Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 18 tháng 3, 2020

MƯỜI NĂM NGÀY MẤT NHÀ THƠ HỮU LOAN.



POST LẠI BÀI ĐÃ ĐĂNG TRÊN TALAWAS (HH CỦA BÁO LAO ĐỘNG NHẬN BÀI CỦA HỮU LOAN TỪ 1990 NHƯNG ĐẾN 2007 MỚI CÔNG BỐ VỚI TƯ CÁCH PHÓNG VIÊN CỦA TỜ BÁO MẠNG Ở BERLIN)!
Hữu Loan
Tự phỏng vấn
Năm 1988, khi cuộc Đổi mới bắt đầu, nhà thơ Hữu Loan rất phấn chấn. Ông đã viết một bài "tự phỏng vấn" gửi cho báo Lao động Chủ nhật nhưng không được in. Nay, 19 năm sau, nhà thơ 91 tuổi đã đồng ý để talawas công bố bài trên. Các chú thích trong bài được phóng viên talawas ghi trực tiếp theo lời của nhà thơ và gia đình trong cuộc gặp gỡ mới đây tại nhà ông.
talawas
Nhà thơ Hữu Loan (ảnh: HH-talawas)
Tiểu sử
Tên Hữu Loan cũng có tên đời là Nguyễn Văn Dao, Sắt Đỏ, Tốt Đỏ, Binh Nhì… Tên chợ là Ông già Vườn Lồi (Phù Viên Lỗi). Sinh năm Bính Thìn (1916), tại thôn Vân Hoàn, Nga Sơn, Thanh Hóa.
Từ 1936 đến 1942 làm cách mạng trong phong trào học sinh và nhà trường.
Từ 1943 đến 1945 về đi cày và đánh cá, làm Việt Minh và làm khởi nghĩa huyện nhà [1] . Cùng năm làm Ủy ban Lâm thời tỉnh phụ trách 4 ty Giáo dục, Thông tin, Công chính và Thương chính. Chán lại về đi cày và đánh cá nuôi bố mẹ già.
Từ nửa năm 1946 đến 1951, điện mời làm chủ bút báo Chiến sĩ Quân khu IV ở Huế. Gặp Nguyễn Sơn, ủng hộ đường lối ưu tiên với văn nghệ sĩ [2] .
Khi Nguyễn Sơn bị đình chỉ công tác, trả cho Trung Quốc, đường lối Nguyễn Sơn bị Lê Chưởng và Hoàng Minh Thi phản đối, Hữu Loan đề nghị giữ Phạm Duy ở lại không được, lại về đi cày cho đến 1954 tiếp quản thủ đô lại có điện mời ra làm biên tập cho báo Văn nghệ, được mời vào làm hội viên Hội Nhà văn. Sau tham gia Nhân văn rồi bỏ về đi cày, đi thồ, từ 1958 cho đến giờ (cuối 1987) [3] …
Phóng viên: Từ mấy chục năm nay trong dân gian và trong văn học thường hay nói đến "Nhân văn-Giai phẩm", đến "vụ án Nhân văn-Giai phẩm" như là một chuyện gì ghê gớm lắm mà những người đã tham gia vụ ấy là những tên đầu trộm đuôi cướp, lừa đảo không thể dung tha được, những bọn cặn bã xấu xa nhất của xã hội ta. Nhưng trong thực tế thì thơ, nhạc của họ đều được nhân dân truyền tụng ngầm rồi đến công khai, cấm cũng không xong, càng ngày càng lan tràn. Ngay cả đến nhà nước lại cũng đã tuyên bố phục hồi cho họ, in lại thơ, lại nhạc. Như thế là trước kia không phải họ sai mà nhà nước sai hay sao? Nếu nhà nước sai thì làm gì còn có "vụ án Nhân văn"? Có sai mới có án, mà đã không thì cái gọi là "vụ án Nhân văn" là một vụ oan. Nhưng mới gần đây vẫn có người trịnh trọng tuyên bố "vụ Nhân văn" là một vụ án. Chúng tôi là những người cầm bút chuyên môn mà vẫn thấy mâu thuẫn khó hiểu, huống hồ người dân thì lâu nay chỉ được thông tin một chiều… Họ thắc mắc hỏi chúng tôi, chúng tôi rất lúng túng không giải thích nổi. Vậy thì thưa ông Hữu Loan, ông đã là người trong cuộc, xin ông giảng lại cho: Thế nào là "Nhân văn"? Thế nào là "Vụ án Nhân văn"?
Hữu Loan: Tất cả mọi cái này, tôi đã có ý kiến đầy đủ trong bản kiểm điểm của tôi ở trại chỉnh huấn Nhân văn. Các anh nên đến qua Công an Hà Nội tìm đọc thì hơn.
Phóng viên: Bác ngại sao?
Hữu Loan: Cũng ngại chứ!
Phóng viên: Vì sao vậy?
Hữu Loan: Vì tuổi tác cũng có. Nhất là vì mới đây thấy hưởng ứng lời kêu gọi tự do báo chí, Nguyên Ngọc chỉ cho đăng số bài của các nơi gửi về mà đã bị kết tội là sai phạm lệch lạc nghiêm trọng hơn nhiều, rồi hết cuộc họp này đến cuộc họp khác, để kiểm điểm, để bàn cách đối phó. Nhưng dù sao, khắp nơi các báo chí đều dám lên tiếng ủng hộ Nguyên Ngọc.
Còn hồi tôi về thì không một người bạn nào dám đến đưa chân ngay ở nhà chứ đừng nói ra ga, mặc dù có những bạn tôi đã đấu tranh cho được vào biên chế, được vào Hội Nhà văn mà mới cách đây vài năm đi công tác qua nhà tôi cũng vẫn còn sợ liên quan không dám vào. Họ đều đổ cho là tại chế độ, tại tình hình. Nhưng nếu chế độ là chế độ thì người cũng phải là người chứ. Cái gì cũng có giới hạn của nó. Đấy là bè bạn, là người ngoài. Ruột thịt đối với tôi còn tàn nhẫn hơn nhiều.
Những năm 1943, 1944, 1945, Nhật đánh Pháp ở ta dữ dội, trường tư tôi dạy phải đóng cửa, tôi về quê vừa làm ruộng, đánh cá để nuôi bố mẹ và để hoạt động Việt Minh bí mật. Mấy năm ấy đói to. Bố mẹ tôi vẫn phải nhịn cháo rau cho cán bộ Việt Minh bí mật về ăn. Những người cùng ở ban khởi nghĩa với tôi làm to cả, gia đình nào bố mẹ cũng sung sướng, nguyên tôi lại về. Mẹ tôi buồn ốm chết. Bố tôi chửi tôi:
“Mày làm Việt Minh chặt hết của tao một giặng tre để rào làng, rào giếng.”
Các cháu trong nhà trong họ không đứa nào không chửi:
“Ông về là đúng! Trời làm tội ông. Lúc ông phụ trách 4 ty còn ai nhiều chức hơn ông mà con cháu chả đứa nào được nhờ. Ông cho trong huyện hơn bốn mươi người ra làm giáo viên, con cháu xin thì ông bảo: ‘Chúng mày rồi hẵng…’ Ông chỉ toàn khuyên các cháu đi bộ đội. Nghe ông, bốn đứa xung phong đi, giờ còn có một đứa về… Hồi Việt Minh còn đang bí mật, ông đứng ra lãnh gạo, muối, diêm về phát cho dân. Ông phát cho dân trước, đến lượt ông và con cháu ông lần nào cũng hụt, có lần hết sạch. Bây giờ ông coi họ lãnh sữa bột, dầu cải của quốc tế cho trẻ em, họ chia nhau trước, đến lượt trẻ em thì hết. Không ai dại như ông. Khi ông có tiêu chuẩn xe con, đi các huyện khác thì ông còn đi xe con chứ khi nào về huyện ta ông toàn đi xe đạp, trong khi những người không có tiêu chuẩn xe, họ mượn xe của ông để về vênh váo với làng nước. Ông bảo ông làm cách mạng, để cho cả làng được đi học. Khi cách mạng thành công thì thằng con ông thi đại học đậu thừa điểm đi nước ngoài họ không cho đi ngay cả trong nước và chúng đã thay vào chỗ con ông một tên Cường không đậu, tên na ná với tên con ông là Cương.”
Có đứa nó như phát điên và nó đã chửi tôi:
“Ông là loại ngu nhất. Ông bảo ông mẫu mực, cái mẫu mực ấy đem mà vứt cho nó ăn. Chả đứa nào nó thương ông. Ông tự làm khổ ông lại làm khổ lây đến con cháu…”
Mỗi lần như thế tôi phải đấu dịu với chúng:
“Thôi tao van chúng mày, nếu mẫu mực mà lại được ngay ô tô nhà lầu thì chúng tranh chết nhau để làm mẫu mực chứ chả đến phần tao. Ngay ngày 2/9, bên xã mổ thịt bán tự do cho dân về ăn Quốc khánh, tao biết thân phải đến rất sớm mà cũng chả đến phần. Những ông Đảng ủy, Ủy ban v.v… được mua trước, đến mình thì hết phần…”
Phóng viên: Như vậy là bác chán không muốn nói đến chuyện "Nhân văn-Giai phẩm" nữa?
Hữu Loan: Ai mà chả phải chán. Mình đấu tranh cho họ, bênh vực họ, khổ vì họ, họ lại đè mình họ chửi, họ oán. Những kẻ gây tai họa cho họ, họ lại cho là đúng, là gương để cho họ noi theo.
Phóng viên: Xưa nay bác vẫn là người nói thẳng, nói thật, lúc trẻ bác còn dám nói, giờ già rồi không lý nào bác lại sợ, lại hèn?
Hữu Loan: Anh kích tôi đấy phỏng? Tôi là người không bị động bao giờ.
Phóng viên: Cháu không dám hỗn thế đâu, nhưng đây là một vấn đề của lịch sử, trước sau rồi cũng phải đưa ra ánh sáng. Chỉ có bác là người trong cuộc, bác giúp cho bọn cháu thì nó cụ thể hơn, sát hơn, để các cháu có thể hiểu được những cái vô cùng rắc rối của giai đoạn xã hội hiện nay…
Hữu Loan: Thực ra nếu bên Liên Xô không có Khrushchev lật Stalin, đưa ra phong trào chống sùng bái cá nhân thì bên Tàu không làm gì Mao Trạch Đông đưa ra chuyện “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng" và bên ta hưởng ứng tức thời bằng phong trào mang tên dịch lại nhãn hiệu Trung Quốc “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Tên nôm na của ta là “Chống sùng bái cá nhân”.
Trước đó thì ở ta có hiện tượng rất phổ biến này: Khi gặp nhau, trước bất cứ câu đối đáp nào đều phải có nhóm thành ngữ “ơn Đảng ơn Bác" đứng đầu. Thí dụ:
“Ơn Đảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không?”
“Dạ, ơn Đảng ơn Bác lâu nay tôi ốm mãi, ơn Đảng ơn Bác tôi mới xuất viện được 2 hôm nay.”
“Ơn Đảng ơn Bác thế mà em không hay biết gì…”
Sau hàng tháng phát động đấu tranh kiểm điểm ở từng cơ quan để bỏ chữ Bác đi và thay thế bằng: “Ơn Đảng ơn Chính phủ”:
“Ơn Đảng ơn Chính phủ vụ mùa này thu hoạch có đủ nộp không?”
“Ơn Đảng ơn Chính phủ nhà em có con lợn mới độ 30 ký đang lớn, thanh niên cờ đỏ vào bắt nợ rồi, được bao nhiêu thóc đong hết sạch mà còn thiếu phải bù bằng lợn…”
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc liên tiếp bị đô hộ, hết Tàu đến Tây, đến Nhật, đến Mỹ… Cái khao khát, cái đói cố hữu của dân tộc này là đói độc lập, tự do, cơm áo. Khi thấy Đảng hứa đem lại những thứ ấy cho thì người dân tin tuyệt đối vào Đảng. Đảng bảo gì họ theo nấy, bảo phá nhà thì phá nhà, bảo bỏ ruộng thì bỏ ruộng, bảo bỏ bố bỏ mẹ, bỏ vợ bỏ chồng, bỏ Trời bỏ Phật, bỏ được tất, còn dễ hơn từ bỏ đôi dép rách. Anh đội trưởng cải cách chỉ là một sứ giả của Đảng mà dân cũng đã tin hơn trời: “Nhất đội nhì trời”.
Lòng dân tin vào Đảng không thước nào đo được, nên khi phát động để phủ nhận một điều gì Đảng đã chủ trương trước kia, thật là vô cùng khó khăn. Nguyên chỉ để thay đổi câu “Ơn Bác ơn Đảng” và kiểm điểm những việc làm trước kia có tính chất sùng bái cá nhân mà cũng mất hàng tháng phát động ở mọi cơ quan.
Khẩu hiệu là “Nói thẳng, nói thật, nói hết để xây dựng Đảng!” Không những nói mồm mà còn viết lên các báo. Không những viết lên các báo nhà nước mà còn khuyến khích mở báo tư nhân để viết. Vì thế mới có Nhân văn, Giai phẩm của chúng tôi. Và Trăm hoa của Nguyễn Bính.
