, Noel Dutrait giáo sư Đại học Provence, những người thân quen cũ. Tiếng Trung tiếng Pháp đan nhau trong cuộc chuyện trò. Tôi bực mình tiếng Pháp nói ú ớ, tiếng Trung không biết, để bắt chuyện cùng ông. Đành là lặng lẽ đứng ngắm ông, chụp ảnh ông, và thầm vui lần đầu tiên trong đời được gặp mặt một nhà văn giải thưởng Nobel. Ấn tượng ban đầu của tôi về ông là thấy ông hiền lành, dễ gần.
Cao Hành Kiện nhận bằng Tiến Sĩ Danh Dự của Đại học Đài Loan

Mà đúng là như thế. Hôm sau, hội thảo khai mạc tại Maison Méditerranéenne des Sciences de l’Homme (Aix-en-Provence), chiếc xe chở các đại biểu vừa đến nơi, chúng tôi bước xuống đi vào đã thấy ông đứng bên cổng bắt tay từng người. Một mình ông, không có người nào trong ban tổ chức, cạnh ông là một phóng viên truyền hình đang quay. Ông không biết là tôi kính trọng ông vì điều đó. Có thể ông đã quen với cung cách phương Tây, hội thảo khoa học thì các nhà khoa học là nhân vật chính. Có thể ông muốn tỏ bày sự cám ơn đối với các nhà nghiên cứu đến từ nhiều nước dự một hội thảo bàn về sáng tác của mình. Nhưng sự giản dị, gần gũi của ông làm tôi quý trọng và ngạc nhiên. Vào hội thảo, đầu tiên là việc trao tặng ông bằng Tiến Sĩ Danh Dự của Đại học Đài Loan (ông đã được nhận danh hiệu này của Đại học Provence từ trước). Ông mặc áo thụng nhận bằng từ tay vị chủ tịch đại học, nói vài lời cám ơn, xong rồi đi ra thay quần áo, trở lại ngồi nghe các báo cáo. Không kiểu cách long trọng. Không khách khí xã giao. Kết thúc hội thảo là phần ông nói chuyện và trả lời câu hỏi của mọi người.
 3. Tôi hỏi ông một câu về tên tác phẩm Linh sơn. Trong nguyên bản tiếng Trung “linh” có nghĩa là linh thiêng. Sao bản tiếng Anh, tiếng Pháp đều dịch “linh” là “hồn”, Linh sơn là núi hồn (Soul Mountain, La Montagne de l’Âme), mà không dịch là núi thiêng (Spiritual Mountain)? Ông đáp, đấy là do cảm nhận của người dịch. Bà Lillian Dutrait, một trong hai dịch giả dịchLinh sơn ra tiếng Pháp, giải thích, dịch không có nghĩa là “mot à mot”, trong linh sơn có một hồn núi ẩn giấu, con người đi tìm cái hồn ấy nhưng cả cuộc hành trình chưa thấy được. Vả lại, đọc trong tiếng Pháp, La Montagne de l’Âme có một nhạc điệu âm vang, khơi gợi. Nhân tiện bà Lillian cũng nói luôn về việc dịch một tiểu thuyết khác của Cao Hành Kiện, “Nhất cá nhân đích thánh kinh” (Thánh kinh của một người), bản tiếng Pháp là Le Livre d’un homme seul. Thánh kinh ở đây không nghĩa là Bible của Thiên chúa giáo, từ Livre viết hoa tiếng Pháp không nghĩa là sách thông thường. Tác phẩm này bản tiếng Anh thì dùng Bible, One Man’s Bible.
Poster hội thảo
Tôi nghe và nhớ có lần Cao Hành Kiện đã trả lời về nó. Được hỏi, vì sao cuốn tiểu thuyết có tên gọi là Kinh thánh của một người và vì sao trong cuốn truyện này về những đau khổ, buồn bã và bạo tàn xuyên suốt ba thập niên đầu của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, ông lại dùng phụ nữ, nhất là những chuyện tình dục với phụ nữ, làm cách lấy lại ký ức đã mất, thu góp lại những kinh nghiệm đã mất, ông cho biết: “Tôi phải nói rằng đó tất nhiên là kinh thánh củacon người. Nhưng mặt khác, nó không giới hạn ở kinh thánh của con người. Đó còn là về một cá nhân, một dân tộc nói chung, về cách nhân dân đã vượt qua những khủng hoảng và vượt qua những tai họa và bạo tàn. Tôi cũng mô tả những điều mê tín của nhân dân, hay là những sự không tưởng mà chúng ta cố tìm cách tạo ra. Con người có xu hướng nghĩ rằng hắn là một tạo hóa, rằng hắn giống Ông Trời. Điều này đặc biệt đúng cho giới trí thức, và trong thế kỷ vừa qua, giới trí thức có vẻ quên mất là họ cũng như mọi người khác thôi. Viết cuốn sách này là sự mô tả con người rời khỏi trạng thái Ông Trời về lại trạng thái con người, về lại làm một người bình thường”.
 4. Trung Hoa đại lục từ chối ông, nhưng Trung Hoa hải đảo chào đón ông. Tại hội thảo, bà Tchen Tu-Chiou, nguyên bộ trưởng văn hóa Đài Loan, hiện là cố vấn chính sách quốc gia cho tổng thống Đài Loan, người được thưởng huân chương công huân của Pháp (Médaille de Chevalier dans l’Ordre National du Mérite de France), đã đọc bản báo cáo “Số phận may mắn của vở Tuyết tháng tám”. Theo đó, Cao Hành Kiện viết Tuyết tháng tám từ những năm 1990 trên nguyên tắc “bốn không”: nó không hoàn toàn là một vở opera Trung Quốc, không hoàn toàn là một vở opera theo nghĩa phương Tây, không hoàn toàn là một vở kịch sân khấu, không hoàn toàn là một vở ballet. Nó là sự trộn lẫn và hợp tác của tất cả các hình thức thể hiện khác nhau đó. Nhưng do thiếu kinh phí nên một thời gian dài vở kịch không được dàn dựng. Năm 2000 Cao Hành Kiện được giải Nobel văn học, đây cũng là năm Trần Thủy Biển giữ chức tổng thống Đài Loan. Đầu năm 2001 Cao được mời sang Đài Bắc, và với sự quan tâm cổ vũ của vị tổng thống mới, Tuyết tháng tám được khởi công dàn dựng tại đây. Để giữ được nguyên tắc “bốn không”, những người làm vở đã phải vượt qua nhiều thách thức khó khăn. Bà Tchen kể ra một thí dụ: “Vì ông [CHK] đã quyết định chọn các diễn viên opera Trung Quốc thể hiện vở này nên ông phải đối mặt với nhiều vấn đề, trong đó vấn đề cơ bản nhất là: cách hát của các diễn viên opera Bắc Kinh hoàn toàn riêng biệt và đặc trưng cho lối thể hiện này. Vậy nhưng phần hát trong Tuyết tháng tám lại là một trong những cách tân lớn mà Cao Hành Kiện hy vọng tạo ra. Các diễn viên này đã được đào tạo để cả đời hát theo một lối, rất khó đòi hỏi họ đổi sang một lối hát hoàn toàn khác. Chẳng hạn, trong opera Trung Quốc người ta hát đối thoại theo lối đồng âm. Bây giờ diễn viên buộc phải hát đa âm, ứng với phần nhạc của dàn nhạc và phần ca của dàn đồng ca”. Nhưng mọi khó khăn thách thức rồi cũng được vượt qua. Ngày 20/12/2002 tại Nhà hát quốc gia Đài Bắc, vở Tuyết tháng tám lần đầu được công diễn. Và như tôi đã kể ở trên, tối 27/1/2005, vở này đã lần đầu tiên được ra mắt ở châu Âu tại Nhà hát opera Marseille với hai trăm diễn viên trong đó các diễn viên là người Đài Loan theo phong cách opera Trung Quốc, còn dàn nhạc và dàn đồng ca là của Pháp. Một sự hợp tác liên văn hóa để thực hiện một tác phẩm phương Đông viết bằng tiếng Hán – bà Tchen nhận xét.
Bà Tchen Yu-Chiou bên cạnh Viện sĩ Viện Hàn lâm Thụy Điển Goran Malmqvist
 Trở lại sự kiện Tuyết tháng tám ở Đài Loan, bà Tchen Yu-Chiou đánh giá: “Nếu tổng kết những gì diễn ra ở châu Á năm 2002 trong lĩnh vực opera, người ta phải đặc biệt kể đến hai vở diễn. Một mặt, đó là vở opera “Trà” do Tan Dun dựng ở Nhật Bản với sự hỗ trợ kinh phí dồi dào của NHK, mặt khác là vở “Bà Butterfly” dựng ở nhà hát opera Bắc Kinh với cảnh trí hoành tráng của kinh đô Tràng An do nhạc trưởng nổi tiếng Seiji Ozawa chỉ huy để kỷ niệm quan hệ hữu nghị Trung – Nhật. Tuy nhiên, sự kiện đánh dấu mùa diễn vừa qua chắc chắn vẫn là Tuyết tháng tám, bởi vì tác phẩm này độc đáo hơn, sâu sắc hơn, khêu gợi suy nghĩ xác thực hơn về ý nghĩa văn hóa là gì, do đó nó có sức sống và tương lai lâu dài hơn bất cứ tác phẩm nào khác”.
