Có người gợi ý Nguyễn Thị Thu Huệ cứ dựa trên chính những chuyện đã đăng Facebook mà viết thêm thành truyện nhưng nữ nhà văn chịu không làm vậy được bởi với chị, khi đã viết xong là xong.Cũng vì nhận thấy như vậy là khá uổng nên mới đây, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ đã tuyên bố: “Sẽ kiềm chế khoái cảm đăng Facebook để thoả mãn lúc đấy. Hạ quyết tâm không viết Facebook lung tung nữa”.
NGUYỄN THỊ THU HUỆ KIỀM CHẾ KHOÁI CẢM FACEBOOK
KHÁNH LINH
“Sẽ kiềm chế khoái cảm đăng Facebook”
Theo phân tích của tác giả “Của để dành” về công việc viết lách của bản thân, nhiều khi cũng tứ đấy, tư tưởng đấy nếu chịu khó thêm thắt câu chữ, cấu tứ thì đã thành được một truyện ngắn rồi. Nhưng khi chị đăng lên trang Facebook cá nhân thì nó sẽ chỉ dừng ở một cái “tút” hấp dẫn thú vị. Có người gợi ý Nguyễn Thị Thu Huệ cứ dựa trên chính những chuyện đã đăng Facebook mà viết thêm thành truyện nhưng nữ nhà văn chịu không làm vậy được bởi với chị, khi đã viết xong là xong.
Cũng vì nhận thấy như vậy là khá uổng nên mới đây, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ đã tuyên bố: “Sẽ kiềm chế khoái cảm đăng Facebook để thoả mãn lúc đấy. Hạ quyết tâm không viết Facebook lung tung nữa”.
Ngoài bất cập của mạng xã hội được chính nữ nhà văn tiết lộ trên đây, một nỗi e ngại khác là liệu thói quen viết và đăng Facebook có làm “dễ dãi hóa” phong cách viết của tác giả. Đem nỗi băn khoăn này hỏi trực tiếp Nguyễn Thị Thu Huệ, chị cười cho biết mình viết Facebook cũng cẩn thận như viết truyện, cũng viết đi viết lại nhiều lần, sau khi đăng lên mà đọc lại thấy không ổn thì lại sửa. Một mẩu nhỏ viết ra cũng sửa đi sửa lại rất nhiều lần.
“Tính mình khi đã viết đều rất kỹ, kể cả bức thư tay, đọc lại thấy không ổn thì lại sửa. Đã thành tính như vậy rồi thì thậm chí là viết comment (bình luận) vào một việc gì đó mình cũng rất kỹ, cân nhắc xem câu chữ đúng chưa, thể hiện hết được ý của mình chưa, có làm người ta buồn không…”, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ chia sẻ với Dân Việt.
Có lẽ cũng bởi sự kỹ lưỡng “cân lên đặt xuống” khi làm nghề như vậy mà thời gian gần đây mãi chưa thấy Nguyễn Thị Thu Huệ ra sách mới sau cuốn “Thành phố đi vắng” (2012) hay như trước đó là “Nào, ta cùng lãng quên” (2003) và một loạt tác phẩm nối nhau ra mắt công chúng vào thời “hoàng kim” những năm 90 như: “Cát đợi” (1993), “Hậu thiên đường” (1994), “Phù thủy” (1995), “Tân cảng” (1997).
Xưa viết như bung ra, giờ viết như dội ngược lại
Khẳng định cái sự “trầm lắng” gần đây hoàn toàn không phải do bận rộn lắm công nhiều việc, nữ Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội thẳng thắn: “Không nên đổ tại cho bận để lười viết mà phải chỉ bảo lại bản thân. Ngày xưa vào lúc khổ nhất, vất vả nhất lại là lúc viết được nhiều tác phẩm như thế… Nên không lý do gì giờ điều kiện đầy đủ lại không viết được”.
Tác giả “Hậu thiên đường” vẫn còn nhớ như in cái thời bao cấp khốn khó, khi điện cắt từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Cứ ngoài giờ đi làm, lo cho con ăn uống đâu đấy xong thì tầm 6 giờ chiều chị lại đạp xe quay lại Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật ở Ô Chợ Dừa (Hà Nội) để mượn chiếc máy chữ duy nhất của cơ quan và ngồi dính vào ghế dưới ánh đèn vàng tối, muỗi đốt, bụng đói và “gõ như điên vì mọi chuyện diễn ra ào ạt trong đầu”.
Thường đến khoảng 10 giờ đêm, khi cổ họng khô rát, những ngón tay đau nhức, xung quanh khu vực cơ quan đã tối đen không một bóng người mà bản thân lại rất sợ ma, Nguyễn Thị Thu Huệ mới đóng máy chữ, sắp xếp những trang bản thảo giấy mỏng vàng rồi đạp xe về. Đến đêm khuya, khi con ngủ, chị lại lôi bản thảo ra đọc và sửa. Có những truyện như “Hậu thiên đường”, “Phù thủy” thời đó đã được chị đánh máy lại tới 5 lần.
“Xưa viết như bung ra, gặp chi tiết nào đó có thể giải thích một chút. Giờ mình viết như dội ngược lại. Hình ảnh đó, chi tiết đó rồi, ai muốn hiểu cô ấy tốt xấu thế nào tự hiểu. Giờ tác phẩm của mình có rất nhiều để mà in, một tập dày cũng có. Nhưng bảo để quyết định in thì mãi không quyết định được”, nữ nhà văn thú nhận.
Và có lẽ để những người yêu thích truyện Nguyễn Thị Thu Huệ khỏi phải “sốt ruột” khi tác giả mãi chưa chịu “trình làng” tác phẩm mới, một tuyển tập truyện ngắn mang tên “Của để dành” vừa được NXB Trẻ cho ra mắt là tập hợp 46 truyện ngắn mang dấu ấn đặc sắc nhất của giọng văn Nguyễn Thị Thu Huệ chủ yếu viết trong giai đoạn 10 năm từ 1990 đến 2000. Điểm lại một con đường văn học của nhà văn, những câu chuyện trong “Của để dành” vẫn gắn với những vấn đề của xã hội Việt Nam thời Đổi mới và cả thập niên tiếp sau đó. Bạn đọc có thể tìm gặp ở đây loạt truyện ngắn quen thuộc đã gắn với tên tuổi của Nguyễn Thị Thu Huệ (một số trong đó đã được chuyển thể thành phim truyền hình) như: “Của để dành”, “Xin hãy tin em”, “Hậu thiên đường”, “Người đi tìm giấc mơ”, “Tân cảng”, “Nước mắt đàn ông”, “Phù thủy”…
Xã hội Trung Quốc ngày càng lộ rõ những mâu thuẫn sâu sắc. Một sự khủng khoảng sâu rộng trên khắp các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, môi trường, văn hóa, đời sống… Mặc dù đã rất nỗ lực trong việc che mắt người dân trong nước và quốc tế, nhưng Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng không ngăn được sự thật phơi bày về một cuộc suy thoái toàn diện đang diễn ra, cho thấy dấu hiệu sụp đổ toàn diện.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), nền kinh tế đã đạt được nhiều chỉ số phát triển ấn tượng. Tuy nhiên, đằng sau “kỳ tích kinh tế” ấy là những nguyên nhân không mấy vẻ vang, là sự đánh đổi không tương xứng với nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt và nguồn nhân lực bị bóc lột kiệt quệ.