Bài thơ “Màu tím hoa sim” của tôi (từ trước vẫn do dân tự tiện truyền tụng ngầm, bất chấp lệnh nghiêm cấm của những tướng trấn ải giáo điều), được đăng công khai lần đầu tiên báo Trăm hoa. Nguyễn Bính còn cho thuê taxi có loa phóng thanh đi quảng cáo khắp Hà Nội là Trăm hoa số này có thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan. Mấy tháng sau tôi đi cải cách ruộng đất, làm bài thơ “Hoa lúa”, 22 anh em nhà báo nhà văn đi cải cách truyền tay nhau chép. Chị Bạch Diệp báo Nhân dân xin chép đầu tiên, nhưng ý trung nhân của chị là anh Xuân Diệu ở báo Văn nghệ không đăng, bảo là thơ tình cảm hữu khuynh, mất lập trường. Trần Lê Văn đến mách với Nguyễn Bính, Bính đến xin ngày bài “Hoa lúa” về đăng Trăm hoa. Anh Bính còn làm một cử chỉ rất hào hùng là đem đến trả cho vợ tôi 15 đồng nhuận bút, trong khi đăng Văn nghệ chỉ được 7 đồng.
Anh bảo với vợ tôi: “Hữu Loan ở nhà thì tôi xin (tôi vẫn viết không lấy nhuận bút để giúp những tờ báo nghèo, mới ra) nhưng Hữu Loan đi cải cách chị cũng cần tiêu (15đ bằng 150.000đ bây giờ). Một chỉ vàng lúc ấy mới 20 đ. Nói ra điều này để thấy rằng mức sống của người cầm bút hiện nay đã vô cùng xuống dốc. Nhuận bút của cả một quyển sách hiện nay không bằng tiền của một bài thơ Nguyễn Bính trả cho tôi. Nhà thơ Tố Hữu đã có dự báo thiên tài: “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng!” Từ ấy đến giờ xuống dốc tuồn tuột không phanh, không thắng…
Chính sự xuống cấp thảm hại trong đời sống đã là nguyên nhân chính trong việc lưu manh hóa một số nhà văn, họ đã phải uốn cong ngòi bút, cũng như trong việc in sách đen sách trắng vừa rồi.
Phóng viên: Xin bác cho biết lại về vụ "Nhân văn".
Hữu Loan: “Nói thẳng nói thật, nói hết, để xây dựng Đảng”. Không những chỉ có Nhân văn hay Trăm hoa mới nói thật, mà cả nước nói thật. Cả nước kêu oan. Những “Ban Giải oan” đã thành lập để vào trong các nhà tù giải oan cho hàng vạn người bị cải cách quy oan….
Nhưng đã ăn thua gì. Đơn từ kêu oan từ các nơi gửi về tòa soạn Nhân văn thật đã cao bằng đầu, như “đống xương vô định”. Nhân văn đã xếp thành văn kiện chuyển cho Trung ương Đảng nghiên cứu để thay đổi chính sách. Thật ra Nhân văn chỉ khái quát tình hình để đúc thành lý luận. Bài báo bị cho là phản động, phản Đảng, phản dân nhất của Nhân văn là bài “Vấn đề pháp trị” do Nguyễn Hữu Đang viết [4] .
Trong bài ý nói: sở dĩ chỗ nào cũng có áp bức chà đạp lên con người là vì chưa có pháp luật rõ ràng. Tòa án là một tòa án tha hồ tùy tiện còn hơn Tôn giáo Pháp đình của giáo hội La Mã hồi Trung Cổ. Muốn bắt ai thì bắt, muốn xử ai thì xử, bịa ra luật nặng nhẹ tha hồ để xử… Bài báo kêu gọi cần phải phân quyền thì người dân mới có bình đẳng trước pháp luật… Sau hơn ba mươi năm do tình trạng pháp luật tùy tiện mà xã hội xuống cấp một cách tệ hại như hiện nay. Vấn đề hàng đầu đang đặt ra để giải quyết cũng là mấy vấn đề pháp trị mà Nguyễn Hữu Đang đã đặt ra cách đây hơn 30 năm (mà phải nói đây là vấn đề sống còn của chế độ).
Không có một cộng đồng nào mà thành viên nào cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh, không người nào biết phải biết trái, mà sống nổi lâu dài. Nhân loại sinh ra để hợp tác với nhau, để tin nhau là chính, mới sống được đến giờ. Ngày xưa, ngay hồi Pháp thuộc cả một vùng lớn như một huyện mới có độ 5 – 6 tên trộm mà trộm không được pháp luật bênh như thế, mà dân cũng còn lo ngay ngáy cho số phận trâu bò của cải của mình. Còn bây giờ thì chỉ một thôn thôi cũng có hàng vài chục tên trộm cướp công khai, coi thường pháp luật thì hỏi người dân còn an cư thế nào để lạc nghiệp được?
Một vấn đề nữa Nhân văn đặt ra là “Vấn đề Trần Dần” đăng trong Nhân văn số 1, có chân dung Trần Dần to tướng với một vết dao lam cứa cổ to tướng do danh họa Nguyễn Sáng vẽ [5] .
Từ trước ai cũng một lòng tin Đảng, cả trong lĩnh vực văn học. Tự Liên Xô đưa về rồi tự Diên An đưa sang, tài liệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, tức là con đường đi lên trong văn học nghệ thuật. Nghĩa là văn nghệ chỉ được nói đến cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao giờ mới có chứ không được nói đến những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt. Rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng trưởng tốt, phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn học không được nói thực mà phải dựng lên toàn là những người lý tưởng. Luận điệu thuộc lòng là: Không có ăn cắp mới lạ, có ăn cắp là tất nhiên. Đấy là thứ sốt rét vỡ da của nhân vật khổng lồ, của một chế độ khổng lồ!
Cũng thành khổng lồ thật nhưng lại là khổng lồ đi xuống, một thứ quỷ khổng lồ hay một thứ khổng lồ không tim như đã dự báo trong một truyện ngắn ở Nhân văn. [6]
Đường lối đó ở ta đã được ông Trường Chinh tiếp thu và bảo vệ, và truyền giáo như một thánh tông đồ xuất sắc.
Một người nhà báo hỏi ông:
“Như vậy là Cách mạng đã cấm tự do ngôn luận.”
Ông Trương Chinh sửng sốt:
“Anh nói sao? Các anh được tha hồ tự do chửi đế quốc đó thôi.”
Như thế là đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa đã cấm hẳn hiện thực phê phán là thứ vũ khí sắc bén nhất của báo chí để cải tạo kịp thời xã hội. Lý luận hiện thực XHCN này được học tập ráo riết trong quân đội, trung tâm đào tạo những tông đồ để áp dụng và đi phổ thuyết về “con đường đi lên” là Tổng cục Chính trị lúc bấy giờ do ông Nguyễn Chí Thanh làm Tổng cục trưởng và ông Tố Hữu làm Tổng cục phó. Trong số văn nghệ sĩ phản đối đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa có Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Tử Phác… Có lẽ quyết liệt nhất là Trần Dần, nên Trần Dần bị bắt giam và trong nhà giam Trần Dần đã dùng dao lam cắt ven cổ nhưng chỉ toác da, chưa đứt đến ven thì đã kịp thời chặn lại.
Vì thế mà có bài “Vấn đề Trần Dần” trong Nhân văn số 1 như đã nói trên. Đây là một vấn đề văn học, hoàn toàn văn học. Đây là một cử chỉ khí tiết của nho sĩ Việt Nam trước cường quyền không bao giờ là không có, dù cường quyền có thiên la địa võng đến đâu thì cái truyền thống đáng tự hào ấy, cái hồn thiêng của sông núi ấy không tà khí nào làm mờ nổi. Trần Dần chỉ là hậu thân của những người đã viết “Vạn ngôn thư”, “Thất trảm sớ”… Cũng như vấn đề pháp trị của Nguyễn Hữu Đang, vấn đề văn học mà Trần Dần đòi xét lại cách đây hơn 30 năm hiện giờ vẫn đang rất là thời sự. Cái tai họa lớn nhất hiện giờ vẫn là do khuyến khích tô hồng, đề cao người giả, việc giả, hàng giả… Những người thấy trước tai họa, chân tình muốn ngăn chặn tệ nạn xã hội tô hồng thì bị gán ngay cho cái tội bôi đen.
Đáng nhẽ những người như Nguyễn Hữu Đang và Trần Dần phải được một giải thưởng quốc gia, một cái giải vinh quang là đã đưa ra được giải pháp để cứu nguy cho dân tộc.
Nhưng trái lại, lại vu oan giá họa, đặt lên đầu họ cái án gọi là "án Nhân văn".
Thực ra Nhân văn hưởng ứng lời Đảng gọi: “Nói thật, nói thẳng, nói hết để xây dựng Đảng", và chỉ đấu tranh cho tự do báo chí, tự do ngôn luận mong thực hiện tự do bầu cử vào quốc hội, vào chính phủ. Chỉ cần thực hiện thật sự dân chủ nội dung của Hiến pháp là cũng đã lý tưởng rồi.
Hiện nay báo Văn nghệ cũng đang làm cái việc như Nhân văn ngày xưa làm, cũng do được kêu gọi, được giao trách nhiệm Nguyên Ngọc mới dám làm, và báo Văn nghệ cũng đang bị khép tội là mắc những lệch lạc nghiêm trọng.
Có điều khác là: Nhân văn ngày xưa đơn độc, khi bị đánh không ai dám bênh, ngậm cái miệng cúi đầu mà mang án. Còn bây giờ thì hoàn cảnh trong nước và ngoài nước đã khác. Không thể đóng cửa mãi ở trong nhà và ngủ yên được mãi trên những sai lầm vô định. Khi Nguyên Ngọc bị đánh, đã có báo chí khắp nơi lên tiếng, những bản kiến nghị đang tiếp tục gửi về…
Nếu phong trào tự do báo chí, phong trào ủng hộ Nguyên Ngọc và báo Văn nghệ mà bị dập, tức là bọn quan liêu cơ hội thắng thế, kết quả là xúc tiến sự sụp đổ toàn diện, sự tổng khủng hoảng kinh tế cũng như chính trị và uy tín của Đảng sẽ bị mất hoàn toàn vì bọn chúng. Quần chúng sẽ mất hết tin tưởng vào Đảng.
Từ trước tới giờ: làm sai cũng là bọn cơ hội, kêu gào sửa sai cũng là chúng, rồi đàn áp sửa sai cũng lại là chúng. Khi sai quá rồi không sửa thì dân không chịu nổi phải nổ. Nhưng sửa đến triệt để thì cháy nhà lại ra mặt chuột, nên cứ nửa chừng thì lại đàn áp sửa sai; chúng vu cho những người đã từng làm theo chúng tội rất nặng, càng nặng thì quần chúng càng dễ quên tội của chúng và cho rằng những rối loạn trước kia là do âm mưu bọn sửa sai gây ra. Chúng bàn nhau mưu kế dựng chuyện theo bài bản, những ông trên không sát cũng phải tin như thật.
Chính Nguyễn Hữu Đang đã rơi vào trường hợp như vậy.
Đang là người giác ngộ cách mạng sớm. Anh là linh hồn của Hội Truyền bá Quốc ngữ mà cụ Nguyễn Văn Tố là danh nghĩa. Dựa vào Hội TBQN, Nguyễn Hữu Đang đã hoạt động cho mặt trận Văn hóa Cứu quốc. Những nhà văn như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, đều do Đang tổ chức vào mặt trận. Khi chính phủ vào Hà Nội, Nguyễn Hữu Đang là trưởng ban tổ chức lễ Tuyên ngôn Độc lập, sau làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên. Khi rút khỏi Hà Nội năm 1952-1953 vào Thanh Hóa, Nguyễn Hữu Đang là Tổng thanh tra Bình dân học vụ. Năm 1954 tiếp quản thủ đô, Trung ương cho xe vào Thanh Hóa mời Đang ra, muốn nhận bộ trưởng nào thì nhận, mời sinh hoạt Đảng, anh đều khước từ. Tôi hỏi vì sao, anh bảo:
“Nội bộ thiếu dân chủ trầm trọng, mình bây giờ chỉ một mình một Đảng.”
Sau hỏi anh làm gì, anh xin về làm nhà in, trình bày cho báo Văn nghệ.
Mãi đến gặp phong trào "Trăm hoa", Đảng phát động cho viết báo tự do, lại cho mở báo riêng thì anh Đang mới ra làm Nhân văn.
Anh Đang là một người rất có khả năng về chính trị cả về lý luận lẫn tổ chức, lại là một người rất hay giúp đỡ anh em và rất giữ lời hứa. Để một người có tài có đức như vậy thì bọn cơ hội hết đường xoay xở nên phải đánh. Một mặt phải phát động tố điêu dựng tội (như hồi cải cách dựng địa chủ) để đưa Nguyễn Hữu Đang lên thành phản động đầu sỏ. Một mặt sai điều động từ Thanh Hóa ra, từ các nơi về, hàng 6 sư đoàn để về vây thủ đô đề phòng bọn Nhân văn làm phản (trong khi Nhân văn chỉ mấy thằng đi kháng chiến về, đói rách trói gà không nổi). Việc điều động một lực lượng quân đội lớn như vậy mãi sau tôi về quê gặp những người ở trong các đơn vị ấy nói lại tôi mới biết.
Khi học tập, dựng tội cho Nguyễn Hữu Đang xong, cả lớp học sát khí đằng đằng hò hét nào là tên Đang, nào là thằng Đang phản động đầu sỏ. Mọi người ký vào kiến nghị lên Trung ương Đảng đòi xử tội đích đáng Nguyễn Hữu Đang. Tôi là người duy nhất đã ký như sau: “Khi Nguyễn Hữu Đang hoạt động với tôi, tôi thấy Nguyễn Hữu Đang là người có tài, có đức, tội trạng mới đây của Nguyễn Hữu Đang tôi chỉ tai nghe, mắt không thấy, tôi không dám kết luận. Ký tên: Hữu Loan"
Thế là Nguyễn Hữu Đang bị kết án 17 năm tù, mới đi được 7 năm thì nhờ đâu có sự can thiệp của Nhân quyền Quốc tế nên anh được tha. Đáng nhẽ không thưởng, không giải oan cho Nguyễn Hữu Đang thì im quách đi cho nó xong, đừng nay gào mai gào “Vụ Nhân văn là một vụ án chính trị!”. Gào như vậy nhưng nếu có ai hỏi đến để tìm hiểu lịch sử thì lại bảo “Đó là vụ án đã qua, bọn Nhân văn đã nhận tội không nên nhắc đến nữa!”.
Nếu không nhắc Nhân văn, sao người ta vẫn nhắc đến phát-xít, Hitler, đến Stalin, đến Pol Pot? Thậm chí bọn vua chúa hay Pháp Nhật Mỹ đã đi từ lâu rồi, mà bao nhiêu vụ ăn cắp cũng là do phong kiến đế quốc, bao vụ cưỡng hiếp phụ nữ trong cơ quan cũng là do phong kiến đế quốc, mặc dù những người thực hiện các vụ ấy đều thuần túy xã hội chủ nghĩa gốc Việt.
Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông có cấm nói đến mình được mãi không, dù là những bạo chúa, những nhà độc tài cỡ quốc tế?
Ngoài Nguyễn Hữu Đang còn có thêm những người này:
Phùng Cung, tác giả truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” [7] : 7 năm tù giam. Vũ Duy Lân (Bộ Nông lâm, bị nghi là cho Nguyễn Hữu Đang một áo len khi đang đi tù): bị giam 7 năm mới tha.
Giám đốc Nhà xuất bản Minh Đức: 17 năm như Đang.
Nhà nước xuất bản thì lúc nào cũng kêu lỗ, mặc dù in nhiều hơn Minh Đức mà trả quyền tác giả lại rất rẻ mạt. Nhà Minh Đức xuất bản Vũ Trọng Phụng, mời con gái của Phụng lên lĩnh nhuận bút mà còn bỏ tiền về Hà Đông xây mộ cho Vũ Trọng Phụng. Minh Đức định xuất bản Kiều để vào xây mộ cho Nguyễn Du nhưng bị bắt. Ngoài ra từ 1954 đến 1956 Minh Đức còn mua được ½ nhà ưu giá 30.000đ (bằng 150 cây vàng). Nhà Minh Đức làm ăn lời lãi như vậy mà ngoài anh ta ra chỉ có thêm vài người giúp việc. Còn những nhà xuất bản của nhà nước thì nhà nào cũng rất đông người làm mà chả được bao nhiêu việc, nhà nào cũng kêu lỗ, nhưng vẫn cứ cố bao nhiêu rơm cũng ôm.
Xưa nay bất cứ ai nhận một công việc gì đều phải có trách nhiệm với công việc ấy, công việc càng khó khăn, lớn lao trách nhiệm càng nặng nề, ở ta lại toàn chuyện ngược đời. Một lái xe chặn chết người muốn sửa sai không được, anh phải đi tù, phải tước bằng. Anh bác sĩ chữa bệnh làm chết người cũng thế, phải tước bằng và đi tù. Đấy là những người làm chết ít người. Còn những người cầm vận mệnh của cả nước đã làm cho đồng bạc mất giá hàng vạn lần, làm cho hầu hết công nông trường xí nghiệp phá sản, cho 90% con cái gia đình thành lưu manh, cho 50% trẻ em mất dinh dưỡng, còn giết oan bao nhiêu người có tài, có đức, còn phá phách bao nhiêu công trình văn hóa lịch sử. Những con giun bị đạp gào lên: "Sai rồi!" thì họ rất bình tĩnh trả lời: "Sai thì sửa!" hoặc bất đắc dĩ phải sửa thì không sửa chân thành.
Họ vẫn núp dưới cờ Đảng để đi từ sai lầm tày trời này đến sai lầm tày trời khác. Họ đang làm cho dân không còn tin vào Đảng. Họ xúc phạm vào anh linh những đảng viên ưu tú đã nằm xuống. Họ coi thường những Đảng viên ưu tú đang sống, đang không ngớt đấu tranh để thể hiện những tính cách vô cùng cao quý của người cộng sản cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, khổ trước sướng sau v.v…
Hỡi những người Đảng viên quang vinh của Đảng Cộng sản vô cùng quang vinh, người dân đau khổ lâu đời lúc nào cũng đứng bên các bạn.
*
Phụ lục:
Hữu Loan
Giai thoại về một bài thơ
Hồi ấy vào đầu năm 1955. Tôi lúc ấy là cán bộ biên tập báo Văn nghệ ở Hà Nội. Tôi được cử đi cải cách ruộng đất ở xã Tứ Kỳ, Hải Dương. Cán bộ ai cũng “được” đi cải cách. Đấy là một vinh dự vì “chưa qua cải cách thì chưa thể làm người được".
Ngoài việc đi để làm người, tôi còn có nhiệm vụ viết bài cho báo. Theo tinh thần trong những buổi học tập trước khi đi thì nông dân được phát động vô cùng vui sướng phấn khởi. Ngay cả giai cấp địa chủ là có tội mà cũng không oán Đảng vì Đảng rất công minh. Nhưng thực tế thì khác nhiều. Địa chủ không dám oán đã đành nhưng nông dân, chính nông dân thì lại kêu ca rất nhiều về những hành động của anh em cốt cán, nhất là những gia đình liệt sĩ lại càng bị sách nhiễu hết mức như thu gian thuế, hay bắt phải làm cơm rượu cho hàng chục người ăn thì mới cho người đem giúp đến kho độ 5 yến thóc… Họ đều kêu là bao nhiêu từng áp bức, kêu trời, trời xa, kêu Bác Hồ còn cao hơn trời…
Tôi bèn làm một bài thơ gửi về tòa soạn.
Ngày hôm sau tôi nhận được điện khẩn của anh Xuân Diệu: “Hữu Loan về tòa soạn ngay!”. Chai lì như tôi mà vẫn thấy lo lắng. Vừa về gặp anh Xuân Diệu tôi hỏi ngay:
“Cái gì đấy anh? Lành hay dữ?”
Xuân Diệu trấn an ngay:
"Bài thơ hay quá!"
Tôi không khỏi lạ. Hay sao lại phải điện khẩn về, ai mà không khỏi hoảng.
“Nhưng phải sửa một câu thì mới đăng được.”
Tôi vội hỏi:
“Câu nào?”
“Câu: Cụ Hồ như trời cao / Kêu làm sao cho thấu!"
Tôi hơi bực:
“Đăng thì đăng cả, bỏ bỏ cả, cả bài tôi chỉ thích có câu ấy.”
Một lúc rồi Xuân Diệu mới rủ rỉ như tâm sự:
“Để câu ấy thì ra Bác kính yêu của chúng mình lại xa quần chúng à?”
Tôi khẳng định:
“Bác là thánh là trời thật, nhưng khi có những người cản mắt Bác thì Bác thấy quần chúng làm sao được. Chính những người như anh đang che mắt Bác đấy. Làm như tôi, lại không che. Tôi đề nghị anh thỉnh thị Bác, tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về bài thơ này.”
Tôi không hiểu anh Xuân Diệu có dám thỉnh thị Bác không, nhưng bài thơ của tôi không được đăng. Tôi chắc lý do không đăng là vì Bác lúc nào cũng quan tâm đến quần chúng, khi quần chúng khổ đã phải thét lên thành tiếng thì Bác không thể nào bình tĩnh được.
© 2007 talawas
[1]Ông gửi thư cho tên Bang tá ở huyện, vận động quan quân ở huyện hàng Việt Minh, không mất một viên đạn (theo lời kể của con trai út ông là Nguyễn Hữu Đán trước mặt ông).
[2]Ông cho biết là chính ông đi hỏi vợ cho tướng Nguyễn Sơn.
[3]Bà Phạm Thị Nhu, vợ ông, kể trước mặt ông một số chi tiết sau: "Khi ông nhà tôi quyết định bỏ về quê, gia đình rất túng bấn, bản thân tôi phải may khâu kiếm thêm. Lúc ấy ở quê lại đang chuẩn bị lên hợp tác xã, ông nhà tôi chỉ băn khoăn là về quê vợ con sẽ khổ, song ông bảo tôi: ‘Thôi thì bà với các con chịu khổ để cho tôi được sống lương thiện. Tôi mà chịu khó hót thì nhà lầu xe hơi sung sướng đấy, nhưng tôi không làm được.’ Ông ấy viết 4 lá đơn xin về, trong vòng hai năm mới được giải quyết. Lần cuối còn có hai anh cán bộ đến nhà vận động ông ở lại. Họ nói từ sáng đến trưa, ông bèn cầm cây bút lên bẻ làm đôi, bảo: ‘Làm cán bộ, làm nhà văn khó lắm. Viết vừa lòng nhà nước thì dân chửi cho, viết vừa lòng dân thì có thể đi tù như chơi. Thôi tôi về đi cày.’ Hai anh ấy lại nhờ tôi khuyên ông. Tôi bảo: ‘Nhà tôi đã quyết thì không ai nói được đâu.’ Chúng tôi nuôi 10 đứa con khôn lớn thật vô cùng vất vả. Ông nhà tôi đi thồ đá, tôi làm 2 sào ruộng, lại xay bột làm bánh bán ở chợ. Hôm nào bán ế là gánh về một gánh nặng, cả nhà ăn trừ bữa. Tôi cứ xào một xoong to toàn các thức rau, các con đi học về là nhào vào múc ăn thay cơm. Ba đứa trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ 3 giờ sáng, kéo 3 xe chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ cách 2 cây số, bán cho các thuyền rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ 7 cây số đi học."
[4]Chú thích của talawas: Tên bài viết này của Nguyễn Hữu Đang là “Cần phải chính quy hơn nữa”, đăng trên Nhân văn số 4, ở vị trí xã luận, trang 1 và trang 2, ngày 5.11.1956
[5]Chú thích của talawas: Tên bài hồi ký này của Hoàng Cầm là: “Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần”, đăng trên Nhân văn số 1, trang 2 và trang 4, ngày 20.9.1956
[6]Chú thích của talawas: Truyện ngắn “Thi sĩ máy” của Châm Văn Biếm, Nhân văn số 5, trang 3 và trang 4, ra ngày 20.11.1956
[7]Chú thích của talawas: Truyện ngắn này đăng trên Nhân văn số 4, trang 3, ngày 05.11.1956

