Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2018

Nhân vụ Bùi Hiền đăng lại bài này để thấy không phải ngẫu nhiên có điều quái gở:

VỀ TRUYỆN “BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC”




Hoàng Quốc Hải





TNc: Báo Văn nghệ vừa đăng lời cáo lỗi về việc in truyện ngắn "Bắt đầu và kết thúc". Việc đó thật đàng hoàng, rât hoan nghênh. Nhưng có một điều rất lạ là tên bài viết của nhà văn Hoàng Quốc Hải là BẮT ĐẦU thì bài in trong báo Văn nghệ là MỞ ĐẦU. Tôi thấy lạ nên vào email tìm bài anh Hoàng Quốc Hải gửi tôi từ 16-1-2018 cho tôi tham khảo. Có trời mới biết vì sao BẮT thành MỞ, chỉ báo VN mới trả lời được. (tôi chụp lại 2 văn bản để bạn đọc rõ)


Đã đăng báo Văn Nghệ số 4, ra ngày 27.1.2018.

Mấy năm nay, nhiều nguồn tin không thể kiểm chứng tải về từ nhiều nước, trong đó chủ yếu từ Trung Quốc do người có học đi du lịch đem về. Trong đó họ nói,Trần Ích Tắc trá hàng để làm tình báo, Trần Quốc Toản không phải hy sinh khi truy đuổi giặc bên bờ sông Như Nguyệt, mà ông chỉ bị thương, giặc bắt đưa ông về Tàu. Ông qui thuận, nên được trọng đãi. Hiện con cháu ông rất thành đạt. Họ đã được xem cả gia phả, tộc phả của cả gia quyến Trần Ích Tắc và Trần Quốc Toản. Nhưng khi hỏi bằng chứng thì chẳng ai có bằng chứng gì. Có kẻ còn khẳng định: Chỉ riêng tôi có tài liệu gốc, tôi sử dụng cho riêng tôi, tại sao tôi phải chứng minh cho mọi người. Lý sự thế, thì đúng là giả mạo rồi, nhà nghiên cứu, nhà khoa học, không ai làm như vậy. Thế mà nhiều người vẫn nhắm mắt tin theo, rồi phao tin đồn nhảm.

Liệu ta có thể tin, giặc đủ bình tĩnh bắt sống Trần Quốc Toản đưa về Tàu, trong khi chúng hết sức hoảng loạn tháo chạy bởi quân ta truy kích. Đến nỗi tổng chỉ huy Thoát Hoan còn phải chui vào rọ, chịu cho lính kéo đi như kéo một con chó.
Luận điệu này là đòn tâm lý chiến, nó khuyến khích những kẻ khờ khạo tin theo, rằng theo giặc sẽ đời đời phú quí, dòng dõi dài lâu.Thật là hiểm độc.
Nhân nói đến truyện ngắn BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC của nhà văn Trần Quỳnh Nga, tôi không phải người đầu tiên phát hiện ra truyện này. Bởi hạ tuần tháng chạp năm ngoái (2017), tôi vào Sài Gòn, khi chúng tôi đang thắp hương ban thờ cố nhà văn Hồng Duệ tại Thủ Đức, thì có chuông điện thoại. Nhà nhiếp ảnh Đỗ Kha từ Quảng Ninh hỏi tôi với giọng gay gắt: Anh đã đọc truyện ngắn “Bắt đầu và kết thúc” trên Văn Nghệ số 50 chưa? Rồi anh xổ ra một tràng đầy bức xúc và giận dữ, không cho tôi nói xen vào. Kết thúc anh hỏi: “Ý kiến anh thế nào?”. Tôi nói chưa đọc số báo đó và tôi đang ở Sài Gòn. Về Hà Nội, tôi tìm đọc. Đọc xong tôi thấy băn khoăn quá, liền gọi điện cho thư ký tòa soạn Lương Ngọc An, vài hôm sau lại gọi cho Tổng biên tập Khuất Quang Thụy. Cả hai nhà văn đều hỏi tôi có chuyện gì. Tôi nói, tôi không yên tâm về nội dung truyện “Bắt đầu và kết thúc”, và rằng tôi sẽ viết ý kiến của mình gửi đến Tòa soạn. Các bạn rất vui vẻ khuyến khích - Vậy anh viết đi. Tôi chưa kịp viết thì trên các mạng xã hội đã có phản ứng. Các ý kiến khen chê trao đi đổi lại thật là sôi động, nhưng vẫn giữ được bình tĩnh.

Như đã hứa với hai vị chịu trách nhiệm tờ báo, nên tôi viết bài này.

Trước hết, tôi xin cung cấp một vài chi tiết đã được lịch sử của ta và cả lịch sử của Trung Hoa khẳng định một cách ổn định từ hơn 700 năm qua. Đó là:

Trần Ích Tắc, Trần Tú Viên, Trần Văn Lộng, Trần Kiện… đã được lịch sử Việt Nam coi chúng là lũ bán nước, đầu hàng giặc. Đương thời nhà Trần đã đưa chúng ra khỏi hoàng tộc, tịch thu điền sản và gọi chúng là Ả Trần.

Trong khi đó triều đình nhà Nguyên lại coi chúng là những hàng thần có công.

Ví dụ Trần Ích Tắc được chép trong An Nam chí lược của Lê Tắc như sau:

“Năm Ất dậu (1285), Ích Tắc đem gia quyến đầu hàng Trung Quốc. Tháng 5 theo Vương sư (tức là theo quân của Thoát Hoan) về Tàu. Mùa thu vào bệ kiến. Mùa xuân tháng hai năm Bính tuất (1286) hiệu Chí Nguyên, vua Thế tổ thương Tắc có lòng trung hiếu, đặc ân phong cho tước An Nam vương, Quang lộc đại phu, ban cấp phù ấn, cho tiền 5.000 quan. Con trưởng tên Bá Y, được phong chức Gia nghị đại phu lĩnh An vũ sứ lộ Đà Giang (hư chức) ban cho áo mũ cung tên, yên cương và ngựa” (An Nam chí lược của Lê Tắc, tr.253, NXB. Lao Động, 2009).

Như vậy cha con người này được vua nước giặc ban tước lộc ưu trọng đã rõ ràng.

Nên nhớ cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên năm 1285, sinh mệnh nước ta vô cùng nguy hiểm như chuông treo chỉ mảnh. Thế mà trong lúc Toa Đô phá vỡ cửa quan Nghệ An, vây quân ta từ hai mặt bắc, nam, khiến tình thế cực kỳ gian nan, điêu đứng. Giữa lúc ấy đầu têu theo giặc là Trần Ích Tắc, Trần Kiện rồi kéo theo cả một lũ thân vương, quốc thích ra hàng giặc. Riêng phủ binh của Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc và Chương Hiến hầu Trần Kiện mỗi nơi có tới 20.000 quân theo chủ ra hàng giặc. Trần Kiện còn dẫn Toa Đô đi vây bắt chú mình là Chiêu Minh vương Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, đẩy mệnh nước vào chỗ nguy hiểm tột cùng.

