Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2020

Những mảnh vỡ còn lại của thời kì Bắc thuộc ngàn năm : chuông đồng niên đại 948 ở làng Nhật Tảo (Hà Nội)

Giao Blog

Hôm trước, đã nói về bia xá lị mang niên đại 601 (thời thuộc Tùy) ở Bắc Ninh. Đọc lại ở đây.

Hôm nay, sẽ giới thiệu về chiếc chuông đồng đúc năm 948, dù đã thuộc thời Ngô nhưng không có niên hiệu nhà Ngô, mà mang niên hiệu Càn Hòa của nhà Nam Hán (đóng đô ở Quảng Châu). Chuông này hiện được bảo quản ở làng Nhật Tảo (Hà Nội).

Một thời kì dài, dù đã độc lập khỏi ách đô hộ của người Hán đến từ phương Bắc, trở thành một quốc gia tự chủ, nhưng chưa hề có quốc hiệu hay niên hiệu. Phải tới tận năm 970, Đinh Tiên Hoàng mới đặt niên hiệu Thái Bình.

Đại khái trong khoảng từ năm 938 đến năm 970, chưa rõ tên nước, chưa rõ niên hiệu của vua. 

Chuông đồng Nhật Tảo đã được chỉ định là Bảo vật Quốc gia từ ngày 15/1/2020.


Đi một bài đầu tiên trên VnEx. Các tư liệu bổ sung thì dán ở dưới.

Tháng 5 năm 2020,
Giao Blog


Chiếc chuông bằng đồng, đúc dưới thời Ngô, thế kỷ X. Ảnh chụp lại.

Minh văn khắc trên thân chuông Nhật Tảo. Ảnh: Phương Lam.

Ông Nguyễn Văn Thao gắn bó với đình Nhật Tảo từ những năm 1990. Ảnh: Phương Lam.



---

Chủ nhật, 17/5/2020, 00:00 (GMT+7

Bảo vật ‘ẩn mình’ nghìn năm

HÀ NỘI Khi quân Pháp chiếm đình lập bốt, người dân sơ tán toàn bộ đồ thờ, không ai biết chiếc chuông đồng được đúc từ năm 948.

Đó là năm 1953, đại đội hơn trăm lính lê dương chiếm đóng đình Nhật Tảo, xã Đông Ngạc (huyện Từ Liêm) rồi ăn ở luôn trong đình, hàng ngày ra ngoài tuần tra.
Sợ giặc Pháp phá hoại, người làng Nhật Tảo chuyển toàn bộ đồ thờ tự ra văn chỉ - nơi thờ những người đỗ đạt khoa bảng, cách đình vài trăm mét. Những bát hương, lộc bình, đôi chóe... phủ chiếu nằm im một góc. Trong đó có chiếc chuông đồng nặng 6 kg, thân khắc kín chữ Hán, quai đúc nổi đôi thú đấu lưng vào nhau vẫn treo ở cửa đình nhiều năm trước.


Chiếc chuông bằng đồng, đúc dưới thời Ngô, thế kỷ X. Ảnh chụp lại.

"Chẳng ai biết lai lịch chiếc chuông, vẫn nghĩ là hiện vật đình chùa nào cũng có. Trong làng không có tích chuyện hay văn bản gì nhắc tới", ông Nguyễn Văn Thao, 83 tuổi, người gắn bó 30 năm với đình Nhật Tảo nhớ lại.
Ngôi đình nằm ven đê sông Hồng, thờ Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác. Làng Nhật Tảo trước còn gọi Nhật Cảo, vốn là đất đồn điền của nhà nước phong kiến. Khi định đô ở Thăng Long, nhà Lý lập ra chế độ "cảo điền", bắt những người có tội đến đây khai khẩn đất hoang trũng, gọi là "cảo điền nhi", mỗi năm phải nộp 300 thăng thóc cho triều đình.
Năm 1339, Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác, con thứ của vua Trần Minh Tông tròn 20 tuổi, được phong ấp tại đây. Ông bãi bỏ chế độ cảo điền, sắp xếp cư dân, lập làng xóm. Khi ông mất, dân lập miếu thờ, tôn làm thành hoàng làng Nhật Tảo. Ngôi miếu sau khởi dựng thành đình, còn giữ 26 đạo sắc phong thần qua các triều vua. Nhưng chiếc chuông xuất hiện trong ngôi đình khi nào, không ai biết.
Sau năm 1954, sân đình biến thành sân phơi hợp tác xã. Những năm 1965, bom Mỹ bắn phá Hà Nội, học sinh thủ đô sơ tán về các vùng ngoại thành. Lớp học vẫn mở ngay trong đình làng, giữa sân văn chỉ, trẻ em đến trường trong tiếng ầm ì của đạn bom. Quả chuông đồng treo trước sân văn chỉ, hàng ngày thay kẻng báo giờ vào, tan lớp, báo động cho học sinh xuống hầm trốn máy bay. Đám học trò nghịch ngợm nhiều lần tháo xuống chơi, gõ ầm ầm, gõ chán lại treo chuông lên.
Năm 1994, khi chính quyền xã Đông Ngạc làm hồ sơ công nhận di tích lịch sử, quả chuông cùng một số đồ thờ tự chuyển trở lại đình. Đoàn khảo sát về kiểm tra, mới xác định được tuổi thọ và giá trị chiếc chuông. Đầu năm 2020, chuông Nhật Tảo cùng 26 hiện vật khác được Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia.