Mô hình kinh tế mà Đảng dẫn dắt không tôn trọng những quy phạm đạo đức chính thường: ăn cắp sở hữu trí tuệ để đi tắt đón đầu về kỹ thuật, cưỡng ép chuyển giao công nghệ, khuyến khích cạnh tranh không lành mạnh, bóp méo thương mại quốc tế, tạo ra các bẫy nợ để khai thác tài nguyên nước khác v.v… Từ đó, Trung Quốc thu được lượng ngoại hối rất lớn, đồng thời tận dụng tối đa tài nguyên quốc gia và nhân công rẻ mạt trong nước để phát triển nhanh chóng ngành công nghiệp sản xuất, trở thành quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên, mô hình kinh tế vô đạo đức đã tạo ra sự hỗn loạn, không bền vững ở cả trong và ngoài nước. Biểu hiện phồn vinh được tạo ra do tăng trưởng nhanh chóng giống như xây lâu đài trên cát, lúc nào cũng có thể bị hủy chỉ trong một sớm. Kinh tế Trung Quốc đang bắt đầu tiến vào thời kỳ khủng hoảng mạnh, trả giá cho mô hình phát triển bất chấp.
Biểu hiện dễ thấy nhất là việc Trung Quốc đang ngày càng thất thế trước cuộc chiến tranh thương mại với nước Mỹ. Kể từ khi Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố khai mào cuộc chiến để đòi lại công bằng giao thương cho nước Mỹ, cũng như thiết lập lại trật tự thương mại thế giới vốn đang bị Trung Quốc bóp méo, kinh tế Trung Quốc rơi vào suy thoái mạnh.
Tất cả các số liệu gần đây cho thấy triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc không được mấy khả quan.
GDP giảm: Tốc độ tăng trưởng GDP Trung Quốc trong năm 2018 được dự báo giảm xuống dưới 6% so với kỳ vọng 6,5%. Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp cũng như chỉ số niềm tin của doanh nghiệp trong sản xuất và dịch vụ đều suy giảm.
Sản xuất đình trệ, đơn hàng xuất khẩu sụt giảm: Ngành sản xuất hàng loạt của Trung Quốc trong những tháng cuối năm 2018 đạt tốc độ tăng trưởng yếu nhất trong vòng 2 năm, chủ yếu do nhu cầu xuất khẩu và nhu cầu sử dụng trong nước giảm.
Xuất hiện làn sóng sụp đổ doanh nghiệp tư nhân: Ngày 22/10, trang NetEase công bố con số 5,04 triệu doanh nghiệp Trung Quốc đóng cửa trong nửa đầu năm 2018. Trong đó, có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp như luyện kim, gia công cán ép, khai thác than, sản xuất hóa chất, dệt may, công nghiệp chế biến nông-thực phẩm, giày dép. Chiến tranh thương mại được coi là nguyên nhân cuối cùng khiến cho nhiều doanh nghiệp đóng cửa.
Làn sóng thất nghiệp không ngừng gia tăng: Làn sóng đóng cửa doanh nghiệp tư nhân đã khiến một số lượng lớn lao động nhập cư phải về quê. Hiện tại, thâm hụt quỹ lương hưu và bảo hiểm y tế tại Trung Quốc đã rất lớn, cộng thêm việc doanh nghiệp đóng cửa làm nạn thất nghiệp bùng phát có thể là cú sốc gây bất ổn xã hội trên diện rộng.
Nhiều doanh nghiệp nước ngoài tháo chạy: Các khoản áp thuế của Mỹ đã khiến chuỗi cung ứng thay đổi, nhiều doanh nghiệp nước ngoài rời khỏi Trung Quốc, trong số đó có các tên tuổi quốc tế như Seagate Technology, Samsung Electronics, Toshiba, Sony, Asahi Kasei, v.v…
Trung Quốc đang phải gánh chịu những khoản nợ khổng lồ: Báo cáo đánh giá của IMF cho thấy do chính sách kinh tế Trung Quốc quá phụ thuộc vào tín dụng dẫn đến khoản nợ khổng lồ, đã đạt đến một mức độ nguy hiểm, đang tiềm ẩn cuộc khủng hoảng tài chính tiếp theo.
Thị trường chứng khoán chao đảo: Kể từ khi cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung nổ ra, chỉ trong bốn tháng thị trường chứng khoán Trung Quốc đại lục đã sụt giảm 27%. Làn sóng tháo chạy trên các thị trường tài chính Trung Quốc làm dấy lên các lo ngại về việc viễn cảnh thị trường chứng khoán của Trung Quốc đang hướng đến sự sụp đổ. Khoảng 100 triệu nhà đầu tư nhỏ lẻ ở Trung Quốc đang rất bi quan về thị trường chứng khoán.
Tín hiệu thị trường suy thoái toàn diện cho thấy mùa đông khắc nghiệt của nền kinh tế Trung Quốc chỉ mới bắt đầu, tình hình khó bình ổn. Đặc biệt, tình hình dự liệu còn xấu hơn, dẫn đến suy thoái toàn diện khi Chính phủ Mỹ lên kế hoạch tăng thuế quan từ 10% lên 25% đối với 200 tỷ đô la Mỹ hàng Trung Quốc từ tháng 01/2019, và không ngại đẩy cuộc chiến lên đến mức đánh thuế toàn bộ hơn 500 tỷ USD hàng nhập khẩu của Trung Quốc nếu nước này không đồng ý thay đổi hành vi ăn cắp bản quyền và tài sản sở hữu trí tuệ, dừng các chương trình trợ cấp công nghiệp, gỡ bỏ hàng rào thuế quan và mua thêm hàng Mỹ để giảm thâm hụt mậu dịch.
Hiện tại, chính phủ Trung Quốc khó có thể có đủ thời gian để chuyển đổi nền kinh tế từ phụ thuộc vào xuất khẩu và đầu tư sang một nền kinh tế dựa trên trí thức sáng tạo, một nền kinh tế minh bạch và điều tiết theo quy luật thị trường – những yếu tố làm nên giá trị thật và sự bền vững của một nền kinh tế.
Nhiều bình luận đã chỉ ra, tự do hóa thị trường là lựa chọn duy nhất để đảo ngược tình hình suy thoái kinh tế Trung Quốc hiện nay. Tuy nhiên, cách thức nền kinh tế được vận hành hiện tại gắn liền với đường lối chính trị được ĐCSTQ xác lập, nếu chịu chấp nhận thay đổi tận gốc rễ thì đồng nghĩa giới lãnh đạo tối cao ĐCSTQ phải đối mặt với rủi ro chính trị nguy hiểm.
Khó khăn kinh tế cộng thêm áp lực từ chiến tranh thương mại khiến chính quyền ĐCSTQ như cây trước gió. Khủng hoảng chấp chính đồng thời cũng dẫn đến bùng nổ mâu thuẫn nội bộ, khiến cho cuộc đấu đá quyền lực thêm mãnh liệt hơn. Mới đây, học giả tại Đại học Harvard Mỹ khi luận bàn về cải cách mở cửa của chính quyền Trung Quốc, cũng nói đến tiết lộ của quan chức cấp cao của ĐCSTQ về bầu không khí đấu đá dữ dội trong nội bộ Trung Nam Hải.
Từ khi ông Tập Cận Bình lên nắm quyền, qua việc chống tham nhũng đã tấn công vào phe phái cựu lãnh đạo Giang Trạch Dân từng khống chế chính trị Trung Quốc đến 20 năm, đồng thời cũng đè bẹp các bè phái chính trị khác. Vì để giải quyết khủng hoảng kinh tế, chính quyền của ông Tập bắt đầu đẩy mạnh cải cách kinh tế, dùng kế sách bàn tay sắt để quét sạch các lĩnh vực lợi ích và địa bàn mà nhóm quyền quý trong ĐCSTQ đang nắm giữ.