 Đài Loan là chốn đi về Trung Quốc hiện nay của Cao Hành Kiện ở nghĩa tinh thần, tình cảm. Khi gặp ông tại nhà riêng ở Paris, tôi hỏi xin ông bản quyền dịch tác phẩm, ông vui vẻ đồng ý cho dịch từ tiếng Trung, vì như lời ông nói, các bản tiếng Trung của ông đều in ở Đài Loan, ở đó ông có mối quan hệ thân tình với nhà xuất bản nên có thể nói với họ cho bản quyền được. Và ông đã lấy ra tặng tôi hơn chục tác phẩm in bằng tiếng Trung, trong đó có chục cuốn là kịch, đánh số in từ 1 đến 10.
 5. Trong báo cáo của tôi đọc tại hội thảo có một điểm liên hệ giữa kinh nghiệm lưu vong của Cao Hành Kiện với văn học lưu vong Việt Nam. Trong câu chuyện riêng với ông, tôi cũng hỏi chuyện này. Kết hợp với những điều ông nói trong các cuộc phỏng vấn khác nhau mà tôi đã đọc, tôi thấy Cao đã xác lập một quan niệm và vị thế nhà văn lưu vong của/cho riêng ông. Ông rời Trung Quốc sang Pháp khi đã bước sang tuổi năm mươi, khi đã có danh trên văn đàn, khi ông đã có cái vốn tiếng Pháp đủ dùng, và nhất là khi ông đã chủ trương một quan niệm coi văn chương là chuyện cá nhân, nên ông đứng tách biệt với mọi hội đoàn phe nhóm văn chương, không để mình dính vào một liên hệ nào với người Hoa hải ngoại. Ông tồn tại bằng viết, bằng chữ nghĩa.
Cao Hành Kiện tại nhà riêng ở Paris
 Có người hỏi ông trở thành nhà văn trong cảnh lưu vong (exile) hay lưu tán (diaspora) nghĩa là gì. Ông đáp: “Ở cấp độ thứ nhất, tôi nghĩ rằng trong thế kỷ XX vấn đề lưu vong hay tha hương là đặc biệt thấy rõ đối với văn nghệ sĩ. Ở cấp độ thứ hai mang tính tinh thần hơn thì lưu vong cũng có nghĩa là sự vượt qua ý thức hệ, vượt qua các thái độ và vượt qua các khuynh hướng, thế tức là lưu vong cũng là một cách theo đuổi cái vô chủ nghĩa hay là vượt qua ý thức hệ. Ở cấp độ thứ ba, nó có nghĩa là nhà nghệ sĩ muốn đứng ra bên lề xã hội. Nhìn từ góc độ này, lưu vong là một kiểu tâm trạng thích hợp, ít nhất là đối với văn nghệ sĩ. Đây là một điều tốt. Nếu anh đứng ở trung tâm xã hội, anh sẽ phải bị tiếp nhận đầu vào và sức ép từ quá nhiều lĩnh vực khác nhau, và đó không phải là thứ môi trường cần cho nghệ sĩ để vun xới khả năng sáng tạo và tư duy riêng của họ”. Trong cảnh lưu vong ông vẫn viết tiếng Trung, mặc dù giờ đây ông có thể viết bằng tiếng Pháp. Cũng đã có lần ông nêu quan niệm tính dân tộc của văn học là ở ngôn ngữ mẹ đẻ nhà văn dùng, còn như các kỹ thuật viết thì nhà văn tha hồ lựa chọn sử dụng. Một số báo cáo viên người gốc Trung Quốc tại hội thảo đã gọi Cao Hành Kiện là “nhà văn Trung Quốc” theo nghĩa nhà văn viết tiếng Trung Quốc (l’écrivain de langue chinoise) chứ không phải quốc tịch Trung Quốc. Và lời tuyên dương của Hàn Lâm viện Thụy Điển coi ông là người “mở ra nhiều nẻo đường mới cho nghệ thuật tiểu thuyết và sân khấu Trung Quốc” thì “Trung Quốc” đây không chỉ là khoanh lại địa lý quốc gia. Có lẽ, một kinh nghiệm viết văn trong cảnh lưu vong như vậy cũng nên để các nhà văn Việt Nam lưu vong ngẫm ngợi.
 6Ông đề tặng sách cho tôi bằng chữ Hán, viết lối chữ thảo, vốn ông cũng là nhà thư pháp có hạng. Tôi giắt lưng Hán tự chỉ dăm ba khối vuông, dòng đề tặng có bảy chữ, tôi đọc được năm chữ đầu “Phạm Xuân Nguyên tiên sinh” là đúng, đến hai chữ cuối thì đọc đại là “sở hữu” rồi suy luận ý người tặng muốn nói đây là cuốn sách thuộc quyền sở hữu của Phạm Xuân Nguyên, kiểu như ta tặng sách nhau thường đề “Bản của XYZ” vậy. Nhưng đọc thế rồi mà cứ băn khoăn. Về Hà Nội khoe bạn bè sách Cao Hành Kiện tặng mình, tôi mới được đọc đúng và hiểu đúng hai chữ cuối ấy, từ đó hiểu cả câu đề tặng. Hai chữ ấy là “huệ tồn”. Cả câu “Phạm Xuân Nguyên tiên sinh huệ tồn” nghĩa là anh giữ cho tôi cuốn sách này là làm ơn cho tôi, là cho tôi một ơn huệ. Đấy là một lễ phép khiêm nhường khi đề tặng sách. Tôi được giảng nghĩa như thế thì bất ngờ quá, sung sướng quá, trong lòng rất cám ơn Cao Hành Kiện đã cho tôi niềm vinh dự này.
Cao Hành Kiện ký tặng sách tại nhà riêng ở Paris
7. Tôi sẽ không sang Pháp dự hội thảo về Cao Hành Kiện và gặp ông trò chuyện được nếu thiếu sự giúp đỡ của ba người. Trước hết là Nguyễn Phương Ngọc, tiến sĩ xã hội học ở đại học Provence. Chính cô đã giới thiệu tôi với giáo sư Noel Dutrait, trưởng nhóm nghiên cứu “Văn học Trung Quốc và dịch thuật” và là người tổ chức hội thảo, mời tôi. Cũng chính cô đã dịch bản báo cáo của tôi “Cao Hành Kiện ở Việt Nam” ra tiếng Pháp và luyện đọc cho tôi để trình bày ở hội thảo. Tôi học ngoại ngữ là tự học, lấy việc đọc hiểu và dịch văn bản làm chính, chứ nói thì ngô nghê ngọng nghịu, chưa lần nào nói nổi dăm ba câu ngoại ngữ cho ra hồn. Vậy mà tại hội thảo này lần đầu tiên tôi đã đọc tiếng Pháp trước một cử tọa khoa học đến 15 phút (thế vẫn còn thừa 15 phút, vì mỗi báo cáo viên được đọc nửa giờ), nghĩ mình cũng liều khiếp vía. May mà đã có bản dịch sẵn phát cho từng người. Tôi cũng đã chuyển cho Cao Hành Kiện một bản dịch đó ngay hôm đầu tiên hội thảo. Hôm sau gặp lại ông cám ơn và nói thích. Đến phần thảo luận, Ngọc đã giúp tôi dịch các câu hỏi và trả lời. Ý kiến hỏi dồn về việc kiểm duyệt xuất bản ở Việt Nam vì điểm thứ nhất trong báo cáo của tôi là nói về sự tiếp nhận Cao Hành Kiện có khó khăn lúc đầu do sự tế nhị của quan hệ ngoại giao Việt – Trung trước việc Cao được giải Nobel văn học năm 2000. Có một câu hỏi: làm nhà văn ở Việt Nam là một sự nguy hiểm. Tôi đáp: theo tôi, làm một nhà văn trung thực, dũng cảm thì có lẽ ở đâu cũng nguy hiểm, nhưng trong hoàn cảnh như ở Việt Nam thì có phần nguy hiểm hơn. Tôi trả lời mấy câu hỏi liền qua lời dịch của Ngọc thì ông Noel Dutrait, chủ trì ngày hội thảo hôm đó, đề nghị cử tọa hỏi sang nội dung chính. Người thứ hai giúp tôi ở Aix-en-Provence trong những ngày hội thảo là Phạm Xuân Thạch, thạc sĩ, giảng viên khoa Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, đang sang đây làm thực tập sinh. Thạch đã đi cùng tôi trong các sinh hoạt ngoài hội thảo, đã dịch cho tôi những cuộc trò chuyện với Cao bên hành lang, trong bữa ăn. Thạch đã mua ngay một cuốn La Montagne de l’Âme để xin Cao đề tặng, sau rồi Thạch bảo: ông ấy không đề chữ “tiên sinh” cho cháu, chỉ cho chú thôi. Và người thứ ba là Cao Việt Dũng đang học École Normale Supérieuse ở Paris đã cùng tôi đến nhà riêng Cao Hành Kiện dịch cả một cuộc trò chuyện dài. Nhờ Ngọc, Thạch, Dũng, tôi đã có một cuộc hội thảo bổ ích và một lần gặp gỡ Cao Hành Kiện trên đất Pháp, ở Aix-en-Provence trời xanh nắng vàng gió mistral thổi ào ạt và ở Paris tuyết trắng phủ đầy phố phường, thật ấn tượng và thú vị.
 Aix-en-Provence 1/2005. 7.
Paris 2-3/2005
Hà Nội 4/2005