Minh văn khắc trên thân chuông Nhật Tảo. Ảnh: Phương Lam.

Theo nghiên cứu của cố giáo sư Hà Văn Tấn, bài minh văn chữ Hán khắc trên thân chuông là nguồn sử liệu chữ viết sớm nhất về thế kỷ X, thời kỳ đầu tự chủ mà "chúng ta biết rất ít". Bài minh văn khắc ngày 29 tháng Tư năm Mậu Thân, niên hiệu Càn Hòa thứ 6 (tức năm 948). Càn Hòa là hiệu của Lưu Thạnh, vua Nam Hán, một nước thời Ngũ đại thập quốc đóng đô ở Quảng Châu (Trung Quốc). Nhưng đây là quả chuông của người Việt, mà địa danh "thôn Hạ Từ Liêm, huyện Giao Chỉ" trên thân chuông đã xác nhận.
"Niên hiệu Càn Hòa thứ 6" tức năm 948, thời điểm mà Dương Tam Kha đã chiếm ngôi nhà Ngô, tự xưng là Bình Vương được bốn năm. Nội dung minh văn nhắc đến Giáp Thìn 944, năm Ngô Quyền qua đời. Ông đã giành được nền độc lập, xưng vương nhưng vẫn chưa có niên hiệu và tình trạng ấy kéo dài suốt cả thời Ngô. Các văn bản thời đó, ghi năm tháng đều phải dùng niên hiệu của Nam Hán, dù đạo quân xâm lược này đã bị Ngô Quyền đánh tan tác trên sông Bạch Đằng năm 938.
Các địa danh nhắc đến trên thân chuông "thôn Hạ Từ Liêm, huyện Giao Chỉ" cho thấy đơn vị hành chính đã xuất hiện từ sớm. Theo bài minh văn, huyện Giao Chỉ thời Ngô đã bao gồm cả Từ Liêm bây giờ. Quả chuông tìm thấy ở địa phận Từ Liêm, khẳng định chuông không xa rời nơi cũ khi bài minh được khắc là mấy.
Lịch sử cách mạng xã Đông Ngạc ghi lại, địa phương này do các làng cổ Nhật Tảo, Đông Ngạc, Liên Ngạc hợp thành. Địa chí hành chính xã ngày nay trải qua nhiều lần thay đổi, khởi đầu thuộc bộ Giao Chỉ. Gần nghìn năm Bắc thuộc, Đông Ngạc lần lượt nằm trong quận Giao Chỉ, Giao Châu, Từ Châu, Tống Bình, sau này là Từ Liêm.
211 chữ trên thân chuông đều khắc lần đầu, cùng một thời điểm, không có hiện tượng khắc lại hay khắc xen kẽ về sau. Minh văn đề cập đạo hiệu, pháp danh của những người công đức mua chuông. Họ đều tham gia một tổ chức tôn giáo thời bấy giờ, gọi là "xã", thuộc Đạo giáo và Nho giáo. Đây là tài liệu duy nhất cho thấy thế kỷ X, Đạo giáo và Phật giáo đã tồn tại song hành ở Việt Nam, trở thành cơ sở cho sự hình thành tư tưởng Đạo - Phật - Nho đồng hành trong đời sống tâm linh người Việt dưới triều đại Lý - Trần.


Ông Nguyễn Văn Thao gắn bó với đình Nhật Tảo từ những năm 1990. Ảnh: Phương Lam.

Đình Nhật Tảo nhiều lần mất trộm đồ thờ, từ chiếc hóa văn bằng đồng nặng hàng chục cân đến nậm rượu bé bằng nắm tay. Từ ngày biết quả chuông độc bản có tuổi thọ nghìn năm, sợ kẻ gian nhòm ngó, ban chấp hành phụ lão thôn họp bàn, quyết định mang đi giấu. Một buổi trưa, kẻ trộm cậy cửa, vừa lần mò vào hậu cung tìm kiếm. Bảo vệ đình phát hiện, tri hô, chúng leo lên ôtô chạy thẳng. Giờ các cụ lắp cả camera, còi báo động đề phòng. Có năm, lãnh đạo ngành văn hóa muốn đưa quả chuông ra bảo tàng trưng bày. Các cụ họp dân, bảo "mất thiêng" rồi không đồng ý.
Ông Thao cho rằng, quả chuông là chứng nhân hàng nghìn năm lập làng, giữ nước của người Nhật Tảo, trở thành vật thiêng có số phận. Dân làng muốn giữ gìn cũng là hợp lẽ, dù cho người ví von "có chiếc chuông quý giấu đi như con gái đẹp trong cung cấm không muốn cho ai nhìn".

Phương Lam



---




BỔ SUNG


2.

Vì sao chuông Nhật Tảo được coi là bảo vật quốc gia?