Tuy nhiên, từng bước cải cách kinh tế đều khó khăn, đấu đá quyền lực và tranh giành lợi ích lại khiến cho ĐCSTQ tiếp tục phân hóa, không chỉ có tham quan thuộc phe phái Giang Trạch Dân phản kích lại ông Tập mà còn có cả nội bộ thế hệ đỏ thứ 2 (con cháu của các cựu lãnh đạo cấp cao trong ĐCSTQ) cũng bắt đầu rạn nứt. Nội bộ Bắc Kinh đã rơi vào cuộc tranh đoạt quyền lợi và đấu đá quyền lực một mất một còn.
Chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của ông Tập Cận Bình nhằm quét sạch tham quan nhưng thực chất là để thanh trừng nội bộ phe phái của cựu lãnh đạo Giang Trạch Dân, trên thực tế sự tham nhũng hủ bại của quan trường Trung Quốc là vấn đề của thể chế, không thể giải quyết được.
Sự hủ bại của quan chức Trung Quốc cũng đã đạt đến cực độ khi đua nhau vơ vét, truy cầu thanh sắc vật dục, dâm loạn, không việc ác nào không dám làm. Trong tầng lớp cấp cao của Đảng, tình trạng tham nhũng đã trở nên công khai và phổ biến với những khoản tiền bị bòn rút lên tới hàng trăm triệu tệ, bất động sản lên tới hàng trăm căn, vàng bạc lên tới hàng trăm ký. Về căn bản, đã không còn ai tin tưởng vào đường lối của Đảng, mà chỉ lấy Đảng làm bình phong để mưu cầu lợi ích và quyền lực.
Mặc dù cuộc chiến chống tham nhũng đã lôi ra được những “con hổ và ruồi” làm tiêu điểm, nhưng đó là một cuộc chiến không hồi kết bởi tham nhũng của ĐCSTQ là toàn Đảng tham nhũng, cả chế độ tham nhũng. Tham nhũng đã trở thành quy tắc sinh tồn của Đảng. Sự hủ bại của ĐCSTQ là một trong những nhân tố chính khiến cho quá trình giải thể sẽ càng lúc càng nhanh.
Dưới sự thống trị của ĐCSTQ, Trung Quốc ngày nay đã trở thành một xã hội mà phần lớn con người coi tiền bạc là tối thượng, mọi người đều chạy theo lợi, chỉ vì tiền mà bất chấp cả nhân cách và nhân tính: bất chân, bất tín, bất thiện, vô đức, vô mỹ, vô lại.
Các cuộc vận động của ĐCSTQ như “Cải cách Ruộng đất”, “Đại nhảy vọt”, “Cách mạng Văn hóa”… đã khiến cho tâm lý bạo động của người dân Trung Quốc ngày một phát triển. Tính cách đó biểu hiện ra ở chỗ “chiếm hữu”, nếu không thể chiếm hữu nhiều hơn một chút thì sẽ cố sức phá hoại.
Rất nhiều người Trung Quốc hiện nay không biết gì về văn hóa truyền thống, không có văn hóa, không hiểu lịch sử, không màng đạo đức, không có quan niệm đúng sai, không tin có Thần, trong đầu họ chỉ có tiền bạc, quyền lực, dục vọng. Dẫu rằng ở đâu đó vẫn có thể gặp những người Trung Quốc tốt, nhưng so với xu thế chung của xã hội thì đó là những trường hợp vô cùng hiếm hoi, dù chưa mất đi lương tâm nhưng cũng không dám vượt quá vòng tròn giới hạn mà ĐCSTQ vạch sẵn.
Để thỏa mãn tham vọng kinh tế, chính quyền ĐCSTQ chủ trương tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá và xã hội mất đi các tiêu chuẩn đạo đức ước chế. Chính sách quản lý kinh tế lỏng lẻo và che giấu thông tin khiến cho các sản phẩm kém chất lượng, độc hại đầy rẫy trong xã hội Trung Quốc. Bất bình đẳng xã hội trở nên gay gắt, tham nhũng tràn lan ở cả trong nhà nước và ngoài xã hội, mọi lĩnh vực xã hội đều bất mãn. Người có năng lực và suy xét lần lượt bỏ nước mà đi; những người không có lối thoát chỉ đành qua ngày đoạn tháng, trong sợ sệt bất an mà đợi đến ngày mai.
Hiện nay tại Trung Quốc, số người giàu có chạy trốn khỏi đất nước ngày càng tăng. Theo điều tra của Phó Chủ tịch Trung Quốc Lý Nguyên Triều trước Đại hội 18, có hơn 85% số Thường ủy viên, Ủy viên Dự khuyết và Ủy viên Ban Kỷ luật Trung ương của Đại hội 17, có con cái định cư và mua nhà ở nước ngoài. Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền kiêm Thường ủy viên tỉnh Giang Tô phải công khai thừa nhận rằng trong quan trường có rất nhiều quan chức “thân tại Tào mà lòng tại Hán”, đã đưa gia đình, tiền bạc và tài sản chuyển hết ra nước ngoài.
Môi trường bị phá hoại, ô nhiễm trầm trọng; các cuộc biểu tình diễn ra thường xuyên nhưng bị báo chí trong nước ém nhẹm; ngành công nghiệp nhựa hóa thi thể người chết thương mại triển lãm vô đạo đức…
Một yếu tố khác khiến Trung Quốc ngày càng trở thành nơi “khó sống” là việc huỷ hoại môi trường để đánh đổi lấy đất đai, đầu tư và phát triển công nghiệp. Sự hủy hoại môi trường và ô nhiễm tại Trung Quốc đứng vào hạng xấu nhất trên thế giới. Người dân đang chết dần vì ô nhiễm và suy thoái sinh thái trầm trọng. Một số chuyên gia xã hội dân sự ước tính có 450 làng ung thư ở Trung Quốc và tin rằng hiện tượng này đang lan rộng.
Không khó để có thể nhìn thấy một cách toàn diện bức tranh xã hội Trung Quốc ngày nay: nhân tâm mục ruỗng, xã hội suy bại, đất nước đã không còn ra đất nước. Người dân Trung Quốc ngày càng hiểu rằng xã hội ấy đã không còn lối thoát.
Khi những sự thật về ĐCSTQ được phơi bày ngày một rộng rãi, người dân Trung Quốc bắt đầu nhìn thấu những lời hứa suông, sự dối trá, và bản chất thực sự của ĐCSTQ.
ĐCSTQ thống trị Trung Hoa Đại lục trong gần một trăm năm qua, đã khiến cho đạo đức xã hội, môi trường sinh thái, môi trường kinh tế và các phương diện khác của Trung Quốc bị phá hoại đến mức không còn hình dạng.
Kể từ khi ĐCSTQ lên nắm quyền, qua các cuộc vận động như “Tam phản”, “Ngũ phản”, “Đại nhảy vọt”, “Cách mạng văn hóa”, “Đàn áp sinh viên Thiên An Môn 1989”, “Bức hại Pháp Luân Công” đã gây ra cái chết của hơn 100 triệu người.
ĐCSTQ đã lợi dụng sự sợ hãi chết chóc của con người mà xóa sạch lòng tự tin của họ, hoàn toàn bắt người dân quy phục. Đảng còn thường xuyên dùng lời giả dối để lừa phỉnh người dân, dùng sách giáo khoa xuyên tạc lịch sử để lừa gạt từng lớp người Trung Quốc, bôi nhọ sự phát triển và tiến bộ chân chính của các nước phương Tây, khiến cho người Trung Quốc mất đi những tri thức căn bản về truyền thống văn hóa của chính dân tộc mình hay những tinh thần văn minh tiến bộ nước ngoài.