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Ba, 17 tháng 3, 2020

Kissinger nói về chuyến đi lịch sử của Nixon tới Trung Quốc năm 1972



4 thập kỷ trước, một sự kiện quan trọng, gây ảnh hưởng lớn tới cục diện địa chính trị trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, trong suốt một thời kỳ kéo dài tới tận ngày nay, đó là việc Mỹ bắt tay với Trung Quốc qua chuyến thăm của Nixon vào tháng 2/1972.
Dưới đây là bài phỏng vấn của Mạng Truyền thông Công cộng (PBS) dành cho cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, về những nấc thang dẫn tới chuyến đi lịch sử này của Nixon.
– PBS: Lần đầu tiên ông được nghe Tổng thống cho biết ý tưởng về mở cửa quan hệ với Trung Quốc trong hoàn cảnh nào?
– Henry Kissinger: Tôi được đọc về nó trong một văn bản ông ta viết gửi Bộ Ngoại giao, và Nixon nói về mở cửa theo nghĩa chung trong vòng ít tuần sau khi bắt đầu nhiệm kỳ, bởi vì ông ta nghĩ rằng giải pháp này có thể tạo sức ép lên Liên Xô và tác động theo hướng có lợi cho Mỹ trong cuộc chiến ở Việt Nam. Nhưng ý tưởng này không được xây dựng một cách thật cụ thể, chỉ là ông ta muốn làm như vậy mà thôi. Và chúng tôi không hề biết sẽ làm bằng cách nào và đâu là cơ hội thích hợp để tiến hành.
– Có phải ông và Tổng thống quyết định giữ kín về chủ trương này trong phạm vi Nhà Trắng và Hội đồng An ninh Quốc gia?
– Đầu tiên chúng tôi muốn giữ kín tất cả chuyện này trong phạm vi Nhà Trắng. Một là vì bối cảnh lúc ấy đang là đỉnh cao của phong trào phản đối như mọi thông tin chạy qua các quan chức đều bị rò rỉ. Hai là vì nhiều quan chức cho rằng Tổng thống không được ủng hộ. Ông là vị Tổng thống không chạy theo định hướng quan điểm của tờ New York Times. Hồi đó làm vậy chẳng khác gì chống lại tạo hóa. Ba là nhiều quan chức và nhiều nhà ngoại giao cho rằng mở cửa với Trung Quốc là vô cùng nguy hiểm. Chẳng hạn như sau này khi chúng ta đưa ra một vài động thái, như cho phép mua hàng Trung Quốc ở Hong Kong với giá trị dưới vài trăm USD, đã có tới bốn đại sứ cao cấp gọi điện thoại cho Tổng thống và cảnh báo rằng ông ta đang gây ra rủi ro không thể chấp nhận được vì có thể gây hiềm khích với Liên Xô. Vì những lý do này nên chúng tôi đã cố gắng giữ tương đối kín chủ trương mở cửa với Trung Quốc trong phạm vi Nhà trắng. Ấy là trong giai đoạn đầu.