Một người tiếp tay cho giặc, làm nguy thế nước như vậy, sao lại gọi là có công được.
Trên thực tế vấn đề nhân vật lịch sử Trần Ích Tắc đã được lịch sử liệt hạng phản quốc một cách ổn định, không còn gì ẩn khuất mà phải giải mã. Cũng không có ai tôn vinh nhân vật này hoặc đưa y vào điện thần mà phải giải thiêng, giải ảo. Vậy tại sao truyện lại viết Trần Ích Tắc như một người có công với nước vậy?

Đã gọi là tiểu thuyết, kể cả tiểu thuyết lịch sử thì yếu tố hư cấu là phương pháp giúp tác giả hoàn thiện nhân vật, hoàn thiện kết cấu của tiểu thuyết. Nhưng hư cấu như thế nào cho nhân vật và cả tiểu thuyết đạt tới chân thực lịch sử, chứ không phải hư cấu đến phản lịch sử.

Về công chúa An Tư thì từ tháng 2 năm 1285, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Sai đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh tôn) đến cho Thoát Hoan, là có ý muốn làm thư bớt tai nạn của nước vậy”. Đây là lần cuối cùng An Tư xuất hiện trong chính sử rồi bặt tăm tích.

Về nhân vật An Tư, vì có sự nhầm lẫn về việc nàng có hai con với Thoát Hoan, nên đã có người viết tiểu thuyết, coi như An Tư an phận sống với tên tướng giặc trong một cuộc đời buồn tẻ với hai người con mà lòng luôn hướng về cố quốc.

Sự thật không phải Thoát Hoan lấy em Trần Ích Tắc, mà y kết hôn với em gái Trần Tú Viên. Việc này đã được Lê Tắc là lại viên thuộc phủ Trần Kiện, chủ tớ cùng ra hàng giặc. Sau Lê Tắc viết An Nam chí lược, giúp ta có nhiều tư liệu khả tín về nhà Trần mà y là chứng nhân.

Việc này trong An Nam chí lược, quyển 13, phần “Nội phụ hầu vương”, tức các vương hầu nội phụ. Lê Tắc đã cẩn thận chép riêng phần của mỗi người.

Phần về Trần Tú Viên, có đoạn chép liên quan đến Thoát Hoan như sau: “… Minh niên hoàn cư Bộc Dương. Trấn Nam vương sơ nạp kỷ muội Trần Thị vi thứ phi sinh tông tử nhị. Chí Nguyên Ất sửu hạ ngũ nguyệt tốt ư Túy Sơn…”

(Năm Bính tý 1336), trở về Hán Dương. Trấn Nam vuơng cưới người em gái làm thứ phi, sinh được hai con. Tháng năm Ất sửu (1337) hiệu Chí Nguyên, Tú Viên mất ở Túy Sơn…)

Vậy “kỷ muội” ở đây là em gái của Trần Tú Viên chứ không phải em gái của Trần Ích Tắc. Vả lại nếu An Tư còn sống tới lúc này, tuổi cũng đã tới sáu, bảy mươi, sao còn lọt mắt Thoát Hoan để y cưới làm thứ phi.

Cuốn An Nam chí lược của Lê Tắc những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20, có người đưa từ Nhật Bản về. Nhưng giới học giả thời ấy khinh ghét nhân cách Lê Tắc, chê y là kẻ bán nước nên không thèm chuyển ngữ. Học giả Trần Thanh Mại năm 1939 đã viết bài đăng trên tạp chí Tao Đàn số 3.Trong đó ông phê phán: “Một nhà viết sử bán nước, một quyển sử nhục nhã, Lê Tắc và quyển An Nam chí lược của y”.

Mãi tới năm 1960,Viện Đại học Huế mới khởi dịch với sự tài trợ của quỹ Văn hóa Á Châu. Bản hiện đang lưu hành, in lại từ bản dịch này.

Về An Tư, đoạn kết tác giả viết: “…Quân triều đình đã vây kín mọi lối thoát. Cánh cửa phòng nàng bật mở. Trong tíc tắc, An Tư như bừng tỉnh. Nàng vùng dậy kéo tấm chăn bằng lụa điều rồi đẩy Thoát Hoan vào đó……..Trong đêm tối tịch mịch có hai người vội vã rời khỏi kinh thành. Ngựa phi nhanh như gió. Sau lưng họ, hoa đào rụng trắng như tuyết dưới ánh trăng suông ướt át…”. Đây là một lớp cải lương đầy kịch tính, cực tả một tình yêu mù quáng. Nhưng lại đẩy An Tư trở thành tên đồng lõa với kẻ thù dân tộc, che chở và cùng y chạy trốn. Hành vi ấy là phản bội Tổ quốc, chống lại cuộc chống xâm lược của toàn dân.

Thực tế lịch sử không phải vậy. Thực tế, trên khắp các mặt trận giặc bị dồn vào thế có nguy cơ bị tiêu diệt, buộc Thoát Hoan phải cho đại quân tháo chạy. Trên đường chúng rút lui, bị quân ta truy kích rất ác liệt. Trần Kiện đã bị dân binh của Nguyễn Địa Lô bắn chết khi y núp bóng quân thù chạy trốn. Gia đình Trần Tú Viên từ cha mẹ đến con cháu y chết tới tám người. Y phải đau đớn thốt lên:

Tam thế, bát tang thiên cổ thống

Nhất thân vạn lý bách thiên cơ

(Ba đời chịu tám tang đau thương nghìn thuở

Một mình ngoài muôn dặm cô quạnh trăm năm)

Cuộc truy đuổi giặc hết sức hào hùng, giặc sợ hãi tới mức phải đưa Thoát Hoan chui trong rọ tre, ngoài bọc đồng lá để tránh tên đạn, cho quân khiêng hoặc kéo lê trên mặt đất như kéo một chiếc rọ chó. Các tướng hùm sói như Lý Hằng, Lý Quán trực tiếp cầm quân che chở cho Thoát Hoan đều bị trúng tên mà chết.

Sự thật chiến trận là vậy. Sự thật lịch sử là vậy. Cả sử ta và sử giặc đều chép như vậy. Sao tác giả truyện lại mô tả An Tư như một thứ tội đồ. Điều này không chỉ trái với sự thật lịch sử, mà nó còn xúc phạm cả phẩm giá của An Tư, và phủ định chiến công có một không hai của quân dân Đại Việt thế kỷ 13.