Người dân Trung Quốc giờ đây đã tự có sự phản tỉnh lịch sử. Họ đã biết được rằng, cái lịch sử mà ĐCSTQ biên diễn ra chỉ toàn là dối trá. Cuộc cách mạng của ĐCSTQ bắt đầu từ ngày đầu tiên cho đến khi đoạt chính quyền là một quá trình bán rẻ lợi ích dân tộc để cướp chính quyền.
Pháp Luân Công trước và sau khi bị đàn áp tại Trung Quốc
Sự hủ bại của ĐCSTQ đã khiến cho bộ phận những người có lương tri, có trách nhiệm đối với quốc gia, nhân dân và xã hội hoặc ít nhất là có trách nhiệm với bản thân đã lựa chọn con đường thoái xuất khỏi Đảng.
Phong trào thoái ĐCSTQ và các tổ chức liên đới của nó bắt đầu từ năm 2004 và đã lan rộng không chỉ ở Đại lục mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Đây là một phong trào ôn hoà, nhằm thức tỉnh người dân Trung Quốc về việc ĐCS đang khống chế và ngăn cản họ có một tương lai tốt đẹp.
Theo số liệu từ Trung tâm phục vụ thoái Đảng toàn cầu ở New York, tính đến tháng 12/2018 đã ghi nhận hơn 320 triệu người thoái xuất khỏi Đảng, Đoàn, Đội. Đây là tin tức đã gây sức ảnh hưởng to lớn lên xã hội Trung Quốc và thế giới, thể hiện sự thức tỉnh cao độ của quần chúng nhân dân.
Các du khách Trung Quốc tại các điểm đến nổi tiếng ở Châu Âu đã chia sẻ rằng thoái ĐCSTQ là “điều phải làm.” Nhiều người từng muốn vào ĐCSTQ vì những cơ hội tham nhũng, nhưng giờ họ thấy rằng nó đang bị tan rã ở khắp nơi, bị cả thế giới lên án và trở nên ngày càng hủ bại. Họ cũng nhận thấy ĐCSTQ sẽ sớm phải nhận quả báo cho các tội ác của chính nó vì chống lại người Trung Quốc, đặc biệt là sự tàn bạo trong việc mổ cướp nội tạng sống các học viên Pháp Luân Công, Duy Ngô Nhĩ và các tù nhân lương tâm khác, vì thế không còn muốn ở “chung thuyền” với ĐCSTQ.
Một số người dân Trung Quốc khi thoái Đảng cũng chia sẻ rằng tham nhũng sẽ không kết thúc nếu ĐCSTQ vẫn còn tồn tại, gốc rễ của tham nhũng chính là ĐCSTQ, và ĐCSTQ đã huỷ hoại tiêu chuẩn đạo đức của xã hội Trung Quốc.
Ngay cả các quan chức trong nội bộ Đảng cũng đã không còn tin vào ĐCSTQ và tìm cách trốn khỏi Đảng. Rất nhiều người đã tìm cách đưa gia quyến, tài sản ra nước ngoài, họ không còn ôm hy vọng gì với Đảng, không tin rằng quyền lực của Đảng sẽ chống đỡ được lâu dài, cũng không tin rằng chính quyền ấy vẫn còn duy trì được.
Sự thức tỉnh lịch sử của người dân Trung Quốc là một nhân tố quyết định cho sự giải thể của ĐCSTQ. Tư tưởng của ĐCSTQ đã vô giá trị, chỉ để giữ chế độ mà không còn mấy ai tin theo.
Xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc hiện nay không đơn thuần chỉ là cuộc chiến tranh thương mại, mà thực tế đó là cuộc cạnh tranh giữa hai hệ thống giá trị và văn minh khác nhau, giữa thế giới tự do và xã hội chủ nghĩa.
Kể từ khi lên nhậm chức, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã hơn một lần trước thế giới thẳng thắn chỉ trích chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 9/2018, Tổng thống Trump đã nhấn mạnh:
“Hầu như ở khắp nơi mà chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản được thử nghiệm, nó đã đem tới sự đau khổ, tham nhũng và đổ nát. Sự thèm khát quyền lực của chủ nghĩa xã hội đã dẫn tới sự bành trướng, xâm lược và áp bức. Tất cả các quốc gia trên thế giới nên chống lại chủ nghĩa xã hội và sự đau khổ mà nó mang đến cho mọi người”.
Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence trong bài phát biểu tại Viện Hudson hôm 4/10/2018 cũng đã chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Trung Quốc đã sử dụng một kho chính sách không phù hợp với thương mại tự do và công bằng, trong đó thuế quan, hạn ngạch, thao túng tiền tệ, cưỡng bức chuyển giao công nghệ, trộm cắp tài sản trí tuệ và trợ cấp công nghiệp được ban phát vô tội vạ chỉ là một vài trong số đó.”
Về mặt ngoại giao, các chuyến công du của Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence tới ASEAN và APEC đã thẳng thừng tố cáo Trung Quốc sử dụng ngoại giao bẫy nợ, bá quyền và chèn ép để gây ảnh hưởng. Tại Papua New Guinea khi dự APEC, trước mặt ông Tập Cận Bình, Phó tổng thống Mỹ đả kích Con đường tơ lụa mới của Trung Quốc là “một vành đai siết cổ và một con đường một chiều” chỉ có lợi cho Bắc Kinh. Ông Pence cũng tiết lộ Mỹ đã lập một chương trình hỗ trợ các nước trong khu vực APEC có ngân sách 400 triệu USD nhằm giúp tăng cường quyền công dân của các quốc gia trong khu vực, chống tham nhũng và bảo vệ chủ quyền.
Có thể thấy, lập trường của Mỹ về vấn đề Trung Quốc đã ngày càng rõ ràng chuyển từ dung hoà sang đối kháng và coi Trung Quốc là một mối đe doạ đối với không chỉ Mỹ mà là cả thế giới. Lập trường này cũng đã buộc các nước khác phải tỏ rõ thái độ theo Mỹ hay theo Trung.
Xét về mặt đồng minh, Trung Quốc không có đồng minh thật sự. Khối các nước XHCN đang ngày càng thu hẹp trên thế giới, hoặc rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Bắc Triều Tiên đã ngày càng quy phục Mỹ, Cuba bỏ CNCS ra khỏi Hiến pháp, Venezuela rơi vào khủng hoảng tồi tệ và có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào. Tuyệt đại đa số các nước láng giềng luôn dè chừng với Trung Quốc, còn các nước được Trung Quốc cho vay xây dựng cơ sở hạ tầng đã dần nhận ra đó chỉ là những chiếc bẫy nợ.
Có thể thấy, Trung Quốc khó có thể tìm thấy đồng minh thực sự để đối trọng với khối liên minh mà ông Trump đang dựng lên. Trong khi đó, Mỹ đang dần kéo được các đồng minh dân chủ tự do mạnh nhất vào liên minh chống Trung Quốc.
Đầu tháng 10/2018, Mỹ đã chốt xong với Mexico và Canada Hiệp định Mỹ – Mexico – Canada (gọi tắt là USMCA) thay thế cho Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đã tồn tại 24 năm. Điều 32.10 của USMCA còn gọi là “Điều khoản thuốc độc”, cho phép Washington phủ quyết bất kỳ thỏa thuận thương mại tự do nào khác mà Mexico hay Canada ký với các nền kinh tế “phi thị trường”, được cho là nhắm đến Trung Quốc.
Phía Mỹ cũng công khai khẳng định sẽ nhân rộng điều khoản “thuốc độc” này trong các thỏa thuận thương mại với các đồng minh khác, trước mắt là EU và Nhật Bản.