CẬP NHẬT: 10:00 | 13/02/2020
 
 
Chuông Nhật Tảo - vừa được Thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc công nhận là bảo vật quốc gia hiện đang được lưu giữ tại Di tích đình Nhật Tảo, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Theo các cụ cao niên trong Tiểu ban bảo vệ di tích đình Nhật Tảo: Quả chuông vốn là hiện vật của di tích đình làng Nhật Tảo. Những năm 1951-1953, thực dân Pháp chiếm đình Nhật Tảo, làm bốt đóng quân, chúng cho xây 4 lô cốt ở 4 góc đình, sau đó dân làng phải sơ tán toàn bộ đồ thờ tự và đồ tế khí của đình về Văn Chỉ của làng (trong đó có quả chuông). Đến 1994, dân làng tổ chức rước toàn bộ đồ thờ tự và tế khí trở lại đình. Tháng 3 năm 1995, khi làm hồ sơ xếp hạng di tích thì phát hiện ra quả chuông cổ này.
Còn theo các nhà nghiên cứu, năm 1987, Phạm Văn Thắm - cán bộ Viện nghiên cứu Hán Nôm đã tìm thấy quả chuông ở miếu thờ đức thánh Trần, thôn Nhật Tảo, sau đó, quả chuông được đem về cất giữ ở đình làng Nhật Tảo, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Chuông Nhật Tảo là cổ vật độc bản, được xem là quả chuông duy nhất ở thế kỷ X cho đến nay, được phát hiện ở Việt Nam. Chuông có hình dáng độc đáo, khác biệt so với hệ thống chuông chùa ở Việt Nam có từ xưa tới nay. Họa tiết trang trí trên thân chuông thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc và nghệ thuật đúc đồng thời bấy giờ.
Chuông được đúc theo lối thượng thu hạ thách (trên thon, dưới nở). Quai chuông đúc nổi đôi thú (giống như Ly Thủ) đấu lưng vào nhau, uốn cong tạo thành núm treo chuông. Thú có đầu to, mắt lồi, hai sừng thẳng, bờm ôm sát đầu, thân có vảy, hai chân và miệng ngậm tỳ xuống đỉnh chuông tạo thế vững chắc cho quai chuông. Chỏm quai tạo hình núm tròn dẹt nhô lên nhưng không phải là hồ lô như trên các quai chuông sau này. Đỉnh chuông bằng, vai xuôi, thân hình trụ, miệng loe có gờ, thành chuông dày.
Chuông Nhật Tảo
Chuông Nhật Tảo
Thân chuông được phân cách bởi 5 đường đúc nổi ngang dọc, tạo thành 8 ô, phần trên là 4 ô hình thang đứng, phần dưới là 4 ô hình chữ nhật. Nằm giữa 5 đường đúc nổi nêu trên là 4 núm gõ (để đánh chuông), núm tròn, tạo hình bông hoa nở, xung quanh có 12 cánh hoa.
Phần trên của mặt ngoài chuông khắc chìm chữ Hán, theo lối chữ chân, còn khá rõ, phủ kín cả 4 ô hình thang và khoảng trống giữa những đường đúc dọc (gồm 27 cột, 211 chữ). T
Dịch những chữ Hán khắc trên chuông Nhật Tảo (bài minh) có thể coi là một trong những sử liệu chữ viết sớm nhất của thời kỳ tự chủ từ thế kỷ X mà ta hiện biết. Nó cung cấp cho chúng ta những thông tin vô cùng quý báu về một thời kỳ mà sử liệu thành văn của nước ta không có nhiều.
Trước hết, về thời gian và địa điểm trên chuông. Bài minh dược viết năm Càn Hòa thứ 6 (năm 948). Theo các nhà nhiên cứu, Càn Hòa là niên hiệu của Lưu Thạnh, vua nước Nam Hán, một nước thời Ngũ Đại Thập Quốc, đóng đô ở Quảng Châu.
Tuy nhiên, đây là chuông Việt Nam, không phải chuông Trung Quốc, vì tên địa danh ghi ở bài minh đã xác nhận điều đó. Trong bài minh có nhắc đến năm Giáp Thìn, tức năm 944, là năm Ngô Quyền mất. Chúng ta đều biết, sau đó Dương Tam Kha đã cướp ngôi vua, xưng là Bình Vương. Năm 948 là năm Dương Tam Kha đã ở ngôi vua được 4 năm.
Như vậy, ta có thể biết, tuy Ngô Quyền đã giành lại nền độc lập, xưng vương, nhưng vẫn chưa có niên hiệu. Cho nên, để ghi năm tháng cho các văn bản trong nước ta thời đó, người ta phải dùng niên hiệu của Nam Hán, dù rằng, đạo quân xâm lược của nước này đã bị Ngô Quyền đánh bại ở sông Bạch Đằng năm 938.
Nội dung minh văn có nhắc đến địa danh hành chính vào thế kỷ X vẫn được giữ lại từ thế kỷ VII-VIII như: huyện Giao Chỉ. Đặc biệt, bài minh trên chuông cho ta biết một tên thôn là “Hạ Từ Liêm” ở huyện Giao Chỉ năm 948.
Theo các nhà nghiên cứu, tên “Từ Liêm” đã xuất hiện từ sớm. Sách “Nguyên Hòa quận chí” còn nhắc đến sông Từ Liêm. Theo sách “Cựu Đường thư”, năm 621, đã tách một phần huyện Giao Chỉ, lập huyện Từ Liêm, nhưng sau đó thì bỏ, nhập vào huyện Giao Chỉ. Nhưng rõ ràng là “thôn Hạ Từ Liêm” là ở trong huyện Từ Liêm thời thuộc Đường và quả chuông Nhật Tảo này, bài minh cũng nhắc tới huyện Từ Liêm. Như vậy, có thể thấy rằng, hiện tại, quả chuông không rời quá xa “thôn Hạ Từ Liêm” được viết trong bài minh. Đồng thời, cũng qua đây, chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn có sự tồn tại của đơn vị hành chính “thôn” ở nước ta rất sớm, từ thế kỷ X.
Bên cạnh đó, nội dung bài minh chuông Nhật Tảo còn đề cập đến công việc của một tổ chức tôn giáo thời bấy giờ gọi là “xã”. Ta đã gặp một “xã” như vậy trên chuông Thanh Mai (thế kỷ thứ VIII, 798), tên là “Tùy Hỉ xã”, còn xã trên chuông Nhật Tảo thì không thấy chép rõ tên. Có nhiều chức danh giống nhau giữa hai chuông như: “xã chủ, xã phó, xã phán quan, xã lục sự”. Cũng có những chức danh chỉ thấy trên chuông Thanh Mai, không thấy trên chuông Nhật Tảo, như: “xã Chi Khiển, xã Bình Chính, xã Khổng Mục…”.
Điều khác nhau quan trọng là “xã” trên chuông Thanh Mai là một “xã Phật giáo”, còn “xã” trên chuông Nhật Tảo là một “xã Đạo giáo”. Tất cả những người trong xã này đều coi là “đệ tử của Vô pháp môn”. Tên của những người trong “xã” không phải là tên húy, mà chỉ là đạo hiệu hay pháp danh. Những pháp danh này thường bắt đầu bằng các từ Pháp, Huyền, Tiên, Đạo, như Đỗ Pháp Dao, Trần Pháp Tuyên, Kim Huyền Ký, Lý Huyền Tháo, Trần Tiên Cao, Đỗ Tiên Liêu, Ngu Tiên Hựu…Những cái tên như vậy cho thấy những người đó là tín đồ Đạo giáo, nhất là những cái tên được đệm bằng các từ Huyền và Tiên (vì mục đích tu của Đạo giáo là thành tiên). Khác với Phật giáo (những nhà sư thường coi mình mang họ Thích, họ của Thích ca), những người theo Đạo giáo bao giờ cũng giữ lại họ của mình.
Ngoài ra, bài minh trên quả chuông Nhật Tảo còn cho chúng ta biết các chức danh trong Đạo giáo như: “Cao công”, hay hai lần nhắc đến việc “trai khánh”. Cũng qua bài minh này, chúng ta biết rằng, vào thế kỷ X ở nước ta, đã có sự song hành, hỗn dung giữa Đạo giáo và Phật giáo, khi chúng ta gặp các từ ngữ của Phật giáo như: “tứ ân”, “thiện duyên”, “lục căn”, “tam diệp” (tức “tam nghiệp”)…. Như vậy, Đạo giáo vốn được nuôi dưỡng trong đời sống tín ngưỡng cộng đồng, đến thế kỷ X, bắt đầu dung hợp với Phật giáo để tạo nên một sắc thái riêng trong đời sống xã hội. Đồng thời, cũng qua bài minh trên quả chuông Nhật Tảo, cho chúng ta biết rõ hơn về Đạo giáo trong thế kỷ X.
Qua bố cục bài minh văn và tự dạng, ta biết được văn bản được khắc cùng một thời điểm và là văn bản khắc lần đầu. Hoàn toàn không có hiện tượng khắc lại hoặc khắc thêm xen kẽ về sau. Niên đại của văn bản khắc trên thân chuông và niên đại của chuông là một, hoàn toàn phù hợp với dòng lạc khoản tuyệt đối trên chuông là: ngày 29 tháng Tư năm Mậu Thân niên hiệu Càn Hòa thứ 6 (tức ngày 9 tháng 6 năm 948).
Tình Lê
Chuông có bản minh văn rất cụ thể, là nguồn sử liệu chân thực, ý nghĩa đối với việc nghiên cứu, tìm hiểu xã hội người Việt thời tự chủ. Hơn thế nữa, quả chuông và minh văn năm 948 là sử liệu vô cùng quan trọng và quý giá, giúp chúng ta tìm hiểu nhiều vấn đề lịch sử làng xã, tôn giáo, đặc biệt là Đạo giáo trong đời sống tâm linh của người Việt ở thế kỷ X. Cũng qua bài minh, cho chúng ta biết đây là tài liệu hiện vật đầu tiên và duy nhất được biết cho tới nay thể hiện mối quan hệ song hành giữa Đạo giáo và Phật giáo, làm cơ sở cho sự hình thành tư tưởng Đạo - Phật - Nho cùng đồng hành trong đời sống tâm linh của người Việt vào thời Lý - Trần.
Minh văn trên quả chuông còn cho chúng ta biết đến một tổ chức hành chính xã - thôn - huyện xuất hiện ở nước ta khá sớm (xã ở đây vừa là một tổ chức tôn giáo, đồng thời là một đơn vị hành chính), cùng với đó là những chức danh Đạo giáo ở nước ta vào thế kỷ thứ X.
Chuông Nhật Tảo là một cổ vật vô giá của Thăng Long - Hà Nội nói riêng, Việt Nam nói chung. Chuông đã được giới thiệu trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học về văn hóa, lịch sử ở Việt Nam. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu đã nói trên, Chuông Nhật Tảo xứng đáng được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia.
https://vietnamnet.vn/vn/thong-tin-unesco/di-san/vi-sao-chuong-nhat-tao-duoc-coi-la-bao-vat-quoc-gia-616000.html