Phần nhận xét hiển thị trên trang

“Trong kiến trúc có nhiều trưởng giả học làm sang lắm”

Hồng Khanh(thực hiện) 


Nhiều kiểu trưởng giả học làm sang trong kiến trúc lắm đặc biệt ở phía Bắc. Sự học đòi chỉ làm tổn hại tiền bạc. Bản chất của kiến trúc đâu chỉ là tiền – Ông Nguyễn Tấn Vạn – Chủ tịch Hội KTS Việt Nam chia sẻ.

Nhân ngày Kiến trúc Việt Nam (27/4), ông Nguyễn Tấn Vạn – Chủ tịch Hội KTS Việt Nam đã có cuộc trò chuyện với PV Vland về những suy nghĩ của ông về sự phát triển của nền kiến trúc và thế hệ KTS hôm nay.

Kiến trúc xanh không phải là mốt

PV: Xã hội ngày càng phát triển nhu cầu cũng ngày càng phát triển hơn. Không chỉ là ăn no, mặc ấm mà phải là ăn ngon mặc đẹp và đối với nhu cầu ở cũng vậy. Giờ đây nhu cầu ở không chỉ đơn thuần là một mái nhà. Ông có đánh giá như thế nào về nhu cầu và xu hướng phát triển của kiến trúc trong cuộc sống hiện đại ngày nay, thưa ông?

Ông Nguyễn Tấn Vạn:

Kiến trúc bao giờ cũng phải gắn liền với cuộc sống và gắn liền với thực trạng của xã hội và đất nước. Đất nước giàu có thì kiến trúc phát triển và ngược lại. Có chiến tranh thì kiến trúc không thể lên được. Kiến trúc là một sản phẩm có điều kiện để phát triển. Tất nhiên thời đại nào thì có kiến trúc thời đó.

Ngày nay nhiều gia đình đã có tích lũy và khi tích lũy thì như truyền thống dân tộc Việt Nam có ăn có mặc phải có ở. Thậm chí có một số vùng ăn chưa no, mặc chưa tốt nhưng phải lo chỗ ở tốt. Nhưng cũng có vùng họ không thực sự quan trọng về chỗ ở như ở Đồng bằng sông Cửu Long chẳng hạn. Điều đó là tùy vào thiên nhiên, khu vực, văn hóa vùng miền. Càng ngày kiến trúc càng cải thiện đặc biệt là lớp trẻ họ có nhu cầu thay đổi không gian, kiểu sống, nếp sống. Điều này đã tạo ra sự chuyển biến trong kiến trúc. Và đó là xu hướng phát triển tốt đáng ghi nhận.

Tuy nhiên xã hội càng phát triển thì người ta nghĩ đến môi trường chung. Không chỉ dừng lại ở không gian nội tại mà còn nghĩ đến việc giữ gìn không gian xung quanh bền vững. Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với vấn đề biến đổi khí hậu. Riêng đối với ngành kiến trúc tiêu thụ khoảng 30% năng lượng. Từ đó người ta đặt ra vấn đề phải xoay kiến trúc sang một xu hướng là kiến trúc bền vững, thân thiện môi trường trong đó nổi bật là kiến trúc xanh.

Người ta bảo kiến trúc xanh là mốt thời đại. Nhưng thực ra đây không phải là mốt. Đó là nhu cầu của phát triển. Đi ngược lại nhu cầu này là chúng ta đang tự tiêu diệt chính mình. Đó cũng là lý do Hội KTS Việt Nam khuyến khích mọi người đi về với kiến trúc xanh. Bởi nó không chỉ đảm bảo cho cuộc sống hiện tại mà còn là tích lũy cho tương lai.

PV: Có một thực tế là nhiều người nhận thức rõ về kiến trúc xanh trong đời sống nhưng họ lại cho rằng kiến trúc xanh chỉ là dành cho giới thượng lưu lắm tiền nhiều của mới có thể “chơi” được kiến trúc xanh. Ông nghĩ sao về ý kiến này?

Ông Nguyễn Tấn Vạn:

Khí hậu biến đổi nhanh chóng khiến con người nghĩ đến việc phải gắn nhiều vấn đề với việc phát triển xanh như du lịch xanh, kiến trúc xanh…

Người ta cho rằng kiến trúc xanh là mốt của người thượng lưu dành cho người giàu lắm tiền nhiều của mới làm được. Nhưng đâu phải như vậy.