Mỹ cũng tiến hành đàm phán lại nhiều thỏa ước thương mại với Nhật Bản và Hàn Quốc, siết chặt quan hệ chính trị lẫn quân sự với chính phủ Đài Loan – một cái gai trong mắt Trung Quốc. Vấn đề Bắc Hàn dường như đã đi vào lộ trình êm đẹp mà Mỹ có thể gạt Trung Quốc ra bên lề.
Mới đây, Chủ tịch Hội đồng Cố vấn kinh tế của Tổng thống Mỹ Donald Trump, ông Kevin Hassett, đã hàm ý có thể trục xuất Trung Quốc khỏi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) để giải quyết vấn đề nội tại của tổ chức này. Trong cuộc họp các Bộ trưởng thương mại Mỹ, Nhật và EU tại New York vào cuối tháng 9/2018, lãnh đạo thương mại các nước này đã đồng ý thúc đẩy các quy định mới và các công cụ thực thi để xử trí các quốc gia làm suy yếu hệ thống thương mại toàn cầu, đồng thời bày tỏ sự cần thiết phải cải cách các quy tắc không hiệu quả của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong đó có việc Bắc Kinh thực hiện thương mại không công bằng, làm méo mó cách tổ chức của thương mại quốc tế.
Như vậy, địa vị Trung Quốc trong WTO có thể sẽ lung lay, Trung Quốc sẽ ngày càng bị cô lập hơn, không chỉ trong cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ, mà kể cả trong phần còn lại của thế giới.
Trung Quốc trong thời điểm hiện tại đang phải đối mặt với nguy cơ tứ bề: kinh tế khủng hoảng, nội bộ đấu đá, quan chức hủ bại, lòng dân bất an, thế giới cô lập. Cách giải quyết duy nhất của Trung Quốc trong tình hình này là thực hiện cải cách toàn diện, trở thành một xã hội dân chủ, kinh tế vận hành theo quy luật thị trường. Thế nhưng, đó lại là những điều căn bản làm sụp đổ kết cấu kinh tế Trung Quốc hiện tại và thể chế XHCN của Trung Quốc hiện tại, có thể dẫn đến sự diệt vong của ĐCSTQ.
Sở dĩ thể chế ấy có thể kéo dài đến tận bây giờ chẳng qua ĐCSTQ đã không ngừng dùng mọi thủ đoạn để phát triển bằng mọi giá, trong nước thắt chặt tự do ngôn luận, đàn áp ý kiến bất đồng, ngoài nước dùng tiền và quyền lực mua chuộc dụ dỗ.
Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung không đơn giản chỉ là nước Mỹ đòi lại công bằng trên thương trường với Trung Quốc, mà là phát súng bắn vào chiếc mặt nạ “vĩ đại, quang vinh, chính xác” mà ĐCSTQ đang đeo, để lộ ra sau đó tất cả sự dối trá, hủ bại, tàn ác mà chế độ này đã thực thi trong gần 100 năm qua. Đó là một chế độ phi nhân tính của những kẻ lưu manh, chuyên dựa vào lừa dối và bạo lực để cướp đoạt và thống trị.
Khi sự thật dần được hé mở, sự thức tỉnh chính có thể là lời cáo chung cho chế độ ấy. Thế giới đã ngày càng nhận ra dã tâm thật sự của ĐSCTQ, người dân Trung Quốc cũng đã ngày càng nhận rõ bộ mặt thật của Đảng. Làn sóng thoái Đảng mạnh mẽ của người Hoa khắp toàn cầu đã khởi tác dụng rất lớn đánh thức lương tri, mở ra lựa chọn về một Trung Hoa không còn ĐCS cho người dân Trung Quốc
Lịch sử 5.000 năm của dân tộc Trung Hoa đã trải qua hằng bao nhiêu triều đại, dẫu là triều đại nào, dù hùng mạnh tới đâu cũng không thể thiên thu trường cửu. Đó là điều tất yếu của lịch sử. Những gì diễn ra tại Trung Quốc hiện đại đã tới bước cuối cùng để khép lại một triều đại đỏ tàn bạo và mở ra một trang sử mới. Đó cũng là điều tất yếu của lịch sử.
Sinh trưởng trong gia đình giàu có, đa tài và mang vẻ ngoài lãng tử, dường như ông trời đã quá ưu ái cho Boris Vian. Thế nhưng, số mệnh lại cướp đi hạnh phúc của văn hào.
Có một câu nói rất hay rằng: “Phải đợi đến khi trời tối người ta mới thấy được vẻ lấp lánh của viên kim cương lẫn trong đống than chì”. Trong đời sống văn chương và nghệ thuật, có những tác phẩm phải trải qua quãng thời gian “ngủ đông” khá dài, trước khi vẻ đẹp khác thường và đầy sáng tạo của chúng đến được với độc giả. Loạt tiểu thuyết của nhà văn người Pháp, Boris Vian cũng đã từng phải chịu số phận hẩm hiu như thế.
Những tác phẩm văn học ra đời trong giai đoạn cuối những năm 1930, đến đầu những năm 1950, phần lớn còn khá an toàn về kết cấu và văn phong. Phần lớn, độc giả vẫn ưa chuộng cách kể nhuần nhuyễn và lớp lang, mang đậm hơi hướng của thế kỉ XIX. Những cách tân bước đầu của các nhà sáng tạo lớn như: William Faulkner hay Jorge Luis Borges, cũng chẳng thể thay đổi được bầu không khí cổ điển đã quá rợn ngợp.
Boris Vian đã thổi một làn gió mới vào văn học. Chủ đề trong các tác phẩm của ông kể không hề mới. Chuyện con người vật lộn với gánh nặng mưu sinh hay hành trình đi tìm giấc mơ và hoài bão của đám thanh niên trẻ là chủ đề quen thuộc đã được nhiều nhà văn khai thác. Thế nhưng, tác giả người Pháp xây dựng nên một bối cảnh hoàn toàn mới lạ cho những đứa con tinh thần của mình. Ở đó, ông thỏa sức sáng tạo để viết nên những tác phẩm độc đáo, mang dấu ấn riêng.
Chuyện về một chàng công tử hào hoa
Boris Vian sinh ngày 10/3/1920 tại Ville-d'Avray, một vùng ngoại ô thuộc phía tây thủ đô Paris. Ông may mắn được sinh trưởng trong một giàu có, với truyền thống kinh doanh từ lâu đời. Bên nội của cậu bé Boris nổi tiếng trong vùng với nghề sản xuất và kinh doanh đồ đồng. Còn ông bà ngoại của nhà văn tương lai, lại có xưởng sản xuất giấy đang làm ăn rất phát đạt.
Đám cưới của cha mẹ họ, Paul Vian và Yvonne Ravenez, được tổ chức rất linh đình, theo sự mai mối từ trước của hai gia đình. Sau khi cưới, đôi uyên ương chuyển tới sống tại một lâu đài ở Ville-d'Avray. Bốn người con của họ đều cất tiếng khóc chào đời tại đây.
Nhà văn điển trai người Pháp Boris Vian bên cây kèn saxophone.
Cuộc sống của gia đình Vian rất sung túc, bà Yvonne cũng không phải tất bật chăm lo cho các con, vì vậy quanh bốn đứa trẻ lúc nào cũng có vài bảo mẫu và vú em. Khi muốn đi ra ngoài dạo chơi hay mua sắm, năm mẹ con đã có tài xế đưa rước. Thuở nhỏ, cậu bé Boris rất hiếu động và thích pha trò trêu chọc mọi người. Thế nhưng, vào năm 12 tuổi, sau một trận ốm “thập tử nhất sinh”, mà thủ phạm chính là căn bệnh viêm khớp cấp, tính tình cậu con trai thứ hai nhà Vian thay đổi hẳn. Chú nhóc hóm hỉnh trở nên trầm lặng và suy tư nhiều hơn.
