Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

Hồi kí KHƠ RÚT SỐP : VỀ VĂN NGHỆ SĨ

Nguồn - Việt Nam Thư Quán . net

Được đăng bởi  30.10.13           
Khơ rút sốp
Khơ rút sốp

LÊ HOÀI NGUYÊN: Toàn bộ cuốn Hồi ký của Khơ rút sốp đã được công bố từ năm 1990 đến 1995 trên tạp chí Các vấn đề lịch sử tại Liên bang Nga. Sau đó năm 1997 Nhà xuất bản VAGRIUS, Moskva đã xuất bản cuốn này. Những dòng cuối cùng của cuốn sách vẫn còn bỏ ngỏ vì tác giả của nó đột ngột qua đời ngày 11-9-1971. Cuốn sách là một kho tư liệu phong phú, quý giá về một giai đoạn lịch sử của Liên bang Xô viết mà Khơ rút sốp đã chứng kiến và tham gia lãnh đạo. Với tư duy đổi mới, sớm nhận ra những bế tắc của con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên xô ông đã tự phê phán những ảo tưởng và sai lầm của mình. Ở đấy, những người cộng sản Việt Nam có thể tìm thấy nhiều bài học quý giá.
Đoạn trích dưới đây nằm ở chương cuối cuốn Hồi ký KHƠ RÚT SỐP, phần nói về quan điểm đối với văn nghệ của tác giả.
Hóc búa nhất là những quan hệ với giới nghệ thuật, bao gồm nhà báo, nhà văn, hoạ sĩ, nhà tạc tượng, nghệ sỹ… Họ không tạo ra giá trị vật chất, mà thiếu nó con người không thể tồn tại, bù lại làm xã hội hưng phấn để lao động trong các lĩnh vực khác nhau của nhân loại, tràn vào cả chính trị, cũng như làm giầu của mọi người bằng những tác phẩm văn học, nghệ thuật và trong môi trường nhân văn. Nhưng bởi vì trong hệ tư tưởng ĐCS có xu hướng độc tôn, nên việc quan tâm của Đảng là thu hút giới trí thức này theo của mình không có phải giải thích nữa.
Nhiều cái ở đây là cực kỳ chủ quan. Thí dụ, một Đảng viên có chức vụ, mở đài nghe âm nhạc, ông ta không thích nó hoặc tâm trạng xấu, và ông tắt đài. Sau đó người ta giải thích rằng tác giả bản nhạc là – Chaikovski hoặc, thí dụ, Prokofev. Tác phẩm này ra sao? Ở đây có bối cảnh, ý nghĩa, nội tâm người nghe và hấp thụ của nó và nhiều thứ khác. Thế là phải thông qua khái niệm “thích”, “rất không thích”, “không thích”.
Nhưng kết quả sau này liên quan đến số phận tác giả, và tất cả công chúng, có thể vô tình tước bỏ tác phẩm tuyệt vời. Tránh được sở thị hiếu này như thế nào? Đặc biệt nếu tính đến rằng cùng một tác phẩm có thể sống những thời kỳ khác nhau và gây một ấn tượng không giống nhau. Một số dễ hơn – tác phẩm của nhà văn. Họ như thợ nề hoặc thậm chí thợ tiện, mài dũa tác phẩm của mình từ các phía khác nhau. Nó tự động tràn vào tất cả môi trường xã hội, thông qua các nhân vật của mình. Đánh giá tác phẩm của nhạc sĩ, hoạ sĩ còn phức tạp hơn.
Tôi muốn quay về Stalin đối xử thế nào đối với trí thức. Ông hiểu ý nghĩa xã hội của họ. Nhưng chủ yếu chừng mực nào ông tỏ ra độ lượng, kiên nhẫn, tôn trọng trong từng trường hợp cụ thể. Stalin là người chủ quan chủ nghĩa. Trong khi số phận bất kỳ người nào phụ thuộc vào một lời của ông. Chủ nghĩa chủ quan của ông đôi lúc tạo điều kiện mạnh cho sự phát triển một hướng sáng tạo, đôi lúc làm tê liệt, không cho quay về và chỉ ra bản thân, đôi lúc dẫn tới cái chết và của mọi người, và tác phẩm của họ. Cũng có những nhà văn, không cảm thấy cái ách thống trị này, làm việc mà chẳng có giới hạn trong và ngoài? Rôi khó nói về họ. Vì Stalin là bạo chúa, và ý nguyện của ông quyết định chính sách quốc gia. Nhưng mọi bạo chúa cư xử tốt với văn học chỉ có ở điều kiện nếu nhà văn viết tốt về họ và thời đại của họ. Vì lẽ gì Aleksandr I và Nicolai I hành hạ Puskin? Chính những công lao lịch sử của Puskin trước tổ quốc và văn họ của ông trở nên rõ ràng ngay khi ông còn sống. Tuy nhiên ông bị đi đày không phải một năm và hối tiếc hậu quả tính khí thất thường của Sa hoàng và thuộc hạ. Những thí dụ như thế trong quá khứ nhân loại có thể tìm hàng nghìn.
Thời Stalin Vorosilov đảm nhiệm tương đối lâu trả lời về đường lối chính sách nghệ thuật xô viết. Ông là không thông minh từ hoạ sĩ Aleksandr Gerasimov. Tôi đồng ý rằng Aleksandr Gerasimov là hoạ sĩ giỏi. Tuy nhiên Vorosilov thích Gerasimov trước hết là Gerasimov ca tụng ông trong những bức tranh của mình. Cũng có thể nói về các ca sĩ. Những nhạc sĩ, sáng tác bài hát theo một phong cách và thể loại nhất định, đặc biệt nếu chúng làm nổi bật những nhân vật cụ thể, sáng tác nịnh bợ, bịa đặt, được thưởng và được cất nhắc. Bạo chúa tiến kéo họ lại về mình và bằng mọi cách cổ vũ họ. Điều này không cản trở thừa nhận tác phẩm tuyệt vời ở khía cạnh thuần tuý nghệ thuật.
Nhà văn Fadeev là người tài năng. Tác phẩm của ông “Sự thất bại” nói về những người du kích Viễn Đông gây ra ấn tượng chấn động. “Đội cận vệ trẻ” – cũng là một tiểu thuyết hay. Nhưng người ta chộp được nhà văn tài năng thậm chí thiên tài này. Cớ gì mà Stalin sau chiến tranh đặc biệt cám ơn chính Fadeev? Vì rằng trong thời gian đàn áp, Fadeev lãnh đạo Hội nhà văn Liên Xô, đã ủng hộ đường lối đàn áp. Và làm bay đi nhiều cái đầu của các tác giả vô tội. Chỉ cần viết rằng trong cửa hàng bán khoai tây thối, và điều này đánh giá như chống Liên Xô, người viết lãnh đủ.
Thảm cảnh của Fadeev được giải thích là ông tự sát. Ngay sau khi người ta vạch mặt Stalin và chỉ ra rằng hàng nghìn nạn nhân là hoàn toàn vô tội, thì Fadeev, một người thông minh tế nhị, không thể tha thứ cho mình vì tội phản lại sự thật. Chính giới trí thức văn nghệ cũng chết cùng với những người khác. Còn Fadeev làm chứng gian rằng người ta phát biểu thế này thế nọ chống tổ quốc. Sẵn sàng nghĩ rằng ông làm điều này một cách chân thật, tin vào sự cần thiết của cái gì đã được làm. Nhưng mọi người đứng trước giới trí thức văn nghệ trong vai trò công tố viên của Stalin. Nhưng khi nhìn thấy vòng vâykhép lại, Fadeev chấm dứt cuộc sống của mình. Tất nhiên phải chú ý rằng Fadeev trước lúc đó, đã uống rượu và vì thế đã làm mất nhiều cá tính trước đây của mình. Stalin triệu tập Uỷ ban về giải thưởng Stalin (điều này phải làm trước khi chết để chính tay ông chia giải thưởng mang tên mình), ông đọc báo cáo tặng thưởng Fadeev. Nhưng khi tất cả kết thúc, Stalin nói về Fadeev:
- Chật vật lắm mới đứng dậy được, say hoàn toàn!
Mọi người thấy điều này, tất cả biết điều này. Không ít lần lãnh đạo phải giáo dục công an và cơ quan an ninh để tìm ông trong một chỗ mua vui nào đấy. Fadeev, đau khổ vji cắn rứt lương tâm đã đi đến tình cảnh như thế này. Ông loại bỏ mình và sợ mặt đốu mặt với những nhà văn mà ông giúp Stalin dồn họ vào tù, một số trong số họ quay về nhà sau này. Biện pháp như thế chỉ là một trong nhiều sai lầm, которые có thể gây ra đối với giới trí thức văn nghệ.
Về Tvadovski. Thơ của ông trên miệng hàng triệu người – cả bộ đội đánh nhay với quân Hittler, cả nhân viên hậu cần. Thơ ông nói về Vasili Terkin, một tác phẩm bất hủ. Như mọi người biết Demian Bednyi trong thời gian nội chiến, đúng là Tvadovski nổi tiếng trong những năm chiến tranh vệ quốc. Sau đó thơ ông được viết trong nguyên bộ sách, còn các nhân vật của chúng được vẽ thành tranh. Stalin cảm động nhìn bức tranh có hình Vasili Terkin. Khi Stalin lần đầu tiên nhìn thấy tranh, lập tức đề nghị; “Treo nó ở Kreml”.
Và người ta treo nó ở đó, trước lối vào phòng Ekaerina. Nếu, ra từ phòng họp Xô viết tối cao Liên Xô, quay sang phải, то có thể thấy Terkin được vây quanh bởi các chiến sỹ sau giao chiến. Nhưng bây giờ con đường sáng tạo nghệ thuật của Aleksandr Trifonovich Tvadovski chấm dứt không có tôn vinh. Nhưng chính không phải là ở chỗ ông bây giờ chẳng ai thích. Không thể không thừa nhận vai trò sáng tạo nghệ thuật của ông. Nhân dân công nhận ông. Đây là hiện diện chủ nghĩa chủ quan thay đổi từ người lãnh đạo này tới người lãnh đạo kia.
Tôi nói vài lời về Pastenak. Tôi không bàn về nghệ thuật thơ ông và chỉ sử dụng ý kiến của các nhà thơ đánh giá rất cao thơ Pastenak, kể cả bản dịch thơ ông từ tiếng nước ngoài. Ông viết tiểu thuyết “Bác sĩ Zivago” và rất muốn người ta in nó. Vấn đề về tác phẩm này được giải quyết như thế nào? Người báo cáo tôi về nó là Suslov, lãnh đạo tuyên huấn. Không có Suslov, không thể có thể đả động đến vấn đề đó. Suslov nói tác phẩm “Bác sĩ Zivago” là xấu, không theo tinh thần xô viết. Chi tiết luận cứ tôi không nhớ, tôi không muốn nói sai đi. Tóm lại, đây là một tác phẩm không đứng đắn, không đáng in. Tôi cũng chấp nhận quyết định này. Tôi cho rằng ở mỗi giai đoạn có những biến cố, ngoài Suslov, chưa ai trong số những người có trách nhiệm, đọc tiểu thuyết này. Tôi thậm chí còn ngờ Suslov đọc nó. Suslov, có lẽ, nên trình bày nội dung tác phẩm ba trang. Tất nhiên bàn về nghệ thuật, lại kết án tác phẩm và tác giả của nó, thật không chịu đựng được! Đâu đâu người ta cũng hỏi tôi? Tôi trả lời: tôi tiếc là bây giờ kết thúc cuộc đời hoạt động của mình như một người về hưu bị đày ở nhà nghỉ cuối tuần vùng Petrovsko-Dalnee ngoại ô Moskva? Trong những năm ấy, khi tôi có khả năng ảnh hưởng đến quyết định – in hoặc không in, chấp nhận hoặc không chấp nhận quan điểm của Suslov, người báo cáo, – thì chính tôi lại chưa đọc cuốn sách này. Tôi chưa đọc, nhưng nhưng lại đưa ra những biện pháp hành chính có hại nhất trong quan hệ với giới nghệ thuật.
Đương nhiên, ở nước ngoài om xòm lên, khi bản thảo lọt ra và in nó. Tôi không biết, tác phẩm này tương xứng đến mức nào tiêu chuẩn giải Nobel, nhưng người ta tặng giải này cho Pastenak. Nảy sinh thêm chuyện ầm ĩ: Chính phủ xô viết không cho nhà văn đến nhận giải. Tôi đề nghị các đồng nghiệp:
- Hãy thông báo công khai rằng Pastenak nếu muốn, có thể ra nước ngoài để nhận giải của mình.
Nhưng Pastenak trả lời qua báo chí rằng ông không đặt vấn đề ra nước ngoài nhân danh mục đích này. Cho đến bây giờ tôi tiếc rằng, thời tôi, cuốn tiểu thuyết ấy không được in. Không thể mang phương pháp cảnh sát để phán xét những người hoạt động nghệ thuật. Cái gì đặc biệt xảy ra, nếu như “Bác sĩ Zivago” được in khi đó? Chẳng có gì cả đâu, tôi tin như vậy! mọi người phản đôi tôi:
- Anh tỉnh ngộ muộn.
Đúng là muộn thật, nhưng muộn vẫn tốt hơn không bao giờ. Không phải tôi ủng hộ vấn đề của Suslov. Cứ để bạn đọc công nhận tác giả. Nhưng công nhận theo cách khác: tác giả đã bỏ sức lao động, người ta công nhận nó trên toàn thế giới, còn ở Liên Xô bằng các biện pháp chính quyền người ta cấm đoán nó…
Tôi cay đắng là đã từng ủng hộ một trong những tác phẩm đầu tiên của Sonzenisyn. Khi tôi tiếp Tvadovski mang tác phẩm này, trình bày nội dung của nó và bày tỏ suy nghĩ của mình:
- Tôi coi tác phẩm này là cực kỳ mạnh mẽ và nhận thấy tác giả sẽ là một nhà văn lớn trong tương lai. Đề tài ông đề cập có thể gây ra những đánh giá khác nhau. Mọi người hãy đọc đi. Nhưng tôi đề nghị không in tiểu thuyết này trong tạp chí “Thế giới mới”…
Tôi không nhớ tiểu sử Sonzenisyn. Tôi được báo cáo rằng trước đây ông có thời gian dài ngồi tù. Trong cuốn tiểu thuyết, ông có những quan sát riêng. Tôi đã đọc nó. Cuốn tiểu thuyết nặng nề này để lại những ấn tượng, lo lắng, nhưng đúng sự thật. Nhưng chủ yếu gây ra sự kinh tởm những gì được tạo ra thời Stalinе, làm rung động những điều kiện tồn tại của những người dân chân chất. Không phải ngẫu nhiên mà độc giả chúng ta vồ lấy cuốn thiểu thuyết này. Mọi người tìm thấy lời giải thích tại sao những người tương tự Ivan Denisovich, lại bị nhốt vào trại tù trong những điều kiện một đất nước xã hội chủ nghĩa. Tác giả đánh thức nhận thức lơ mơ của nhiều người.
Khi về hưu, tôi đọc cuốn hồi ký của tướng Gorbatov, người từng bị đàn áp. Tôi biết Gorbatov trong chiến tranh. Cuối 1941 ông tới mặt trận của chúng tôi đóng ở Kharkov. Khi đó tôi là uỷ viên hội đồng quân sự có thảo luận với ông. Ông không kể chi tiết về nhà tù, mà chỉ nói về những vị tướng Liên Xô vô tội nằm trong tù. Ông kể tên họ. Timosenko cũng quan tâm nghe ông, vì ông cũng biết rõ những người này. Cả hai chúng tôi đã viết thư cho Stalin đề nghị thả họ và đưa họ ra mặt trận. Còn bây giờ tôi biết chi tiết, người ta phỉ báng như thế nào người chỉ huy quân sự xô viết trung thực Gorbatov. Liệu có ít chuyện thế này không?
Với Sonzenisyn, ông tiếp tục viết, nhưng không in ở Liên Xô, mà ở nước ngoài. Lúc ấy ông ở “điều kiện đặc biệt”.
Tuy nhiên một bộ phận trí thức chúng ta cảm thông với ông và thậm chí còn là liều nữa. Người ta nói ông sống ở nhà nghỉ cuối tuần của Rostropovich, một nhạc sĩ tuyệt vời, một tay violon nổi tiếng. Khi quyết định bước đi này, Rostropovich tự đặt mình vào tình thế không thuận lợi, nói mềm đi. Điều này chứng minh phẩm chất nhân văn và tinh thần mạnh mẽ của Rostropovich. Sonzenisyn không có một tội gì cả. Ông phát biểu suy nghĩ của mình, viết về những gì mình chịu đựng, đánh giá cá nhân về những điều kiện ông giết thời gian những ngày ngồi tù. Và nói chung, ý kiến của ông hoàn toàn đúng: Stalin là tội phạm, mà là bọn tội phạm thì phải khép tội dù chỉ là về tinh thần. Phiên toà mạnh nhất – phỉ nhổ chúng trong tác phẩm nghệ thuật. Ngược lại, tại sao người ta coi Sonzenisyn là tội phạm? Nếu ông viết dở, người ta không đọc ông. Nếu ông vu khống, có thể bắt ông chịu trách nhiệm, nhưng trên cơ sở luật pháp. Hình như không lôi cuốn vì điều này. Nhưng sợ stj. Mặt nghệ thuật trong trường hợp đã nêu chẳng can hệ gì. Chẳng hạn, tôi không thích tác phẩm “Cung điện Materin” của Sonzenisyn, nhưng đây chỉ là việc sở thích. Đừng cản trở người ta bằng thu thập ý kiến.
Nói chung khổ sở nhất là dân chúng xô viết – trí thức chúng ta. Cá nhân văn nghệ sỹ đoạt trong tác phẩm của mình định đoạt những quan hệ giữa con người, chịu đựng về tinh thần của họ, sự tiếp xúc của họ với chính quyền và những người xung quanh. Ở đây nhà văn hiếm khi rơi vào tình thế nặng nề. Người ta bắt đầu can thiệp vào công việc của anh ta, kiểm soát ânh ta, kiểm duyệt. chúng ta vẫn nói là không có kiểm duyệt. Đây là chuyện vớ vẩn! Chuyện trẻ con. Tại Liên Xô không những có thật, mà tôi nói thậm chí còn là kiểm duyệt cực kỳ khắc nghiệt. Tôi nhớ số phận cuốn sách Kazakevich “Quyển vở xanh”.
Một cuốn sách hay. Sau này nó được làm thành phim, tôi xem phim này hai lần trên TV. Sự thật, Zinovev trong phim là nhút nhát. Sau những biến cố rháng 7-1917 ở Petrograd, ông cùng với Lenin náu mình trong lều. Tác giả cuốn sách gửi cho tôi một bức thư ngắn và đề nghị tôi làm quen với bản thảo. Người ta không chấp nhận in bản thaeo này. Tôi đọc, và tôi thích. Tô không nhận xét một cái gì cả có thể cho là không chấp nhận in nó.
Khi đó, tôi nghỉ ở Kavkaz, gần chỗ Mikoian nghỉ. Tôi gọi cho Mikoian và nói:
- Anastas Ivanovich, tôi gửi anh bản thảo, tôi đề nghị anh đoc nó, sau đó chúng ta gặp nhau và trao đổi những suy nghĩ.
- Ý kiến của anh ra sao? – tôi hỏi, khi chúng tôi gặp nhau.
- Tôi – Mikoian trả lời – tôi cho rằng cuốn sách viết tốt đấy. Tôi không hiểu, vì sao bộ phận kiểm duyệt không cho phép in.
- Được thôi, khi về Moskva, chúng tôi đặt vấn đề để thảo luận trong Đoàn chủ tịch BCHTƯ – tôi nói.
Người ta gửi cuốn sách cuốn sách này cho tất cả uỷ viên Đoàn chủ tịch, và vấn đề của nó được đưa vào nghị sự phiên họp thường kỳ.
- Ai có ý kiến gì không? Vì sao cuốn sách này không được in? – tôi hỏi.
- Thưa đồng chí Khrusev – Suslov phân vân – làm sao có thể in cuốn này được? Tác giả viết Zinovev gọi Lenin “đồng chí Lenin”, còn Lenin gọi Zinovev “đồng chí Zinovev”. Vì Zinovev- kẻ thù nhân dân.
Lời của ông ta làm tôi kinh ngạc. Chẳng lẽ có thể xuyên tạc hoạt động và mô tả những sự kiện lịch sử không phải như thế sao, như chúng đã xảy ra? Thậm chí nếu chúng tôi vứt bỏ những tình tiết, kẻ thù hoặc không phải kẻ thù nhân dân Zinovev, thì sự thật này cũng chẳng cần tranh cãi: quả là, trong lều Lenin và Zinovev cùng sống với nhau. Họ giao tiếp với nhau thế nào? Họ thảo luận các vấn đề nóng bỏng hoặc nói chuyện với nhau khi uống trà trong lều? Hình như họ gọi nhau bằng từ “đồng chí”.
Nhưng thậm chí tôi nghĩ rằng Lenin gọi Zinovev bằng tên – Grigori, vì ở họ khi đó là quan hệ gần gũi. Những tháng đầu tiên sau cách mạng tháng Hai họ giữ chung nhau một ý kiến về mọi vấn đề.
Và tôi nhận xét:
- Nhưng xin nghe, họ là những người bạn và sống trong cùng một lều. Họ nhiều năm chung nhau chống chính quyền quân chủ. Nói khác đi có thể họ gọi nhau là bạn? Làm gì khi một người sau này bị kết án? Zinovev bạn chiến đấu Lenin. Cách thể hiện, được tác giả sử dụng, là tất nhiên và bình thường. Có thể, tất nhiên, làm phụ chú nhắc đến thân phận Zinovev sau này. Nhưng điều này là sự ngu ngốc. Những người tỉnh táo chẳng cần những phụ chú như thế.
Các uỷ viên Đoàn chủ tịch ủng hộ tôi. Quyết định không không cản trở xuất bản, và cuốn sách đưa vào in. Liệu bây giờ nó gay ra ngờ vực nào đấy? Có thể các nhà phê bình không được hài lòng. Tuy nhiên đây là việc hoàn toàn khác. Việc phê bình để cổ vũ tạo điều kiện nâng cao tay nghề của văn học. Nhưng bỗng nhiên dùng biện pháp cảnh sát: kìm hãm và không dân chủ!
Suslov vẫn thực hiện chức năng cảnh sát giống như trong quá khứ và hiện nay. Tất nhiên ông là người trung thực và trung thành ý tưởng cộng sản. Nhưng sự hạn hẹp cảnh sát của ông mang lại thiệt hại lớn. người ta nói với tôi:
- Sao ông quá nhẫn nại ngồi cùng Suslov trong ban lãnh đạo đất nước?
Đúng, tôi sai lầm. Đơn giản tôi cho rằng nếu Suslov làm việc trong tập thể, thì chúng tôi có ảnh hưởng đến ông và ông trở thành có ích. Vì thế tôi không đặt vấn đề thay ông, mặc dù nhiều người khi đó cảnh báo rằng Suslov phủ nhận vai trò. Trí thức quan hệ xấu với ông.
Một lần nữa nhớ lại số phận cuốn sách “Bác sĩ Zivago”, không thể tha thứ cho mình việc cấm nó ở Liên Xô. Tôi có lỗi là không đặt vấn đề cuốn sách đó như đối với “Quyển vở xanh.
Sự khác nhau (mặc dù cũng không đúng) là ở chỗ tôi đã đọc “Quyển vở xanh” và nhìn thấy tận mắt sự ngu ngốc của kiểm duyệt. Tôi đề nghị họ cho lời giải thích với Đoàn chủ tịch BCHTƯ. Họ tỏ ra vô căn cứ, thậm chí nhạo báng, và chúng tôi không đủ mạnh để sửa lại cách hành xử cảnh sát. Nhưng “Bác sĩ Zivago” tôi không đọc, và không ai trong lãnh đạo đọc cả. Người ta cấm cuốn sách, những người thực hiệc làm theo nghĩa vụ công việc theo dõi tác phẩm nghệ thuật. Chính việc cấm đoán này gây ra nhiều tội ác, gây ra thiệt hại trực tiếp cho Liên Xô. Đả lích chúng tôi là những trí thức ở nước ngoài, trong số này có cả những người không thù địch về nguyên tắc chủ nghĩa xã hội, nhưng họ được tự do phát biểu ý kiến.
Bây giờ – về Erenburg. Tôi gặp ông ta không phải một lần. Một nhà văn giỏi, tài năng. Ông vẫn đọng lại như thế trong văn học. Nhưng ở ông có một cái gì đó dĩ hoà vi quý với những phương pháp lãnh đạo của Stalin. Có thể, tôi quá khe khắt với Erenburg. Cuộc sống là như thế, không hoà giải có lẽ ông không sống nổi. Ông không đủ kiên trì bênh vực những hiểu biết riêng những biến cố, quan điểm của mình. Không phải luôn luôn như thế, thỉnh thoảng ông cũng thể hiện sự cứng rắn. Tôi nhớ, khi Stalin có một lần cần đến phát biểu công khai rằng Liên Xô không bài người Do thái, và Stalin quyết định tuyển mộ nhóm của ông, chính xác hơn, là chữ ký của ông (các tác giả khác Stalin hoàn toàn lo được chữ ký) Erenburg và Kaganovich. Kaganovich đúng là xoay xở tất cả, khi Stalin nói chuyện với ông theo lý do này. Có cảm giác rằng Kaganovich không muốn làm điều này. Nhưng Kaganovich lại làm tất cả những gì mà Stalin nói với ông. Sau đó Stalin giao cho ai đó nói chuyện này với Erenburg. Erenburg thẳng thừng phản đối ký vào văn bản ấy. Điều này chứng tỏ rằng ông có cá tính và dám đương đầu với ý định của Stalin, mặc dù Stalin với ông không trực tiếp nói chuyện này.
Erenburg đem ra dùng từ “trời ấm lên”.
Ông cho rằng sau khi Stalin chết cuộc sống của mọi người ấm lên. Tính cách đó không phải là tích cực. Hoàn toàn, làm yếu đi. Nếu nói theo ngôn ngữ cảnh sát chúng tôi bớt đi sự kiểm soát, mọi người phát biểu tự do hơn. Nhưng ở chúng tôi vẫn có cuộc đấu tranh hai cảm nhận. Một mặt, việc bớt hà khắc phản ánh tinh thần mới, mà chúng tôi hướng tới điều này. Mặt khác, trong số chúng tôi, còn cod những nhân vật cật sức không muốn làm ấm lên và quở trách: giá như Stalin còn sống, thì ông không cho phép làm điều như thế. Rõ ràng giọng điệu chống sự ấm lên. Nhưng Erenburg trong tác phẩm của mình rất biết rõ quan sát khuynh hướng ngày nay, đem lại đặc tính tương lai. Tôi cho rằng từ của ông phản ánh hoạt động, mặc dù chúng tôi phê bình khái niệm “trời ấm lên”.
Sự phát triển tương tự những biến cố có thể trong công việc chính trị. Vì thế chúng tôi tựa như kiềm chế “trời ấm lên”. Chúng tôi sợ bị tước đoạt khả năng trước đây điều khiển đất nước, kiềm chế những tâm trạng, không vừa lòng quan điểm lãnh đạo. Chúng tôi sợ rằng lãnh đạo không có khả năng làm đúng chức năng của mình và lái sự tiến bộ để giữ xô viết tồn tại. Chúng tôi giải phóng sức sáng tạo của mọi người, nhưng sao cho những tác phẩm mới phải giúp phòng thủ CNXH. Tựa như muốn bú, và mẹ không cho.
Có lần chúng tôi thảo luận trong BCHTƯ Đảng với trí thức văn nghệ. Erenburg cũng được mời. Tôi không nhớ, có mặt Simonov không, nhưng tôi nhớ có Tvadovski, Evtusenko, Ernst Neizvetnyi. Nói riêng, thảo luận về điêu khắc. Cả Galina Serebriakova cũng có mặt tại cuộc thảo luận. Bà phát biểu rất mạnh chống Erenburg. Erenburg, nghe bà nói, đúng là như đỉa phải vôi, nhẩy cẫng lên, còn bà vẫn quất túi bụi, gọi ông là kẻ nịnh bợ nịnh bợ Stalin và lên án ông khi Stalin chặt đầu và lưu đầy nhà văn, Erenburg phát biểu ủng hộ chính sách Stalin trong quan hệ với văn nghệ sỹ. Erenburg rất bực tức. Tôi hiểu Serebriakova, một tác giả tài năng của bộ sách 3 quyển về Marx và Ăng-ghen. Bây giờ Serebriakova biến mất khỏi chân trời, từ lâu tôi không nghe tên bà, trên bìa sách thoáng qua không có tên bà. Có thể, tác phẩm của bà có những lời thú nhận và nhìn thấy ánh sáng?
Bây giờ tôi tiếc nhiều người không có mặt tại buổi thảo luận. Khi phê bình Neizvetnyi, thậm chí tôi tỏ thô lỗ, nói rằng ông lấy cho mình cái họ như thế không phải vô cớ. Họ của ông làm tôi tức giận. Trong mọi trường hợp, từ phía tôi thể hiện sự thô lỗ, và nếu như tôi gặp ông bây giờ, thì tôi đề nghị ông tha thứ. Hơn nữa khi đó, tôi giữ chức vụ cao và không kiềm chế, không còn là cuộc trao đổi mà là quát mắng. Evtusenko phát biểu rất hăng, ủng hộ Neizvetnyi. Chủ nghĩa trừu tượng không phải là hướng mới trong văn hoá, nó có từ lâu và cũng từ lâu, một bộ phận trí thức đấu tranh chống xu thế này. Nó đặc biệt phát triển ở nước ngoài, mặc dù cả ở nước ta cũng có những người theo chủ nghĩa trừu tượng và những người khác khuynh hướng vị lai (tương lai). Một người trẻ tuổi theo chủ nghĩa vị lai là Maiakovski đi trong áo len vàng.
Tôi vẫn chưa tán thành trào lưu đó trong văn học, kịch, và điêu khắc. Nhưng tôi không nói gì. Không thể bằng biện pháp hành chính chống lại những gì nảy sinh trong môi trườngvăn nghệ sỹ: kịch, điêu khắc, âm nhạc… Evtusenko khi đó nêu một thí dụ cụ thể chẳng hạn ở Cuba những những người theo trường phái trừu tượng và những người theo trường phái hiện thực phát biểu cùng với nhân dân bảo vệ thành quả cách mạng, chống xâm lược.! Và mặc cho những chứng cứ thông minh của Evtusenko, người ta vẫn phê bình Neizvetnyi rất mạnh. Neizvetnyi sau này nhắn tôi qua cán bộ Agitprov (không phải BCHTƯ Đoàn thanh niên cộng sản) rằng ông chuyển sang quan điểm hiện thực chủ nghĩa. Tất nhiên tôi hài lòng. Thật là Neizvetnyi – một người tài năng. Bây giờ báo chío viết rằng ông sáng tác một loạt tác phẩm tốt. Tôi cũng vui mừng. Chừng mực nào mà phê bình có thể giúp ông? Có thể, chính bản thân ông quay về vị trí hiện thực trong sáng tạo của mình.
Tôi hối hận về cách phê bình Neizvetnyi, theo bản chất, thì tôi và không đồng ý với những người theo chủ nghĩa trừu tượng. Đơn giản là tôi không hiểu, và chống. Tôi theo xu hướng hiện thực chủ nghĩa. Tôi nhớ, khi ở Anh, tôi sống ở nhà nghỉ cuối tuần ngoại ô và bàn bạc với Anton Iden. Ông nhân thể hỏi tôi:
- Ngài Khrusev, Ý kiến của Ngài thế nào về chủ nghĩa trừu tượng và những trào lưu mode khác trong nghệ thuật hiện đại?
Tôi trả lời:
- Tôi không hiểu những thứ đó, thưa ngài Iden. Tôi đứng vững ở vị trí nghệ thuật hiện thực.
- Và tôi cũng không – Iden nói – và cũng ở vị trí hiện thực chủ nghĩa.
Sau đó ông cười và nói thêm:
- Những người cộng sản cộng yêu Picasso, sao nhỉ? Picasso không phải là người theo chủ nghĩa hiện thực.
Tôi nói với ông:
- Đúng, Picasso – hoạ sĩ lớn, tác giả bức tranh nổi tiếng “Chim bồ câu hoà bình”, là biểu tượng đấu tranh cho hoà bình.
Tôi chẳng phê bình mà cũng chẳng bênh Picasso.
Tôi kính trọng Sostakovich. Bây giờ tôi không nhớ, Zdanov đã phê bình cụ thể cái gì trong tác phẩm của ông. Nhưng tôi không thể nói rằng Sostakovich nói chung bị ruồng bỏ thời Stalin. Ông viết nhiều tác phẩm hay, cả trong thời gian chiến tranh, khi ông sáng tác kiệt tác của mình – bản giao hưởng phòng thủ Leningrad. Về công lao, ông có vị trí nổi bật trong số nhạc sĩ và là một trong những nhạc sĩ giỏi của âm nhạc. Thời còn làm lãnh đạo Liên Xô tôi không hiểu Sostakovich tại sao ông ủng hộ nhạc jazzz. Nói thẳng là ông đúng. Không thể đấu tranh với âm nhạc, kể cả jazz bằng biện pháp hành chính. Hãy để chính nhân dân biểu hiện mối quan hệ với nó.
Tôi không phí thời gian phê bình Utesov. Hồi còn trẻ, khi mọi người hát những bài hát của Utesov, thì báo Sự Thật chửi rủa Utesov. Tôi có một người bạn Lev Rimski, một người cộng sản trong trắng. Ông thường hát hát “Bánh mỳ vòng nóng ròn đây”, và kể cho tôi nghe những người bạn của ông làm việc ở xưởng in báo “Sự Thật”, chuẩn bị in những bài báo phê phán Utesov, nhưng chính họ lẩm nhẩm hát trong thời gian những bài hát thịnh hàng. Đây là sự đánh giá của nhân dân! Tôi không phân tích sáng tạo nhiều mặt của Utesov, trong số này có những bài hát “tiếng lóng của bọn du đãng.
Ngược lại, tôi rất hài lòng, lại xuất hiện những đĩa bài hát Utesov trong cửa hàng, mà tôi thường nghe.
Còn cả những thứ khác. Tôi thường tắt radio khi phát bản jazz làm đâu đầu. Không phải là âm nhạc, mà là những tiếng chói tai. Tôi không hiểu những nhạc sĩ người như thế lại thích được nhạc này. Nhưng đây là việc của tôi. Nhưng có người nghe nó, vỗ tay và bốc lên sự thích thú. Tiếp theo, họ thích? Vì thế các áp dụng biện pháp hành chính cho nghệ thuật là không thể. Người phát biểu phải là khán giả. Tôi là người già, được giáo dục theo khuôn mẫu khác nghệ thuật âm nhạc. Tôi thích những bài dân ca, những điệu múa nhân dân, âm nhạc nhân dân. Tất nhiên và cả nhạc cổ điển. Nhưng không phải là jazz. Tôi ở đây tựa như mang sự sám hối, không phải tuyệt đói như thế: mà là thừa nhận những sai lầm của tôi, khi tôi có ủng hộ hoặc cấm trào lưu nghệ thuật nào đấy. Trong thâm tâm tôi bây giờ cũng chống một số trong chúng. Đơn giản tôi nhấn mạnh rằng không đấu tranh như thế với cái mà mình không thích.
Có lúc những cô gái mặc váy ngắn. Sau đó lại xuất hiện váy dài. Mode thay đổi cả trong âm nhạc và còn lại tất cả. Phải có kiên nhẫn với sự thay đổi này. Nhưng có phải họ làm yếu hệ tư tưởng cộng sản? Theo tôi, hoàn toàn không! Ở đây Evtusenko đúng. Chúng tôi từng phê bình Maiakovski, còn Maiakovski để lại cho đất nước những tác phẩm cho đến bây giờ vẫn là vũ khí của ĐCS trong cuộc đấu tranh cho tương lai tốt đẹp. Chẳng hạn, không ai trong số các nhà thơ viết về Lenin truyền cảm hơn ông. Mặc dù Maiakovski theo phong cách thơ của mình đối với tôi rất khó. Khi tôi mang nó ra đọc, thì thơ ông tác động đến tôi không phải khi tôi nghe. Khi ngâm, những vần thơ vang lên nghiêm túc và được thúc giục. Tôi nói điều này để xác nhận Evtusenko nói đúng. Nhưng chính những vần thơ của Evtusenko liệu có làm tôi thích không? Đúng, tôi thích. Vả lại, tôi không thể nói về tất cả những bài thơ của ông mà tôi chưa đọc. Tôi biết rằng một số đã thành lời bài hát. Chẳng hạn, “Người Nga muốn chiến tranh phải không?”.
Một số người phát biểu phê phán lời bài hát này: dường như thơ của Evtusenko nói chung phủ nhận chiến tranh và làm rã đám tinh thần bộ đội. Họ sai. Lời thơ của ông thể hiện bản chất cuộc đấu tranh chống quân sự hoá và cảnh báo nếu buộc chúng tôi phải chiến tranh, thì nước Nga có thể đường hoàng đánh trả. Tôi cho rằng Evtusenko là nhà thơ rất khả năng, mặc dù và tính ông ngang tàng. Và lại sự ngang tàng là khái niệm phụ thuộc vào quan điểm.
Đơn giản là con người ta không phải luôn luôn đặt trong khung, nếm mùi bởi kiểm duyệt, nghĩa là những những người tất cả phải chịu sự thần phục và làm vừa lòng người ta. Nhưng nếu mọi người viết như nhau, dùng những luận cứ như nhau, xuất phát từ cùng một hiểu biết như nhau, thì chẳng bao giờ sinh ra nghê thuậtcả. Cuối cùng tất cả mọi người chỉ nhai đi nhai lại một thứ. Các tác phẩm như thế chỉ làm cho người đọc nôn mửa. Nhất định phải dũng cảm hơn tạo ra điều kiện cho văn nghệ sỹ phát biểu, hành động, sáng tác. Hãy sáng tác!
____________
Trích theo Việt Nam thư quán