165
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Bảo tàng Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ
166
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh
167
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Bảo tàng tỉnh Quảng Trị, thuộc Trung tâm Quản lý di tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị
168
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Bảo tàng thành phố Cần Thơ
169
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Bảo tàng tỉnh An Giang
170
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Bảo tàng tỉnh An Giang
171
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
chùa Hương Lãng, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên
172
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Đền - chùa Bà Tấm, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội
173
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
chùa Nhạn Sơn, xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định
174
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Khu di tích Đền Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ
175
Chuông Nhật Tảo
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Đình Nhật Tảo, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội
176
Bia "Cổ Việt thôn Diên Phúc tự bi minh"
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Chùa Cảnh Lâm, xã Tân Việt, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên
177
Bia ma nhai ngự chế của Vua Lê Thái Tổ
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Trên vách núi Phia Tém, xã Bình Long, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng
178
Đại Việt Lam Sơn Kính Lăng bi - Bia Lăng Vua Lê Túc Tông
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Di tích lịch sử Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa
179
Bia “Sùng chỉ bi ký”
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Đền thờ Hà Tông Mục xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh
180
Bia "Ngự kiến Thiên Mụ tự"
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, thuộc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế
181
12 bia Tiến sĩ Văn Miếu Bắc Ninh
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Di tích Văn Miếu Bắc Ninh, phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
182
Bộ chóp tháp Champa Linh Thái
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế
183
Thống đồng thời Trần
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh
184
Mâm bồng gốm men vẽ nhiều màu
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh
185
Khám thờ gỗ sơn son thếp vàng
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Di tích đền - chùa Bà Tấm, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội
186
Ngai thờ gỗ sơn son thếp vàng
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Bảo tàng tỉnh Thái Bình
187
Cửa võng đình Diềm
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Đình Diềm, xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
188
Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng, Khu di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình
189
Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Lê Đại Hành
 88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
đền thờ Vua Lê Đại Hành, Khu di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình
190
Long đao
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Khu di tích tưởng niệm Vương triều Mạc, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng
191
Ấn “Lương Tài Hầu chi ấn”
88/QĐ-TTg
Ngày 15/01/2020
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Oan gì mà oan, có vay thì có trả, đời vốn dĩ là thế Chất ạ!