– Ông có thể mô tả Dubrininđã nói gì về những thương vong khốc liệt xảy ra với những người lính Liên Xô tại biên giới với Trung Quốc? Và ý định của ông ta là gì?
– Ban đầu chúng tôi phỏng đoán theo cách nghĩ truyền thống, rằng Trung Quốc rất cực đoan và vô cùng dữ dằn. Nhưng rồi một ngày Dubrinin tới và kể tóm tắt cho tôi về một cuộc đụng độ ở sông Yusuri, và nói về khả năng phối hợp giữa Mỹ và Liên Xô đưa tình huống này vào vòng kiểm soát, hoặc đưa mối nguy hiểm vào vòng kiểm soát. Sự kiện này thật không giống với tính cách thông thường của người Liên Xô chút nào, vì hiếm khi nào họ thông báo vắn tắt cho chúng ta biết về một mâu thuẫn giữa họ với một bên thứ ba, cũng hiếm khi ông ta [trong tư cách một đại sứ] có những hành xử vượt xa ra ngoài phạm vi chức trách của mình như vậy. Nếu tôi nhớ không nhầm thì tôi đã cố tình phản hồi một cách mập mờ để khiến ông ta phải lo lắng. Đến khi ấy, tôi vẫn cho rằng nhiều khả năng Trung Quốc là bên khởi động xung đột trước. Sau này ông ta tiếp tục quay lại hai hoặc ba lần để thông báo về những cuộc đụng độ khác. Chúng tôi đã đánh dấu lại những vị trí xung đột trên bản đồ. Ít tháng sau khi đến San Clemente, tôi đề nghị một người từ Tập đoàn Rand2 – có lẽ tên ông ta là Alan Whiting3, đến trình bày cho tôi nghe tổng quan về Trung Quốc. Ông này cho rằng Liên Xô là bên gây hấn chứ không phải Trung Quốc. Sau đó chúng tôi cùng nhìn vào những điểm được đánh dấu trên bản đồ, và nhận ra rằng tất cả các vị trí xung đột đều nằm gần đường xe lửa của Liên Xô, và cách xa đường xe lửa của Trung Quốc. Vậy là chúng tôi kết luận rằng có lẽ Liên Xô là bên gây hấn trước. Một khi suy nghĩ này đã hình thành trong đầu, chúng tôi kết luận rằng trong một cuộc va chạm giữa hai người khổng lồ của phía cộng sản, nguyên tắc để đảm bảo cân bằng – người Mỹ ít khi để ý điều này – đòi hỏi chúng ta phải hỗ trợ kẻ yếu chống lại kẻ mạnh hơn. Ở Anh lối suy nghĩ này không có gì là lạ, nhưng ở Mỹ người ta thường không xây dựng chính sách ngoại giao theo tư duy như vậy. Kể từ đó, chúng tôi bắt đầu tích cực khởi động và có những biện pháp để tìm cách liên hệ với Trung Quốc.
– Ông hãy mô tả về lần liên hệ đầu tiên của đại sứ Stoessel4 với các nhà ngoại giao Trung Quốc.
– Tôi hối thúc Stoessel tìm cách liên hệ. Nhưng ông ta không chịu làm, vì điều này không chính thống, và cũng nhạy cảm nếu [sau này] chạm mặt với nhóm vận động hành lang thân Đài Loan hoặc thân Trung Quốc ở Quốc hội, nên ông ta không muốn phải lãnh trách nhiệm dựa trên lời nói đơn phương từ một cố vấn an ninh [tức Kissinger]. Và ông ta cứ nghĩ rằng đây chỉ là ý tưởng của riêng tôi. Vậy nên tôi phải gọi ông ta về nước và dẫn ông ta tới gặp Tổng thống, rồi Tổng thống chỉ đạo ông ta làm đúng như điều tôi đã yêu cầu từ trước, đó là túm lấy một nhà ngoại giao cao cấp bất kỳ của Trung Quốc mà ông ta gặp được trong một dịp thông thường nào đó, và bảo với người đó rằng chúng ta muốn nói chuyện. Cuối cùng thì ông ta cũng tìm được một nhà ngoại giao Trung Quốc trong một cuộc trình diễn thời trang, và cái ông Trung Quốc này đã quá đỗi choáng khi thấy một người Mỹ tìm cách đến gần, nên đã tìm cách lảng đi chỗ khác. Thế nên Basil Stoessel, một trong những nhà ngoại giao tài ba nhất của chúng ta, bất đắc dĩ phải đuổi theo ông ta, dồn vào một góc để trao thông điệp, và cái vị Trung Quốc này chỉ nín thinh ghi nhận, rồi lại tiếp tục chạy đi. Sau đó vài tuần, trước sự kinh ngạc của Vacsava, và ngay cả đại sứ quán của ta cũng kinh ngạc khi người Trung Quốc gọi điện tới, nói rằng họ đang sắp đến và muốn được tiếp đón. Họ đến bằng cửa trước, với quốc kỳ cắm trên xe hơi, tức là theo cách công khai tối đa, và bắt đầu câu chuyện.
– Việc Mỹ tấn công Campuchia ảnh hưởng tới việc đàm phán với Trung Quốc như thế nào?
– [Sau cuộc gặp tại đại sứ quán ở Vacsava], thực tế là Trung Quốc đã báo với chúng tôi rằng họ muốn chúng ta gửi một phái viên tới Bắc Kinh. Khi đó Bộ Ngoại giao Mỹ cung cấp hai cuốn báo cáo lớn, một là về nội dung, hai là về quy trình. Cuốn về nội dung liệt kê ra tất cả mọi vấn đề cần quan tâm. Thực ra Nhà trắng khi ấy không hào hứng gì trong việc bàn về các vấn đề tuyên ngôn, tài sản, kiểm soát vũ khí, hay những câu hỏi về nghi thức ngoại giao, vì để duyệt hết tất cả những thứ ấy sẽ mất rất nhiều thời gian. Và theo quy trình thì Bộ Ngoại giao còn muốn thông báo vắn tắt tới 17 quốc gia, cùng với bao nhiêu vị Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ mà tôi chẳng nhớ nổi số lượng. Tổng thống Nixon [vì sốt ruột] đã nói rằng chúng ta sẽ giết chết đứa bé này trước khi nó ra đời, hoặc trước khi nó kịp lớn lên. May thay công việc này trùng hợp vào thời điểm xảy ra vụ tấn công Campuchia, và thế là Trung Quốc cắt liên lạc với chúng tôi.
– Ông đã nhờ Pakistan chắp lại mối liên hệ với Trung Quốc ra sao?
– Nói rằng chúng tôi gửi gắm qua Pakistan là quá lời. Chúng tôi nhờ một số nước. Trong thực tế chúng tôi đã nhờ một số nước XHCN như Rumani. Nhưng Trung Quốc không tin tưởng những nước này. Và chúng tôi cũng nhờ cả Pakistan. Không phải là tôi mà chính là Tổng thống Nixon, trong một chuyến đi tới Pakistan vào mùa hè 1969, đã nhờ thu xếp qua Yahya Khan5, nhưng sau đó không có gì xảy ra trong vòng một năm.
– Ông được biết về lời mời của Trung Quốc gửi Nixon như thế nào?
Nixon đã để mắt tới Trung Quốc từ khá lâu. Năm 1967, viết trên tờ Các vấn đề đối ngoại (Foreign Affairs), ông đã khuyến cáo: “… chúng ta đơn giản là không thể bỏ qua Trung Quốc mãi mãi trong đại gia đình các quốc gia, làm vậy sẽ khiến họ tiếp tục nuôi dưỡng ảo mộng, ấp ủ thù hận, và đe dọa các láng giềng”.Năm 1969, quan hệ Trung Mỹ đang ở mức không công nhận lẫn nhau, với những thông điệp dành cho nhau mang tính thù địch. Sau khi tiếp quản ghế Tổng thống, Nixon bắt đầu ra dấu hiệu cho một thái độ tan băng đối với Trung Quốc. Ông ta để cho Ngoại trưởng Willam Rogers tuyên bố rằng Mỹ muốn tăng cường giao lưu văn hóa và khoa học với Trung Quốc, giảm bớt những hạn chế về thương mại và visa, đồng thời bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam cũng như các căn cứ quân sự gần Trung Quốc. Để tránh trường hợp những thông điệp này không đến được công chúng Trung Quốc, ông ta thậm chí còn nói rõ ý mình hơn nữa. “Nếu có điều gì tôi muốn làm trước khi chết”, ông nói với tạp chí Time hồi tháng 10 năm 1970, “thì đó là đến Trung Quốc”.
.
– Hilali6 tới với một mẩu giấy viết tay mà ông ta không cho phép chúng tôi được cầm lại. Sự việc khi ấy có vẻ rất huyền bí. Và sự liên hệ đầu tiên đó cho thấy khá rõ là họ muốn đối thoại, ở cấp lãnh đạo rất cao, và họ cũng đã chuẩn bị mời Nixon tới Trung Quốc.
Chúng tôi đáp lại rằng chúng tôi sẽ không chỉ đến để nói riêng về chủ đề Đài Loan, rằng chúng tôi muốn mỗi bên có thể nói về tất cả những vấn đề có thể ảnh hưởng tới tổng thể quan hệ Trung – Mỹ.
– Vì sao ông được chọn đến Trung Quốc để thu xếp cho chuyến thăm của Nixon? Một số người cho rằng dường như Nixon dùng ông như một công cụ trò chơi.
– Phải rồi. Trò chơi, đây chỉ là một trò chơi cấp thấp theo tiêu chuẩn của Nixon. Và thực ra, thẳng thắn mà nói, ông ta có khả năng chơi khá hay. Tôi không nghĩ ban đầu ông ta định cử tôi đi. Chúng tôi đã cùng điểm qua một số cái tên, và mỗi lần ông ta cân nhắc ai thì lại thấy rằng hiển nhiên cái người được cử đi này sẽ trở thành một tên tuổi quan trọng, và được hưởng một phần công trạng trong việc mở cửa với Trung Quốc, mà Nixon thì tuyệt đối không muốn chia sẻ công lao này với ai. Vậy nên ông ta nghĩ rằng việc gửi đi cố vấn của mình, người không được phép xuất hiện trên TV và không được tự do trao đổi với báo chí, sẽ là cách an toàn nhất để không cạnh tranh với ông ta trong vấn đề này. Đây cũng là cách dễ nhất để ông ta kiếm soát tình hình. Tôi nghĩ đây là lý do tại sao ông ta chọn tôi.
– Ông có thể nói về cách ông nhận được xác nhận đồng thuận cuối cùng từ phía Trung Quốc.
– Sau một thời gian chờ đợi, không biết khi nào thì thông điệp sẽ được gửi đến, cuối cùng thì chúng tôi cũng nhận được nó, và nếu không nhầm thì tôi đã đến thông báo [cho Tổng thống] khi ông đang ở phòng chờ [mang tên] Lincoln. Tôi nói với ông ta rằng tôi nghĩ đây là một cuộc cách mạng về ngoại giao, hình như cụm từ chính xác mà tôi dùng là tin nhắn quan trọng nhất kể từ Thế chiến thứ 2. Ông ấy mở một chai Courvoisier và chúng tôi cùng uống mừng một ly. Nhưng chúng tôi cũng nhận ra rằng việc này có thể phá vỡ tình hình cuộc chiến ở Việt Nam và chắc chắn sẽ thay đổi bản chất mối quan hệ với Liên Xô.
– Ông có thể mô tả chuyến đi của ông tới Pakistan?