Để giữ cậu con trai bệnh tật ngồi yên trong phòng, hòng tránh được những rủi ro về sức khỏe, bà Yvonne đã khuyến khích cậu bé Boris học nhạc. Từng là nhạc sĩ, bà rất thích thú khi phát hiện ra con trai mình có khả năng thẩm âm tuyệt vời. Yvonne Vian muốn cho con trai học piano, nhưng xem ra cậu bé lại hứng thú với cây kèn saxophone, nhưng điều đó có hề gì.
Khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra vào năm 1929 khiến cho công việc kinh doanh của nhà Vian bị đình trệ. Lúc đó, Paul Vian tìm thấy một niềm đam mê mới, đó là công việc dịch thuật. Từ khi còn trẻ, ông đã yêu văn chương và thích đọc sách.
Gã lãng tử lắm tài nhiều tật
Sinh thời, Boris Vian có rất nhiều đam mê. Chơi kèn saxophone, sáng tác nhạc Jazz, hội họa, viết văn và thậm chí cả những việc không liên quan đến nghệ thuật như chế tạo ô tô. Nhưng xem ra, văn chương là bến đỗ bình yên nhất, nó tạo cơ hội để Boris Vian có thể bộc lộ được sự hóm hỉnh cùng trí tưởng tượng nhạy bén và khác thường của mình.
Các nhà phê bình văn học Pháp đã đặt Boris Vian trong hàng ngũ của các nhà sáng tạo. Trong các sáng tác của mình, ông tạo ra vô khối từ mới bằng cách lồng ghép các từ có sẵn và đảo trật tự chữ cái của các từ thông dụng. Boris Vian cho rằng: văn chương không phải là sự chau chuốt thái quá của câu từ, nó phải chân thành như đời sống. Thế nên, ông đưa khá nhiều văn nói cùng lối nói lái vào trong các tác phẩm của mình. Đọc tiểu thuyết của ông, người ta thường bắt gặp những đoạn hội thoại dài.
Bọt tháng ngày, tiểu thuyết nổi tiếng của Boris Vian vừa ra mắt bạn đọc Việt Nam.
Tên các nhân vật nổi tiếng cũng được ông biến tấu một cách rất ngộ nghĩnh. Trong tác phẩm Bọt tháng ngày, tên của người bạn thân- nhà văn, triết gia người Pháp Jean-Paul Sartre bị ông ngẫu hứng đổi thành Jean-Sol Partre.
Trong kí ức của nhiều người yêu nhạc Jazz ở Paris cuối những năm 40 đầu những năm 50 của thế kỉ trước vẫn còn lưu giữ những hình ảnh đẹp về một người đàn ông lịch lãm với mái tóc vàng và đôi mắt xanh, say sưa thổi saxophone… không ai khác, đó chính là Boris Vian.
Trong suốt cuộc đời mình, ông đã sáng tác hơn 500 bài hát và các bản nhạc không lời, trong đó nổi tiếng nhất là bài Le Déserteur (Người đào ngũ).
Vùng ngoại ô Ville-d'Avray thanh bình, nơi Boris Vian sống suốt thời thơ ấu.
Boris Vian đã trải qua 2 cuộc hôn nhân. Người vợ đầu của ông là Michelle Léglise, một giáo viên tiếng Anh. Họ cảm mến nhau vì cả hai cùng yêu thích văn chương. Cả hai gặp nhau lần đầu năm 1940 và kết hôn chỉ một năm sau đó. Đời sống vợ chồng của nhà văn nổi tiếng trôi qua trong êm đềm với sự xuất hiện của hai thiên thần nhỏ: Patrick và Carole. Nhưng sau sự ra đi của cô con gái Carole vào năm 1948, thì mọi chuyện trở nên tồi tệ. Vợ chồng họ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và liên tục cãi vã.
Vào năm 1951, khi đã ly thân vợ, trong một lần đi uống rượu với bạn bè Boris Vian đã gặp cô vũ công người Thụy Sĩ Ursula Kübler. Lần này, âm nhạc trở thành "bà mai" giúp văn hào tìm thấy tình yêu mới. Sau đó, hai người bắt đầu lén lút qua lại với nhau. Vào năm 1954, Boris Vian ly hôn vợ để đến với Ursula Kübler. Đôi uyên ương này rất tâm đầu ý hợp, mặc dù không có con cái. Sau khi Boris Vian qua đời vào năm 1959 vì lên cơn đau tim, Ursula Kübler sống trong cảnh góa bụa suốt phần đời còn lại.
VN Express hôm nay có một bài rất xuất sắc với những phân tích, tổng hợp, các chứng cứ đã mạnh mẽ vạch trần cuộc xâm lược không thể chối cãi của Trung Quốc cộng sản đối với Việt Nam.
Cuộc chiến tranh hơn 20 năm nay và đang từng ngày tiếp diễn không tiếng súng, không chết chóc ngay lập tức nhưng là một cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt gây cho Việt Nam những tổn thất khủng khiếp như một cuộc diệt chủng.
Trung Quốc với sự tham lam độc ác của mình đã độc chiếm nguồn nước sông Mêkông bắt nguồn từ Tây Tạng đổ về Việt Nam. Mêkông - người Khmer gọi là sông Mẹ, người Việt gọi là Nguồn sống. Mêkông vào Việt Nam tạo nên sông Tiền, sông Hậu cùng chín nhánh - Cửu Long – chín con rồng đổ ra Biển Đông làm nên vùng đất trù phú Nam bộ nuôi sống 20 triệu dân Nam bộ.
Trung Quốc chặt Mêkông thành 10 khúc với 10 đập thủy điện khổng lồ, ngăn phần lớn lưu lượng nước ngọt của Nam bộ, và ăn chặn 40 đến 50% lượng đất phù sa cho Nam bộ.
Do nguồn nước ngọt bị Trung Quốc cướp đoạt, dẫn đến nước mặn xâm lấn đến gần trăm kilomet, hủy diệt vựa lúa quan trọng nhất của Việt Nam.
Do đất phù sa màu mỡ nuôi cây trái, cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay bị Trung Quốc tước đoạt, dẫn đến đất bị thoái hóa, dân phải bón phân hóa học làm cho đất dần chết... bền vững.
Vựa lúa không còn là vựa lúa, cây trái mất mùa, tôm cá tận diệt, 20 triệu dân Nam bộ đứng trước thảm cảnh... chiến tranh hủy diệt tận gốc sống này.
Ai là người Việt Nam của nước gã có trí, có học, có lòng thương đất thương nước đã và đang đau đớn, căm giận trước thảm cảnh của dân tộc này?
Các vị lãnh đạo quốc gia đã làm gì để ngăn chặn và chống lại cuộc xâm lược ăn cướp trắng trợn này của cộng sản Trung Quốc?
Gã tha thiết mong mỏi mọi người cùng tìm hiểu về cuộc chiến tranh này và cùng có tiếng nói chung tìm mọi cách bảo vệ quyền lợi dân tộc, nguồn sống dân tộc trước kẻ xâm lược Trung Cộng độc ác vô nhân tính.
Trung Cộng đang cướp quyền tự do của dân Hồng Kông thì cả thế giới và cả nước ta lên án. Trong khi đó chúng cướp nguồn nước, nguồn sống của 20 triệu đồng bào ta ở Nam bộ lẽ nào chúng ta lại không biết, lại thờ ơ, lại im lặng?