Đành rằng nhà văn viết truyện lịch sử chứ không phải nhà chép sử. Nhưng tất cả đều không thể vượt qua cái ngưỡng là sự thật. Giới hạn của hư cấu chính là đạt tới chân thực chứ không phải xuyên tạc sự thật hiển nhiên.

Thật ra truyện này viết với bút pháp nghệ thuật rất bình thường, kết cấu lủng củng, kiến thức non kém.Nhưng nếu không có việc nó gây ra tác hại khôn lường thì cũng chẳng ai quan tâm làm gì. Tác hại này có thể nằm ngoài ý muốn của tác giả.

Gần đây người Trung Hoa, đang dấy lên khuynh hướng lật đổ chính sử. Bởi sử Trung Hoa xưa có những chương đen tối. Dân tộc Trung Hoa bị ách đô hộ ngoại bang bởi người Mông Cổ và người Mãn Thanh.Vì vậy sử họ viết người Mông Cổ và người Mãn Thanh đều là giặc của Trung Hoa.

Nhà Minh diệt nhà Nguyên, là người Trung Hoa đánh đuổi quân xâm lược và ách đô hộ của Mông Cổ.

Cách mạng Tân hợi (1911), là người Trung Hoa nổi dậy, đánh đuổi ách đô hộ của Mãn Thanh. Nay nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, công nhận hai kẻ thù dân tộc ấy là tổ tiên của họ,và coi hai triều đại đó là chính thống.Vì vậy mới có chuyện đạp đổ chính sử để viết lại lịch sử. Đó là chuyện của nước người ta.

Liệu có phải đang có chuyện chấp chới bắt chước người ta, biến kẻ thù dân tộc thành ân nhân lịch sử, biến kẻ phản quốc thành anh hùng dân tộc, còn anh hùng dân tộc trở thành tội đồ lịch sử ? Rất mong được giải thích.

Năm 1279, đế quốc Nguyên đánh trận cuối cùng, tiêu diệt nhà Nam Tống, chúng dìm chết hơn mười vạn quân Tống trên biển Nhai Sơn (Quảng Đông Trung Quốc). Để tránh nỗi đau quốc nhục, Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu, cõng vua Tống là Tống Cung đế mới sáu tuổi nhảy xuống biển tự tử, không cho giặc bắt làm tù binh. Lúc này đế quốc Mông Cổ đã làm chủ một dải đất liền từ bờ Hắc Hải tới Thái Bình Dương, bao gồm nhiều quốc gia với diện tích tới 24 triệu km2, chiếm 16% diện tích Địa cầu. Lúc này hai đại quốc như Trung Hoa và Nga đều nằm dưới ách thống trị của người Mông Cổ.

Hốt- tất- liệt nắm một đội cường binh với các tướng lĩnh hùm sói, khắp bốn phương không hề gặp đối thủ xứng tầm. Tổng lực ấy quay sang xâm chiếm Đại Việt. Chúng uy hiếp và đòi ta phải thực hiện 6 điều, nếu chấp nhận chỉ một trong 6 điều đó, là nước mất chủ quyền, là thuộc quốc của nhà Nguyên. Một trong 6 điều đó là nước ta phải cung cấp lương thảo, quân lính và cho mượn đường sang đánh Chiêm Thành.

So sánh lực lượng giữa ta và địch vào thời điểm đó, chẳng khác gì so trứng với đá.

Không khuất phục kẻ thù, và muốn thắng được chúng, Nhà Trần đã dùng kế của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, là vườn không nhà trống, khiến giặc vào không kiếm được thứ gì nuôi sống quân nó, đến ngọn cỏ cho ngựa nó ăn cũng không có. Và chiến thuật thì lấy đoản chế trường, lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh. Nên phải chọn chỗ địch không ngờ mà đánh: đánh phục kích, đánh tập kích, đánh nhanh rút nhanh, thoắt ẩn thoắt hiện. Ngay cả khí hậu thời tiết, Trần Hưng Đạo cũng biến thành vũ khí giết giặc. Sự thông minh tài trí ấy, xuất phát từ lòng yêu nước và trí tuệ của muôn dân.

Vậy mà mô tả về cuộc chiến tranh nhân dân này, khi quân Trần đã thực hiện cuộc rút lui chiến lược. Trần Nhân tông nói trước ba quân: “Ta tạm cho giặc ngủ trọ ít đêm”. Thế mà nhà văn này lại viết: “Kinh thành thất thủ nhanh như một hơi rượu”. Thực tế ta có giao tranh với giặc ở Thăng Long đâu mà thất thủ.

Hoặc nhà văn mỉa mai: “Thăng Long kiêu sa lẫy lừng phút chốc bỗng buồn như một phế nhân”. Văn khác sử, đương nhiên là thế, nhưng về cuộc kháng chiến thần thánh này đến kẻ thù cũng không dám nhìn nhận Thăng Long như vậy. Chúng đã làm mọi cách từ tàn sát sinh linh đến đào mồ cuốc mả, nhưng cuối cùng vẫn thua nhục nhã. Các danh tướng giặc như Ô mã nhi, Toa đô, Lưu Thế Anh, A lí hải nha, Lý Hằng, Lý Quán…kẻ thì mất đầu, kẻ thì vùi xác dưới biển khơi, kẻ bị bắt, kẻ đầu hàng. Khí phách Thăng Long là thế đó!

Ở một đoạn khác nhà văn nhét vào miệng Trần Nhân tông những câu nói thối chí, đầy bi quan và có phần sợ giặc: “Bẩm phụ hoàng, Thoát Hoan là một người trẻ tuổi và rất dũng võ. Dưới trướng lại có những tướng tài nên trong cuộc chiến lần này ta đã vì chủ quan mà thua thế quân địch”.

Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên- Mông năm 1285 và thắng chúng, nhà Trần chuẩn bị hết sức chu đáo chứ không hề “chủ quan mà thua quân giặc” như nhà văn này phê phán. Rõ là tác giả vừa không hiểu hoàn cảnh lịch sử, vừa hỗn láo xấc xược đối với một vị cứu tinh dân tộc như Trần Nhân tông.

Xét lịch trình nhà Trần chuẩn bị giữ nước như thế nào. Năm 1279, Mông Cổ diệt xong nhà Tống. Năm 1280, ta cử đoàn cống sứ, sang Yên Kinh triều cống và thăm dò. Cầm đầu là quốc thúc Trần Di Ái. Giặc giữ phái bộ ngoại giao đó, lập luôn triều đình bù nhìn, phong Di Ái làm An Nam quốc vương. Năm sau Hốt- tất- liệt sai Sài Thung dẫn Di Ái về nước cùng một ngàn quân hộ tống. Ta bắt Trần Di Ái về trị tội, đón sứ Sài Thung về tiếp tại Thăng Long, ngăn không cho quân giặc xâm phạm bờ cõi.

