Liên quan đến Nghị định số 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử, nhiều người băn khoăn việc chia sẻ các bài báo trên mạng xã hội có bị phạt hay không?
Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP, có hiệu lực kể từ ngày 15.4.2020, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử quy định:
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để cung cấp, chia sẻ các tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm mà không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc chưa được phép lưu hành hoặc đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu;…
Biện pháp khắc phục hậu quả là buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này''.
Trước quy định này, nhiều người băn khoăn việc chia sẻ các bài báo trên mạng xã hội có bị phạt hay không?
Trao đổi với phóng viên Một Thế Giới, luật sư Nguyễn Ngọc Hùng, Trưởng Văn phòng Luật Kết Nối cho biết, tác phẩm báo chí quy định tại điểm c khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ là tác phẩm có nội dung độc lập và cấu tạo hoàn chỉnh, bao gồm các thể loại: Phóng sự, ghi nhanh, tường thuật, phỏng vấn, phản ánh, điều tra, bình luận, xã luận, chuyên luận, ký báo chí và các thể loại báo chí khác nhằm đăng, phát trên báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử hoặc các phương tiện khác.
Theo điều 15 Luật Sở hữu trí tuệ thì: “Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả; Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin; Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó; Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu''.
Trong khi đó, căn cứ theo Khoản 1, Điều 3 Luật báo chí thì: “Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử''.
Căn cứ Khoản 2, Điều 4 Luật báo chí thì báo chí có nhiệm vụ, quyền hạn thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân; Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ, Mục đích của cơ quan báo chí.
Báo chí góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của Nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Báo chí cũng phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của Nhân dân; d) Phát hiện, nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Góp phần giữ gìn sự trong sáng và phát triển tiếng Việt, tiếng của các dân tộc thiểu số Việt Nam; Mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc, tham gia vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, hữu nghị, hợp tác, phát triển bền vững.
Như vậy, ông Hùng cho biết với các bản tin, bài viết nêu lên sự kiện thuần túy, tin tức, văn bản pháp luật sẽ không được bảo hộ, và mọi người hoàn toàn được quyền tiếp cận, chia sẻ.
Cũng theo luật sư này, căn cứ Khoản 4, điều 21 Nghị định 22/2018/NĐ-CP hướng dẫn về Quyền tác giả và quyền liên quan có quy định về quyền tài sản của chủ sở hữu. Theo đó, quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ là quyền của chủ sở hữu, quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến công chúng mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn.
“Vậy thì ngoài các bản tin, bài viết nêu lên sự kiện thuần túy, tin tức, văn bản pháp luật sẽ không được bảo hộ, và mọi người hoàn toàn được quyền tiếp cận, chia sẻ. Những bài viết còn lại, các tờ báo, tạp chí, kênh truyền hình đều có những nút, ký hiệu cho phép người đọc “share” (chia sẻ) bài viết đến công chúng. Hay nói cách khác “chủ sở hữu” đã cho phép người đọc được quyền chia sẻ bài viết đến công chúng theo các cách thức, thời gian, địa điểm do chính người đọc lựa chọn”, ông Hùng nói.
Thực tế, ông Hùng cho hay, hầu hết các kênh báo chí, truyền hình nếu không có thỏa thuận trả phí khi đọc, xem hoặc cấm share bài viết thì đều cho phép đọc, xem được phép share bài viết. Tuy nhiên, khi share hoặc dẫn nguồn bài viết cần phải tôn trọng các quy định về việc ghi rõ dẫn nguồn, ghi nguồn tác giả hoặc dẫn chứng bài viết để làm căn cứ bài viết khác.
Lam Thanh
Phần nhận xét hiển thị trên trang