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trước tác động của Tố Hữu và bộ máy, tâm lý nghề nghiệp ở nhà văn thời nay đã thay đổi

VƯƠNG TRÍ NHÀN blog 30.10.13

Những bài lý luận mà Tố Hữu viết hay giảng ở các hội nghị văn nghệ thường dài dòng và nhạt nhẽo.
Nhưng với các tư tưởng văn nghệ hết sức đơn giản xúc tích của mình, ông lại có sự tận tâm đáng kính phục, nhờ thế đã đạt được hiệu quả mong muốn.
Nói cho đúng thì đó không phải là những tư tưởng mà chỉ là những định hướng tâm lý, những phương cách ông áp dụng trong chỉ đạo, để nắm phần hồn của giới văn nghệ.

Như chúng tôi đã trình bày trong bài Công việc viết văn nhìn dưới góc độ nghề nghiệp, có thể tạm tóm tắt cái cách Tố Hữu đã làm ở đây là:
-- Giải phóng người viết khỏi các quan niệm cũ. Không coi viết văn là chuyện nghề nghiệp nghiêm chỉnh. Kích động phần bản năng vốn có của mỗi người, hướng tất cả nghị lực vào việc rút ruột bản thân, mài mãi cái phần năng khiếu ra để tồn tại.
Từ chỗ hữu chiêu, nghề văn giờ đây trở thành một thứ vô chiêu.
-- Luôn luôn thổi vào tai nhà văn niềm tự tin và bất cần. Không cần văn hóa sách vở, không cần bản lĩnh trí thức, chỉ cần là người chiến sĩ có tinh thần phục vụ, tuân thủ sự lãnh đạo của trên, làm theo những bài bản tối thiểu là đủ.
--  Sau khi biến người viết văn thành một thứ cán bộ làm theo chỉ thị mệnh lệnh, đẩy họ vào con đường quan liêu hóa, tranh giành quyền chức giải thưởng. Ban phát cho họ đủ thứ vinh quang hão hiền, để họ mê mẩn đi theo con đường đã được dắt dẫn.
Điều này tác động vào toàn bộ iới viết văn, nhất là lớp người mới bắt đầu cầm bút.
Riêng đối với lớp người đã có sự định hình từ trước 1945, tức văn nghệ tiền chiến, thì cách làm của Tố Hữu tinh vi và sâu sắc hơn.
-- Bằng phương pháp tự tố khổ tự chỉnh huấn nhen nhóm ở họ mặc cảm có tội: mình có lỗi với quốc gia dân tộc; mình sống quá xa lạ với nhân dân.
-- Đưa ra những chuẩn mực mới buộc họ phải nhìn nhận những thành tựu cũ như là đáng từ bỏ và cả con người cũ là đáng lên án.
-- Đồng thời với việc đánh gục tiếng tăm uy thế mà họ vốn có, đưa họ vào môi trường mới, làm theo những chuẩn mực mới. Bên cạnh một số thành tựu không phải là không giá trị, phần nhiều những sáng tác của họ giờ đây sút kém. Nhưng họ vẫn được dành những khích lệ tối đa, khiến nhiều người vô tình trở nên những con rối đắt giá.
Vậy là, trước áp lực quá mạnh mẽ, những người bắt đầu cầm bút từ trước 1945 -- vốn rất yếu ớt -- phần lớn đã chọn con đường chấp nhận.
Ở một số có sức sống hơn thì xảy ra tình trạng phân thân, sống một đằng viết một nẻo, tức là thích nghi  một cách tiêu cực trước hoàn cảnh.
Đây là một khía cạnh của sự tha hóa, nó là định hướng tâm lý thường thấy của giới trí thức trong hoàn cảnh xã hội có những đột biến mà trong nhận thức họ không tìm được lối thoát thích đáng .
Tôi hy vọng một dịp khác sẽ có thể dừng lại phân tích tác động này của Tố Hữu tới sự hình thành và phát triển  đào tạo lực lượng văn nghệ sau 1945.
Sau đây là một bài viết cũ trong đó tôi đã sơ bộiêu tả định hướng tâm lý này ở các  văn nghệ sĩ, chủ yếu là ở các nhà văn lớp trước.
Bài viết có tên là Mặc cảm tha hóa phân thân trong tâm lý người cầm bút, in lần đầu trong tạp chí Cửa Việt của Hoàng Phủ Ngọc Tường năm 1991, sau đó đã in lại trong Những kiếp hoa dại 1993.
                                                I
Trong một lá thư viết năm 1988 mà nhiều người được đọc, Chế Lan Viên phản đối tính dự báo của văn học. Đại ý ông bảo nếu căn cứ vào sáng tác trước 1945 thì không ai nghĩ Cách mạng tháng Tám có thể nổ ra. Vậy mà đã có cách mạng. Cái sự kiện có thực ấy đã bác bỏ tất cả.
Tôi nghĩ rằng lúc này đây, vấn đề tính dự báo của văn học không còn là chuyện phải bàn cãi - đã có hàng loạt trường hợp khác minh chứng cho nó. Nhưng nhận xét của Chế Lan Viên vẫn hết sức thú vị ở chỗ nó gợi ý chúng ta nghĩ sang một hướng khác.
Đúng là cuộc Cách mạng của chúng ta là một cuộc cách mạng kỳ lạ.
Tính trong văn học công khai thì gần như không có một dấu hiệu nào dự báo là nó sẽ tới.
Ở một ngòi bút năng động, nhạy cảm như Vũ Trọng Phụng, cách mạng chỉ được biểu hiện qua hình ảnh ông già Hải Vân, một người mà hành tung có quá nhiều chỗ ám muội và thiếu hẳn cái đàng hoàng của người làm việc chính nghĩa.
Tiếp theo Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan định viết Bước đường ngoặt,Bước đường sáng. Nhưng đấy là ý định. Hơn nữa, sau Cách mạng, khi một phần ý định ấy được thực hiện- chúng tôi muốn nói tới các tiểu thuyết Tranh tối tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư - thì cũng không ai nghĩ là tác giả hiểu cách mạng cả.
Trước 1945, Nam Cao, Tô Hoài là những nhà văn đã có chân trong Văn hoá cứu quốc. Phần công dân của các ông, như thế đã rõ. Nhưng còn về sáng tác, thì người nghệ sĩ trong các ông chín chắn hơn mà cũng là… chậm thức tỉnh hơn. 
Đọc các truyện loài vật Tô Hoài tập hợp trong O chuột, người ta thấy cuộc sống có vận động, nhưng chỉ là vận động để đến với già nua, nhạt nhẽo, trống rỗng.
Còn trong nhiều thiên truyện của Nam Cao, người ta bắt gặp tình trạng tiến thoái lưỡng nan (dilemme): con người hoặc là cam chịu sống mòn, hoặc là trở thành thoái hoá, kỳ dị, khi muốn thay đổi.
Rút lại về căn bản, trước Cách mạng 8-1945, cuộc sống được phản ánh là một cái gì lặp đi lặp lại, ngưng đọng, đẹp ngay trong sự ngưng đọng ấy, như trong thiên truyện của Thạch Lam mà chúng tôi nghĩ là một gợi ý tốt để hiểu thế nào là chủ nghĩa hiện thực: truyện Hai đứa trẻ.
Ấy vậy mà Cách mạng vẫn cứ xảy ra.
Và khi đã xảy ra, thì "như một lưỡi cày khổng lồ" ( chữ của Nguyễn Đình Thi), xốc lại tất cả, lật tung tất cả, bất kể người ta có dự báo trước hay không.
Vốn là những người có lòng yêu nước, việc phần lớn các nhà văn thế hệ tiền chiến trước sau đều đứng về phía cách mạng, là chuyện tất nhiên.
Nhưng cũng rất dễ hiểu, nếu nói rằng, với tư cách những người hết sức nhạy cảm, lại cũng nhanh chóng nảy sinh trong lòng họ một tình cảm mới: cảm thấy mình có lỗi, mình đã không đến với cách mạng từ chỗ còn trong bóng tối; do đó mình có vẻ "ăn theo", thậm chí đứng trên lập trường mới mà suy xét, thì lúc bấy giờ, sáng tác của mình có hại cho cách mạng nữa.
Đi với dòng đời (tên một bài thơ của Xuân Diệu), mà họ cứ canh cánh bên lòng.
Động có việc gì xảy ra (mà trong cách mạng thì thiếu gì việc xảy ra), là họ lấy mình ra xỉ vả.
Có thể nói, đấy là một thứ chủ đề chủ đạo quán xuyến trong tâm lý hàng loạt người, từ những người lặng lẽ, nín nhịn như Nam Cao, đến những người sôi nổi, dễ bốc dễ say, như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu.
Cái gì đã chi phối việc Hoài Thanh đến chết cũng không dám nhận đứa con yêuThi nhân Việt Nam 1932-1941, nếu không phải là cái mặc cảm tội lỗi này?
Còn Chế Lan Viên, một lần bắt gặp cảm giác ấy là ông không bao giờ quên nổi nữa; ông sẵn sàng khai thác nó đến cùng; trong thơ, trong tiểu luận, bất cứ dịp nào nhắc tới nó là ông nhắc bằng được.
- Tôi ở đâu? Đi đâu? Tôi đã làm gì
Đời thấp thoáng sau những trang sách Phật
Đất nước đau dưới gót bầy ngựa Nhật
Lạc giữa sao trời, tôi vẫn còn mê