Đường lối ngoại giao hết sức tài tình và khôn khéo. Vẫn giữ được tính độc lập tự chủ, và không rơi vào bẫy giặc khiêu khích. Năm 1282, triều đình họp tại bến Bình Than bàn kế phá giặc. Và từ ấy cho tới khi chiến tranh nổ ra, tinh thần chuẩn bị kháng chiến của toàn dân sôi sùng sục.

Các sự kiện lịch sử này, các em học sinh phổ thông đều thuộc lầu lầu, sao nhà văn này lại không biết.

Biết nói thế nào về một nhà văn trẻ dám xúc phạm tới một vị vua tài năng, nhiệt huyết và gan góc mưu trí đến phi thường, đã cứu cho cả dân tộc không rơi vào họa diệt vong. Trong ba năm đánh bại liên tiếp hai cuộc xâm lăng của một đế quốc khổng lồ, khiến cả thế giới tới nay chưa hết kinh ngạc.

Tác giả lấy lời giặc để khuyên nhủ cha ông ta: “Giá Đại Việt cứ khuất phục đi, khuất phục làm chư hầu như bao đời nay vẫn thế thì có phải chốn thiên thai này sẽ còn lại mãi mãi”. Nếu quả thực đây là lời của Thoát Hoan, thì viên tướng giặc này là một thằng đại ngu, chẳng hiểu biết gì về lịch sử Đại Việt. Y chẳng thấy từ thời Hùng Vương, trong các đền thờ từng treo đại tự có dòng chữ: UY TRẤN HOA DI. Và từ Hán-Đường-Tống-Nguyên có thời nào quân xâm lược phương Bắc không bị thua nhục nhã mỗi khi chạm tới mảnh đất này.

Và kẻ thù đem tới 50 vạn quân vào xâm lược nước ta là điều rất rõ ràng, nhưng tác giả viết lập lờ như ta mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến: “...Lại thêm việc khước từ cung cấp binh lương cho nhà Nguyên đánh Chiêm Thành, như đổ thêm dầu vào lửa làm nên cuộc chiến tranh Đại Việt lần hai. Những tưởng Đại Việt là đấng anh hào, ấy thế mà mới chỉ vài ba trậnđánh nhỏ thôi đã như ong vỡ tổ…”

Từ muôn thuở, cứ mỗi khi giặc Bắc xâm lược nước ta, rồi chúng lại đổ lỗi cho ta gây chiến. Ngay cả cuộc xâm lược năm 1979 cũng không có ngoại lệ. Sau đổ lỗi là mỉa mai. Đây đích thị là luận điệu của kẻ thù, nhưng sao nó lại được viết ra từ nhà văn của chúng ta?

Không thể hiểu nổi, một nhà văn Việt Nam viết về cuộc kháng chiến thần thánh của tổ tiên mình, lại viết như vậy. Cứ xem cách nhà văn này dẫn giải chi tiết, không thể nói là chị không đọc và không hiểu lịch sử .

Đọc đến đây, tôi thấy buồn hơn là trách tác giả. Tôi loại bỏ tác giả có ý đồ xấu. Nhưng khách quan của hình tượng văn học và ngôn ngữ nghệ thuật lại nói lên điều cô không mong muốn. Sự vấp ngã này là bởi cô chưa chuẩn bị cho mình hành trang chu đáo đã vội cất bước lên đường.

Thảm họa này ở lớp trẻ không phải ngày một ngày hai mà có. Nó tích lũy từ việc coi nhẹ đến coi thường giáo dục môn lịch sử trong nhà trường. Cách đây đúng 25 năm, trường Đại học xã hội và nhân văn quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã làm một cuộc thử nghiệm, về kiến thức lịch sử với sinh viên. Kết quả trong số hơn 600 sinh viên được khảo sát, chỉ vài chục phần trăm biết vua Hùng là tổ nước ta. Trần Quốc Toản thì sinh viên trả lời hình như là nhân vật thời chống Mỹ. Còn anh hùng dân tộc nổi tiếng nhất lại là Quan Vân Trường. Thi tốt nghiệp, cả một trường trung học chỉ có một em đăng kí thi môn lịch sử. Những cảnh báo trên, dường như chẳng có ai để ý.

Vậy mà Bộ giáo dục còn định tích hợp môn lịch sử vào với các môn khác. Có kẻ còn đòi bỏ cả môn lịch sử để học sinh tự đọc sách, tự tìm hiểu lịch sử. Đương nhiên còn nhiều nguyên nhân xã hội khác, chứ không riêng việc giáo dục lịch sử.

Thật đau xót, trong lúc đất nước đang gặp vô vàn khó khăn. Ngoài kia, biển đảo của ta một phần bị cưỡng chiếm, phần còn lại luôn luôn trong tình trạng bị uy hiếp. Ngư dân đánh cá trên ngư trường của ta cũng bị chúng khủng bố, cướp giết. Các giàn khoan làm việc trên thềm lục địa thuộc chủ quyền của ta, cũng bị chúng uy hiếp. Bên trong thì tham nhũng lúc nhúc như một bầy sâu, như giặc nội xâm. Tuy lẻ tẻ có phát hiện ra và trị tội. Nhưng xử cả ngàn năm cũng không hết án. Nợ công chồng chất lên đầu lên cổ toàn dân, biết đến bao giờ trả cho hết. Hàng chục công trình ngàn ngàn tỉ nằm đắp chiếu. Nhiều nhà máy cứ khởi động là lỗ, sản phẩm không có đầu ra. Bão lụt chồng lên bão lụt, nông dân điêu đứng. Nạn ô nhiễm môi trường tràn ngập từ đầu nước đến cuối nước, đe dọa cuộc sống không chỉ hiện tại mà cả tương lai.

Bỗng nhiên xuất hiện nhiều hiện tượng lạ hoắc khiến người dân lo lắng hoang mang. Nào tích hợp môn lịch sử trong trường phổ thông. Nào cải tiến chữ quốc ngữ. Nào Quang Trung thật giả…

Nay lại đến Trần Ích Tắc là người yêu nước, phải hy sinh cả tiền tài và danh vọng… Rồi An Tư hợp tác với kẻ thù, che chở cho Thoát Hoan khỏi bị quân ta bắt sống, và cùng y trong cuộc chạy trốn đẹp như mơ.