Tôi nhớ ngày xưa cách đây khoảng 30 năm Việt Nam đạt được một giải thưởng quốc tế là ngôi nhà ở nông thôn với một lý thuyết là cân bằng sinh thái. Ngôi nhà nông thôn là tiêu biểu cho việc tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng hợp lý. Đơn giản chỉ là trồng giàn mướp lấy mướp ăn, xử lý hệ thống biogas… Đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói một câu mà tôi nhớ mãi: Đây chính là con đường kiến trúc mà chúng ta phải theo. Chỉ có điều chúng ta đã không đưa nó thành được một phong trào, xu hướng.

“Trong kiến trúc nhiều trưởng giả học làm sang lắm”

PV: Nhận thức được con đường đi của kiến trúc mà chúng ta phải theo đuổi ngay từ những năm 70 nhưng lại không đưa thành được phong trào, xu hướng để đến bây giờ kiến trúc vẫn phải loay hoay trong phát triển kiến trúc xanh. Điều gì đã cản trở việc đẩy mạnh kiến trúc xanh cách đây 30 năm không thể thành một xu hướng mạnh, thưa ông?

Ông Nguyễn Tấn Vạn:

Cuộc sống càng phát triển càng đặt ra bài toán rằng chúng ta đã mất mát nhiều quá. Cản trở lớn nhất ở đây là nhận thức. Bản chất không phải là tiền. Có người rất nhiều tiền nhưng không biết làm sẽ làm tổn hại đến kiến trúc, môi trường. Con người phải có nhận thức đúng thì mới có thể làm đúng. Phải vận động từ những người quản lý, những nhà đầu tư sau đó mới đến người xây dựng, kiến trúc sư.

Khó khăn lớn nhất là vận động được mọi người, chủ đầu tư nghe theo tư tưởng này rất chậm. Người ta đang chạy theo chủ nghĩa hình thức nhiều. Kiến trúc là cái đẹp nhưng cái đẹp không chỉ là hình thức mà còn là ở bản chất. Người ta đang chạy theo xu hướng kiến trúc hoành tráng, gờ chỉ, hoa lá… mà không nhìn thấy việc đáng phải làm. Nhiều kiểu trưởng giả học làm sang trong kiến trúc rất nặng nề đặc biệt ở phía Bắc. Sự học đòi chỉ làm tổn hại tiền bạc, không thích hợp với khí hậu miền Bắc nóng ẩm.

PV: Vậy Hội KTS Việt Nam cũng như bản thân mỗi KTS hiện nay đang làm gì để gây dựng tư tưởng kiến trúc xanh thành một xu hướng bởi hơn hết kiến trúc không chỉ cho hôm nay mà còn là cuộc sống mai sau?

Ông Nguyễn Tấn Vạn:

Vấn đề là phải tuyên truyền vận động. Phải có thái độ phê phán thẳng thắn. Khen cái hay thì được nhưng chê cũng không được ngại bất cứ ai.

Thứ hai là phải đào tạo đội ngũ kiến trúc sư. Chúng tôi đã có giải thưởng riêng cho sinh viên để thúc đẩy sự sáng tạo của họ. Chúng ta nói nhiều nhưng vẫn còn nặng về hành chính. Chúng tôi vẫn có những trang đen cho những công trình phản kiến trúc đấy thôi.

Bảo chúng ta nghèo nên làm kiến trúc không đẹp. Điều đó đâu có phải. Năng lực chúng ta có thể tự vận động nhưng chúng ta đang rất lạc hậu trong nghệ thuật kiến trúc. Có người qua bên Pháp nhìn nhà đẹp thế nhưng bên Pháp đẹp thì cứ để nó đẹp như vậy ở Pháp. Nếu anh bê nguyên kiến trúc đó về thì chỉ là sự lạc hậu. Thế giới đua nhau sáng tạo những điều mới hợp với xu hướng xã hội hiện đại thì tại sao ta lại rập khuôn, bắt chước như vậy?

Tôi phải nhắc lại rằng: kiến trúc hôm nay không chỉ đảm bảo cho cuộc sống hiện tại mà còn là tích lũy cho tương lai cho con cháu chúng ta. Đừng làm để rồi cháu con chúng ta phải gánh chịu hậu quả.

Xin cảm ơn ông!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Có thì đeo không sao cả nhưng nhớ đừng đi đường vắng nha!

(Soha.vn) - Hình ảnh người đàn ông đeo đầy vàng trên người đi dự đám cưới đang được dân mạng chia sẻ lại trên nhiều diễn đàn.

    Bức ảnh chụp người đàn ông đứng bên cạnh cô dâu đã thu hút được sự chú ý của cư dân mạng trong ngày hôm nay. Chẳng là trong bức ảnh này, người đàn ông đã tự biến mình thành nhân vật chính khi khoác trên mình rất nhiều vòng, nhẫn, dây chuyền vàng. Nhiều dân mạng còn bông đùa gọi người đàn ông này là "người đàn ông đeo vàng nhiều nhất Việt Nam".
    Cách đây không lâu người đàn ông này cũng đã từng gây xôn xao mạng xã hội Việt với hình ảnh đeo đầy vàng khi đi lễ. Tuy nhiên bên cạnh sự thích thú, tò mò của dân mạng thì cũng có nhiều ý kiến cho rằng người đàn ông này đang khoe khoang 1 cách lộ liễu, thậm chí nhiều ý kiến còn "tố" người đàn ông này đeo vàng giả?

    Tay ôm vàng hay ôm hột xoàn đấy?

    Phần nhận xét hiển thị trên trang

    1 câu nói, 5 năm tù

    27/04/2014 08:11 (GMT + 7)

    TT - Trong hai ngày 25 và 26-4, hàng trăm người dân đã có mặt trước cổng TAND huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội để theo dõi phiên tòa xét xử 10 người dân phạm tội chống người thi hành công vụ. Tuy nhiên mọi người không được vào phòng xử.