- Tôi như con sông Thương
Chảy lòng mình thương nhớ
Đánh đắm cả thuyền mình
Trong cuộc đời tại chỗ
Như tờ lịch mỏi mòn
Thời gian đến lấp bùn.
Những dòng thơ giống như lời tự đay nghiến, nó cũng là nỗi hối hận về những lỗi lầm không gì tự biện hộ nổi.
Chúng ta thường nghe nói tới cái hoang tưởng của những người có công, họ gán cho mình quá nhiều thành tích, tưởng thiếu mình là thiên hạ chết hết, họ tha hồ phóng to công lao của mình lên, cuộc phiêu lưu cứ thế không biết đâu là cùng.
Nhưng hoá ra, nỗi hoang tưởng về tội lỗi của chính mình cũng có đường biên dao động gần như vô tận, mà trường hợp Chế Lan Viên ở đây là một thí dụ.
Nếu ở Xuân Diệu, nhiều lúc ta còn thấy lời tự xỉ vả chỉ được nói ra một cách ngượng nghịu, hình như cực chẳng đã nên phải làm vậy, thậm chí có lúc tính chuyện cãi lại (như khi bàn về Thơ mới, Xuân Diệu đã cãi lại), thì ở Chế Lan Viên lối nghĩ mới thật dứt khoát, các mệnh đề chỉ có một nghĩa và không thể hiểu sang nghĩa khác.
"Cách mạng làm tôi vui mà làm tôi hơi áy náy: mình đã làm gì để được hưởng cái vui này? Ngỡ như mình dự một bữa tiệc mà không phải tốn công xuống bếp".
"Chúng tôi vào cách mạng là người cách mạng rồi, nhưng không ngớt làm phiền cho cách mạng".
"Hình như một tên ăn trộm dễ cải tạo hơn một người thần bí!".
Từ những nhận định kiểu ấy của Chế Lan Viên, người ta chỉ có thể nghĩ: phải nói văn nghệ có một cái tội tổ tông truyền là xa rời cách mạng. Cả nước thì tiến lên mà người làm văn nghệ thì dừng lại.
Có người sẽ bảo rằng chẳng qua đấy là một cách nói của Chế Lan Viên, ông quen tuyệt đối hoá vấn đề, nói đến cùng, nói cho thật cạn kiệt!
Có điều, mấy chục năm qua, loại ý kiến ấy tự do trình bày, không có ai nói lại lấy nửa lời.
Và những mặc cảm kiểu ấy cứ tha hồ lây truyền từ người nọ sang người kia, từ lớp nhà văn này đến lớp nhà văn khác, như một mạch nghĩ chủ đạo.
Hồi chống Pháp, một lớp nhà văn hình thành. Vũ Tú Nam và Mạc Phi, Hồ Phương và Hữu Mai, Nguyễn Khải và Nguyên Ngọc…
Tiếp đó là các nhà văn lớp chống Mỹ: Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Ngọc Tú, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Thanh Thảo…
Ngay từ lúc mới viết văn, họ đã hiểu rằng họ là con đẻ của cách mạng.
Không một dòng chữ nào của họ được in ra trong xã hội cũ.
Nhưng mặc cảm tội lỗi, hay suy rộng hơn, mặc cảm về sự kém cỏi của mình, cái đó vẫn cứ như một thứ tình cảm bẩm sinh, không cần tìm mà tự nó đến và nếu không nói ra thì cũng chưa bao giờ họ phủ nhận. Lối biểu hiện của mặc cảm lúc này cũng khá đa dạng.
Ở Nguyễn Khải, đấy là cái dứt khoát muốn đoạn tuyệt với khái niệm nhà văn kiểu cũ, do đó, khái niệm nhà văn nói chung. Trong một bài viết mang trên Con đường dẫn tôi đến nghề văn (1963), Nguyễn Khải nói thẳng ra rằng không thích ai gọi mình là nhà văn, chỉ thích được gọi là người làm công tác văn học (đại khái là một loại cán bộ, mà cán bộ vốn được quan niệm thế nào, chúng ta đều đã biết).  
Ở Vũ Thị Thường, nó là ý thức về sự non kém của mình trước những con người gọi là nhân vật tích cực của thời đại. Trong một bài viết, in trên báo Nhân dân 10-8-1975, Vũ Thị Thường viết:
"Ở những xứ sở khác, nhà văn có thể cao hơn nhân vật của anh ta… nhưng ở đây, trên đất nước này, những nhân vật có thật ở ngoài đời lại thường cao hơn người viết (...). Những con người như thế, khi miêu tả về họ, chính là người viết đã phải nâng mình lên, để cố gắng ngang tầm nhân vật".
Nhiều ý nghĩ tương tự như ý nghĩ trên đây của Vũ Thị Thường đã là điều được người cầm bút viết ra, trong các bài tiểu luận và cả trong sáng tác.
Hồi đầu chiến tranh chống Mỹ, khi nhà thơ Xuân Quỳnh viết trong một bài thơ rằng không muốn làm thơ nữa, mà chỉ muốn cầm khẩu súng ra chiến trường, thì chị cũng đã nghĩ trên cái mạch chung mọi người vẫn nghĩ.
      Ở ta không có thói quen lấy người viết văn làm nhân vật chính trong các tiểu thuyết. Nhưng trong một số truyện ngắn, họ cũng đã được nói tới (chẳng hạn, tôi nhớ mấy truờng hợp in ra từ hơn chục năm về trước, trong các tập truyện ngắnTrang 17 của Nhật Tuấn, Mùa hạ cuối cùng của Lưu Quang Vũ). Bấy giờ họ thường hiện ra như những kẻ lười biếng, ích kỷ, vô trách nhiệm với vợ con, mà về chuyên môn thì, ngoài một chút tài hoa, chẳng có điều gì để nói. Tâm lý thích kể xấu giới mình, các đồng nghiệp của mình, chẳng qua cũng là một biến tướng của cái mặc cảm tội lỗi được truyền lại từ các lớp người trước!
                                          II
Có những chữ mà chỉ cần đọc lên là người ta lập tức hình dung ra cung cách sinh hoạt một thời. Một trong những chữ đó, từ khoảng 1985 về trước, vốn rất quen, là đi thực tế.
Đại khái đó là những dịp các nhà văn tổ chức thành từng đoàn đến thâm nhập cơ sở, cùng sinh hoạt và làm việc tại một đơn vị bộ đội, một nhà máy hay một hợp tác xã nào đó; một thời gian sau họ có ngay sáng tác về cái cơ sở mà họ cùng sinh hoạt đó.
Công bằng mà nói những chuyến đi đó có cái phía bổ ích của chúng.
Để ép những cây bút lười biếng, thiếu nghị lực phải làm việc, và để có được những tác phẩm thuộc loại trung bình, đọc được, bám sát ngay được vào một chủ trương cụ thể nào đó, thì phải nói đó là những biện pháp hiệu nghiệm, rất hiệu nghiệm nữa.
Thế nhưng, đáng lẽ chỉ nên coi đó là một động tác nghề nghiệp, cùng lắm, là những hoạt động có tính cách biểu dương lực lượng về mặt chính trị của cả giới, thì nhiều khi chúng ta lại tuyệt đối hoá ý nghĩa công việc, coi đi thực tế là cái chìa khoá vạn năng mở ra mọi thành tựu sáng tác. 
Trong một bài phỏng vấn, nhà văn Nguyễn Tuân kể rất hay về cái vai trò Tổng Thư ký Hội văn nghệ Việt Nam mà ông đảm nhiệm, hồi chống Pháp:
- Việc chủ yếu của ông Tổng Thư ký là hành quân theo bộ đội hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, đi vào vùng địch hậu với dân quân du kích, đi tuyên truyền chính sách thuế nông nghiệp, đi tham gia phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất.
Tại sao đi thực tế lại trở thành "việc chủ yếu của ông Tổng Thư ký" như vậy? Ở  đây, có nhu cầu của cuộc kháng chiến lúc ấy: cần động viên bộ đội. 
Lại có vai trò của một nhận thức máy móc, hiểu sáng tác như một cái gì trực tiếp nảy ra từ thực tế, vậy, theo công thức "gà đẻ trứng vàng", có đi thì mới có viết.
Nhưng vượt lên trên những lý do cụ thể đó, câu chuyện động viên nhau "đi" còn có ý nghĩa khác: khi tự nguyện đi theo thực tế, đi ồ ạt, ầm ĩ, vừa đi vừa kêu lên cho cả xã hội biết, tức các nhà văn muốn khẳng định mình vốn xa thực tế, và nay đã hiểu rằng đấy là điều không thể tha thứ nổi.
Khi công khai tuyên bố là phải tìm cái đẹp, cái tốt, ở người công nhân, ở người chiến sĩ, có ý nghĩa là người viết văn cảm thấy mình và những người quanh mình hàng ngày sống phù phiếm, vớ vẩn, phải nhờ quần chúng tẩy rửa, thanh lọc để tâm hồn trong trẻo, sạch sẽ hơn. Đi thực tế, do đó, là một cách để từ bỏ tội lỗi, như trên vừa nói.
Hình như đã linh cảm đến điều ấy, cho nên hoạ sĩ Tô Ngọc Vân từ năm 1948 đã viết trên tạp chí Văn nghệ (loại in bằng giấy dó, ra ở Việt  Bắc).
Cái hư truyền rằng nghệ sĩ sống xa quần chúng, một người nói đi, hai người nhắc lại, đã hầu thành một tục truyền, đến nỗi người ta không thể nào nghĩ khác được Người ta có hiểu chăng: trong xã hội loài người, kẻ nào sống gần đại chúng hơn, ấy là bọn nghệ sĩ. Người nghệ sĩ Việt Nam biết và hiểu Việt Bắc trước kháng chiến từ lâu.
Phải nói ngay rằng khi viết đoạn văn đó, Tô Ngọc Vân không hề có ý muốn tránh việc đi thực tế.
Trong kháng chiến, ông cũng đã đi rất nhiều. Bản thân cái chết của ông trên đường đến Điện Biên Phủ đã chứng minh cho điều đó.
Cái mà Tô Ngọc Vân muốn cãi lại chỉ là cái ý nghĩa người ta muốn gán cho việc "đi" ấy.
Có điều trong không khí cuồng nhiệt đương thời và lối nghĩ một chiều những năm về sau, ý kiến của Tô Ngọc Vân lọt thỏm đi không một tiếng vang.
Từ hoà bình lập lại (1954), qua cuộc chống Mỹ, đi thực tế tiếp tục được giải thích như một sự nghiệp có ý nghĩa xã hội lớn lao mà không phải là một động tác nghề nghiệp đơn thuần. Bởi thế mới có chuyện không chỉ các văn nghệ sĩ sống quá sung sướng trước đây cần đi thực tế, mà các cây bút vừa chân ướt chân ráo chuyển từ cơ sở lên các cơ quan sáng tác cũng lo đi thực tế, coi một ngày mình xa thực tế là một ngày hỏng.
Mặc cảm tội lỗi đã trở thành mã di truyền, dù ở những thế hệ sau không có những người bảo vệ và thuyết lý cho nó đầy sức thuyết phục như Chế Lan Viên từng làm với thế hệ tiền chiến.
Dẫu sao, đi thực tế vẫn chỉ là chặng đường đầu tiên. Quyết tâm vượt qua tội lỗi còn phải đuợc thể hiện đầy đủ khi nguời nghệ sĩ ngồi trước bàn sáng tác định huớng cho mình từ nội dung viết (tỉ lệ tiêu cực - tích cực, màu đen và màu hồng, mức độ lạc quan tin tưởng ở cuối tác phẩm), cho tới cách viết.
Về mặt này, những băn khoăn mà Nam Cao từng ghi lại trong nhật ký Ở rừng, có ý nghĩa tiêu biểu. Gần như lúc nào Nam Cao cũng sợ rằng mình xa quần chúng quá, những cái mình đã viết ra, quần chúng không hiểu. Trong một bài viết mang tên Sáng tác kịp thời để đẩy mạnh tổng động viên, in trên Văn Nghệ số 5-1950, cũng Nam Cao viết:
Phải thừa nhận rằng những sáng tạo của chúng ta vẫn chưa thật gần gũi với nhân dân. Một phần vì chúng ta chưa đủ thì giờ để hiểu rõ đối tượng. Nhưng một phần nữa cũng vì chúng ta không thực tâm cố gắng trong khi sáng tác, chúng ta vẫn chiều theo ý riêng, tình cảm riêng của chúng ta, chúng ta vẫn sáng tác cho ta (). Những thứ "truyện không có truyện" tả dài dòng, phân tích theo lối chẻ sợi tóc làm tư, làm sốt ruột công nông, bởi họ là những người hành động chiến đấu thiết thực, chứ không phải là những người chỉ toàn nghĩ lơ mơ, nghĩ viển vông, nghĩ không đâu, nghĩ để chẳng để làm gì cả.
Đây là việc mọi người bàn nhau ở Việt Bắc. Còn ở Khu Năm? Trong một bài viết mang tên Sống còn, đăng ở báo Văn nghệ số 3-12-1993, nhà văn Nguyễn Thành Long nhớ lại việc rèn luyện ngòi bút của mình hồi kháng chiến chống Pháp, với niềm tự hào kín đáo:
Thật là nhọc, nhưng cũng thấy là kỳ công thật, việc chúng tôi, ví dụ, đã rèn luyện bằng cách nhặt những câu chuyện ở địa phương, kể lại bằng miệng, nhìn nét mặt người nghe, xem phản ứng thế nào với từng câu văn. Và, về nhà viết lại để đăng trên báo. Nhưng cốt truyện ngắn không quá một cột.
Sẽ là không đúng sự thật nếu bảo rằng mấy chục năm qua, văn xuôi ta cứ giẫm chân tại chỗ một kiểu như Nam Cao và Nguyễn Thành Long đã nói.
Trong những căn phòng của mình ở Hà Nội sau 1954 và ở thành phố Hồ Chí Minh sau 1975, cuộc sống của nhiều người viết văn đã thay đổi, cách viết của họ cũng thay đổi.
