Ngoài câu chuyện về phận má hồng, ba chìm bảy nổi vẫn không được hạnh phúc, cô Tư Hồng còn mang đến hình ảnh một nữ doanh nhân sắc sảo trên thương trường.
Đề cập đến một nhân vật nữ gây nhiều tranh cãi nhất cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Người đàn bà đã lấy Tàu, lấy Tây, rồi kết hôn với linh mục phá giới, phá thành Hà Nội, mua danh cầu vị… nhưng tiểu thuyết lịch sử Cô Tư Hồng của Đào Trinh Nhất (Trung Bắc Thư xã xuất bản lần đầu 1941, NXB Văn học, 2015) lại không bàn đến công tội của người phụ nữ này, mà gợi mở cho người đọc những suy nghĩ khác nhau.
Tác giả đã dẫn dắt độc giả đi theo cuộc đời truân chuyên, thăng trầm của cô Tư Hồng như một kiếp “hồng nhan bạc phận”, nhưng chưa từng khuất phục trước số mệnh, luôn cố gắng, chèo chống, thích nghi, vượt lên nghịch cảnh của số phận. Thậm chí, cô Tư Hồng còn liều lĩnh, đáo để, nổi loạn, bất chấp định kiến đương thời, để đi tìm hạnh phúc cho mình.
Sớm lưu lạc, nếm mùi cay đắng từ thuở bé
Cô Tư Hồng tên thật là Trần Thị Lan, sinh ngày 07/02 năm Kỷ Tỵ (1869), là con bác Phó nghèo kiết xác ở làng Thành Thị, Hà Nam. Lan mồ côi mẹ từ năm lên 3 tuổi, phải sống với mẹ kế (là người cháu gái của mẹ đẻ). Do hoàn cảnh khó khăn, sống chật vật, nên gia đình bác Phó phải tha phương cầu thực nay đây mai đó, nhưng nghèo đói vẫn bám riết không buông. Sau nhiều năm lưu lạc, gia đình bác Phó đến ngụ ở Kim Sơn (Ninh Bình). Chân dung cô Tư Hồng. Ảnh: Tư liệu.
Năm Lan 20 tuổi, gia đình bác Phó mong mỏi chuyện nhân duyên cho con gái. Khốn nỗi địa vị dở dang, gia đình không một tấc đất cắm dùi, cao không tới, thấp không thông. Một lần gánh rượu đi bán, Lan lọt vào mắt xanh của Chánh tổng Kim Sơn. Ông này ngoài 40 tuổi, góa vợ được vài năm, con cái phương trưởng cả, có tính nay vợ nọ, mai hầu kia.
Dần dà, Chánh tổng Kim Sơn cậy mai mối sang dạm hỏi Lan làm kế thất. Gia đình bác Phó nghèo không một tấc đất cắm dùi, bỗng được một ông Chánh tổng giàu nhất vùng muốn lấy con gái mình, còn gì vẻ vang bằng, nên bác Phó đồng ý ngay.
Nhưng Thị Lan nhất định không muốn lấy quan lớn. Thị nghĩ, mình đương son trẻ thế này lại phải lấy lão Chánh tổng ngoại tứ tuần, “tóc bạc, má hồng” không thể tương dung, phối hiệp với nhau. Có ngồi trên đống bạc cũng không sung sướng gì. Lũ chị em xấu bụng sẽ bàn tán thị phi đủ điều. Họ chê cười cô vì tham lam vàng bạc, bán rẻ xuân xanh… Lan đã trái ý cha, trốn ra thành Nam Định, sau đó lưu lạc ra Hải Phòng khởi đầu của một đời ngang dọc.
“Tay trắng làm nên nghiệp lớn, má hồng trang điểm phấn son vua”
Ra Hải Phòng, Lan xin vào làm việc cho bà chủ hiệu rượu Phát Lộc, còn gọi là “thím Tài”. Bà này thường dẫn dắt gái quê lên, nuôi dưỡng, sau gả cho khách người Hoa kiếm lời. Ở với thím Tài khoảng 3 năm, Lan được thím Tài mai mối lấy chú Hồng người Hoa, chủ tiệm Bình An. Nhờ cuộc hôn nhân này, thím đã kiếm được một khoản tiền lớn, còn Lan có chồng và trở thành "thím Hồng", chủ tiệm Bình An.
Lấy chú Hồng, Thị Lan từ cô gái quê nghèo khổ bước lên ngay địa vị phú quý phong lưu, một bà chủ hiệu. Đó cũng là cách cô bước chân vào con đường buôn bán, sau đó từng bước tiếp cận với những thủ đoạn kinh doanh để “tay trắng làm nên cơ nghiệp lớn”.
Từ ngày có thím Hồng, cửa hiệu Bình An ngày càng phát tài. Thím Hồng đảm đang, tinh quái, thấy một biết mười, khéo tính toán lợi hại giúp chồng. Thế nhưng, kể từ ngày thím Hồng sinh ốm (sau lần về cố hương tìm gia đình nhưng không thấy), chú Hồng đâm ra chơi bời, không coi sóc hiệu, dẫn đến phá sản, phải bỏ trốn về nước.