LS Nguyễn Khánh Ngọc
ĐỜI CÓ VAY CÓ TRẢ
Khương Ngọc Chất sinh năm 1975, là thượng tá An ninh, y bị bắt ngày 14-09-2019 khi đó y đang là trưởng phòng an ninh chính trị nội bộ tỉnh Hoà Bình. Y bị bắt và ra toà liên quan việc y chỉ đạo nâng điểm thi con của một số lãnh đạo công an tỉnh này trong kỳ thi đại học 2018.
Số tuổi đang còn rất trẻ mà chức vụ y đang giữ phải nói tương lai của Y rất rộng mở, đồng nghĩa với việc y phải có nợ máu gì đó với dân.
Năm 2017 Chất đang 42 tuổi nhưng Chất đã là trưởng phòng an ninh chính trị nội bộ, lúc đó y là trung tá. Năm 2018 có đợt xét thăng quân hàm, thì Chất đã tính tới việc lập công để được xét duyệt.
Chất đã vẽ ra một kế hoạch ghê gớm vào năm 2017 đó là bắt Thầy giáo Đào Quang Thực, thầy Thực là một thầy giáo lên tiếng trên mạng xã hội bày tỏ quan điểm bảo vệ chủ quyền biển đảo và môi trường. Thầy có lần đi biểu tình ôn hoà đòi môi trường sạch trong vụ Formosa.
Một thầy giáo hiền lành như thế, ôn hoà và được học trò yêu mến như thế mà Chất, một tay an ninh ma quỷ đã vẽ ra Thầy là một tên khủng bố, cho rằng thầy đòi ám sát lãnh đạo Hoà Bình nhưng không hề trưng ra một bằng chứng nào. Cho rằng thầy tham gia tổ chức chính trị nào đó để lật đổ chế độ.
Nhưng, tất cả chỉ là sự tưởng tượng của Chất vẽ ra, Chất biết bắt thầy vì tội bảo vệ chủ quyền, lên tiếng đòi môi trường thì chỉ cá nhân, nếu có thưởng sẽ không lớn, vì thế Chất vẽ vời ra thầy thế này thế nọ để báo cáo ban giám đốc công an tỉnh Hoà Bình là Chất đánh án lớn, Chất thu thập hồ sơ, tài liệu, các bài viết, hình ảnh của Thầy chuyển sang phòng an ninh điều tra để yêu cầu khởi tố vụ án bắt giam thầy năm 2017. Vì thế năm 2018 từ Trung tá Chất thăng lên thượng tá.
Đời đúng là không như mơ, cũng trong năm 2018 chính y ra oai gọi điện cho đàn em bên giáo dục bắt họ nâng điểm con Sếp, mục đích là nịnh bợ cấp trên tưởng thế là ngon, không ngờ chính lúc đó Chất đã tự định đoạt số phận của mình. Nâng điểm cho con Sếp nhưng Y thì ở tù.
Giờ y kêu oan, oan gì mà oan, có vay thì có trả, đời vốn dĩ là thế Chất ạ!
(Năm ngoái Thầy Thực đã mất trong tù, nhưng trại giam không cho mang thi hài Thầy về).
Fb Phạm Minh Vũ