Xin nói thẳng, thời đại nhà Trần, là thời đại hiển hách nhất trong lịch sử mấy ngàn năm của nước ta. Đó không chỉ là niềm kiêu hãnh mà còn là điểm tựa vững chắc cho cả quốc gia này mỗi khi đất nước gặp khó khăn. Nó không chỉ là tinh thần mà còn là tài sản vĩnh hằng trong hành trang của dân tộc. Lịch sử, chính là hồn cốt của cả dân tộc. Nó phải được tôn kính và bảo vệ như một ngôi đền thiêng của toàn dân tộc, chứ không được phép đem nó ra mà đùa giỡn hay chọc ngoáy. Viết đến đây, sực nhớ Nhật ký của cố nhà văn đáng kính Nguyễn Huy Tưởng ghi từ năm 1941: “Người không biết lịch sử nước mình tựa như một con trâu đi cày,nó cày trên thửa ruộng nào với bất cứ ông chủ nào cũng vậy thôi”.

Hà Nội ngày 14 tháng 1 năm 2018

Phần nhận xét hiển thị trên trang

“Tôi từ chức vì bị đẩy đến bước đường cùng”

PGS. TSKH Nguyễn Kế Hào:

Dân trí Cách đây 5 năm, một sự kiện gây sự chú ý đặc biệt của dư luận là việc người đứng đầu ngành Tiểu học cả nước, PGS. TSKH Nguyễn Kế Hào, đột ngột xin từ chức với một câu nói nổi tiếng: “Tôi từ chức vì không muốn làm điều thất đức!?”...

Điều mà ông Vụ trưởng Vụ tiểu học khi đó cho là “thất đức” chính là Chương trình Tiểu học 2000, thực chất là sự lừa dối trẻ thơ của một số người nhằm trục lợi cá nhân. Ông có lẽ là quan chức đầu tiên của ta dũng cảm từ chức vì phản đối quyết định của cấp trên mà ông cho là sai lầm.

Năm năm không phải là quãng thời gian quá dài nhưng cũng đủ để chiêm nghiệm, nhìn nhận, đánh giá sự việc một cách khách quan, thẳng thắn hơn. Nhất là giờ đây, ông đã có thể công khai những điều mà vào thời điểm đó ông không muốn và có thể là cả không dám nói. Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông về sự kiện khá hy hữu trong lịch sử công chức Việt Nam này.

Tôi không thể vừa đá bóng, vừa thổi còi

Năm 2001, ông đã làm đơn xin từ chức. Nguyên nhân công khai thì đã nói nhiều. Nhưng đằng sau đó là gì? Liệu có lý do nào khác?

Tháng 2/2001, Bộ Giáo dục & Đào tạo ban hành một quyết định điều động hầu hết thành viên Vụ Tiểu học tham gia với tư cách tác giả sách giáo khoa Chương trình Tiểu học 2000. Đây là một quyết định có tính pháp lý, đặt tôi vào thế đường cùng, chỉ có hai cách lựa chọn. Một là chấp hành sự phân công của Bộ, tham gia Chương trình Tiểu học 2000. Hai là không chấp hành phân công của lãnh đạo và khi đó, đương nhiên là phải từ chức. Và như bạn đã biết, vì lương tâm và lòng tự trọng, tôi đã chọn con đường thứ hai.

Vì sao khi đó, Bộ GD&ĐT lại có quyết định mà theo ông tức là “đẩy vào bước đường cùng” nhưng thực tế, nếu tham gia, ông sẽ rất có lợi?

Thứ nhất, ngay từ những ngày đầu, tôi đã phản đối quyết liệt vì dự án chương trình bộc lộ rất nhiều sai lầm về cả tư duy khoa học cũng như tính thực tiễn. Nó thực chất chỉ là phương tiện để một số người moi tiền của Nhà nước hơn là một công trình khoa học. Vì vậy, tôi là lực cản cuối cùng của dự án đó nhất là khi ấy tôi đang là Vụ trưởng Vụ Tiểu học nên với chương trình Tiểu học, tôi có tiếng nói nhất định.

Nếu tôi đồng ý tham gia, tức là tôi đồng ý với chương trình và chắc chắn sẽ có ai phản đối hay nói khác được. Và khi đó, với trách nhiệm giúp Bộ trưởng quản lý toàn bộ ngành Tiểu học cả nước, tôi tham gia nghĩa là tôi “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Thứ hai, tôi biết nếu tham gia chương trình, tôi sẽ có danh vì được ghi tên là tác giả biên soạn sách và đương nhiên cùng với đó sẽ có nhiều lợi ích kinh tế khác.

Họ định “bịt miệng” tôi

PGS. TSKH Nguyễn Kế Hào sinh năm 1942 tại Vĩnh Phúc.

Năm 1961, là giáo viên cấp II.

Năm 1967, theo học tại Trường đại học Lômônôxốp (Nga).

Năm 1979, đi nghiên cứu sinh tại Viện hàn lâm Khoa học Giáo dục Liên Xô.

Do bảo vệ xuất sắc luận án Phó tiến sĩ (bây giờ gọi là tiến sĩ), năm 1984 được trở lại Nga làm luận án tiến sĩ khoa học với tiêu đề: “Hình thành hoạt động học cho học sinh tiểu học”.

Năm 1994, được bổ nhiệm Vụ trưởng Vụ Tiểu học (Bộ GD&ĐT) và năm 2001, làm đơn xin từ chức. 

Ông cùng với một số nhà giáo dục cách tân như PGS.TS Hà Vĩ, PGS.TS Đặng Ngọc Diệp dưới sự chủ soái của GS.TSKH Hồ Ngọc Đại khởi xướng ra “trường phái” giáo dục thực nghiệm ở nước ta.
Nhưng nếu nhận làm, ông sẽ có điều kiện để sửa chữa những điều mà ông cho là sai lầm của chương trình.

Không đơn giản như thế. Họ “nhả” cho tôi cái chức ấy với ý đồ dùng cả danh lẫn lợi để “bịt miệng” tôi, khiến tôi “há miệng mắc quai” mà phải im lặng. Còn tất cả, họ đã làm xong hết từ lâu rồi. Tôi chỉ có “nhiệm vụ” đều đều ký, đều đều nhận... tiền thôi.

Ngoài những lý do trên, liệu có còn nguyên nhân nào khác? Ví như sự ghen ghét ở ông chẳng hạn?