Nhưng cũng sẽ là sai lầm, nếu như nhắm mắt trước một thực tế rằng cái tinh thần mà Nam Cao, Nguyễn Thành Long nói ở trên vẫn là tinh thần chính quán xuyến trong văn học.
Trong thế đối lập giữa "ta" (người viết) và "họ" (người đọc), "ta" phải hy sinh cho "họ". Có thể theo "họ" mà lên. Nhưng nhất thiết không được vượt trước "họ".
Nó cũng là cái tinh thần ngự trị ở văn học Xô-viết mà A. Gide mô tả trong cuốnĐi Liên Xô về: "Ngày nay nghệ thuật phải là bình dân, hoặc không phải là nghệ thuật".
(Thời Stalin, cuốn sách của Gide được coi như vu cáo, bôi đen xã hội Xô- viết, nay được dịch ra ở khắp nơi kể cả ở Liên Xô thời “tan băng”, và được xem như là một lời tiên tri xác đáng.)
Ý thức chủ đạo là như vậy. Thành thử những thể nghiệm nếu có chỉ là chuyện dấm dúi, mò mẫm của từng người. Trong hơn bốn chục năm qua, ở ta, các vấn đề nghề nghiệp của người viết văn vẫn thường không được mang ra thảo luận một cách nghiêm chỉnh.
Mặc dù trên lý thuyết, ai cũng bảo nội dung và hình thức đều quan trọng, -- nhưng trong thực tế của giới sáng tác thì vẫn có sự tách rời nội dung và hình thức một cách thật hồn nhiên, để rồi, cái được chú ý hơn hẳn là phần nội dung thiển cận và vụ lợi của tác phẩm.
Sáng tác trở thành một cuộc săn đuổi tuyệt vọng: đuổi theo cuộc đời. Dĩ nhiên không bao giờ nó đuổi kịp. Bao giờ nó cũng thấy mình lạc hậu. Mặc cảm tội lỗi trong từng nghệ sĩ do đó lại thêm một bước củng cố vững chắc.
                                          III
Ở nước nào cũng vậy, một dấu hiệu chứng tỏ xã hội trưởng thành là sự phân công lao động được thúc đẩy mạnh mẽ, đi kèm với nó là sự hình thành tầng lớp trí thức chuyên làm công việc sáng tạo.
Của cải mà lớp trí thức này giao nộp cho xã hội là những giá trị tinh thần với tất cả sự phong phú đa nghĩa của hai chữ tinh thần. 
Trong khi có vẻ sống xa nhân dân thì những gì tốt đẹp mà họ làm ra lại gắn liền với nhân dân. A. P. Tchékhov còn nói trí thức, đó là lương tâm của nhân dân nữa.
Trong số những thành phần làm nên giới trí thức, dĩ nhiên có các văn nghệ sĩ.
Dù là ở nước Việt Nam thuộc địa trước 1945, trí thức nói chung bị đào tạo theo lối thực dụng, riêng các nhà văn nhiều người lại xuất thân từ tầng lớp dân nghèo, bản lĩnh trí thức chưa được bồi đắp vững chãi, nhưng ở họ vẫn thường âm thầm một niềm kiêu hãnh chính đáng: họ là những người lao động trong sạch.
Trong khi vật lộn với trường đời để kiểm miếng cơm manh áo nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời họ còn làm được cái việc đáng kể là nói lên nỗi khổ của nhân dân. Mà ý nghĩa sáng tạo trong công việc của họ thì trước sau còn đó, không gì đánh tráo được.
Thành thử, cái mảnh đất đẻ cho mặc cảm tội lỗi nói trên phát triển, suy cho cùng là rất bé nhỏ.
Huống chi, trong thực tế đời sống từ sau 1945 đến nay, vai trò văn nghệ sĩ vẫn có cái phần quan trọng khiến người tỉnh táo không thể không nghĩ tới chuyện sử dụng.
Để chứng minh rằng cách mạng là sự nghiệp chính nghĩa và tất yếu phải xảy ra, các tài liệu chính thức vẫn viện dẫn rằng cách mạng đã lôi cuốn được những kiện tướng xuất sắc của văn học cũ vào hàng ngũ của mình. Dưới hình thức những đặc ân đã có nhiều sự đền đáp không phải là không đáng kể.
Trước các đặc ân ấy, những Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển, Tô Hoài, Nguyễn Xuân Sanh… sớm nhận ra ngay và không bao giờ quên khai thác đến cùng. 
Còn đối với thế hệ đến sau, từ Nguyễn Khải, Hữu Mai, Hồ Phương… cho tới Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật… những vinh quang mà tác phẩm mang lại rõ ràng không phải là nhỏ.
Giống như phụ nữ, không cần kêu to lên, nhưng họ đều hiểu giá trị của mình, hiểu rằng   với cách mạng và chỉ với cách mạng, ngòi bút của mình mới là một thứ tài sản vô giá.
Niềm tự hào đến với từng người hàng ngày, hàng giờ. Niềm tự hào cụ thể như là sờ mó thấy, nó luôn luôn thì thào vào tai người ta rằng thật ra chỉ nó là có thực, chỉ nó mới quan trọng.
Thế thì tại sao người ta vẫn cứ tha thiết tự nhận rằng mình xa thực tế, chưa phản ánh hết cái tốt đẹp của thực tế, vẫn bằng mọi cách kể lể về các tội lỗi của mình, và vẫn ép mình làm đủ việc, sẵn sàng định hướng cả nghề nghiệp mình vào việc giải tội?
Ở đây trong lúc chưa thể cắt nghĩa đầy đủ, chúng tôi chỉ có thể đưa ra một số giả định về một quá trình tâm lý đã hình thành ở trong người viết văn.
Đúng  là chúng ta đã có một cuộc cách mạng kỳ lạ, một cuộc cách mạng vượt ngoài mọi dự báo. Cuộc cách mạng đó cộng với sự nghiệp đánh giặc cứu nước mấy chục năm tiếp theo, đòi hỏi một sự động viên lực lượng thật lớn.
Trước cuộc biểu dương lực lượng quần chúng kỳ vĩ như vậy, ở người nghệ sĩ dễ nảy sinh cái tâm lý thấy mình quá bé bỏng, và quan trọng hơn, thấy mình quá phiền nhiễu, do đó, như là vô tích sự. 
Trước những người dân thường, công nhân, nông dân, cảm giác ban đầu về sự có lỗi của mình là một điều hoàn toàn có thể thông cảm.
Nhưng ngày một ngày hai, mỗi ngày một tí, mỗi người một tí, không ai bảo ai cái tâm lý có thực ấy đã bị tố lên, lại bị kéo quá dài, và đã xảy ra một tình trạng mâu thuẫn. Lúc bấy giờ, trong những người viết văn nảy sinh hai kiểu định hướng tâm lý khá rõ.
Loại thứ nhất, nói một đằng, nghĩ một nẻo, mà không tự biết.
Như  Freud từng lưu ý, quá trình tâm lý ở mỗi cá nhân là một quá trình phức tạp. Người ta không phải bao giờ cũng làm chủ được đời sống nội tâm. Trong một người thường vẫn có những xu thế mâu thuẫn nhau cùng tồn tại, mà người ta không ý thức nổi. Trong khi tiền hậu bất nhất rõ rệt, người ta vẫn tin là mình thành thực, và sự biến hình lặng lẽ xảy ra, một sự biến hình ngoài ý thức.
Trong thực tế, đây là một quá trình có thật đã đến với một số rất đông những người cầm bút: lúc nghe bảo rằng mình có cái tội là xa nhân dân, thì họ rưng rưng cảm động và tin rằng mình xa nhân dân thật. Họ thành tâm muốn sửa chữa.
Trong khi đó thì ở cõi vô thức của người trí thức, vẫn còn nguyên nỗi tự hào chính đáng.
Cả hai yếu tố đó "tồn tại hoà bình" bên cạnh nhau, tuỳ lúc mà mặt nọ hay mặt kia nổi lên, chi phối hành động và suy nghĩ của người cầm bút.
Nếu sự phân thân ở loại người nói trên là ngây thơ, vô ý thức, thì ở loại người thứ hai lại là cố tình, hoàn toàn có ý thức.
Họ không lơ mơ bao giờ hết. Là những người tỉnh táo làm chủ bản thân, chắc chắn họ nhận ra rằng ở mình có mâu thuẫn. Cả cảm giác về tội lỗi lấn niềm tự hào đều được đưa  lên bình diện ý thức. Theo thói quen, họ vẫn nói rằng người viết văn là xa nhân dân, là phải tích cực cải tạo.
Mặt khác trong công việc hàng ngày của mình, họ lại thấy ngay là không phải vậy.
Họ cố ý nói một đằng nghĩ một nẻo, để rồi lúc một mình đối diện với mình, lặng lẽ cười khẩy: Ai khôn hơn mình nào? Ai sống sướng hơn mình nào?
Sự phân thân cố ý chỉ xảy ra ở một số ít nhà văn. Lại nữa, có khi lúc này có ý thức, lúc khác người ta cũng ngây thơ vô ý thức như các đồng nghiệp. 
Nhưng bảo rằng tuyệt đối không ai làm việc này có ý thức thì không đúng.
Có, vẫn có loại người hành động theo sự dẫn dắt của ma quỷ như vậy, và, do kéo dài, nó sẽ là căn bệnh làm cho nhân cách người viết thối rữa tự bên trong, không sao cứu vãn nổi.
Dù có ý thức hay không, những sự phân thân nói trên chính là sự biến đổi theo hướng xấu, một sự làm hỏng, làm biến dạng con người. Khiến họ dần dần đánh mất bản chất của mình.
Trong thực tế đời sống mấy chục năm qua, sự tha hoá của người viết văn được biểu hiện ra thành thiên hình vạn trạng, ở mỗi thế hệ, mỗi lứa tuổi, trong mỗi thời kỳ lịch sử, lại bộc lộ ra một kiểu.
Có người luôn luôn sống trong tâm lý giằng xé hối hận, vừa sống vừa thấy bức xúc không yên, có khi đã bắt tay vào việc rồi, lại không viết tiếp nữa, không sao đủ sức kết thúc tác phẩm như đã dự định.
Có người có ý thức tổ chức cuộc sống viết văn của mình theo kiểu hai manghai mặt, họ cũng thích được tiếng là sắc sảo và thực tế cũng sắc sảo thật, nhưng sau những sáng tác có vẻ đặt vấn đề kiểu đó, lại tung ra những bài phát biểu nhũn như chi chi, xuê xoa dư luận, cốt để khỏi bị lên án và yên thân tiếp tục lối viết sắc sảo của mình.
Nhưng đó còn là những "ca" sang trọng!
Một số khác láu cá hơn mà cũng là thực dụng hơn, cứ nói theo thời thượng, rồi ra sức viết, viết thật nhiều, viết lấy được, chỉ cốt dư luận khen và những người có chức quyền khen, lấy sự khen tụng đó để doạ mọi người, coi là mình đã làm lợi cho cách mạng, còn trong thực tế, sáng tác có công thức, sơ lược, xa lạ với sự thực và đời sống nhân dân chăng nữa, họ cũng chẳng mảy may xúc động.
Khi mang mặc cảm phạm tội, cố nhiên số đông người viết văn lo viết cho quần chúng dễ hiểu, chẳng bận tâm đi vào những tìm tòi nghiêm túc về nghề nghiệp làm gì.
Nhưng trong hoàn cảnh phân thân, đôi khi người ta lại lặng lẽ phiêu lưu, âm thầm sa vào một thứ chủ nghĩa hình thức kỳ quái, tìm chữ lạ, đặt câu tuỳ tiện, tự coi như vậy mới là văn chương thật hạt. Đó là một biến chứng hiếm hoi của chủ nghĩa hình thức: chủ nghĩa hình thức ở dạng cùng khốn của nó.
Trong một cuốn tiểu thuyết mang tên Mặt lạ, nhà văn hiện đại Nhật Bản Kobo Abe có nói tới một mô-típ biến hoá điển hình trong xã hội hiện đại: sau khi bị mắc tai nạn, để khỏi trở thành kỳ quái, một nhà khoa học phải thường xuyên mang một mặt nạ để sống.
Lâu dần, cái mặt nạ đó không gỡ ra nổi, nó mặc nhiên trở thành khuôn mặt thật của người ấy.
Từ chỗ là một phương tiện bảo vệ cho người ta khỏi thế giới bên ngoài, mặt nạ trở thành một sự ràng buộc đối với nhân vật.
Cá nhân ông ta nhân đôi.
Trong thế thất bại, nhà khoa học đành tự an ủi rằng sự mất mặt không phải là bi kịch của riêng mình, mà là của nhiều người khác.
Mặt nạ ở đây tượng trưng cho sự thích ứng của con người với thế giới và sự đối phó lại của con người trước những thế lực xa lạ nhưng có sức ràng buộc cá nhân một cách nghiệt ngã.
Từ tấn kịch mà K. Abe miêu tả trong cuốn tiểu thuyết trên, chúng ta có thể tiếp tục suy nghĩ về sự tha hoá nói chung và ở mức độ nào đó tâm thế của người viết văn nói riêng: phải chăng nhiều người trong chúng ta ở dạng này hay dạng khác cũng đã rơi vào tấn kịch tương tự mà ta không biết?
Một xu thế phát triển của các nhà văn ở ta là  xu thế quan liêu hoá, với tất cả sự phổ biến rộng rãi và mức độ nặng nề của nó. Quan liêu hoá cũng là một dấu hiệu của bệnh tha hoá. Dù ban đầu hình như xuất phát từ một mục đích tốt đẹp (cần đoàn kết nhau lại trong một tổ chức để cùng làm việc), song nó vẫn dẫn tới một kết cục có hại. Quan liêu hoá sự thật đối nghịch với sự sáng tạo như nước với lửa và cũng là nhân tố phá hoại bản chất cao đẹp của nghề viết văn.