Phần nhận xét hiển thị trên trang

PHỐ TÀU, NGHIÊN CỨU SINH VÀ MỘT MƯU ĐỒ


Nguyễn Quang Thiều


CHINA TOWN - PHỐ TÀU
Thế giới gọi phố Tàu là China town, nhưng riêng ở Việt Nam thì không gọi như thế cho dù khu Chợ Lớn ở thành phố Hồ Chí Minh chính là China town ( phố Tàu). Với tôi, có lẽ danh từ “ phố Tàu” gần bản chất với những khu người Hoa sống và làm ăn tập trung như thế hơn cái tên China town nghe có vẻ như muôn vàn cái tên khác chẳng chết ai.
China town sinh ra từ bao giờ tôi không rõ. Các cuộc di dân trên thế giới đã bắt đầu diễn ra từ khi có lịch sử loài người. Nhưng riêng đối với người Tàu thì các cuộc di dân có những tính chất khác biệt. Người Tàu đi khắp thế giới. Ở đâu cũng có người Tàu từ một thị trấn nhỏ xa xôi đến những thành phố sầm uất. Và ở đâu, người Tàu cũng cụm lại với nhau và dựng lên khu vực riêng của họ mang tên China town - phố Tàu.
Các cộng đồng khác như Nhật, Nga, Đức, Pháp...và những người hồi giáo là những cộng đồng có những cuộc di dân lớn. Ở đâu, những người cùng chủng tộc hay tôn giáo cũng tìm cách sống cụm vào nhau do những yêu cầu về văn hóa và sinh sống. Nhưng không một cộng đồng nào có thể làm lên một thứ có tên là China town - phố Tàu.
Trước năm 1992, tôi không hiểu gì về China town - phố Tàu ngoài nghĩa “ một cộng đồng di dân người Trung Quốc sống tập trung”. Vào tháng 7 năm 1992, tôi được Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc mời đến thăm Úc. Trong chuyến đi ấy, tôi đã đọc một cuốn sách nghiên cứu về China town của một nhà nghiên cứu Úc. Tôi xin tóm tắt những gì tác giả này viết về China town :
Khi China town được dựng lên, chúng ta ( người Úc ) đến đó với tinh thần đi thăm quan một cộng đồng di dân có một nền văn hóa khác biệt. China town lúc đầu giống như một hội chợ của người Trung Quốc tổ chức trên đất Úc. Chúng ta đến đó xem họ múa lân và thưởng thức các món ăn Trung Quốc. Chúng ta thực sự thấy vui vẻ khi trên đất nước chúng ta có một cộng đồng đầy bản sắc bởi Úc là một đất nước đa bản sắc nên sự chấp nhận các cộng đồng khác không có gì quá khó khăn.
Rồi chúng ta lãng quên đi. Mười năm sau chúng ta trở lại China town. Chúng ta giật mình. China town đã phát triển quá nhanh. Nhưng điều đáng suy nghĩ nhất là China town không phải là khu cộng đồng của người Trung Quốc định cư trên đất Úc hay là một hội chợ của Trung Quốc nữa mà nó đã biến thành một tiểu Trung Quốc trên đất Úc với sức ảnh hưởng không nhỏ của nó. China town này muốn mở rộng mãi mãi và muốn Trung Quốc hóa những khu vực mà China town lấn tới. Đến lúc này, niềm vui và tính tò mò của chúng ta về trò múa lân cùng với hương vị của ẩm thực Trung Quốc không còn mà thay vào đó là một nỗi lo sợ.
Nỗi sợ hãi của tác giả cũng là nỗi sợ hãi của rất nhiều người ở những quốc gia mà những người Trung Quốc đến định cư và làm mọc lên những China town. Ứng cử viên Tổng thống Mỹ Donald Trump đã liên tục cảnh báo người Mỹ về mối nguy hiểm của con bạch tuộc mang tên Trung Quốc. Và trrong cách nhìn của tôi thì các China town là những cái hang của con bạch tuộc đó.
Đọc trên trang web SOI, tôi thấy một bài viết rất hay về hội họa Kenya trong một triển lãm quốc tế. Điều bài báo nói đến là “ một triển lãm hội họa Kenya ( Châu Phi ) nhưng lại là tranh đặc Tàu của các họa sỹ người Hoa định cư ở đó. Một cú đánh trắng trợn và một cái chết thảm thương của nền hội họa của nước Châu Phi này.
Nhớ lại cuộc cải tạo tư sản sau năm 1975 ở thành phố Hồ Chí Minh. Người ta có thể vẫn tranh luận về cuộc cải tạo này khi bàn đến lịch sử sau 1975 của Việt Nam và đặc biệt khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng một điều tôi muốn nói đến là việc “xóa” đi hệ thống tài phiệt người Hoa ở Chợ Lớn. Nếu không, nền kinh tế Việt Nam bây giờ sẽ chịu chi phối còn khủng khiếp hơn nhiều lần của những người Hoa ở cái quận 5 với diện tích khiêm tốn đó. Cuộc cải tạo tư sản lúc đó và sự ra đi khỏi Việt Nam của hàng trăm vạn người Hoa đã tháo đi một phần mối hiểm họa khổng lồ cho Việt Nam sau này. Nhưng chúng ta đâu ngờ, sau gần một nửa thế kỷ, người Trung Quốc đang trở lại Việt Nam với không ít thách thức và đe dọa về nhiều mặt như văn hóa, môi trường, kinh tế và cả an ninh.
Tôi đã nói khá kỹ về phần nghiên cứu về China town của nhà nghiên cứu xã hội Úc trên một tờ báo trong nước từ những năm 1990 của thế kỷ trước. Tất nhiên ý kiến về một nguy cơ có vẻ “xa xôi” này chẳng làm ai chú ý. Giống như khởi đầu của những China town - phố Tàu trong những ngày đầu xuất hiện.
NGHIÊN CỨU SINH
Trong một tài liệu nghiên cứu của của một tác giả Mỹ cho thấy : từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, hàng năm Trung Quốc gửi từ 70 đến 80 ngàn nghiên cứu sinh, sinh viên đến Mỹ. Những nghiên cứu sinh này được nhận học bổng toàn phần của chính phủ Trung Quốc. Họ học hành rất chăm chỉ. Sau khi kết thúc thời gian học của mình, họ tìm cách ở lại làm việc trong các cơ quan, trường đại học, viện nghiên cứu... của Mỹ rồi dần dần trở thành công dân Mỹ.