Không có sự ghen ghét đơn giản vì khi đó, tôi đã 59 tuổi, chỉ còn chưa đầy một năm nữa là nghỉ hưu. Ghen ghét mà làm gì? Tôi vốn là một thày giáo ở một vùng quê nghèo khó nên thấu hiểu những nỗi khốn khổ của các cháu học sinh. Mặt khác, khi đất nước có chiến tranh, nhiều bạn bè tôi ra trận rồi không trở về, trong đó có cả đứa em trai thân yêu của tôi. Còn tôi, là một trong số ít người được Đảng, Nhà nước cho đi du học ở Liên Xô 11 năm trời công phu và tốn kém. Tôi vô cùng  biết ơn điều đó. Vì vậy, với trách nhiệm của một công dân với đất nước, người thầy với học trò, tôi không đang tâm làm điều thất đức đó.

Điều thất đức! Liệu ông có nặng lời?

Tôi không nghĩ chuyện nặng hay nhẹ. Vì sao không được dùng từ đó khi một số người vì những đồng tiền bất lương mà đang tâm lừa dối cả trẻ thơ? Đó là một tội ác. Cho nên chữ “thất đức” theo tôi là đích đáng và nói theo ngôn ngữ báo chí bây giờ thì “đúng người, đúng tội”.

Nếu tư lợi, dù chỉ vài ngày cũng cố tận hưởng

Dù lý giải bằng bất cứ lý do gì thì việc ông từ chức thực chất là đầu hàng, là sự trốn chạy?

Đó là do anh ở ngoài nhưng nếu vào địa vị tôi khi đó, có thể anh đã nghĩ khác. Ngay từ ngày đầu triển khai dự án, tôi đã tiên liệu sự thất bại. Bốn năm trời, khi thì phản đối nhẹ nhàng, khi thì quyết liệt trong nội bộ nhưng vẫn không hiệu quả vì tôi luôn là “thiểu số đúng”. Tôi từ chức không phải vì trốn chạy mà để bảo toàn danh dự, trong sạch lương tâm và hơn cả là có điều kiện công khai nói ra sự thật những điều mà khi còn có chức vụ, tôi không thể nói được và cũng không được phép nói.

Nhưng khi đó, có ý kiến cho rằng ông từ chức chẳng qua vì đã sát đến... tuổi nghỉ hưu?

Có chuyện đó à? Thế thì vui nhỉ! Nhưng nói để nhà báo hiểu, nếu tôi nhận quyết định đó thì có lẽ đến giờ tôi vẫn... yên vị. Vì nếu không làm Vụ trưởng, tôi sẽ được mời tham gia rất nhiều dự án. Với lại, nếu đã có tính tư lợi thì dù chỉ vài ngày cũng cố mà tận hưởng chứ đợi gì đến mấy tháng, một năm.

Tôi đã tiên liệu đúng

Nghĩa là bây giờ, nếu được quyết định lại, ông vẫn không thay đổi?

Không. Để đi đến quyết định này, tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Đây cũng là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời tôi. Và đến bây giờ, tôi vẫn thấy khi đó, tôi đã hành động đúng.

Ngày đó ông nói chỉ sau 3 năm, Chương trình Tiểu học 2000 sẽ thất bại...?

Và tiên liệu của tôi đã đúng. Năm 2005, Đảng đã phải ban hành Nghị quyết 9 trong đó khẳng định: “Kiên quyết giảm hợp lý nội dung chương trình học cho phù hợp tâm sinh lý học sinh cấp tiểu học, trung học cơ sở”. Sau đó, Bộ GD&ĐT, đã phải giảm tải 15%.

Sau “sự kiện” đó, ông hiện nay đang làm gì?

Là cán bộ khoa học nên sau khi thôi quản lý, tôi về tham gia giảng dạy ở Đại học Sư phạm Hà Nội đồng thời hướng dẫn luận văn cho các học viên sau đại học.

Một cơ hội để chấn hưng giáo dục

Bộ GD&ĐT đã có Bộ trưởng mới. Điều này có tạo cho ông sự hy vọng về những chuyển biến trong một ngành mà những năm qua luôn được coi là có nhiều bất ổn?

Tôi nghĩ điều rất may là thời gian qua, mọi sự yếu kém, bất hợp lý... của ngành GD&ĐT đã được bộc lộ hết. Nghĩa là nó đã phơi bày tất cả thực trạng nên không cần phải mất thời gian để rà soát, tìm hiểu nữa. Do đó, đây là cơ hội cho nhà lãnh đạo mới của ngành nhìn nhận được triệt để rồi từ đó, đề ra những giải pháp nhằm chấn hưng giáo dục.

Như vậy nghĩa là cần có một cuộc “cách mạng” trong giáo dục?

Tôi không nghĩ như vậy. Bản chất của giáo dục là kế thừa + ổn định + đổi mới = phát triển. Mọi sự “gây sốc” chỉ làm tổn hại đến sự nghiệp giáo dục nước nhà.

Nếu không vì lợi riêng, sự việc rất đơn giản

Nhiều năm qua, ngành Giáo dục tỏ ra khá lúng túng. Nó giống như một con đê yếu, cứ bịt chỗ này thì lại bục chỗ khác? Phải chăng làm giáo dục là quá khó?

Tôi không nghĩ làm giáo dục là khó hay dễ. Cái gì cũng vậy, khó thì rất khó nhưng dễ lại rất dễ. Giai đoạn khó nhất của giáo dục nước nhà là sau khi giành độc lập năm 1945. Ngày đó, cả nước chỉ có khoảng 5% dân số biết chữ. Thế nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, chúng ta đã tiêu diệt thành công giặc dốt, nghĩa là về cơ bản, đã xóa mù cho toàn dân. Việc lớn như thế mà chúng ta đã từng làm được thì việc bây giờ có thấm tháp vào đâu?

Vậy chả lẽ bây giờ chúng ta kém cỏi? Và công việc giáo dục đã trở nên quá sức?

Tôi không nói kém cỏi nhưng trong số những người lãnh đạo ngành giáo dục, có một số ít người “hơi bị” kém tâm. Thật ra, mọi chuyện có vẻ to tát thế nhưng nếu như có thật tâm, không làm những điều thất đức vì những lợi ích cá nhân thì mọi việc rất sáng sủa và đơn giản.

Xin cám ơn ông!