– Tôi đã lên kế hoạch đi công du qua châu Á, và tôi cố tình khiến chúng buồn tẻ hết cỡ để tránh sự soi mói của báo giới, đến khi chúng tôi tới Islamabad thì người ta đã bảo nhau rằng chuyến công du này thực sự thất bại, và chỉ còn sót lại đúng một nhà báo đưa tin về sự kiện. Tổng thống Yahya Khan mời chúng tôi dự bữa tối, trong bữa ăn tôi viện cớ bị ốm và Yahya vin vào đó mời tôi về nhà nghỉ dưỡng của ông trên núi. Vậy là chúng tôi tuyên bố với báo giới rằng tôi sẽ ở lại vài ngày trên núi. Chúng tôi thậm chí còn gửi đi một đoàn xe hộ tống để mọi người đều trông thấy và tin rằng đó là chuyện thật. Nhưng thực ra ngày hôm sau tôi dậy từ rất sớm, ngay trước 5 giờ sáng, lên một máy bay của Pakistan và bay tới Bắc Kinh. Đó không phải là một máy bay thương mại. Khi lên máy bay, tôi có mật vụ đi cùng giống như mọi thời điểm khác trong những ngày đó. Chúng tôi bắt gặp bốn người Trung Quốc mặc áo đại cán đang ngồi đó, do Chu Ân Lai gửi đến tháp tùng tôi về Trung Quốc. Nhưng khi ấy chúng tôi không hề biết trước. Đám mật vụ của tôi gần như lên cơn đau tim khi thấy những người này.
– Ông có thể kể lại giai thoại về chiếc áo sơ mi?
– Một trong những vấn đề với những chuyến công du cao cấp như thế này hóa ra lại là những điều nhỏ nhặt, như bạn dùng đoàn xe hộ tống nào, và bạn làm gì với những chiếc áo sơ mi. Bạn có đủ áo sơ mi cho chuyến đi hay không, và liệu bạn có dám để người ta giặt dọc đường tại các địa phương mà không e ngại nó có thể co lại tới mức không thể mặc được. Số là tôi đã chuẩn bị 3 chiếc áo sơ mi, mỗi cái vào một túi riêng, bảo quản rất cẩn thận. Nhưng rồi trợ lý của tôi để quên chúng ở Pakistan, và thế là tôi không còn áo mặc. Một người trong đoàn của tôi cao tới 6 ft 3 (tương đương 1,9 m) cho tôi áo của anh ta, và cái áo này khiến tôi trông như không có cổ. Chưa kể nó lại được sản xuất ở Đài Loan, với nhãn hiệu sản xuất tại Đài Loan. Tôi vẫn thường nói đùa với người Trung Quốc rằng Đài Loan rất gần với tôi, thực tế thì đúng là vậy.
– Ấn tượng của ông về Chu Ân Lai như thế nào?
– Chu Ân Lai là một người tinh tế, thông minh, chuyên nghiệp, gây sức hút, và dường như ông ta có vô tận thời gian cho những cuộc chuyện trò. Tôi thường bảo ông ta rằng tôi sẽ không thể dành nhiều thời gian đến thế cho những cuộc gặp sau. Nhưng ông ta vẫn cứ như vậy trong mọi lần gặp tiếp theo, ông ta không thích làm việc buổi sáng, nhưng chúng tôi thường bắt đầu từ ba giờ, và trò chuyện liên tục tới hai, ba giờ sáng hôm sau mà ông ta vẫn không hề bị ai đến làm phiền. Chẳng ai mang tới cho ông một mẩu giấy, và rõ ràng là không có ai gọi điện thoại đến. Ông ta hành xử như thể tuyệt đối chẳng hề có nhiệm vụ nào khác trên thế giới ngoại trừ làm việc với vị khách người Mỹ của mình. Rất rắn. Một người đàm phán rất giỏi. Một trong những người có năng lực nhất mà tôi từng gặp và là một trong những người dễ chịu nhất mà chúng ta có thể gặp hằng ngày.
– Việc đàm phán về việc mời Nixon đến thăm có gặp khó khăn gì không?
– Chuyến đi của tôi chỉ có đúng khoảng thời gian cuối tuần để bàn việc. Họ có chuyến thăm cấp Nhà nước của Kim Nhật Thành và không biết phải hủy thế nào. Nên Chu Ân Lai phải chia sẻ thời gian giữa chúng tôi và Kim Nhật Thành. Chúng tôi bắt đầu trao đổi về các thông điệp với công chúng, và người Trung Quốc đã dạy cho tôi một bài học mới. Tôi vốn quen làm việc với người Soviet và thường có thói quen đặt ra những yêu cầu mang tính tối đa, và bắt đầu đàm phán ngược lại từ đó. Nhưng người Trung Quốc bảo rằng tạm thời chưa thỏa thuận gì vội, chưa đặt ra điều khoản gì, mà chỉ cần cho chúng tôi biết các anh cần gì, rồi chúng tôi sẽ cho anh biết điều mà chúng tôi cần, và chúng ta cùng nhau thảo ra. Nhưng đang thảo luận giữa chừng thì Chu Ân Lai phải đi dự một bữa tối. Ông ta không thể cho chúng tôi biết lý do là gì. Vậy là chúng tôi chỉ mới kịp thảo luận sơ bộ trước khi ông ấy biến mất mà không rõ lý do. Chúng tôi chỉ còn biết ở lại trong nhà khách Chính phủ mà không hề có ai khác và không thể biết điều gì sẽ diễn ra tiếp theo. Sau đó Hoàng Hoa – sau này là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc, một người thân tín với Chu – xuất hiện. Chúng tôi cùng thảo luận nhưng vẫn chưa rõ thực hư. Sáng hôm sau, chúng tôi lại gặp Hoàng Hoa một lần nữa, ông ta đưa ra một văn bản, chúng tôi cũng có sẵn một văn bản. May cho tôi là tôi để ông ta đưa văn bản của họ ra trước, với nội dung tốt hơn nội dung của chúng tôi. Chúng tôi hầu như nhất trí và hình như chỉ đề nghị thay đổi đúng một chữ. Lúc đó Chu Ân Lai mới xuất hiện một lần nữa, và chúng tôi kết luận cuộc gặp, vì tôi phải trở về có mặt ở Paris trước nửa đêm theo giờ Paris, vì một lý do mà tôi không còn nhớ.
Trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh, đa số người Mỹ nhìn nhận Trung Quốc và Liên Xô là hai quốc gia riêng biệt nhưng ở cùng phía một chiến tuyến. Phải tới khi xảy ra cuộc chiến giữa hai bên Washington mới nhận ra hai cường quốc này mâu thuẫn nhau tới mức nào. Những căng thẳng giữa Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc chớm nở từ thập niên 1930, khi Nga ủng hộ Tưởng Giới Thạch hơn Mao Trạch Đông. Nhưng trong những ngày đầu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Nga và Trung Quốc dường như sát cánh bên nhau. Năm 1950 Mao Trạch Đông ký Hiệp ước Hữu nghị, Liên kết, Tương trợ với Liên Xô, với cam kết bảo vệ Trung Quốc trong trường hợp bị Mỹ tấn công. Nhưng gần như ngay lập tức mối liên minh Trung – Xô bắt đầu có dấu hiệu trục trặc.Từ giữa thập niên 1950, khác biệt về tư tưởng đường lối giữa Moskva và Bắc Kinh bắt đầu lộ ra, có sự xa cách trong các vấn đề về tiến độ, hình thái tiến lên CNXH, và đối sách với phương Tây. Trong khi Trung Quốc chủ trương tiếp tục chống lại các nước “đế quốc” thì Liên Xô đã bắt đầu cân nhắc về “chung sống trong hòa bình” với Mỹ. Không lâu sau đó những khác biệt về tư tưởng này chuyển hóa thành khác biệt ở tầm quốc gia, khi cả Trung Quốc và Liên Xô cùng cố gắng tăng ảnh hưởng của mình tới các nước XHCN khác.Tới đầu thập kỷ 1960, Moskva và Bắc Kinh bắt đầu công kích lẫn nhau công khai. Tháng 4 năm 1960, Bắc Kinh công khai phê phán “chủ nghĩa xét lại” của Liên Xô, và Moskva phản ứng lại bằng việc rút hàng nghìn cố vấn khỏi Trung Quốc, hủy bỏ các chương trình tài trợ kinh tế và quân sự. Năm 1962, Liên Xô ủng hộ Ấn Độ trong cuộc tranh chấp lãnh thổ tồn tại từ lâu với Trung Quốc. Quan hệ Trung Xô ngày càng tiêu cực trong suốt thập kỷ 1960. Tới khi Liên Xô đưa quân vào Tiệp Khắc năm 1968 và Moskva tuyên bố quyền can thiệp vào các nước XHCN khác để tự “bảo vệ” trước những ảnh hưởng chống Cộng sản, Bắc Kinh bắt đầu lo sợ rằng Trung Quốc sẽ là mục tiêu tiếp theo.
Căng thẳng cuối cùng trở thành đối đầu vào tháng 3, 1969, dọc sông Ussuri, nơi có ranh giới rất mơ hồ giữa Liên Xô và Đông Bắc Trung Quốc. Đã có những vụ nổ súng vào nhau trong các ngày 2 và 15 tháng 3, gây ra nhiều thương vong. Xung đột vũ trang tiếp diễn vào mùa xuân và mùa hè, trong khi cả hai bên cùng tập trung đông quân vào khu vực điểm nóng. Trong vòng vài tháng, cả thế giới chứng kiến Trung Quốc và Liên Xô kéo nhau tới gần viễn cảnh một cuộc xung đột hạt nhân. Liên Xô liên tục ngụ ý về khả năng một cuộc tấn công mang tính phòng vệ vào các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc, trong khi Trung Quốc xây dựng một mạng lưới đường ngầm và hầm để phòng khi bị tấn công hạt nhân.
May mắn là cuộc khủng hoảng biên giới đã được giải quyết bằng ngoại giao vào tháng 9 /1969, khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Kosygin bay tới Bắc Kinh đàm phán cấp cao về biên giới với Thủ tướng Chu Ân Lai. Tuy nhiên, mối đe dọa tiềm tàng từ Liên Xô đã thúc đẩy Chu và Mao phải bắt đầu suy nghĩ lại về chiến lược địa chính trị cho Trung Quốc. Họ biết rằng nếu chiến tranh nổ ra, Trung Quốc sẽ không thể đương đầu với lực lượng Soviet. Trong khi đó, Mỹ đang hiện diện ở Việt Nam, và chính quyền mới của Nixon chưa thể hiện một đường lối chính sách rõ ràng đối với Trung Quốc.
Đối diện với nguy cơ từ hai phía, Bắc Kinh bắt đầu thấy rằng cải thiện quan hệ với Mỹ là cách tốt nhất để bảo đảm an ninh cho Trung Quốc. Tốt hơn là “liên minh với kẻ thù ở xa”, như Mao nói, “nhằm chống lại kẻ thù ngay ngoài cửa ngõ”. Cũng vào lúc đó, Washington bắt đầu nhận thấy rõ sự chia rẽ trong quan hệ Trung – Xô. Nixon và Kissinger nhận ra họ có thể dùng sự đối trọng giữa Moskva và Bắc Kinh để cải thiện được quan hệ với cả hai. Trong tất cả mọi nguyên nhân, sự chia rẽ trong quan hệ Trung – Xô là yếu tố là lực đẩy mạnh nhất giúp Mỹ và Trung Quốc tái lập quan hệ hữu nghị vào tháng 2/ 1972.
—————————————
Chú thích:
1. Yuri Dubrinin: Đại sứ Nga tại Mỹ
2. Tập đoàn Rand là một tổ chức phi lợi nhuận nghiên cứu chính sách toàn cầu, được Công ty Máy bay Douglas thành lập nhằm thực hiện những nghiên cứu và phân tích phục vụ quân đội Mỹ. Ngày nay tổ chức này có 1700 nhân viên, được Chính phủ Mỹ cấp kinh phí, đồng thời được tài trợ bởi các nguồn kinh phí công và tư khác.
3. Allen Suess Whiting, giáo sư Khoa học chính trị Đại học Michigan trong giai đoạn 1968-1982
4. Walter John Stoessel, Jr., đại sứ Mỹ tại Ba Lan trong giai đoạn 1968 – 197
5. Tổng thống Pakistan trong giai đoạn 1969 – 1971
6. Agha Hilaly, đại sứ của Pakistan tại Mỹ
Theo TẠP CHÍ TIA SÁNG