    Theo cáo trạng của Viện KSND huyện Mỹ Đức, biết công trình thi công tuyến đường nối khu du lịch Hương Sơn (Hà Nội) với khu du lịch Tam Trúc - Khả Phong (Hà Nam) được tiến hành, ngày 12-7-2013, Đinh Văn Chính, Lê Thị Thu và các bị cáo đã dùng quan tài và các chướng ngại vật ngăn cản, chống đối không cho người và các phương tiện vào thi công dự án.
    Hình sự hóa quan hệ hành chính
    Phiên tòa nóng ở những phút đầu tiên vì tiếng la hét của người dân ngoài cổng tòa vọng vào phòng xử.
    Bên trong tòa, trả lời tòa, bị cáo Chính khai mình không đi mua quan tài mà do vợ bị cáo mua.
    “Ở cơ quan điều tra, bị cáo nghe nói vợ mình bị dùng nhục hình đến mức uất ức quá phải tự cắt vào tay, điều tra viên nói nếu bị cáo nhận việc mua quan tài thì sẽ cho vợ về để chăm sóc con nên bị cáo đã nhận. Sáng 12-7 bị cáo chở vợ và bố ra nơi thi công rồi về chứ không có mặt tại hiện trường”.
    Phiên tòa hình sự nhưng những từ “mất đất”, “thu hồi đất” được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần. Trả lời tòa, 10 bị cáo đều cho biết chỉ cần có quyết định thu hồi đất thì người dân sẽ tự hiến đất cho Nhà nước, nhưng nếu chính quyền làm sai thì người dân sẽ giữ đất đến cùng.
    Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại tòa cho rằng bị cáo Chính bị truy tố ở điểm C, khoản 2 điều 257 BLHS, hành vi lôi kéo, kích động người khác vì đã có câu nói “đất chưa có quyết định thu hồi bà con kiên quyết giữ đất đến cùng, không sợ chết, nếu tôi có chết đừng chôn vội mà hãy cho tôi vào quan tài chở ra Văn phòng Chính phủ để Chính phủ biết sự việc”.
    Theo đại diện Viện kiểm sát, câu nói này là điểm tựa tinh thần cho các bị cáo khác.
    Tranh luận lại, các luật sư cho rằng quan tài không bị cấm mua bán, cũng không phải vật nguy hiểm. Khởi nguồn là việc UBND huyện Mỹ Đức không tuân thủ các quy định của pháp luật đã gây bức xúc cho người dân.
    Tuy nhiên đại diện Viện kiểm sát lại cho rằng những nội dung này không liên quan đến vụ án hình sự nên Viện kiểm sát không tranh luận nhiều (?!).
    Công nhân thi công cũng được coi là người thi hành công vụ?
    Sau khi luật sư Hoàng Ngọc Biên (bào chữa cho vợ chồng bị cáo Chính) yêu cầu cho biết rõ trong vụ này ai là người thi hành công vụ, đại diện Viện kiểm sát trả lời là hai tài xế của Công ty Xuân Trường (đơn vị thi công dự án).
    Luật sư Biên phản bác rằng theo Luật cán bộ công chức, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì người thi hành công vụ phải là những người được bổ nhiệm, tuyển dụng vào cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ công, đúng pháp luật.
    Các luật sư yêu cầu đại diện Viện kiểm sát cung cấp văn bản luật nào nói công nhân hợp đồng của công ty là người thi hành công vụ. Viện kiểm sát không cung cấp được, nhưng nói hai tài xế này được giao thực hiện nhiệm vụ nhà nước.
    Nhiều luật sư cho rằng vụ án đã bị hình sự hóa, hành vi của các bị cáo chỉ cần xử phạt hành chính, vụ án không có thiệt hại, bị cáo Chính không có mặt tại hiện trường, không mua quan tài, chỉ một câu nói mà bị cho là lôi kéo, kích động, các luật sư đề nghị tòa tuyên các bị cáo bị oan và trả tự do.
    Đối đáp lại, đại diện Viện kiểm sát cho biết đây không phải là quan hệ hành chính. Hành vi của các bị cáo diễn ra từ lâu, các cơ quan đã vận động rất nhiều nhưng các bị cáo vẫn thực hiện, phía đơn vị thi công thất thoát 10 tỉ đồng nhưng họ không yêu cầu bồi thường. Nếu không bắt các đối tượng thì việc chống đối vẫn tiếp tục...
    Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát cho rằng quản lý đất đai có nhiều hành lang pháp lý, nếu quyền lợi bị ảnh hưởng thì nên có đơn khiếu nại, đề nghị, tố cáo chứ không được phép chống đối.
    Ý kiến này của đại diện Viện kiểm sát bị tất cả bị cáo phản đối làm phiên tòa náo động.
    Bị cáo Đinh Văn Chính bức xúc nói giữa tòa: “Tôi chỉ đề nghị UBND huyện bồi thường tại thời điểm có quyết định thu hồi đất vì tỉ giá đất hằng năm của UBND TP Hà Nội đều thay đổi. Tôi có đòi hỏi gì quá đáng đâu? Nhân quả gây hậu quả. Nếu chính quyền thực hiện dự án không sai thì chúng tôi đâu phải khổ sở đi kiện từ năm này qua năm khác, thì vợ chồng tôi không bị bắt, con tôi không bị bỏ rơi, 200 con lợn nhà tôi không chết, nhà tôi không bị người ta đốt, tôi không bị đe dọa tiêm HIV...”.
    Nỗi niềm dân mất đất
    Sau khi tòa tuyên án, hàng trăm người dân xã Hương Sơn lại tiếp tục đứng, nằm, lăn trước cổng tòa gào thét, khóc lóc, phản đối. Hai ngày xét xử, họ mang nhiều tấm bìa cactông viết chữ bày tỏ tình cảm với các bị cáo đứng trước cổng tòa.
    Vụ kiện của người dân Mỹ Đức đã kéo dài nhiều năm. Xuất phát từ những sai phạm của UBND huyện Mỹ Đức mà Tuổi Trẻ đã nhiều lần phản ánh (“Chiếc áo trái”, “Khi dân kêu cứu”).
    Năm 2008, chính quyền huyện Mỹ Đức và xã Hương Sơn thu hồi đất nông nghiệp của dân để thực hiện sáu dự án. Việc thu hồi đất này không đúng trình tự, không họp dân, không kê khai kiểm đếm diện tích đất bị thu hồi...
    Hàng trăm người dân đã làm đơn khiếu nại, tố cáo gửi lên cấp trên. Năm 2011, chủ tịch UBND TP Hà Nội đã có kết luận, theo đó trong sáu dự án thì chỉ một dự án là có quyết định phê duyệt của UBND tỉnh Hà Tây năm 2008, năm dự án còn lại mới chỉ có văn bản giao nhiệm vụ chủ đầu tư.
    Ngay cả trong dự án đã được phê duyệt cũng có hàng loạt sai phạm như chủ đầu tư không làm thủ tục thu hồi đất, không lập phương án bồi thường giải phóng mặt bằng đã tổ chức thi công.
    Năm 2012, 127 hộ dân đã nộp đơn khởi kiện ra TAND huyện Mỹ Đức yêu cầu UBND huyện Mỹ Đức lập phương án bồi thường tại thời điểm có quyết định thu hồi đất để áp giá bồi thường đúng pháp luật.
    Năm 2013, khi xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, TAND huyện Mỹ Đức và TAND TP Hà Nội đã bác yêu cầu khởi kiện của người dân.
    Theo tòa, dù chính quyền có một số sai phạm trong thủ tục, trình tự thu hồi đất nhưng không ảnh hưởng đến giá bồi thường, yêu cầu của dân là không có cơ sở. Các dự án vẫn được tiếp tục.
    Các mức án
    Trưa 26-4, sau hai ngày xét xử, TAND huyện Mỹ Đức đã tuyên án. Hội đồng xét xử nhận định ông Đinh Văn Chính (44 tuổi) là người đứng đầu lôi kéo kích động người khác nên phải chịu mức án 5 năm tù giam.
    Các bà Lê Thị Thu (38 tuổi, vợ ông Chính), Trịnh Thị Nhung, Đinh Thị Hà bị phạt 12 tháng tù, sáu bị cáo còn lại có mức án từ 6 tháng tù (án treo) đến 9 tháng tù.
    TÂM LỤA
    Phần nhận xét hiển thị trên trang

    Hoan hô công an quận Bình Thạnh đã trả vàng!