Bùi Hoàng Tám

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2018

TUYÊN NGÔN CON NGƯỜI TỰ DO

Simon Soloveychik (1930 - 1996)
Nhà giáo dục và nhà triết học xã hội Nga

            Ngân Xuyên dich
Giá trị tối cao
Hệ tư tưởng trước đây đã lùi xa không phải theo ý chí của những người ác ý như đôi
khi người ta nghĩ và nói, mà do cơ sở của nó là một ước mơ tốt đẹp nhưng không thể
thực hiện được. Trên thực tế ít người tin vào nó nên công cuộc giáo dục luôn luôn là
không hiệu quả.
Lối tuyên truyền chính thống mà nhà trường thực hiện hết sức không phù hợp với
cuộc sống thực tế. Bây giờ chúng ta đang quay lại thế giới thực. Và đây là điều chủ yếu
 ở nó: nó không phải là thế giới xô viết, nó không phải là thế giới tư sản, nó là thế giới
hiện thực, thực tế - thế giới mà mọi người đang sống. Sống tốt hay xấu nhưng là mọi
người đang sống. Mỗi dân tộc có lịch sử của mình, tính cách dân tộc của mình, ngôn
ngữ của mình và những mong ước của mình – mỗi dân tộc có cái riêng, cái đặc biệt.
Nhưng nhìn chung thế giới là thống nhất, là hiện thực. Và thế giới hiện thực này có
những giá trị của mình, những mục đích cao cả của mình cho mỗi con người. Và có
một giá trị tối cao mà xoay quanh nó xây nên tất cả các mục đích và giá trị khác.
Đối với người thầy, đối với nhà giáo dục, đối với nền giáo dục điều hết sức quan trọng
là phải hiểu được giá trị tối cao đó nằm ở đâu.
Theo ý chúng tôi, giá trị tối cao đó chính là cái mà mọi người đã mơ ước và tranh cãi
suốt hàng nghìn năm, cái khó lĩnh hội nhất đối với tâm trí con người – tự do.
Người ta hỏi: bây giờ giáo dục ai?
Chúng tôi trả lời: giáo dục con người tự do.
*
Con người tự do là gì?
Để trả lời câu hỏi này hàng trăm cuốn sách đã được viết ra và điều đó là dễ hiểu: tự do
là một khái niệm có tính vô tận. Nó thuộc về những khái niệm cao cả của con người và
vì thế về nguyên tắc không thể có một định nghĩa chính xác. Cái vô tận không thể nói
được bằng lời. Nó cao hơn lời.
Chừng nào con người còn sống thì họ sẽ vẫn luôn tìm cách hiểu tự do là gì và khát
khao vươn tới nó.
Không đâu trên thế giới có sự tự do đầy đủ về mặt xã hội, sự tự do về mặt kinh tế đối
với mỗi con người cũng không có và xét chung thì cũng không thể có; nhưng con
người tự do thì lại có nhiều. Tại sao vậy?
Trong từ “tự do” có hai khái niệm rất khác biệt nhau. Thực chất đây là nói về những
điều hoàn toàn khác nhau.
Các nhà triết học khi phân tích cái từ khó này đã rút ra kết luận là có “tự do thoát”
– sự tự do thoát khỏi mọi sự áp bức và cưỡng ép từ bên ngoài – và có “tự do vì” – sự
tự do bên trong của con người vì sự tự hiện thực hóa của hắn.
Tự do bên ngoài, như đã nói, không phải là tuyệt đối. Nhưng tự do bên trong thì có thể
 là vô hạn, ngay cả trong hoàn cảnh cuộc sống khó khăn nhất. Ngành sư phạm từ lâu
đã thảo luận chuyện giáo dục tự do. Các giáo viên theo khuynh hướng này mong
muốn đem lại cho đứa trẻ sự tự do bên ngoài ở trường học. Chúng tôi nói về một điều
khác: về sự tự do bên trong mà con người có thể đạt được trong tất cả các hoàn cảnh,
 chứ không cần phải tạo ra những trường học đặc biệt.
Tự do bên trong không bị phụ thuộc khắt khe vào tự do bên ngoài. Trong một quốc gia
tự do nhất vẫn có thể có những người lệ thuộc, không được tự do. Trong những quốc
gia mất tự do nhất, nơi tất cả đều bị áp bức cách này hay cách khác, vẫn có thể có
những người tự do. Như vậy giáo dục những con người tự do không bao giờ là sớm
và không bao giờ là muộn. Chúng ta cần phải giáo dục những con người tự do không
 phải vì xã hội chúng ta đã có tự do – đó là vấn đề còn phải tranh luận, - mà vì sự tự do
 bên trong cần thiết cho chính nhà giáo dục của chúng ta, dù hắn sống trong xã hội nào
 đi nữa.
Con người tự do – đó là con người có tự do từ bên trong. Cũng như tất cả mọi người,
về bên ngoài hắn phụ thuộc vào xã hội. Nhưng về bên trong hắn độc lập. Xã hội có thể
được tự do về bên ngoài – thoát khỏi áp bức, nhưng nó có thể trở thành xã hội tự do
chỉ khi số đông mọi người có được sự tự do bên trong.
Đây là điều theo ý chúng tôi cần phải là mục đích của giáo dục: sự tự do bên trong của
con người. Khi giáo dục những con người có tự do bên trong chúng ta mang lại lợi ích
to lớn nhất cho chính các nhà giáo dục, cho đất nước đang vươn tới tự do. Điều này
không có gì mới cả: hãy nhớ tới những nhà giáo xuất sắc, những người thầy ưu tú
của
mình – tất cả họ đều cố gắng giáo dục con người tự do, chính vì thế họ mới được nhớ 
đến.
Thế giới được duy trì và phát triển là nhờ những con người tự do bên trong.
*
Tự do bên trong là gì?
Tự do bên trong cũng trái nghịch như tự do nói chung. Con người có tự do bên trong,
cá nhân tự do, là tự do ở cái gì đó và không tự do ở cái gì đó.
Con người tự do bên trong được tự do thoát khỏi cái gì? Trước hết là thoát khỏi nỗi sợ
trước con người và cuộc sống. Thoát khỏi dư luận chia rẽ chung. Hắn độc lập với đám
 đông. Được tự do thoát khỏi những khuôn mẫu tư duy – có khả năng đưa ra cái nhìn
cá nhân của mình. Được tự do thoát khỏi những thiên kiến. Được tự do thoát khỏi sự
ganh tị, vị lợi, thoát khỏi những ý muốn áp chế của bản thân.
Có thể nói thế này: trong hắn cái mang tính người được tự do. Con người tự do dễ
nhận ra: hắn đơn giản là sống, suy nghĩ theo cách của mình, hắn không bao giờ tỏ ra