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chiến lược mua thời gian của Đức để đối phó với dịch bệnh Vũ Hán


60% – 70% dân số Đức có thể nhiễm virus corona” – Ý nghĩa thật sự của phát biểu trên là gì?
Đó là phát ngôn của Thủ tướng Đức Angela Merkel trong buổi họp báo hôm 11-3 tại Berlin. Nhưng thật ra bà chỉ dẫn lời một chuyên gia Đức, Giáo sư Christian Drosten, phát biểu ngày 28.2.2020, lúc đó nước Đức chỉ có 68 ca nhiễm virus. Ông Drosten nói: “60% – 70% dân số Đức có thể nhiễm virus corona”.
Giáo sư Christian Drosten là một nhà virus học, Viện trưởng Viện virus học Charité – Đại học y khoa Berlin. Ông là một trong những người đồng phát hiện ra virus SARS, có liên quan mật thiết đến virus corona chủng mới hiện nay. Ông Drosten cũng là một trong những nhà khoa học hàng đầu trên thế giới, khi nói đến virus corona chủng mới.
Với phát biểu trên, Giáo sư Christian Drosten muốn nói đến khả năng “miễn dịch cộng đồng” tại nước Đức. “Miễn dịch cộng đồng” trong tiếng Đức là “Herdenimmunität” và trong tiếng Anh là “Herd Immunity”.
Theo khoa hoc, để có được “miễn dịch cộng đồng” thì trong cộng đồng cần phải có một số lượng người có khả năng kháng virus này (miễn dịch với nó).
Khi những người có khả năng kháng với bệnh này chiếm số lượng khá nhiều trong cộng đồng, thì số người này giống như những lá chắn có khả năng “cô lập” những người đang bị nhiễm bệnh trong cộng đồng và “bảo vệ” số ít những người còn lại trong cộng đồng có khả năng sẽ bị nhiễm.
Với tỉ lệ nhiễm của virus corona hiện nay được ước tính khoảng 2,28 (tức là tính trung bình, một người nhiễm virus có thể lây bệnh cho 2,28 người khác) thì cần khoảng 60% – 80% người trong cộng đồng có khả năng kháng virus này, hay nói cách khác là cần 60% – 80% người trong cộng đồng nhiễm virus này (vì theo nghiên cứu cho thấy người bị mắc bệnh cúm Vũ Hán sau khi khỏi bệnh sẽ miễn nhiễm với virus này).
Nói tóm lại, theo nhà virus học, Giáo sư Christian Drosten, đại dịch cúm Vũ Hán chỉ thật sự chấm dứt khi nước Đức đạt đến trạng thái “miễn dịch cộng đồng”. Chỉ có 2 cách để đạt đến trạng thái này:
1. Tiêm vaccine phòng ngừa cho người dân (nhưng hiện nay chưa có vaccine chủng ngừa virus Vũ Hán).
2. Cơ thể của phần lớn người dân (60% -70% dân số) tự tạo ra kháng thể chống lại virus này sau khi họ nhiễm bệnh và khỏi bệnh.
Vấn đề con số tử vong
Theo cái nhìn của các nhà khoa học, bệnh do virus corona nguy hiểm vì tính lây lan rất nhanh và là một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm hiện chưa có vaccine chủng ngừa và cũng chưa có phát đồ điều trị, nhưng nó chỉ là một loại bệnh cúm. Chẳng hạn như cúm mùa ở Đức, đến mùa lạnh là những người có sức đề kháng kém rất dễ nhiễm virus của cúm mùa, gây viêm phổi làm nhiều người chết hàng năm.
Theo ước tính của Viện Robert Koch (một cơ quan của Nhà nước Đức về các bệnh truyền nhiễm), mỗi năm có khoảng từ 4 đến 16 triệu người Đức bị nhiễm virus cúm mùa và con số tử vong có thể lên đến hàng chục ngàn người khi bị dịch cúm nặng, thí dụ đợt dịch cúm nặng mùa Đông năm 2017-2018, ước tính đã có 25.100 người chết ở Đức.
Điều đó có nghĩa rằng, bệnh do virus corona rồi đây cũng sẽ như những bệnh cúm khác, nó sẽ là một căn bệnh quen thuộc, người ta vẫn bị nhiễm và vẫn được điều trị đến khi khỏi bệnh nhưng không vì thế mà mất đi tính nguy hiểm của nó.
Hiện nay, nếu bị nhiễm virus Vũ Hán thì chưa chắc sẽ đổ bệnh nặng, 80% tự hồi phục mà không cần điều trị gì hoặc máy móc y khoa trợ sức, chính vì thế mà nước Đức để bệnh nhân (xét nghiệm dương tính với virus) cách ly ở nhà, hằng ngày có nhân viên y tế đến nhà chăm sóc. Biện pháp này cũng làm cho bệnh viện và nhân lực không bị quá tải, dành chỗ cho những trường hợp bị bệnh nặng.
Và cũng không phải ai đổ bệnh nặng là chết, đối với trẻ em và thanh niên (thuộc nhóm những người trẻ tuổi có sức đề kháng mạnh) cơ hội sống rất cao, trên 99%.
80% số ca tử vong là người trên 60 tuổi và đa số là người có bệnh lý nền (bệnh khác đã có sẵn trước khi nhiễm virus). Đây là nhóm người có tuổi tác xế chiều, tàn tạ, có sức đề kháng kém; hoặc cơ thể đã bị bệnh tật làm suy yếu từ trước, kể cả không bị nhiễm virus, họ cũng không còn có thể sống lâu.
Chiến lược trì hoãn, mua thời gian
Trở lại chuyện “miễn nhiễm cộng đồng“, dân số Đức hiện nay có 83 triệu người, thì 60% – 70% dân số là 50 – 58 triệu. Với tỉ lệ tử vong chung của Covid-19 là 2-3%, thì nước Đức sẽ có hàng triệu người chết” để tạo được “miễn nhiễm cộng đồng“.
Giáo sư Christian Drosten nhấn mạnh rằng, yếu tố thời gian có vai trò rất quan trọng trong vấn đề con số tử vong. Ông nói, nếu quá trình kéo dài nhiều năm thì con số người chết vì bệnh nền, bệnh mãn tính hoặc một bệnh nào khác; hoặc chết một cách tự nhiên vì già lão, sẽ làm cho con số tử vong vì nhiễm virus nhỏ đi rất nhiều, sẽ bằng con số tử vong bình thường. Nói cách khác, số lượng người tử vong vì virus sẽ được rải đều theo dòng thời gian kéo dài vài năm, thay vì để nó xảy ra chỉ trong vòng 1 năm.
Thành ra, chiến lược của Đức là dùng các biện pháp cố gắng kìm hãm tốc độ lây lan của dịch bệnh để trì hoãn, mua thời gian.
Thủ tướng Đức Angela Merkel cũng đã mô tả nhiệm vụ chính yếu trong cuộc khủng hoảng dịch bệnh corona là kiềm chế sự lây lan của virus. “Chúng ta phải tranh thủ thời gian“, bà nói.
Hiện tại không có thuốc chữa trị và không có vắc-xin phòng ngừa. Và theo dự báo của các chuyên gia rằng 60 – 70 phần trăm dân số Đức sẽ bị nhiễm bệnh trong thời gian dài, điều quan trọng hơn hết là trì hoãn sự lây lan càng lâu càng tốt.
Cách thức trong cuộc chiến chống virus phải được xác định là không để cho hệ thống y tế bị quá tải.
Ảnh mô tả chiến lược mua thời gian của Đức
Chiến lược của Đức là dùng các biện pháp để kìm hãm tốc độ lây lan, như thế số người mắc bệnh được rải theo dòng thời gian kéo dài vài năm để tránh đỉnh của dịch lên cao quá ngưỡng, vượt quá mức khả năng của hệ thống y tế Đức. Tức là không có thời điểm nào số người mắc bệnh vượt quá khả năng của hệ thống y tế Đức. Nhờ đó mà người bị bệnh nặng có điều kiện được chữa trị chăm sóc đầy đủ, làm cho con số tử vong sẽ giảm bớt càng ít như có thể.
Cho đến nay (ngày 14-3) Đức đã thành công trong việc giảm tối đa con số tử vong: chỉ có 8 ca tử vong trong tổng số hơn 3.000 ca nhiễm. Chính con số tử vong quá ít này đã làm cho người Ý nghi ngờ Đức giấu giếm con số thật.
Những gì chúng ta làm không phải là không quan trọng. Không phải là vô ích. Không phải là uổng công“, bà Merkel nói.
Đó là việc bảo vệ người già và những người có sẵn bệnh khác từ trước, mà sự nhiễm bệnh dịch COVID-19 của họ có thể có diễn biến nghiêm trọng hơn.
Mức độ của cuộc khủng hoảng dịch virus corona vẫn chưa thể lường trước được, bà Merkel cảnh báo. Vẫn chưa biết thật sự những gì sẽ xảy ra trong quá trình đi tới “miễn nhiễm cộng đồng“.
So với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, điều này có giá trị: “Chúng ta vẫn phải hành động với nhiều điều chưa biết, nhờ vậy mà tình hình đã khác“. Thủ tướng Merkel nói.
Hiếu Bá Linh, tổng hợp

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Một tạp chí y học hàng đầu ở Anh Quốc, nói "Chính phủ đang chơi trò roulette với dân chúng".

“Miễn dịch cộng đồng”: Điều gì sẽ xảy ra nếu nước Anh không thành công?

"Miễn dịch cộng đồng": Điều gì sẽ xảy ra nếu nước Anh không thành công?
ử lý đồ họa: Đỗ Linh.
Nếu thành công, nước Anh sẽ thoát khỏi dịch một cách nhẹ nhàng. Nhưng nếu không thành công, cái giá phải trả sẽ rất lớn.
Nước Anh đã có 4 tuần để nghiên cứu các bài học từ dịch Covid-19 ở Trung Quốc và một số nước khác, nhưng Chính phủ Anh đã lựa chọn một lối đi riêng.
Đó là "miễn dịch cộng đồng". Nếu thành công, nước Anh sẽ ra khỏi dịch một cách nhẹ nhàng. Nhưng nếu không thành công, thì cái giá phải trả sẽ rất lớn.
Sự lựa chọn của nước Anh
Cho đến sáng ngày 15/3, nước Anh có 1.372 người dương tính với corona virus, hơn 40.200 người đã được xét nghiệm, 35 người chết.
Ở một vài nơi, đã có hiện tượng người dân tích lũy giấy vệ sinh, thực phẩm, dung dịch rửa tay ...
Tuy nhiên, trên đường phố, không có sự khác biệt đáng kể nào. Những khu vực trung tâm vẫn đông đúc vào ngày cuối tuần. Rất ít người đeo khẩu trang ...
Một cuộc thăm dò ý kiến do tờ Observer tiến hành cách đây 2 ngày cho thấy, 44% ủng hộ cách làm của Chính phủ. 30% không ủng hộ.
Miễn dịch cộng đồng: Điều gì sẽ xảy ra nếu nước Anh không thành công? - Ảnh 2.
Có vẻ như những gì đã và đang xảy ra tại Trung Quốc, Italia, Pháp ... chưa tác động nhiều vào người dân Anh.
Và những bài học từ Trung Quốc và nhiều nước khác cũng chưa được áp dụng tại Anh. Nước Anh có sự lựa chọn khác.
Trong cuộc họp báo hôm thứ năm vừa rồi, Thủ tướng Anh Boris Johnson khẳng định: "Chúng tôi có những kế hoạch rất rõ ràng". Ông muốn người dân Anh tin tưởng rằng, Chính phủ và các nhà khoa học, có khả năng kiểm soát tình hình.
Kế hoạch ứng phó của Anh gồm 4 giai đoạn: Ngăn chặn, trì hoãn, nghiên cứu và giảm nhẹ. Hiện nay, là bắt đầu của giai đoạn 2 - Trì hoãn.
Nhà báo Devi Sridha viết: "Dường như, (kế hoạch này) chấp nhận rằng không thể ngăn chặn virus và nó có thể sẽ trở thành một loại cúm mùa hàng năm".
Theo tính toán của những quan chức y tế Anh, "miễn dịch cộng đồng" sẽ hình thành khi khoảng 60% dân số nhiễm virus. Khi đó, cộng đồng tự hình thành kháng thể và miễn nhiễm, kể cả khi virus quay trở lại vào mùa đông năm sau.
Với cách tiếp cận này, hiện nay, không ưu tiên xét nghiệm diện rộng và truy xuất các tiếp xúc với nguồn lây; Những người có triệu chứng nhẹ không cần xét nghiệm mà chỉ tự cách ly tại nhà; Không cần cách ly hay đóng cửa trường học; không cấm các sự kiện thể thao hay các sự kiện tập trung đông người... Ngành y tế tập trung bảo vệ những người dễ tổn thương, bao gồm người già và những người có bệnh lý nền. Biện pháp mới nhất là cách ly những người từ 70 tuổi trở lên.
Nếu nước Anh không thành công…
Chỉ sau cuộc họp báo của Thủ tướng Anh vài giờ, các giải đấu bóng đá nhà nghề của Anh và Scotland ra thông báo dừng thi đấu, ngay cả khi chưa có lệnh của Chính phủ.
Cùng với sự tăng nhanh của những ca dương tính và số người chết, những phản ứng từ phía các nhà khoa học cũng nhiều hơn.
Băn khoăn của nhiều chuyên gia là, hiểu biết về Covid-19 còn quá ít. Người ta sợ rằng, Covid-19 không giống như cúm mùa và chưa biết hệ miễn dịch của con người sẽ phản ứng như thế nào.
Tỷ lệ tử vong của cúm mùa là 0,1%. Còn Covid-19, có tới 5 - 10% những ca dương tính cần được điều trị y tế tích cực. Tỷ lệ tử vong có thể từ 0,6% hoặc cao hơn, như trường hợp của Italia.
Theo GS William Hanage - một chuyên gia dịch tễ, với một số lượng lớn dân chúng nhiễm bệnh, con số tử vong là rất lớn. Tỷ lệ tử vong sẽ tăng cao khi hệ thống y tế bị quá tải.
Hơn nữa, gần như là không thể tách biệt 80% số người nhiễm virus nhưng mạnh khỏe khỏi 20% số người nhiễm virus nhưng thể trạng yếu. Và khi không tiến hành xét nghiệm, thì không thể biết được chính xác ai đang mang virus và liệu người đó có bị nhiễm trở lại hay không.
Miễn dịch cộng đồng: Điều gì sẽ xảy ra nếu nước Anh không thành công? - Ảnh 4.
Và vì không có xét nghiệm, khuyến cáo của cơ quan y tế Anh về việc tự cách ly tại nhà khi ai đó xuất hiện những biểu hiện cúm trở nên sơ hở: Virus có thể phát tán trước khi xuất hiện những triệu chứng.
Cho đến lúc này, trường học ở Anh vẫn mở cửa, dựa trên lập luận, trẻ em ít bị ốm. Nhưng ít bị ốm, không có nghĩa là không bị nhiễm virus và không lây virus cho người khác.
Richard Horton, Tổng biên tập Tạp chí Lancet - Một tạp chí y học hàng đầu ở Anh Quốc, nói "Chính phủ đang chơi trò roulette với dân chúng". Trong trò roulette, người ta chỉ để 1 viên đạn trong ổ quay của khẩu súng ngắn, xoay ngẫu nhiên rồi gí vào đầu và bóp cò.
Theo một văn bản, được cho là thông tin dành cho hệ thống chăm sóc y tế công cộng của Anh, mới được tờ The Guardian tiết lộ, dịch Covid-19 có thể kéo dài trong 12 tháng nữa; 80% dân số Anh có thể nhiễm virus và 7,9 triệu người sẽ phải nhập viện.
Chưa rõ việc dự kiến thời gian dịch bệnh kéo dài 12 tháng nữa có phải là hệ quả của cách tiếp cận "miễn dịch cộng đồng" hay không ? Đây sẽ là sức ép quá lớn đối với hệ thống y tế.
Nếu các nước khác đã dập xong dịch mà nước Anh vẫn còn dịch, có nguy cơ nước Anh sẽ phải cắt đứt giao tiếp với bên ngoài.
Nhà báo Devi Sridhar viết "nếu không thành công, thì cái giá phải trả là rất nhiều thời gian bị lãng phí, sự quá tải của hệ thống y tế và nhiều cái chết không đáng có".
Nhà báo Trần Uy (Từ Manchester)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Virus corona: Anh thay đổi chiến lược, nhưng dự báo có thể chết chục ngàn người