Tác giả đưa ra tài liệu này nói : việc các nghiên cứu sinh Trung Quốc ở lại Mỹ là chủ trương của chính phủ Trung Quốc. Tài liệu này cảnh báo về nguy cơ người Trung Quốc sẽ “ăn rỗng” các cơ quan của Mỹ. Đây thực sự là một chiến lược lâu dài của Trung Quốc trong mưu đồ bành trướng của họ.
Nhiều người chúng ta không thể quên tư liệu về cố Tổng bí thư Lê Duẩn khi gặp Mao Trạch Đông. Lúc đó, Mao Trạch Đông đã công khai về chiến lược đưa người Trung Quốc trước hết đến các nước trong khu vực trong đó có Việt Nam bằng nhiều hình thức. Chính cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã tìm mọi cách chống lại việc Trung Quốc đưa công nhân và lính Trung Quốc vào Việt Nam trong thời gian chiến tranh trên danh nghĩa giúp đỡ Việt Nam chống lại quân đội Mỹ. Nhưng thực chất lúc đó, Trung Quốc đã bắt tay Mỹ và phản bội lại người Việt Nam trong cuộc chiến tranh này.
Tôi đã từng viết về một thanh niên Trung Quốc bán trứng ở Australia. Anh ta kiên nhẫn ngày ngày xách một khay trừng đi bán. Sự kiên nhẫn của anh mà tôi nhìn thấy làm cho tôi nghĩ rằng sẽ không có gì có thể làm cho sự kiên nhẫn của anh ta gục ngã. Dù anh ta không nói nhưng tôi biết bên trong đôi mắt một mí kia là một tham vọng ghê gớm và một sự kiên nhẫn kinh hoàng. Đã có những người Trung Quốc nhẫn nại bán từng gói lạc rang húng lìu, từng chiếc bánh bao nhân thịt…trở thành những tỉ phú. Và người thanh niên bán trứng kia cũng mang tham vọng ấy.
Và lúc này, tôi muốn nói về Lou, một sinh viên Trung Quốc theo học ở Mỹ. Tôi gặp Lou ở nhà một giáo sư Mỹ. Người giáo sư bạn tôi thấy gia đình Lou khó khăn đã giúp đỡ cậu bằng cách đưa cậu về ở nhà mình. Lou ở trong một căn phòng nhỏ dưới tầng hầm. Cậu nói bố mẹ cậu làm công nhân và thật khó để kiếm được số đô la cho cậu đóng tiền học ở mức thấp nhất trong một năm.
Nhưng sau một năm, cậu đã tìm cách xin được học bổng toàn phần. Cậu cứ lặng lẽ gặp từng giáo sư Mỹ dạy cậu và những người có liên quan ở trường và cuối cùng cậu đã “thắng” từng giáo sư dẫn đến “thắng” tất Hội đồng giáo sư và họ đồng ý trao học bổng toàn phần cho cậu. Và hàng ngày, cậu vẫn lặng lẽ lên xe của con cái chúng ta để đi nhờ đến trường trong tuyết lạnh.
Một buổi sáng tôi nhìn thấy cậu ăn mỳ tôm với sườn nướng mà chúng tôi nướng từ chiều hôm trước chưa ăn hết. Cậu ngồi ăn kiên nhẫn không để lại một chút thịt nào trên cái xương sườn đó. Đó là mỳ tôm Hảo Hảo mà chúng tôi mang từ Việt Nam sang và sườn nướng ướp theo kiểu Mỹ.
Có thể, mỳ tôm và sườn nướng kia không hợp với khẩu vị của cậu như há cảo, vằn thắn, màn thầu… Nhưng mỳ tôm của ai, sườn nướng ướp gia vị gì không quan trọng với cậu lúc này. Cậu cần phải ăn và cần phải đi tiếp con đường đã vạch trong đầu cậu và có thể cả những tham vọng phía sau đôi mắt một mí ấy.
Trong mấy ngày ở trong ngôi nhà người bạn giáo sư, tôi thấy cậu mang dáng vẻ của một cậu bé con nhà ngèo và yếu thế qua cách ăn nói, đi đứng. Nhưng có thể đến một ngày nào đó, cậu bỗng hiện ra là một người khác và mua một biệt thự sang trọng, giành lấy một trang trại… và đến lúc dựng lên một cái China town và biến nơi cậu ở nhờ thành vương quốc của người Trung Quốc và biến những người giúp đỡ cậu trở thành người làm thuê cho cậu chứ không phải ở trong một phòng dưới tầng hầm mà người ta giành cho cậu với sự chia sẻ và biến những người khác thành kẻ cầu xin mình. Nhưng bây giờ, cậu chỉ là một sinh viên như con cái chúng ta. Cậu đang cầu xin người khác hãy thương cậu, hãy giúp cậu. Và với lòng nhân ái, những người tốt đã đưa bàn tay về phía cậu. Đấy là một trong những tính cách của người Trung Quốc
Năm 2009, trên báo Vietnamnet, tôi đã chủ trì bàn tròn với các nhà nghiên cứu kinh tế là bà Chi Lan, ông Nguyễn Minh Phong và ông Thân Đức Việt về “cuộc xâm lăng của hàng giả, hàng độc hại Trung Quốc vào Việt Nam”. Sau đó, tham tán kinh tế - thương mại của sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội ông Hồ Tỏa Cẩm đã làm việc với Bộ Thông tin và Truyền thông để phản đối nội dung của bàn tròn này. Ông Hồ Tỏa Cẩm khẳng định tình hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng thực tế đã phản lại những tuyên bố của ông ta về tình hữu nghĩ Trung Quốc - Việt Nam. Càng ngày, chúng ta càng nhận rõ những gì mà Trung Quốc đã và đang làm với Việt Nam đặc biệt vấn đề biển đông mà người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam thường xuyên lên tiếng phản đối.
Việc đưa người Trung Quốc đến các quốc gia trên thế giới để từng bước mở rộng “ biên giới” Trung Quốc trên thế giới là một chiến lược không thay đổi và càng ngày càng được thực hiện một cách quyết liệt mà một hình thức rất phổ biến là China town. Đã từ lâu, thế giới đã cảnh báo về điều này. Mối đe dọa của Trung Quốc mà tôi tạm gọi bằng một cái tên chung là China town không chỉ là mối đe dọa đối với các quốc gia nhỏ mà đối với cả những quốc gia lớn như Mỹ hay Úc.
( Bài in trên báo Pháp Luật & Cuộc Sống. Anh dưới : Phố Tàu. nguồn internet )