Người sáng lập Vingroup, Phạm Nhật Vượng, hay “Vượng Vin” như cái cách nhiều người gọi, là một người khôn lanh và làm việc không ngừng nghỉ.
Người giàu nhất Việt Nam này điều hành tập đoàn của ông ta một cách chặt chẽ. Tôi được bảo là ông Vượng chỉ trả lời phỏng vấn mỗi năm một lần, và tờ Tuổi Trẻ của Việt Nam đã giành được suất phỏng vấn đó từ tháng Hai vừa rồi.
Vượng sinh năm 1968 và lớn lên ở Hà Nội. Cha ông ta phục vụ trong không quân. Khi còn là một thiếu niên trong những năm 1980, Vượng là một trong số những học sinh có được đặc quyền đi du học tại Đông Âu. Khi đó, nền kinh tế hậu chiến của Việt Nam vẫn đang khốn khổ vì cấm vận. Sau khi học tại một viện địa chất ở Moscow, Vượng chuyển về Kharkiv ở Ukraine.
Khi khối Xô Viết tan rã, một loạt các cơ hội kinh doanh đã mở ra cho những ai dám làm dám chịu. Vượng ban đầu cùng phối hợp làm ăn với Lê Viết Lam – một sinh viên Việt Nam khác. Ông Lam sau này cũng sáng lập một tập đoàn đa ngành khác là Sun Group.
Năm 1993, Vượng và Lam thành lập Technocom. Công ty này sử dụng một quy trình công nghệ mang từ Việt Nam sang để tạo ra Mivina – nhãn hiệu mì gói phổ biến nhất tại Ukraine.
Cách đây một thập niên, Vượng bán Technocom cho Nestlé với giá ước lượng khoảng 150 triệu đô-la Mỹ. Ông mang khoản tiền này về Việt Nam. Đó là một quyết định đúng thời điểm. Ông rút tiền khỏi Ukraine đúng lúc cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đang ảnh hưởng đến quốc gia Đông Âu này, để rồi mang tiền về Việt Nam khi các biện pháp cải cách kinh tế theo định hướng thị trường đang đẩy mạnh tăng trưởng ở đây.
Dự án lớn đầu tiên của Vượng chính là khu resort Vinpearl [thành lập năm 2001, khai trương năm 2003 – ND]. Khu này được xây trên một hòn đảo kém phát triển nằm ngoài khơi thành phố biển Nha Trang. Các nhân viên Vingroup mới vào làm thỉnh thoảng hay được kể lại cách mà Vượng đã giải quyết được một thử thách kỹ thuật tưởng chừng như không thể nào giải quyết nổi: xây một cáp treo đi ngang biển từ ngoài đảo vào trong đất liền.
Sau thành công ban đầu đó, Vượng xây khu tổ hợp cao ốc văn phòng đầu tiên của Hà Nội, trung tâm Vincom Bà Triệu [thành lập năm 2002, khai trương năm 2004 – ND], và một loạt các dự án nhà ở khác tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Nhiều dự án đó được xây dựng với hỗ trợ từ các chương trình “Xây dựng-Chuyển giao” (Build-Transfer). Trong các chương trình này, các công ty nhà nước thiếu tiền hay các quan chức giao đất cho các nhà kinh doanh địa ốc để đổi lấy đường xá hay các cơ sở hạ tầng khác.
Năm 2012, Vượng sáp nhập Vinpearl – mảng kinh doanh resort – với Vincom – mảng kinh doanh địa ốc – để tạo thành Vingroup.
Một năm sau đó, tạp chí Forbes tuyên bố Vượng là tỷ phú đầu tiên của Việt Nam. “Câu chuyện của Vượng chính là hiện thân của câu chuyện Việt Nam thời hậu chiến, một thành quả tư bản trên một đất nước vẫn tồn tại trên danh nghĩa là một nước cộng sản”, Forbes bình luận.
Bây giờ, chiến lược kinh doanh của Vượng tiếp tục theo đuổi cái cốt truyện “hiện thân” đó.
Tất cả những gì tôi nghe kể về Vingroup đều cho thấy đấy là một môi trường làm việc khắt khe. Họ có một chuẩn quy tắc ăn mặc nghiêm khắc, những nhân viên vi phạm có thể chịu phạt bằng cách trừ lương (một phát ngôn viên Vingroup cho tôi biết tiền phạt này được góp vào làm từ thiện).
Trong cuộc phỏng vấn với báo Tuổi Trẻ, Vượng nói rằng văn hóa doanh nghiệp của Vingroup được xây dựng xung quanh “ba giá trị: lòng yêu nước, kỷ luật, và văn minh”. Vượng đề xuất cho nhân viên tập đoàn ông đọc cuốn sách dạy kinh doanh “Từ tốt đến vĩ đại: Tại sao một số công ty đạt bước nhảy vọt còn các công ty khác thì không“.
Vingroup càng mở rộng sang các ngành khác thì sản phẩm mới lại càng xuất hiện nhiều hơn. VinFast mới đây xuất xưởng xe máy chạy điện, một dạng ít ô nhiễm hơn so với phương tiện mà phần lớn người Việt Nam dùng để đi lại. Tuy nhiên, VinFast đang đặt cược là vài triệu người trong dân số 100 triệu người Việt Nam sẽ sớm đặt mua những chiếc xe hơi đầu tiên của họ. Quy trình sản xuất những chiếc ô tô mui kín, mẫu đầu tiên trong một nhóm ba mẫu xe, đã được khởi động vào tháng 6 này.
Công luận biết rất ít về các mối quan hệ giữa Vingroup và chính phủ Việt Nam. Nhưng trong khi giới lãnh đạo Việt Nam đang tìm cách đẩy qua bên lề các doanh nghiệp nhà nước cứng nhắc, họ thường phát biểu rằng khối kinh tế tư nhân là động lực hàng đầu cho tăng trưởng của đất nước.
Năm 2017, khi Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng (người mới đây đã trở thành chủ tịch nước), tới thăm nhà máy VinFast, có tin cho biết ông Trọng đã khen ngợi Vingroup là “nhà tiên phong trong sản xuất nhãn hiệu xe quốc gia”.
Gần đây hơn, trong một dịp khai trương sản phẩm hồi đầu tháng 6/2019, Vượng đã lái một chiếc xe điện tại nhà máy Hải Phòng của VinFast. Ngồi cùng xe với Vượng là khuôn mặt tươi cười của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, người đang khuyến khích người dân nước mình “ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Năm ngoái, chính phủ Việt Nam đưa ra một số biện pháp để kiểm soát lượng xe hơi nhập khẩu. Động thái này có lợi cho VinFast và cả Thaco, nhà sản xuất xe hơi còn lại của Việt Nam. Nhiều người Việt Nam tin rằng động thái đó là một nỗ lực bảo hộ nhãn hiệu xe hơi non trẻ của VinFast.
Việt Nam cũng đã công bố các kế hoạch giảm sử dụng xe gắn máy gây ô nhiễm trong giao thông tại hai siêu đô thị Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Nhiều người Việt Nam nói với tôi cho rằng động thái này cũng được thiết kế để giúp đỡ cho các xe máy chạy điện của VinFast và cho doanh nghiệp kinh doanh xe buýt chạy điện, VinBus, mà Vingroup mới lập ra vào tháng 5/2019.
Khi tôi hỏi phó chủ tịch Thủy rằng Vingroup có đóng vai trò gì trong chính sách giao thông của chính phủ Việt Nam hay không, bà Thủy gạt bỏ ngay ý tưởng đó: “Chúng tôi không bao giờ vận động hành lang với chính phủ vì bất cứ điều gì cả”, bà nói.