                                           IV
Có một nét tâm lý có thật người ta thường quan sát thấy ở nhiều nghệ sĩ, nhiều người cầm bút trong những năm đất nước khó khăn: đó là sự ráng chịu. Thôi - họ bảo nhau và tự bảo mình - giữa lúc nước sôi lửa bỏng này, hãy phục vụ cái đã! Mai kia cuộc sống khá hơn, tự do và thoải mái hơn, chắc là mình sẽ viết được! Ôi, mình sẽ viết hay lắm, lúc ấy người ta nghĩ thế.
Tuy đất nước chưa hết khó khăn, song dẫu sao, cái ngày mà người nghệ sĩ mong mỏi, ngày đó hôm nay đã tới.
Trước 1986, nằm mơ cũng không thể nghĩ có lúc Nguyễn Khải lại tự bảo rằng mình viết Tầm nhìn xa là bất nhân và giả dối.
Chế Lan Viên đứng ra viết tựa cho Bích Khê, cho Hàn Mặc Tử.
Chẳng những Vũ Trọng Phụng được in lại toàn bộ, mà những cuốn tiểu thuyết chính của Nhất Linh, Khái Hưng cũng được in lại không thiếu cuốn gì.
Nay thì tất cả những việc đó đã xảy ra!  
Bởi hiểu không bao giờ có tự do tuyệt đối cả, nên chúng ta hết sức vui mừng với chút tự do hôm nay đã có - quả thật, trước đây mấy năm, có ai mong ước hơn đâu!
Ấy vậy mà nhìn vào đời sống sáng tác và nghiên cứu phê bình văn học một vài năm nay, phải nói là sự chuyển biến còn rất ỳ ạch.
Sinh khí có thấy ở khu vực văn chương thương mại, nhưng ở đó cũng chưa bao giờ người ta đạt tới sự làm hàng (hàng = tác phẩm) theo quy trình kỹ thuật hiện đại và đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Ở khu vực văn chương nghiêm túc, tự do chân chính cũng chỉ mới được khai thác hữu hiệu qua một ít thể nghiệm của các cây bút mới vào nghề.
Còn đang thiếu hẳn những tác phẩm dầy dặn của các cây bút chuyên nghiệp. Giá có loay hoay ngồi viết, một số nhà văn (kể cả những người dẫn đầu nền văn học) cũng vẫn chưa đưa ra được những cái như chính người ta và bạn đọc hằng mong muốn.
Có thể giải thích tình hình trên bằng nhiều cách, nhưng theo chúng tôi ở đây có vai trò của cái hiện tượng mà bài viết này thử tìm cách phác hoạ: sự tha hoá.
Ai cũng biết là nếu có sự tha hoá đó, thì những thay đổi muộn màng mà hoàn cảnh mang lại chỉ rất hạn hẹp.
Phải có những cố gắng vượt bực đến mức như là phải sẵn sàng làm lại mình nữa, người ta mới tận dụng được cái không khí tự do vừa được mở ra cho công việc. Nhưng đó cũng là một khía cạnh thú vị của viết văn nói riêng, của những tìm tòi trí thức nói chung chăng?
A. Camus viết:"Chân lý thì luôn bí mật, tránh né, luôn luôn phải được chinh phục. Tự do thì nguy hiểm, làm chật vật nhưng cũng làm phấn khởi sự sống".
Càng sống càng thấy có thể chia sẻ cái cảm giác đó của Camus một cách đầy đủ.