    Phần nhận xét hiển thị trên trang

    Nhớ lại một chuyến phét với bọn văn nhân: ( bài này Ngố viết )


     TÌM TÌNH
    ( Vừa đi..vừa lảm nhảm )

    Phật lịch năm 2556, Hùng Vương lịch 4888.
    Dương lịch kỷ thứ hai mươi mốt..
    Thứ bảy ngày 5/8 hay ngày 17 âm, năm con rồng lộn.
    Một ngày Thăng Long nóng kinh người. Nhiệt độ ngoài đường có chỗ xấp xỉ ba chín độ hoặc hơn. Nắng đến đỗi nhựa đường xùi lên dính cả vào lốp xe. Lớp khí mặt đường  dập dềnh như ngọn lửa không màu. Lại chen chúc những người là người kề vai thích cánh trong cuộc kiếm tìm miếng cơm, manh áo, đồng tiền. Cảnh ngộ kể không biết sao để nói. Nỡm bật cười một mình nhớ lại cách đây ít phút. Lúc đấy ngồi buồn chờ chủ nhà vừa mới ngủ dậy tráng mặt, pha nước. Có tay nhà thơ nào đó viết một bài thơ dài. Thơ thì không hay lắm, nhưng ý tưởng rất là ngộ ngĩnh. Y nói về giấc mơ vơ vẩn của y. Mơ rằng ước gì ngủ dậy sau một đêm Hà Nội biến thành Ba Lê, kinh đô của Pháp quốc Tư bổn, cực kỳ thối nát về chế độ, nhưng môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa và cả môi trường đạo lý, môi trường học tập lại vô cùng thân thiện.. vẫn còn khối điều hơn hẳn ta, khiến cho ta phải lác mắt, rỏ rãi thèm thuồng. Rồi y lật lại vấn đề giả sử sau một đêm, Ba Lê biến thành Hà Nội của ta thì sao nhỉ?  Chắc là người Pháp sẽ phải di tản đến một thành phố khác. Không phải người Pháp nào cũng chịu nổi vẻ bát nháo chi khươn như ở đây. Ngoài đường trừ các bà các ông ngồi xế hộp, còn người xe máy, xe đạp và cả người đi bộ đều bưng khẩu trao kín mặt, chỉ hở hai con mắt để dò đường, như thám tử bịt mặt, hoặc quân khủng bố. Nhiều lúc đàn ông đàn bà, già trẻ cũng khó phân biệt vì các kiểu thời trang nhố nhố nhăng nhăng, màu da mầu tóc. Tỷ dụ người già tóc đen rưng rức nhờ nhuộm lại trong khi đó đám trẻ ranh lại thích vài ba chòm tóc trắng bạc xung quanh đầu theo nhiêu mốt mới.
    Ngay hồi chiến tranh phá hoại của người Mỹ cũng không bụi bặm, khó thở như bây giờ. Thời ấy thành phố chưa đến ba triệu dân. Hầu hết lại đã đi sơ tán về các vùng quê cả. Chỉ có rất ít người có “trách nhiệm”, chức năng mới ở lại thành phố. Nhờ thế thành phố những lúc không bị không kích rất vắng vẻ, thanh bình. Có lúc còn nghe rõ cả tiếng lá rơi trên vỉa hè. Lấy đâu ra xe máy ô tô nhiều như bây giờ?
     Được cái dân thủ đô ngày nay chịu khổ lâu rồi, dần dần hóa quen. Như truyền thống ngàn năm tằn tiện và cam chịu. Có chịu thêm nữa cũng chả sao. Chả gì bằng ù lì, nhẫn nhịn là cái kinh nghiệm đời cha truyền xuống đời con. Thế hệ này trao cho thế hệ khác.