Sau 5 năm chìm nổi, ở tuổi 28, thím Hồng lại “mình trần tay không” như 5 năm trước. Không cam chịu số phận, thím quyết định lên Hà Nội để làm lại từ đầu. Qua cô Ba Lai vích (một me tây, trước xuống phục vụ chồng ở Hải Phòng, thi thoảng có lui cửa tiệm Bình An), mối lái, chỉ đường dẫn lối, năm 1895, thím Hồng lấy quan Tư Garlan và có cái tên Tư Hồng từ đó.
Tiểu thuyết Cô Tư Hồng của Đào Trinh Nhất. Nhờ khéo ăn ở và chiều chuộng chồng, nên hàng tháng cô Tư Hồng được chồng cho một khoản tiền lớn. Cô khéo dành dụm, buôn bán, sau vài năm tậu được ngôi nhà gạch ở phố Hàng Dầu tạo nên cơ đồ độc lập.
Khác với các me tây khác, cô Tư vốn chịu thương chịu khó, lại học được mánh khóe doanh thương trục lợi của chú Hồng. Số phận lại đưa cô lên Hà Nội là thương trường rộng lớn hơn, thêm gặp gỡ, nhờ vả được ông chồng có địa vị, nên cô Tư lấy đó làm cơ hội để mở cửa hàng kinh doanh, thu lợi cho mình. Không một cuộc bao thầu buôn bán nào là cô không chú ý xem xét.
Năm 1888, thi hành chương trình mở mang xây dựng Thủ đô xứ Đông Pháp, chính quyền thuộc địa cho đấu thầu phá thành Hà Nội. Giới thầu Bắc cạnh tranh nhau, nhưng gói thầu ấy lại lọt vào tay cô Tư Hồng. Để sắp đặt công việc, cô tậu một căn nhà ở phố Hàng Da để làm đại bản doanh đốc thúc thầy thợ. Ông Phó cựu (sau nhiều năm cha con thất lạc, cô tìm được bố, đón về ở cùng) cũng góp sức vào việc này.
Cửa Bắc thành Hà Nội khoảng những năm 1880. Ảnh tư liệu. Bằng đầu óc tính toán và lợi dụng, vừa dọn thành xưa vừa xây nhà mình, vẫn lo tậu đất làm nhà, Sau 3 năm việc phá thành, cô mua xây một dãy phố ở Cửa Đông Géneral- Bichot, lại thêm một dãy khác 8 căn ở phố Hàng Da. Năm 1902, quan Tư Garlan về Pháp, cô Tư một mình buôn bán làm ăn. Thành công nối tiếp thành công, cô mở rộng kinh doanh lúa gạo ngô, kinh doanh cả dịch vụ đi tàu bằng đường thủy.
Trong hai năm 1902-1903, ba tỉnh Trung kỳ mất mùa, thóc gạo khan hiếm nên bán được giá. Đầu năm 1904, Cô Tư chở đầy một thuyền gạo vào Huế để bán thủ lợi. Nhưng ở thời điểm đó, Chính phủ bảo hộ cấm nạn buôn bán đầu cơ, để loại trừ nạn “thóc cao gạo kém” cho dân. Linh tính mách bảo, cô Tư nói ngay là mang gạo vào phát chẩn cho dân. Nhờ “tấm lòng” này, cô Tư được triều đình ân thưởng 4 chữ “Lạc quyên nghĩa phụ” và sắc phong cho làm “Chánh ngũ phẩm nghi dân”. Nhờ thế địa vị của cô Tư ngày càng lên cao giữa đất ngàn năm văn vật.
Năm 1906, cô lại tậu thêm được dãy nhà ở phố Richaud, lại làm xong tòa nhà lộng lẫy ở Hội Vũ, công việc buôn bán ngày càng phát đạt. Sau rất nhiều thành công cô mua cho ông Phó chức đặc cách Hàm Hàn lâm viện thị độc, lấy vợ cho anh chồng cũ là chú Hồng, cô đã gặp lại người đàn ông này tại Hải Phòng vào năm 1906.
Khi ngoài 40 tuổi, dù má hồng “phôi pha”, nhưng bất chấp dư luận thị phi, cô kết hôn với một linh mục phá giới. Cuộc đời cô bắt đầu đi xuống từ đây.
Sau khi bị người đời tẩy chay, vợ chồng cô Tư phải dắt nhau đi Cao Miên để đầu tư xưởng nấu rượu. Từ 1916-1918, xưởng rượu kinh doanh chật vật phải chuyển nhượng cho người khác với giá rẻ. Tiếp đó, hai vợ chồng chuyển về Sài Gòn kinh doanh hàng Bắc trên phố Catinat, nhưng gặp đúng vận đen nên thua lỗ.
Năm 1921, cô Tư ở Sài Gòn ra Hà Nội và ốm liệt giường. Dù trên giường bệnh nhưng cô vẫn làm mọi cách để làm thất bại âm mưu chiếm sản nghiệp của chồng. Cô mất khi mới 53 tuổi, không có người con nào dù 3 đời chồng. Trước khi mất, cô được làm lễ rửa tội ăn năn với Chúa, hiến một mảnh đất giá trị khoảng 2 vạn đồng cúng vào nhà Chung, làm thủ tục chia tài sản cho em và các cháu.
Minh Châu / Sách hay / Zing
|
Phần nhận xét hiển thị trên trang