1990

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thử làm báo có lề tý nhóe?

GHI CHÉP Ở LÀNG SUỐI HOA
                                                                          
      
         Ở Kiến Thiết  có ba điểm làng người H’Mông lập cư,  tập trung tương đối đông. Qua cầu cạn Pắc Cụp, phia trên bến Tram, chưa tới trung tâm xã, là lối rẽ vào Suối Triển. Một làng người Mông nổi tiếng về nuôi nhiều gà xước và lợn sọc dưa.
           Khỏi trung tâm xã một chút, theo đường quốc lộ 2C lên Kim Bình có lối vào làng Suối Mu. Con đường cấp phối mới mở sẽ đưa bạn đến một thung lũng rộng nằm bên trong thác nước nhỏ. Nơi ngày xưa có đủng nước, vào dịp ngày trời nắng nóng thường bắt gặp hàng đàn lợn rừng tắm ngụp, vùng vẫy vang động cả khu rừng. Những đêm trăng sáng thợ săn có lúc nhìn thấy chúa sơn lâm ngồi chồm hổm trên mỏm đá rình mồi. Ban ngày cả vùng ríu rít tiếng chim. Thỉnh thoảng vài chú nai tơ ngơ ngác, chạy vụt qua đường.
         Nơi ngày nay bạt ngàn nương ngô của người Mông có sản lượng cao nhất nhì tỉnh này ( Có người không tin vì chưa hiểu người Mông làm cách nào để có hiệu quả như vậy? Nhưng đấy lại là câu chuyện khác, sẽ kể lần sau. Không muốn ôm đồm trong bài viết này). Muốn tìm con trâu giống cực đẹp, để cày bừa hay tham gia lễ hội chọi trâu hàng năm thì đến đây là chỗ thích hợp và dễ tìm hơn cả.
         Còn một điểm nữa, tôi muốn kể với bạn, nếu bạn là người có thú thưởng ngoạn sơn kỳ, thủy tú, thích nghe những câu chuyện đường rừng, thích tìm hiểu về văn hóa sống của người Mông.. Mời bạn hãy cùng tôi vào Khuổi Rác. Cái tên nghe thật không mấy ấn tượng, nhưng bạn sẽ nhớ rất lâu sau chuyến đi này bởi những con người, sản vật bạn gặp nơi đây. Đó là một làng người Mông ở lưng chừng chân núi có tên là Đỉnh Mười, một tọa độ được đánh dấu trên bản đồ khoáng sản từ thời người Pháp còn đô hộ. Một đôi lần được nhắc đến trong “Những chuyện đường rừng” của Lan Khai. Một nhà văn đáng kính về lòng yêu mến quê hương của ông, người tỉnh này.
 
**
          Thời ấy nơi đây còn là núi rừng hoang vu, thưa dấu vết con người. Ít ai biết đến nơi hiểm trở này vì không có đường đi lại.
Một bên núi đá sừng sững, vách đá gần như dựng đứng không có lối lên. Một bên là dòng suối sâu, lau lách rậm rịt, chỉ có chồn cáo mới biết cách ngang qua được con suối này.
         Người ta kể rằng cư dân đầu tiên ở đây xưa kia là người Dao đỏ và một ít người Tày. Họ ở rải rác, thưa thớt lắm, dọc theo hai bên bờ suối.
Một năm, đã lâu lắm rồi, trời làm thiên tai, xảy ra trận đại dịch kinh hoàng. Người Dao bị một căn bệnh kỳ lạ, không thuốc nào chữa khỏi, chết gần hết cả làng. Số còn lại bỏ đi nơi khác.
Lâu ngày nhà cửa mục nát, đồ đạc vụn gãy cuộn thành đám theo nước lũ cuốn thành từng bè rác lớn trôi về.. Cái tên Khuổi Rác có từ độ ấy.
          Một địa danh nghe đến, muốn nổi da gà bởi bao câu chuyện ma thiêng, nước độc. Nơi bạt ngàn cây lá han, lá ngón, chỉ có rắn rít, hùm beo ngự trị.. Người này nghe kể thêm vào một ít, người kia thêm vào ít nữa.. Chuyện càng hoang đường, càng đáng sợ.
          Mãi sau này số người Kinh miền xuôi lên khai hoang mới có con đường đi men theo suối. Vẫn chỉ là con đường mòn nhỏ, có chỗ hiểm trở không mở được đường, người ta phải lần theo lòng suối mà đi. Mùa lũ nước to thường bị gián đoạn, làng Suối Hoa như một phần đất bị cô lập với bên ngoài có đợt kéo dài hàng tuần lễ.
            Đầu thập niên tám mươi, mới có người H’Mông chạy giặc từ Đồng Văn về sau biến động biên giới phía bắc. Cuộc định cư của họ ở đây là cả một câu chuyện dài đầy gian nan, cách trở.
Lúc đầu chuyển đi, chuyển lại không biết bao nhiêu lần do nhiều quan ngại từ phía nhà quản lý. Sợ ảnh hưởng đến sự toàn vẹn của rừng, sợ phức tạp di dân tự do, khó quản lý, sợ đời sống người dân gặp khó khăn vì chưa có quy hoạch khu dân cư tổng thể, lâu dài..vv
           Nhưng rồi đất lành chim đậu. Làng người H’Mông tồn tại từ đó đến giờ để có câu chuyện kể hôm nay.

**
         Sùng Mẫn Cường là một trong số những chàng trai người Mông khá đặc biệt. Cái vẻ hồn nhiên, xởi lởi hay chuyện rất khác với bản tính trầm tĩnh ít nói của phần nhiều chàng trai người Mông ở lứa tuổi anh.
Anh là một chàng trai H’Mông hiện đại, đi nhiều, biết nhiều chuyện, quen nhiều người, có những ý tưởng độc đáo trong cách nghĩ cách làm. Lại sâu sắc những câu chuyện về quá khứ của dân tộc mình.
         Mùa xuân năm ngoái tôi gặp Sùng ở hội chợ thương mại, anh nói với với tôi:
- Truyện anh viết về người Mông chúng tôi còn chưa đúng mấy đâu. Muốn biết hôm nào lên chơi, ngủ với nhau vài đêm, mình kể cho mà nghe..
Tôi hỏi chuyện gì? Sùng bảo có mấy chuyện. Như chuyện về cây khèn, chuyện cái cửa vào nhà người Mông, hay chuyện bánh dày chẳng hạn?
Quả thật lúc đó tôi có hơi tự ái và cảm thấy lòng rất buồn. Mình đã rất công phu tìm hiểu, chả lẽ mọi hiểu biết của mình về người H”Mông từ trước đến nay đều sai lầm? Đều chưa chính xác? Và cần phải học hỏi lại từ đầu?
        Ý nghĩ ấy cứ tran trở áy náy mãi trong tôi. Định có ngày nào đó sẽ lên với Sùng để hỏi lại cho rõ. Lẽ nào mình bằng lòng theo kiểu thầy bói xem voi?
Võ đoán, chủ quan, hời hợt đối với bất cứ trường hợp nào cũng đều sai trái, tối kỵ. Huống gì lại là công việc mình hết lòng hết sức để tâm tới?

        Khuổi Rác từ ngày có người H’Mông về đổi tên thành thôn Tiền Phong. Nhưng người dân ở đây thích gọi làng mình bằng cái tên thật mới: “Làng Suối Hoa”.
         Khi những vạt lá han, lá ngón dần biến mất, cây đào có từ đã lâu trên đất này phục hồi, sinh sôi nảy nở thêm nhiều. Cuối năm chuẩn bị sang xuân là cả cánh rừng hai bên lối đi đỏ thắm, lung linh một màu hoa. Những cành đào đẫm sương buổi sáng, trong nắng lên đẹp đến nao lòng. Khiến người ta liên tưởng câu chuyện ảo huyền, tưởng như không có thật trên mặt đất, dưới gầm trời này. Có chút gì đó từa tựa như vào chốn bồng lai..
          Nhưng phải một tháng nữa người ta mới có thể nhận thấy phong cảnh ấy. Còn bây giờ dịp cuối năm chỉ có thể thấy những vạt ngô vàng rộm phía xa xa, lưng chừng núi. Chỉ thấy con đường đất đỏ phơi mình bên dòng suối trong xanh, nước dịu dàng, yên bình chảy ra sông, ra bể.. Chỉ gặp bên đường từng tốp ngựa mướt mồ hôi, lưng thồ nặng khoai tàu, ngô quả về làng. Một đôi cô gái má hồng, chúm chím miệng cười, té nước đùa vui sau buổi kiếm củi, nhặt nấm hương, mộc nhĩ chuẩn bị cho ngày tết. Cô nào cũng có trong túi mang theo chiếc gương tròn nho nhỏ. “Người Mông dù bận rộn đến đâu, trước lúc về làng cũng mặt quang mày sạch”. Ấy là người già bảo thế. Tay áo đỏ, màu váy  tươi hồng, thổ cẩm tự tạo của các chị các cô in bóng xuống làn nước trong. Suối dẫu vô tình cũng phải gợn lên chút sóng lăn tăn cảm động, như khe khẽ hát bài ca âm thầm kín đáo của mình.
    Tôi lên làng Suối Hoa vào dịp gần tết của người Mông. Một khung cảnh khác hẳn ngày thường. Bãi cỏ rộng đầu làng nhộn nhịp người.
Không phải tìm lâu, tôi bắt gặp ngay Sùng Mẫn Cường đang có mặt tại đấy. Anh bảo công việc chuẩn bị vui chơi cho dân làng là việc cần gấp rút. Thương hiệu “Rượu chuối Suối Hoa” đành gác lại đến ra giêng mới tiếp tục làm.
        Cả năm có một lần tết, việc gì quan trọng đến đâu cũng gác lại đã. Ngày xuân đâu phải việc riêng của đất trời, của hoa hoa lá cỏ cây? Mùa xuân còn mùa của cả con người. Những con người quanh năm vất vả, leo núi, trèo nương, vật lộn với mưa nắng ba trăm sáu mươi lăm ngày. Cũng cần thư giãn, nghỉ ngơi, lấy thêm sức lực, hào hứng cho một năm mới chứ!
        Tuy vậy Sùng cũng tranh thủ  cho tôi biết: Anh đã tạm xong phần đăng ký chất lượng theo tiêu chuẩn nhà nước cho mặt hàng mới mẻ của mình.
        Tỉnh, huyện đã phê duyệt, máy lọc rượu, đóng chai, nhãn hiệu đã đặt một cơ sở tin cậy mãi trong thành phố Hồ Chí Minh.  Lô hàng thực nghiệm đầu tiên đã ra lò. Gọi là “Rượu chuối Suối Hoa”, đóng chai nom hình thức khá đẹp, chả khác gì Vốt Ka hay Uýt xKi nhập ngoại.
       Mới chỉ khiêm tốn, đủ uống chơi và làm quà biếu trong dịp tết, chưa có nhiều để bán ra thị trường. Sùng có vẻ tư lư khi anh bảo :” Còn vài vướng mắc khâu công nghệ do quy mô sản xuất còn bé nên giá thành chưa được như ý muốn. Khả năng tiêu thụ có lẽ chỉ nơi nhà hàng khách sạn mới chấp nhận. Vì giá còn khá cao chưa tiêu thụ được ngay  trong vùng”.
        Thì vẫn. “Cái gì mà chả “Vạn sự khởi đầu nan”? Khắc phục dần tất sẽ được như muốn”. Tôi mừng, nỗi lo ám ảnh lâu nay về rượu của nhiều người đã có lối ra.
        Văn hóa rượu, nói gì thì nói với mọi dân tộc đều không bỏ được.  Ngày tư ngày tết, khi có bạn hiền, có chén rượu nâng lên hạ xuống làm vui câu chuyện, vẫn là cái không thể thiếu. Mà rượu không theo tiêu chuẩn, lại làm từ “men Tàu”, bằng hóa chất như gần đây thực đáng ngại. Thứ men không ủ từ cơm nấu chín, mà ủ sống ngay bằng gạo, rất được rượu, nhưng hại chưa biết đâu mà kể. Uống thứ rượu ma quỷ ấy có người như bị phát điên, phát cuồng bởi tác động thần kinh. Không ít đám sớ hay xảy ra các vụ va chạm, thậm chí gây chết người vì thứ rượu này. Chưa kể những tác hại lâu dài khó lường do độc tố từ chất men mờ ám ấy gây nên!
         Nói Sùng Mẫn Cường là anh trai mèo hiện đại chắc không có gì là quá lời. Anh đã tìm và thấy lối ra cho sản vật của quê mình. Những vạt chuối bạt ngàn dọc theo thung lũng tôi vừa đi qua từ nay sẽ không chịu cảnh bị ép giá. Không bán được cho thương lái chuối quả, sẽ có nơi tiêu thụ chuối ổn định là “Xưởng rượu” của Sùng. Một thứ rượu an toàn cho người tiêu dùng được cất từ men lá, theo kiểu truyền thống của người Dao trong vùng. Xã hội hòa nhập, các dân tộc học hỏi cái hay của nhau, không kỳ thị, bảo thủ ý riêng của mình, thật là điều đáng mừng
Một sáng kiến đáng kể như vậy, Sùng vẫn khiêm tốn nói: “Nếu như chưa có điện lưới quốc gia kéo vào tận đây, dù có muốn đến mấy, ý đồ của của mình cũng không thành được!”. Sùng nói với tôi như vậy. Điều đó đương nhiên rồi.