Trình bày chung về tầm nhìn của ông Vượng dành cho Vingroup, bà Thủy nói tập đoàn này có một sứ mạng “rất nặng nề” là phải dẫn dắt nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam, với mục tiêu trở thành doanh nghiệp dẫn đầu hay chí ít là đứng thứ nhì trong mọi ngành kinh doanh họ làm. “Chúng tôi đã có may mắn trong các năm qua khi chính phủ hỗ trợ khối kinh tế tư nhân vươn lên hàng đầu”, bà Thủy nói. “Chúng tôi may mắn là đang có mặt đúng thời điểm và đang làm những gì tốt nhất cho đất nước.”
Chiếm lĩnh
Sự thâm nhập của Vingroup vào mọi mặt trong đời sống tại Việt Nam sẽ còn trở nên sâu sắc hơn nữa.
Năm ngoái, Vingroup làm cả thị trường ngạc nhiên bằng tuyên bố khởi động mảng kinh doanh điện thoại thông minh VinSmart, và một đơn vị mới trong tập đoàn chuyên về trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu lớn.
Ông Vượng tuyển người một cách sâu rộng cho các hoạt động mới, săn tìm nhân tài từ giới người Việt sống ở nước ngoài, những người hay được gọi là Việt kiều. Vũ Hà Văn là một giáo sư toán học tại Đại học Yale đã có nhiều năm làm việc ở nước ngoài (ở Mỹ ông được biết đến với tên Van H Vu). Ông đã được chọn làm cố vấn chính cho Vingroup về trí tuệ nhân tạo.
Tôi đến nói chuyện với ông Văn tại khu Times City, một khu đô thị tại Hà Nội do Vingroup xây dựng. Khu này là một minh họa sống động cho tầm nhìn của Vingroup: bên cạnh các căn hộ chung cư cao cấp Vinhomes là bệnh viện quốc tế Vinmec, một ngôi trường Vinschool, một thủy cung Vinpearl, và một khu mua sắm Vincom Mega Mall.
Trong văn phòng Vingroup có đầy các ghế lười hạt xốp và tranh ảnh Bill Gates với Steve Jobs, ông Văn bảo tôi rằng công việc của họ là nghiên cứu các ứng dụng dữ liệu lớn sẽ cho phép Vingroup cung cấp thêm các dịch vụ khác khi tập đoàn này mở rộng các ngành kinh doanh điện thoại, TV thông minh, nhà cửa và xe hơi.
Ví dụ, các cửa hàng siêu thị VinMart có thể sử dụng các “camera thông minh” để lưu lại thông tin về thời gian khách hàng nán lại một gian hàng nào đó trong siêu thị.
Ông Văn cũng nói với tôi rằng đơn vị nghiên cứu trí tuệ nhân tạo của Vingroup đang tiến hành các nghiên cứu với mục đích “trợ giúp cộng đồng khoa học và xã hội nói chung”. Trong số đó có một nghiên cứu làm bản đồ gen người cho Việt Nam.
Qua một chương trình có khả năng giúp ích cho ngành công nghệ cao còn non trẻ của Việt Nam, Vingroup còn đang cấp học bổng cho các sinh viên cao học tài năng, những người này không hề có nghĩa vụ bắt buộc phải làm việc cho Vingroup sau khi tốt nghiệp.
“Chúng tôi cho rằng nếu lực lượng lao động của cả nước lớn mạnh, chúng tôi cũng sẽ hưởng lợi thôi,” ông Văn bảo tôi.
Tuy nhiên, với việc Vingroup và các công ty đang lên khác gia tăng ảnh hưởng và cho ra lò các công nghệ mới đầy quyền năng, giới hoạt động xã hội dân sự nói rằng cần phải có biện pháp kiểm tra, giám sát hiệu quả giới doanh nghiệp lớn.
Các quan điểm phê phán và các báo cáo khắt khe về giới doanh nghiệp lớn rõ ràng là đang thiếu vắng trong môi trường truyền thông bị nhà nước kiểm soát của Việt Nam. Các đơn vị truyền thông Việt Nam không chỉ phải hoạt động dưới bàn tay kiểm duyệt của nhà nước, họ thường vật lộn về mặt tài chính và rất ngại làm phiền lòng các doanh nghiệp mua nhiều quảng cáo.
Mối quan hệ giữa cánh nhà báo và các doanh nghiệp thường khá là nhập nhằng. Giống như tại Trung Quốc, các phóng viên Việt Nam thường được trả lương thấp và họ thỉnh thoảng được các doanh nghiệp cho thêm các khoản tiền mặt nhỏ mỗi lần họ đến dự các buổi họp báo.
Khi tôi đến dự buổi khai trương mẫu điện thoại Vsmart tại TP. Hồ Chí Minh vào tháng 12 năm ngoái, trong bộ tài liệu quảng cáo dành riêng cho báo giới mà bên Vingroup trao cho tôi có kèm một phong bì hai triệu đồng (khoảng 85 đô-la Mỹ). Tôi trả cái phong bì đó lại cho một nhân viên Vingroup.
Bên Vingroup xác nhận rằng tại Việt Nam “theo thông lệ” doanh nghiệp thường mời các phóng viên ăn trưa sau buổi họp báo. Một khoản “tiền tiêu vặt” thường được doanh nghiệp trao cho các phóng viên trong trường hợp doanh nghiệp không thể tổ chức ăn trưa. (Các bữa ăn trưa của tôi ở Hà Nội đều do tòa soạn Financial Times trả, ít khi nhiều hơn 10 đô-la Mỹ.)
Khi tôi mới lần đầu viết bài về VinFast cho Financial Times năm 2018, công ty này đã liên lạc với tôi chỉ vài phút sau khi bài báo được đăng lên mạng. Họ yêu cầu chúng tôi xóa bỏ một câu trong bài nói về mối quan hệ giữa Vingroup với hãng BMW vốn đang hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật cho VinFast. Vingroup không hề nói rằng câu đó sai sự thật. Financial Times từ chối yêu cầu xóa câu đó của họ.
Tuy nhiên, trong cõi mạng Việt Nam, các tin bài với những chi tiết gây tranh cãi thường biến mất sau khi có sức ép từ các doanh nghiệp hay quan chức nhà nước.
Tranh luận về tầm ảnh hưởng đang lớn mạnh của Vingroup thường sống động hơn trên các mạng xã hội. Việt Nam hay được miêu tả là một phiên bản nhỏ của Trung Quốc, nước láng giềng cộng sản của Việt Nam. Tuy nhiên, có một lĩnh vực mà phép so sánh này trật lất: mạng internet. Trung Quốc xây dựng mạng internet riêng của họ phía sau bức “vạn lý tường lửa” để không cho các dịch vụ mạng xã hội từ Mỹ xâm nhập. Việt Nam thì lại vẫn cho phép Facebook, YouTube và Google hoạt động.
Người Việt Nam được tự do nói những gì họ nghĩ hơn người Trung Quốc nhưng thỉnh thoảng họ vẫn phải gánh chịu hậu quả của việc đó.
Sử dụng một luật an ninh mạng khắt khe mới ban hành, chính phủ Việt Nam đang cố gắng kiểm soát các doanh nghiệp công nghệ khổng lồ từ Mỹ cũng như môi trường tự do ngôn luận mà các doanh nghiệp này cung cấp. Chính phủ Việt Nam đang cảnh giác với vai trò của mạng xã hội trong việc tạo điều kiện cho người dân tổ chức các cuộc biểu tình lớn. Những cuộc biểu tình như thế đã diễn ra trong những năm gần đây, ví dụ như cuộc biểu tình năm 2016 liên quan đến việc một nhà máy thép của Đài Loan xả hóa chất độc hại ra bên ngoài.