Boris Johnson
Thủ tướng Boris Johnson (giữa) và cố vấn trưởng y khoa Chris Whitty và cố vấn trưởng khoa học Sir Patrick Vallance
Thông điệp ngày 16/3 đến từ nhóm nghiên cứu làm mô hình về lây lan của bệnh, cho thấy số người sẽ có thể chết.
Tình hình đã xoay chuyển ghê gớm, và kết quả là chúng ta đang đối mặt những đổi thay sâu sắc nhất trong thời bình.
Nhận thức này mới chỉ xảy ra trong vài ngày qua.
Tuy nhiên, lâu rồi, từ trước đó, các nhà khoa học khác và WHO đã cảnh cáo rủi ro nếu không quyết liệt ngăn virus.
Bằng chứng quan trọng đến từ các khoa học gia ở trường Imperial College London, những người lần đầu nhận ra tầm mức vấn nạn ở Trung Quốc. Lời khuyên của họ rất có ảnh hưởng với chính phủ Anh.
Họ đánh giá 3 chiến lược:
Triệt tiêu - bẻ gãy các mắc xích lây lan, cố gắng ngăn nạn dịch tận gốc, đưa số ca nhiễm xuống thấp nhất như Trung Quốc đã làm.
Kiềm chế - chấp nhận ta không thể ngăn virus corona, vì thế chỉ nên làm chậm quá trình lây lan, ngăn đỉnh dịch lên cao khiến y tế nhà nước quá tải, cố gắng bảo vệ những ai rủi ro nhất về bệnh tật. Đây có vẻ chính là chiến lược của Anh quốc tuần rồi.
Không làm gì hết - cứ để virus lây lan trong dân.
Mới thứ Sáu 13/3, cố vấn trưởng khoa học, Sir Patrick Vallance, giải thích kế hoạch Kiềm chế cho BBC.
"Mục tiêu của chúng tôi là cố gắng giảm đỉnh dịch, mở rộng đỉnh, chứ không triệt tiêu hoàn toàn."
"Vì đa số dân bị bệnh nhẹ, mục tiêu là xây dựng miễn dịch cộng đồng để đa số dân sẽ miễn nhiễm trước bệnh này."
Doctors in ItalyBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionCác bác sĩ ở Italy
Nếu chiến lược Kiềm chế có hiệu quả, nó sẽ tránh các biện pháp cứng rắn mà các nước đã dùng, làm thành miễn dịch để giúp hạn chế bệnh lây lan.
Kiềm chế bao gồm một số chiến lược ngăn cách xã hội, còn Triệt tiêu thì gia tăng các biện pháp đó như có thể hạn chế đi lại, tăng thời gian cách ly.
Mô hình của các cố vấn khoa học dự báo nếu Anh không làm gì hết, 81% dân số sẽ nhiễm virus, và 510.000 sẽ chết trước tháng Tám.
Chiến lược Kiềm chế khả quan hơn nhưng cũng sẽ làm 250.000 người chết, làm y tế công quá tải.
Kinh nghiệm của Italy, và các ca đầu tiên ở Anh, đã khiến các nhà nghiên cứu có nhận thức mới.
Họ phân tích rằng ngay cả theo kế hoạch Kiềm chế lạc quan nhất, thì chăm sóc sức khỏe đặc biệt sẽ tăng lên ít nhất 8 lần.
Giáo sư Neil Ferguson, trưởng nhóm nghiên cứu ở Imperial, nói: "Ngay cả với các can thiệp đang dự tính và được thông báo tuần rồi, sẽ có rủi ro là đơn vị chăm sóc đặc biệt bị quá tải."
Báo cáo kết luận rằng "triệt tiêu hiện nay là chiến lược có thể đứng vững duy nhất".
Họ hy vọng sẽ hạn chế số người chết còn ở mức 20.000 hoặc ít hơn.
Chính phủ Anh luôn nói họ đi theo khoa học, trong khi khoa học đã thay đổi sâu sắc.
Thế là chúng ta sẽ nên chia tay các quán bia, club, nhà hát, làm việc ở nhà, cách ly toàn gia đình nếu bất kỳ ai trong nhà ốm.
Tuy nhiên, tiếp cận Triệt tiêu cũng có những vấn đề lớn.
Nó đòi hỏi đóng cửa nhiều phần trong xã hội, và nếu nhỡ kế hoạch gặp khó khăn, thì cũng không có lối thoát.
Số người bị nhiễm có thể ít hơn, nhưng dân số cũng sẽ ít miễn dịch, và các ca bệnh sẽ lại sớm tăng lên sau khi các biện pháp này dỡ bỏ.
Đó là khó khăn mà Trung Quốc nay đối mặt. Nghiên cứu cho rằng 95% dân ở Vũ Hán, vào cuối tháng Giêng, vẫn có nguy cơ nhiễm virus.
Báo cáo của nhóm khoa học Anh nói chúng ta phải đợi khoảng 18 tháng để có vaccine, nhưng thời gian đó cũng chưa chắc chắn hoàn toàn.
Tức là chúng ta có thể ở trong tình trạng hiện nay rất lâu.
Cũng cần nhấn mạnh toàn bộ chuyện này chỉ dựa vào các mô hình toán học.
Chúng đặt ra các giả định, không hoàn hảo, và chưa chắc hoàn toàn chính xác.
Virus chỉ mới có từ tháng 12, và chúng ta còn đang cố mà hiểu nó.
Nhưng Tiến sĩ Adam Kucharski, một nhà khoa học khác không ở trong nhóm Imperial, nói: "Không có giải pháp đơn giản."
"Không thể giải quyết nó mà không có những đau đớn nghiêm trọng."
James Gallagher Phóng viên y tế và khoa học / BBC
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cập nhật chút về tình hình Cô Vy ở Mỹ.

Lê Thị Bích Ninh 

Mỹ mới tuyên bố tình hình khẩn cấp toàn quốc chiều thứ 6, chiều chủ nhật thông báo đã làm việc với các công ty bảo hiểm và xét nghiệm sẽ miễn phí hoàn toàn với tất cả mọi người có bảo hiểm và ko có bảo hiểm. Tuầ
n sau tiến tới sẽ có 2,000 phòng lab có thể xét nghiệm, lập các cơ sở xét nghiệm ngồi trong xe có thể xét nghiệm được (để ko ảnh hưởng đến việc chữa trị cho các bệnh nhân mắc bệnh khác, để tiện cho nhiều người),... và chú trọng ưu tiên người thuộc nhóm rủi ro cao (người cao tuổi, người có tiền sử bệnh hô hấp,..). Chính phủ cũng kêu gọi toàn dân ko hoảng loạn nhất là nếu thấy con số ca bệnh tăng cao trong vòng vài tuần tới, vì càng nhiều người được xét nghiệm thì khả năng cao sẽ phát hiện ra càng nhiều người bị nhiễm. 

Về các chính sách khác, Cục dự trữ liên bang đã 2 lần cắt giảm lãi suất tiền gửi và cho vay trong vòng vài tuần qua nhằm giải cứu thị trường chứng khoán (nhưng nó vẫn đang rớt 😅), chính phủ sẽ có các gói hỗ trợ cho các công ty vay. Nhà trắng đang họp hành hi vọng thông qua dự luật hỗ trợ khoảng 3.5 tháng lương cho người phải nghỉ vì bị Covid hoặc nghỉ chăm sóc người thân bị Covid, chính phủ sẽ miễn một phần thuế an sinh xã hội cho các công ty để trả lương cho nhân viên theo chế độ này. 

Ở cấp bang, nhiều trường học đã đóng cửa, nhiều công ty cho nhân viên làm việc ở nhà, nhà An hi vọng từ cuối tuần sau cũng được ở nhà cả nhà. 

Nói chung chính phủ Mỹ đến giờ mới hành động là chậm, nhưng muộn còn hơn không.



Phần nhận xét hiển thị trên trang