    Phải có đến hàng vạn chiếc xe liên tục xả ra hàng ngàn tấn khí độc hại ra thành phố mỗi ngày. Chả thế nước da của người thành phố không đỏ đắn, sáng màu như người chỗ Nỡm. Trắng thì trắng thật, nhiều mỹ phẩm trắng da dùng hàng ngày sẵn sàng như thế, không trắng có mà là da trâu, là da bò hay sao? Chưa kể đến các loại máy cạo lông hiện đại đang rao bán khắp các siêu thị, nhà hàng.
    Nhờ võ vẽ chút thuốc nam, nhìn người, Nỡm biết. Người thành phố rất ít người vô bệnh tật. Không béo phè béo phẹt cũng gút, cũng tiểu đường.. Không gan thì mật, không trong ruột cũng ngoài da. Nói thành phố của bệnh hoạn thì hơi quá. Nhưng quả thật người thành phố ngày nay sức khỏe rất có vấn đề.  Chưa kể nhìn nét mặt biết ngay nhiều ông bà bị trầm cảm, tâm thần không nhiều thì ít, đều có sự tổn thương. Nếu đồng loạt chạy chữa không biết bệnh viện tâm thần lấy đâu ra giường?
    Còn biết bao nhiêu bệnh kín, bệnh hở, đã và chưa đi xét nghiệm? Người ta nói nhiều đến bệnh sida, nhưng số người vong mạng các loại bệnh khác còn lớn hơn rất nhiều lần.. Thống kê cho đầy đủ các loại tai vạ có lẽ phải viết hẳn cuốn sách dày tương đương cỡ như tiểu thuyết “Vỡ Bờ” của cụ Nguyễn Đình mới tàm tàm đủ!!
    Nhưng người Hà Nội lại cũng nhiều khát vọng..
    Trong các các tạp chí bán chạy nhất bây giờ là tạp “Vàng&Tiền”. Lúc còn ngồi trong nhà, Khảo Cứu đưa cho Nỡm một tờ mới nhất, như thể muốn khỏe với Nỡm sự nhanh nhạy, thời thượng của mình.
    Y giở cho Nỡm vào ngay trang nói về các lâu đài nạm vàng trên thế gian này. Một tay người Hán, ngụ ở Hồng Kông có cái tên là Sai Wing nào đó giát vàng lâu đài của y gần bảy tấn vàng. Kinh khủng khiếp nhất là cái bồn cầu vàng nguyên khối nặng hai tấn rưỡi. Không hiểu sự khác nhau khi ngồi ị cái bồn cầu bình thường với cái bằng vàng nguyên khối này như thế nào? Cái cục phân hẳn sẽ thơm chứ không thối nữa! Nếu không thế phí phậm cả đống vàng vào đó làm gì? Thời gian khủng hỏang vừa rồi, y tạm gỡ hơn một tấn vàng 24kara ở những nơi không cần thiết, nhưng dứt khoát không đụng đến cái toalet của mình.
    Nỡm chợt nhớt đến bà thím mình ở quê cưới con gái. Hai vợ chồng chú thím phải đi cầm sổ đỏ sắm cho cô em họ ba chỉ vàng bước lên xe hoa. Mới biết giàu nghèo bây giờ cách nhau đến nửa vòng trái đất, như địa ngục và thiên đường.
    Sự đời kể từ thời đức vua Hùng dựng nước tới nay, bao giờ cũng vậy, có “ổn” mới “yên”, mới thành “Yên ổn”.. Chỉ nghĩ đến đấy thôi đã thấy sợ, thấy buồn..
    **
    Không phải lối đi của con người.. Không phải đường, không phải ngõ, càng không phải hẻm. Một cái gì đó giống như cái hang, rất hẹp và dài, hai bên tường cao vài mươi mét. Chỉ lọt vừa vặn một chiếc xe Drem. Mỗi bên tay lái chỉ cách hai bên tường vài milimet. Người tay lái non, run tay rất có thể đánh lửa bằng đít, bằng vai. Đường như thế tất nhiên là đường một chiều cho mỗi một người. May, Khảo ra vào khu này nhiều nên quen không bị đánh lửa lần nào. Nỡm không ngờ trung tâm kinh thành lại có một lối đi như thế. May nữa, giờ là thời hiện đại! Giả dụ thời trước đi lại bằng voi, bằng ngựa, hay ngồi kiệu chắc hẳn không qua lại được chỗ này.
    Khảo bảo:
    - Nói dại, nếu xảy ra hỏa hoạn, động đất lối đi như thế này chắc chết!
    Nỡm không nói, vì y sợ chứ không phải không nghe thấy. Chỉ cần ông bạn vàng cao hứng, thiếu tỉnh táo là cả hai rất dễ bị lỗ mũi ăn trầu, hay vai bở như dưa ngay. Y thừa biết chuyện gì sẽ xảy ra trong tình huống tên bạn vừa nói. Người sẽ đạp lên nhau, cả kẻ mạnh đến người yếu khó lòng sống sót. Dân mình chứ đâu phải dân Nhật mà bảo bình tĩnh chờ đợi nhau, nhường nhịn nhau, giúp dập nhau.. trong cơn hoạn nạn?
    Nhờ trời vẫn còn thương vạn dân khổ sở, điều đó chưa xảy ra!
    Nói là đi “bia cỏ”, có gặp gỡ một số văn nhân cao cấp của Hà thành, sao lại đi lối này? Chẳng hay các vị ấy giờ đây ở ẩn, ở tút lút mãi phía bên trong cuộc đời, bên ngoài hiện thực của văn minh xã hội?
    Hóa ra không phải. Vào để đón một vị nữa cùng đi. Một nhà chiêm tinh học, kiêm nhà thơ vừa mới nổi, nhờ một nhà tài trợ khá đặc biệt. Thời buổi kinh tế nói mẹ ra là phá sản, xuống dốc. Chả cần văn hoa “Suy thoái”, “Suy trầm”, dài dòng văn tự làm gì. Vậy mà ông trùm công ty đó xuất hẳn mấy chục triệu cho nhà thơ in sách, lại in theo chuẩn cao cấp, giấy trắng, bìa đẹp và dầy với số bản khá đông! Nỡm cũng được nhà thơ tặng cho một cuốn. Thơ thuộc loại khá hay. Ngôn từ đèm đẹp vào hạng “hai không, bốn tốt”.
    Nhà chiêm tinh ngoài việc bấm độn, xem lá số tử vi, còn có hiểu biết về phong thủy khá sâu sắc. Ông vừa lên Tây bắc về sau cuộc xem xét phong thủy cho một tượng đài sắp sửa được dựng nay mai. Tỉnh đó mấy năm trước xây tượng đài kỷ niệm chiến thắng lẫy lừng thế giới. Làm thế quái nào đấy, mới khánh thành được mấy hôm thì bị nghiêng, suýt đổ. Chúa tỉnh và tỉnh trưởng bị một phen tái mặt. Có bảy vía tán mất năm vía, cả năm sau mới hoàn hồn, mới tụ lại được các vía thất lạc. Cả hai bị khiển, suýt nữa bị về quê phụ một tay mẹ đĩ chăn gà.
    Đó là bức tượng bằng đồng, tầm cỡ chưa từng thấy của quốc gia. Nó nặng đến nỗi đường lên Tây bắc xa xôi không có phương tiện nào thích hợp. Phải chọn giải pháp chở bằng tàu thủy, “tăng bo” qua thủy điện sông Đà bằng cần cẩu ngoại cỡ của nước bạn Liên Xô để lại từ thời bao cấp, đi một khúc nữa đến bến vào nông trường Chiềng Sung. Từ đó hai xe đại xa kết với nhau đưa thêm hàng trăm cây lô mếch vào địa điểm. Công phu như thế hỏi tính chất của nó sao lại không nghiêm trọng?
    Hồi ấy Nỡm đang công vụ ở khu này nên biết khá rành rẽ. Chuyện ồn ào cả nước, đủ loại phượng tiện. Báo nói, báo in, báo hình. Thôi thì cứ như biến cố kinh dị, động đất, sóng thần xảy ra!
    Cho nên lần này chúa tỉnh rút kinh nguyệt. Rất ư là thận trọng. Nhà thơ nhờ thế mà có giá trị, được quan tâm, chú ý, ưu đãi đặc biệt. Không cần nói thêm, mọi người chắc cũng biết. Có được những ân sủng ấy, không phải nhờ “giá trị văn chương đích thực” của anh ta. Cái chính là nhờ vào cái tài lẻ, nửa công khai, nửa bí mật của thuật chiêm tinh kết hợp kinh nghiệm phong thủy của nhà thơ. Phàm là những người làm kinh doanh thường chu đáo, tính đếm từng đồng. Mấy ai ném tiền qua cửa sổ để “ Tôn vinh văn hóa đọc” một cách rộng rãi như thế?
    **
    Chủ nhà bảo :
    - Các pak đã đến đây thì ở lại đây! ( Ý ngầm là bao giờ tốt lá, xanh cây mới về! ) Thế thì chết bỏ mẹ. Mình đâu có nhàn tản? Lại lỡ mất cuộc gặp cụ Kh. Một người mà Nỡm đặc biệt kính trọng. Cuộc đời cụ thật gian nan. Hồi trẻ đã có lần Y gặp cụ ở ngõ Bảo Khánh, cổng sau bệnh viện VĐ. Cụ đi cùng với một đoàn người thuộc chi hội “té me”. Mỗi tháng một lần, gặp gỡ trao đổi với khoa huyết học của bệnh viện này. Chả có nghiên cứu khoa học hay bàn soạn chuyên môn gì hết. Chi hội chầu trực đổi máu lấy cơm ăn. Đấy là  thời cuộc khốn khó nhất trong cuộc đời cụ. Người ta bảo đói ăn vụng, túng làm càn. Nhưng kẻ sĩ ngay cả lúc khốn khó nhất cũng không thể làm theo thói thường ấy được. Cứ mỗi tháng hai kỳ, một ở Hà Nội, một Thái Nguyên, hay Bắc Ninh gì đó. Bán máu của mình mà sống qua ngày, mà mua sách vở, tài liệu, mà viết những dòng bất hủ người đương thời bây giờ ca tụng.
    Đó là cái hồi Nỡm làm gia sư cho một ông lớn ngõ Hành Hành. Y chỉ biết rất sơ sài về cụ. Theo cái nhìn chính thống lúc bấy giờ, thấy cụ y còn có chút kỳ thị. Một tình cảm khốn nạn mà về sau y phải lấy làm hối tiếc. May mà cụ không biết được ý nghĩ lúc bấy giờ của y. Cụ còn bao nhiêu chuyện cần quan tâm, để ý đến thằng nhãi nhép, vô danh tiểu tốt như y làm gì? Cũng may, Cụ về già “Tài vượng lão lai”. Có người nói với Nỡm “ Cụ í khoe, suốt cuộc đời cầm bút của cụ ấy đến nay đã được “tổng tiền nhuận bút” ngót nghét một tỷ!”. Số tiền ấy so với các công việc khác thời nay chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Người ta kinh doanh bạc tỷ mỗi năm là chuyện hết sức bình thường. Chưa kể bọn ăn lúa ăn mạ, chỉ vài ba tháng kiếm trăm tỷ, ngàn tỉ như bỡn!
     Nhưng sự khác ở đây đó là tiền sở hữu tài năng, trí tuệ mà có nó. Nó là tiền xương máu, tiền vía, tiền hồn. Sang trọng và giá trị gấp trăm vạn lần những thứ tiền khác theo kiểu một miếng giữa làng. Chính đáng, không cãi vào đâu được!
    Bỏ lỡ một cuộc gặp như thế là một thất bại trong đời. Nhưng biết làm sao khi chủ nhà không muốn đi nơi khác. Ông ta bảo vợ nướng cho mấy con mực. Lại hỏi bia hay rượu nào? Khảo bảo uống bia cho nó lành. Nỡm có thích thì dùng rượu. Mao Đài hay Nã Phá Luân cổ rụt có cả. Nhà lý số đang được mùa mà.
    Nhà thơ khoe vừa cùng với ông X, ông P đi khuyến thiện về nên mệt không muốn ra ngoài. Hỏi từ thiện ở đâu? Nói Ông TV vừa ốm. À cái ông nhà thơ tính cách rất đặc biệt ấy nỡm có lần đã gặp, cũng qua Khảo dẫn đi. Cái nhà ông vốn con nhà danh gia, từng là tay chơi nổi tiếng đất Hà thành. Ông ấy bán nhà mặt phố vào làng, rồi lại bán nhà trong làng vào trong ngõ sâu. Rượu tít cung mây, thơ như ma làm, đọc câu nào sướng câu ấy. Người ấy đau ốm, anh em đến hỏi thăm, chia sẻ là rất phải. Nói cho cùng bạn văn với nhau chả có gì đáng giá bằng tình tri kỷ. Mọi thứ khác không cần quan tâm, chẳng là gì.
    Nhân bàn chuyện sướng khổ ở đời.Chiêm tinh hỏi:
    - Hai pak có đọc kinh dịch không?  Cái quan trọng nhất để dẫn đến thành công hay thất bại ở đời là “Thời” và “Vị”. Nhiều người tài năng xuất chúng không gặp thời, không có vị cũng chẳng nên trò trống gì. Gia Cát Lượng hô mây hoán vũ, tài thao lược không ai bì, rút cục cũng không cứu vãn được cơ đồ nhà Hán. Hay cụ Phan Chu Trinh ở ta, trí lự hơn người, nghĩ ra con đường tồn vong, cứu nguy dân tộc mà “thời” không gặp, “vị”không có cũng đành uổng một đời!
    Nỡm bảo:
    - Chuyện thời thế lúc này phức tạp bỏ mẹ, nói ra dễ bị “nhạy cảm”. Cái nhà bác họ TH. ấy vừa bị người ta gõ cửa. Thơ gì mà gay gắt, đụng chạm qúa, không khéo còn khốn nữa.. Thôi cứ chuyện thơ cho nó lành!
    Nhà lý số cười nhạt. Ý chừng ông ta muốn bảo: “ cầm bút mà lẩn tránh thời cuộc, không dám ngẩng mặt nhìn thẳng vào sự thật thì viết cái con mẹ gì?”
    Khảo bao giờ cũng biết cải thiện và lèo lái tình hình. Nói ngay:
    - Hôm trước tôi với ông vẫn chưa ngã ngũ tranh luận  về sự thành công hay thất bại của thơ. Hôm nay ông nói rõ hơn về cái TINH, cái THẦN. cái KHí và cái HỒN cuối cùng nó là cái gì, mối liên hệ giữa chúng ra sao?
    - Thì cứ cụng cái đã, rồi sao thì sao. Cái này chẳng qua là ý của riêng tôi. Luận triết thì nói thế, chứ thằng nào dạy được thằng nào? Chẳng qua là ăn may, tập thơ của tôi vừa rồi vào tý giải chứ mình tài cán gì. Đừng bắt tôi đóng vai thầy bà gì. Biết đâu nói đấy thôi..