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cái sảy nảy cái ung !


Ngọc Vinh
Dân mạng đang moi ra từng lỗ chân lông của ông Nguyễn Hòa Bình vì họ cho rằng ông đã bẻ cong công lý trong vụ xử Hồ Duy Hải. 
Cũng có thể đối thủ của ông lợi dụng vụ án để tung hồ sơ hạ nốc ao ông, nhưng ông chỉ có thể trách mình mà thôi, vì đã tự đưa đầu vào thòng lọng.
Có thể nói, chính Hồ Duy Hải đã hạ gục ông chớ ko phải ai khác! 
Sau vụ nhà cửa vợ con, giờ tới năm sinh khác nhau của ông, giữa lý lịch quan chức và...sổ đỏ nhà đất, giữa 1958 và 1953.
Chênh nhau 5 tuổi, bằng tuổi một nhiệm kỳ chớ ít đâu!
Trước ông Bình, nhiều quan chức bị tố khai man năm sinh để kéo dài tuổi làm quan.
Đúng là sống trong một xã hội gù lưng thì khó có thể thẳng được.
-------
(Hàng này là hàng thiệt, được cung cấp bởi 1 chuyên viên Văn phòng ubndtphcm)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dân tộc nào mà hèn yếu nhu nhược nhút nhát khuất phục trước kẻ xâm phạm nơi ăn chốn ở của mình ...?


Những vụ việc như chủ quyền ,bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ là những công việc luôn phải thường trực trong tâm trí như thế mới xứng đáng được gọi là công dân Việt Nam ...? 
Nếu không như thế thì xin hỏi ; -- anh là ai ..? 
Dân tộc nào mà hèn yếu nhu nhược nhút nhát khuất phục trước kẻ xâm phạm nơi ăn chốn ở của mình ...?
Đến con thú vật còn biết bảo vệ sống chết với cái hang của mình là bất khả xâm phạm khi nó chưa cho phép đi vào bất kể đối thủ là ai cứ nhìn vào thiên nhiên ắt sẽ thấy điều đó hiển nhiên ..?
Không cần và phải thụ động đợi tới sự đề nghị của cử tri .Đại biểu là tinh hoa đại diện buộc phải nhận thức và ý thức trước cả những suy nghĩ của cử tri mà mình là đại diện ..!
Đại biểu cũng là một công dân ưu tú hơn các công dân khác mà mình là đại diện cần thể hiện trăn trở trước công dân về chủ quyền biển đảo ..!
Sự ổn đình không nằm ở việc dây dưa dai dẳng không rõ ràng chủ quyền mà sự ổn định đến từ dứt khoát minh bạch rõ ràng theo luật pháp quốc tế đã quy định ..!
Sự đạt được từ trước tới nay không hạn chế mà có vẽ đã mất dần, đến mất hẳn khi Trung Quốc càng ngày càng thể hiện bá quyền ngang ngược ỷ lớn hiếp đáp nước yếu
Lệ thuộc bị động ngày càng sâu rộng càng nhún nhường chúng càng lấn tới đến mức không cho ta được mở miệng nữa ..?
Không chờ tới đề nghị mà đại biểu cho nhân dân cần hành động hết khả năng của mình và khả năng của công dân ..?
TUOITRE.VN
TTO - “Đảng, Quốc hội, Chính phủ luôn luôn có ý thức về trách nhiệm của mình với cha ông, anh linh các anh hùng liệt sĩ trong việc gìn giữ chủ quyền trên bộ cũng như biển đảo của chúng ta”, Bí thư Nguyễn Thiện Nhân khẳng định.

Phần nhận xét hiển thị trên trang