       Chợt nhớ đến một hai câu chuyện trước đây của mình. Quả là có chuyện không ổn thật. Mô tả gì mà ..những làng người Mông tăm tối, nhà cửa sơ sài, thấp bé lụp xụp? Đã là cái rất xưa rồi. Nếu không đến tận nơi, bạn sẽ nghĩ đây là câu chuyện viết để tuyên truyền!Thực ra là không phải vậy.
         Dọc hai bên đường những ngôi nhà trong câu chuyện cũ hiển nhiên giờ này đã không còn.  Thay vào đó là những ngôi nhà rộng rãi, khang trang, cột vuông, kẻ truyền, thưng ván được bào nhẵn nhụi. Có nhà còn lát đá hoa, cửa hộp như ngoài thành phố.           Trước cửa nhà nào cũng có chảo ăng ten kỹ thuật số. Ti vi mấy chục kênh đủ các đài trong nam ngoài bắc. Người làng Hoa Đào bây giờ nhìn ra thế giới, không còn bị hạn chế tầm nhìn, cách nghĩ như nhiều năm trước đây.
      Ngoài ngựa ra, xe máy nhà nào cũng vài ba “con”. Xe xấu dùng vận chuyển ngô đỗ, thóc gạo. Xe đẹp để đi chơi.
       Thỉnh thoảng người ta vẫn bắt gặp giữa phố phường đông đúc của thành Tuyên chàng trai H’Mông đèo người yêu của mình váy áo sặc sỡ ngồi phía sau trên những chiếc xe tay ga bảy, tám chục triệu..

      Tôi ngồi đợi Sùng Mẫn Cường bên bãi cỏ vẩn vơ nghĩ bấy nhiêu chuyện. Chuyện gì cũng khá bất ngờ.
        Chỉ có mấy năm, trở lại đất này, làng người H’Mông ở đây như một làng khác, mình chưa được tới bao giờ. Mới thấm thía “Quyền lực mềm” của công nghệ thông tin, chủ trương “Điện đường trường trại” có sức khởi phát, mạnh mẽ như thế nào!
Nghèo nàn lạc hậu là kết quả của dân trí thấp dẫn đến dân sinh khổ cực, văn hóa không phát triển được.  Có điện, có đường là mở ra cục diện mới, chấm dứt nghèo đói của người vùng cao.
         Không có những thứ đó, làm sao có chàng trai Sùng Mẫn Cường sử dụng thành thạo intơnet, để rồi đem ứng dụng nó vào công việc thường ngày? Dùng máy phát cỏ tăng năng xuất lao đông gấp hàng chục lần, mới có thể tra ngô hàng tạ giống, thu hàng chục tấn ngô mỗi vụ. Rồi việc bảo quản vật nuôi, cây trồng  thế nào cho hiệu quả nhất?

        Bây giờ thì anh đang hướng dẫn đám trẻ trong làng trò chơi “Rồng ấp trứng”. Một trò chơi rất thú vị của người H’Mông có từ lâu, nhưng chưa được chơi ở làng này. Sùng ghi chép tỉ mỉ từ hôm đi dự tết Độc Lập trên Mộc Châu về, dạy cho lũ trẻ. Đây là trò chơi có từ năm đếm sáu người tham gia. Một số hòn sỏi tượng trưng cho trứng rồng để ở giữa vòng tròn. Một người sắm vai rồng chống hai tay quờ trên mặt đất cùng với hai chân làm thành cái khung bảo vệ trứng. Người này phải là người nhanh nhẹn, khỏe mạnh, tinh mắt, phán đoán được ý đồ đối phương. Năm người kia rình sơ hở lấy trứng rồng. Nhưng nếu bị chạm vào tay vào người là bị thua cuộc. Sau thời gian nhất định, trứng vẫn giữ được không mất quả nào, người đóng rồng sẽ thắng. Tuy nhiên phải xoay chuyển liên tục mới có thể đối phó với “kẻ thù” xâm chiếm, bảo vệ được  trứng của mình.
        Ngoài trò này ra, Sùng còn tham gia chuẩn bị cho một số trò chơi khác như ném Pao, đẩy gậy, bắn nỏ cho mấy ngày tết bắt đầu từ rằm tháng một này cho đến.. sang rằm tháng giêng.. Những trò này các năm trước đã có rồi nên không cần hướng dẫn. Chỉ cần sửa sang lại bãi đất làm sân chơi một chút là được.

***
Trong bữa trưa hôm ấy, tôi hỏi Sùng bí quyết làm ăn thành công khá nhanh của anh? Sùng cười thản nhiên:
-   Thứ nhất chịu khó, bền bỉ. Thứ hai cái gì chưa biết, chưa hiểu cứ hỏi “Gu gồ”, enter “một phát” là ra!
Thật là quá bất ngờ đối với tôi về chuyện này. Nhà tôi có đám bưởi bị nấm dong, nguy cơ thất quả vụ sau. Tôi lo.  Mất công đi cả ngày giời về trại giống cây trồng để hỏi cách trị bệnh này. Đáng ra chỉ mất mấy phút tra trên mạng!
         Cùng ngồi mâm với tôi còn mấy người nữa. Cao tuổi hơn là bác Mùa A Tráng, nhà cách nhà Sùng Một quãng, Hầu A Chẩng, Háng A Pao sấp sỉ với tôi, nhà xóm trên. Nhân câu chuyện về các họ người H’Mông, Sùng nói:
- Các ông có cái sai chết người về chuyện này, có biết không?
Tôi bảo không biết. Sùng cho hay: “ Người Mông vóc dáng thấp, nhỏ do trước đây có cả quá trình dài di cư, thiếu thốn về sinh hoạt. Nói suy dinh dưỡng do thời trước thì được. Nhưng bảo do lấy vợ lấy chồng cùng huyết thống như cánh nhà báo mô tả là sai hoàn toàn. Người mông không bao giờ có chuyện đó. Con trai con gái trước khi kết bạn đều hỏi họ của nhau. Nếu không cùng họ mới lấy nhau được chứ? Dù ở Thái Lan, ở Lào hay ở Mỹ ..Xa mấy cũng vậy thôi. Đã cùng một họ thì chỉ kết bạn, không lấy nhau được đâu!”
      Còn chuyện cây khèn, Sùng bảo tôi hỏi bác Mùa A Tráng nói cho mà nghe. Bác Mùa đứng lên, lại chỗ gần chỗ kê giường nằm, lấy ra cây khèn.
       Ông bảo: “ Chả biết mày tả cây khèn thế nào? Bọn người H’Mông tao hay nghĩ bằng mắt”. Rồi ông dựng cây khèn lên, chỉ từng bộ phận: “ Đầu của cây khèn này tượng trưng cho ngọn núi cao, lưng chừng ở giữa bầu khèn là làng bản người Mông ở quây quần lấy nhau, còn bên dưới là các ống khèn này tượng trưng cho các ruộng bực thang..” Ông ngừng lời một lúc, lim dim đôi mắt. Một lúc sau mới tiếp:
- Còn một câu chuyện nữa. Đó là ban nhạc của mấy cha con người H’Mông xa xưa.. Mỗi người dùng một cây sáo trúc to, nhỏ khác nhau để thổi. Người bố sợ sau này mình chết, các con không đoàn tụ, mỗi người một phách, mất lòng nhau không còn ăn ý, mới chế ra cái bầu khèn này để anh em họ gắn bó,hòa hợp với nhau..”
Tôi giật mình. Bấy lâu cứ tưởng mình am tường đôi chút về văn hóa, lối sống người
H’Mông hóa ra không phải!
Người H’Mông hiểu giản dị mà lại sâu sắc hơn mình biết rất nhiều!
       Rượu chuối làng Suối Hoa càng uống càng êm, càng cảm thấy ngon bởi hương thơm dịu của nó. Câu chuyện vì thế càng vui. Mỗi người góp vào một câu chuyện của mình, thêm một ý. Nhưng văn hóa là thứ ngấm dần dần như rượu, không thể hấp tấp hỏi ngay, ghi chép ngay lấy được.
        Cứ để tự nhiên người ta sẽ bộc lộ với mình.
Câu chuyện về tập quán làm bánh dày theo tôi hiểu trước đây lại là một sự sai nữa. Mình cứ hình dung người H’Mông sống gắn bó với rừng, nơi sơn cùng thủy tận thường yêu quý, coi trọng mặt trăng, thực ra không phải vậy. Ngoài ý nghĩa tượng trưng trời tròn đất vuông khi làm thứ bánh này như nhiều dân tộc khác, người H’Mông còn có câu chuyện riêng của mình.
Chuyện rằng: xưa thật là xưa, trong bản người H’Mông có đôi trai tài gái sắc. Hai người yêu nhau thắm thiết. Những đêm trăng sáng chàng trai có tên là Pờlai thường mang khèn ra bờ suối thổi, đợi người yêu. Họ quấn quýt bên nhau đến gần sáng mới rời. Dọc đường cô gái không may bị thần hổ cướp đi. Chàng trai đau khổ, quyết tâm đi tìm. Trước khi đi chàng làm ra thứ bánh này để ăn đường. Qua hết năm sông, mười núi vô cùng gian khổ..Thần hổ cảm tấm lòng son sắt thủy chung của chàng, bèn để cho cô gái trở về đúng vào mùa hoa đào  chớm nở.        
        Từ đó tết người H’Mông dù giàu dù nghèo, nhà nào cũng có thứ bánh này..
Rồi cái cửa của nhà người H’Mông vì sao lại chỉ mở trở vào bên trong, không mở ra phía ngoài như các dân tộc khác.. Tôi ngồi nghe và hết sức ngạc nhiên bởi nhiều ý nghĩa mới mẻ đến giờ mình mới biết.
        Ngủ lại vài đêm như Sùng Mẫn Cường nói là không thể. Năm hết tết đến rồi, tôi còn nhiều việc phải làm. Tết Nguyên Đán chừng nửa tháng nữa mới tới, nhưng công việc bề bộn cuối năm phải chuẩn bị ngay từ bây giờ.
Những câu chuyện khác đành để lại lần sau. Từ giã mọi người, tôi rời làng Suối Hoa khi trăng đã mọc.
Con đường rừng nhấp nhoáng ánh trăng. Đâu đó văng vẳng tiếng cười xen trong tiếng nhạc. Ánh điện từ ngôi nhà nào đó hắt lên vòm cây, không giống như ánh điện nơi phố thị, đơn sơ gần gặn mình hơn.
Có một chút gì đó mơ hồ mà thật bâng khuâng!


======
Phần nhận xét hiển thị trên trang