    Trước lúc cùng Khảo đến đây, Nỡm gặp một nhân vật nom dáng kỳ dị. Y ngồi rất lâu dưới gốc cây đa già, phía sau tượng đài “Thủ đô kháng chiến”. Đó là pho tượng tạc mấy anh vệ quốc đoàn đang ôm bom ba càng lao về phía quân thù. Một thời kỳ lãng mạn đơn sơ trong ký ức mọi người. Thời đó đầu óc người ta thanh thản, ý chí hào hùng, bất chấp hiểm nguy vì tin vào lý tưởng sáng ngời mà dù có tài giỏi đến đâu cũng không thể hình dung cụ thể rồi đây nó sẽ ra sao? Không bức bối, trầm ngâm như bây giờ.
    Nhân ấy ngồi chăm chú đọc sách. Nỡm không khỏi ngạc nhiên khi nhìn thấy tên sách ghi ở bìa : “ Lao động nhà văn”. Sách này in từ bốn mươi mấy năm trước, từ khi Nỡm còn chưa chập chững vào đời. Giấy in là thứ giấy đen xỉn, gáy sách đã sờn. Cứ tưởng loại sách lý luận văn học ấy bây giờ không còn ai đọc. Vậy mà nhân này đọc rất say sưa. Thỉnh thoảng nhân này gỡ cặp mắt kính dày như đít chai đặt sách lên cái rễ cây xù xì nổi gồ trên mặt đất. Có lẽ đây cũng là một kiểu thằng rồ. Có khi học cho lắm vào, chữ nghĩa ám, giờ không giống ai. Cũng có thể nhân ấy nghiện. Nỡm biết có nhiều người, kể cả bản thân y, cũng mắc nghiện đến nỗi trước lúc đi ngủ phải đọc vài trang sách, giấc ngủ mới say nồng. Trong mọi thứ nghiện ngập, có lẽ cái sự nghiện này không bị người đời lên án. Nỡm đoán tay này ít nhiều có viết lách, nếu không sáng tác cũng làm lí luận văn học. Nhìn cái mặt ngơ ngơ, đôi mắt như để trên thiên đình của nhân ấy, thì biết. Bà hàng chè chén cơ động đã sắp sửa dọn hàng về mà nhân ấy không chú ý. Bà chỉ bán đến tầm ba giờ chiều.Buổi tối bà bảo đi chỗ khác, ở đây ban đêm không được sáng và ít an toàn. Nhân ấy khẩn khoản bà ngồi lại thêm chút nữa. Nhân bảo: “ Về nhà giấc này nóng như ở trong chum dấm chuối. Ngồi đây nhờ có chút hơi mát dưới hồ tỏa lên nên đỡ hơn”. Bà cụ không nói gì nhưng đứa cháu gái cứ cầm cái chổi quét thu lá đa rụng quanh đấy. Hình như người này cũng sợ bụi như Nỡm, vội vàng trả tiền, cum cúp ôm cuốn sách trước ngực. Cuốn lí luận văn học cũ mèm, Nỡm từng đọc và thấy trong đó ẩn chứa nhiều điều không ổn. Nhất là gần đây, chủ nghĩa lí luận văn học không được thế giới tán thành và hâm mộ. Cái đẹp của văn chương không thể mổ xẻ như mổ tử thi. Mọi thứ lí luận đều khập khiễng và không bao giờ đủ. Nó là thứ hương thơm, ánh sáng chỉ có thể cảm nhận chứ không thể kẻ vẽ bằng những đường nét sơ sài của mọi thứ lí luận nói chung..
    Đúng là ngày có Văn xương, văn khúc trực chỉ. Đi chỗ nào cũng thấy lí luận, nghe cứ mụ cả người. Tinh với chả vi, nghề nào không cần? Không nghệ tinh thì thân vinh thế chó nào được? Rồi còn cái THẦN, cái KHÍ nữa. Văn học nước mình còn lâu mới đủ tư cách bàn đến chuyện này. Người làm sao chiêm bao làm vậy. Văn nhân nước mình xem ra còn thảm lắm. Thảm về nhiều mặt, mấy ông có “khí”? Có “Phách” như người ta mong mỏi bây giờ? Kể cả Nỡm nữa. Ta cũng là một tên hèn, một tên đểu về nhân cách. Câu đáng nói có há miệng ra nói được đâu? Chữ đáng viết vẫn chưa thấy viết. Vẫn cứ dối lòng mình chờ đến “Thì tương lai, bây giờ chưa phải lúc”. Nhưng thì ấy là “thì” nào? Bao giờ tới?

    Chuyến đi này Nỡm muốn đi TÌM TÌNH. Không chỉ riêng cái tình trai gái mới gọi là tình. Còn nhiều cái tình lắm, hầu như Nỡm còn thiếu rất nhiều. Y muốn trước hết hẵng tìm chốn bạn bè, người quen. Sau đó về quê hương bản quán. Nếu không được thì ra những chỗ như chỗ gốc đa, gần tượng đài ban nãy. Gặp một thằng rồ chữ cũng được. Còn hơn là trống trải, hoang vắng trong não trạng và trong tâm trạng đến thế này!
    Khảo và nhà chiêm tinh hình như không nhận ra thái độ thờ ơ của Nỡm. Hai ông ấy đang đến cái đoạn Mai a.. hay là Sô Lô Khốp thì phải..
    ======


    Phần nhận xét hiển thị trên trang