quỵ lụy, xấc xược. Hắn quý trọng tự do của mỗi người. Hắn không phách lối bằng tự
do của mình, không tìm cách đạt được tự do bằng mọi giá, không tranh đoạt tự do cá
nhân của mình – hắn luôn có nó. Nó được đem cho hắn sở hữu vĩnh viễn. Hắn không
sống vì tự do mà sống một cách tự do. Đó là con người dễ chịu, sống với hắn dễ chịu,
hắn có hơi thở tràn đầy sự sống.
Mỗi chúng ta đều đã gặp những con người tự do. Luôn yêu mến họ. Nhưng có một 
cái 
mà con người tự do thực sự không tự do thoát khỏi được. Đây là điều rất cần phải hiểu. Con người tự do không được tự do thoát khỏi cái gì? Lương tâm.
*
Lương tâm là gì?
Nếu không hiểu lương tâm là gì thì cũng không hiểu con người tự do bên trong. Tự do
không có lương tâm là thứ tự do giả dối, đó là một trong những sự lệ thuộc trầm trọng
nhất. Dường như có tự do, nhưng không có lương tâm, thì sẽ là nô lệ cho những tham
vọng xấu xa của mình, nô lệ của những hoàn cảnh sống, và hắn sẽ dùng sự tự do bên
ngoài của mình vào cái ác. Có thể gọi con người như thế là gì cũng được, nhưng nhất
quyết không phải là con người tự do. Tự do trong nhận thức chung được xem là điều
 thiện.
Hãy chú ý đến một sự khác biệt quan trọng: ở đây không nói – không được tự do thoát
 khỏi lương tâm mình, như người ta thường nói. Bởi vì lương tâm không phải chỉ của
mình, mà còn của chung. Lương tâm là cái chung có ở mỗi người. Lương tâm là cái
thống nhất mọi người.
Lương tâm – đó là sự thật sống giữa mọi người và trong mỗi người. Nó là một cho tất
cả, chúng ta tiếp nhận nó với ngôn ngữ, với giáo dục, trong sự giao tiếp với nhau.
Không cần phải hỏi sự thật là gì, nó cũng không thể nói được bằng lời như tự do vậy.
 Nhưng chúng ta nhận biết nó qua sự công tâm mà mỗi người đều trải nghiệm khi
cuộc sống diễn ra theo sự thật. Và mỗi người sẽ đau khổ khi sự công tâm bị phá hủy,
khi sự thật bị chà đạp. Lương tâm, cái cảm giác ở bên trong nhưng đồng thời lại có
tính xã hội, nói cho ta biết đâu là sự thật và đâu là không phải sự thật. Lương tâm buộc
con người phải nắm giữ sự thật, tức là sống với sự thật, theo sự công tâm. Con người
 tự do nghiêm chỉnh lắng nghe lương tâm – và chỉ lương tâm mà thôi. Người thầy theo
đuổi mục đích giáo dục con người tự do thì phải ủng hộ sự công tâm. Đó là cái chính
 trong giáo dục. Không có chân không nào hết. Không cần đến mệnh lệnh giáo dục
nào của nhà nước hết. Mục đích giáo dục ở mọi thời đều như nhau – đó là sự tự do
bên trong của con người, tự do vì sự thật.
*
Đứa trẻ tự do
Việc giáo dục con người tự do bắt đầu từ nhỏ. Tự do bên trong là món quà tự nhiên
ban tặng, đó là một thứ tài năng đặc biệt có thể bị dập vùi cũng như mọi tài năng khác,
nhưng cũng có thể được phát triển. Tài năng này có ở mỗi người với mức độ khác
nhau giống như mỗi người đều có lương tâm – nhưng con người hoặc là biết lắng
nghe nó, gắng sống hòa điệu với lương tâm, hoặc là nó bị các hoàn cảnh cuộc sống và sự giáo dục làm tắt lặng.
Mục đích – giáo dục con người tự do – quy định tất cả các hình thức, phương pháp,
cách thức giao tiếp với trẻ. Nếu đứa trẻ không biết đến sự áp bức và học được cách
sống theo lương tâm thì tất cả các kỹ năng sống, kỹ năng xã hội từng được nói đến rất
nhiều trong các lý thuyết giáo dục truyền thống sẽ tự đến với nó. Theo ý chúng tôi,
giáo dục chỉ là ở chỗ phát triển sự tự do bên trong, cái mà không có chúng ta thì cũng
 đã có ở đứa trẻ, để duy trì và bảo vệ sự tự do đó. Nhưng bọn trẻ thường là nghịch
ngợm, hiếu động, thất thường. Nhiều người lớn, các bậc cha mẹ và thầy cô cảm thấy
để trẻ tự do là nguy hiểm. Đây là ranh giới của hai phương thức giáo dục khác nhau.
Người muốn phát triển đứa trẻ tự do sẽ chấp nhận nó như nó là – yêu nó bằng tình yêu
 giải phóng, đem lại tự do. Họ tin vào đứa trẻ, niềm tin này giúp họ nhẫn nại.
Người không nghĩ đến tự do thì sẽ sợ điều đó, không tin vào đứa trẻ, họ tất yếu sẽ áp
chế tinh thần của nó và do đó giết chết và bóp nghẹt lương tâm nó. Tình yêu đối với
đứa trẻ sẽ trở thành sự áp chế. Một nền giáo dục phi tự do như thế sẽ đưa lại cho xã
hội những con người què quặt. Không có tự do thì tất cả các mục đích, ngay cả nếu
chúng có vẻ như cao cả, đều trở thành giả dối và nguy hiểm đối với trẻ em.
*
Người thầy tự do
Để phát triển con người tự do, đứa trẻ ngay từ nhỏ đã phải được ở bên cạnh những
người tự do, trước hết là bên cạnh người thầy tự do. Vì sự tự do bên trong không phụ
thuộc thẳng vào xã hội, nên chỉ người thầy mới có thể tác động mạnh mẽ đến tài năng
tự do ẩn trong mỗi đứa trẻ, như đã từng có với các tài năng thể thao, âm nhạc, nghệ
thuật.
Việc giáo dục con người tự do vừa sức mỗi chúng ta, mỗi người thầy riêng lẻ. Đấy là
trường chiến đấu, nơi một người là chiến binh, nơi một người có thể làm tất cả. Bởi vì
trẻ em được hướng đến những con người tự do, tin tưởng họ, thán phục họ, biết ơn
họ. Dù ở nhà trường có chuyện gì đi nữa, người thầy vẫn có thể là người chiến thắng.
Người thầy tự do chấp nhận đứa trẻ ngang hàng mình. Và từ đó ông/bà ta tạo ra quanh
 mình một bầu khí quyển mà chỉ trong đó con người tự do mới có thể phát triển.
Có thể, ông/bà ta đưa cho đứa trẻ một ngụm tự do – và thế là cứu vớt nó, dạy cho nó
 biết quý tự do, chỉ ra rằng có thể sống làm người tự do được.
*
Trường học tự do
Người thầy đặt bước đi đầu tiên vào việc giáo dục con người tự do, bộc lộ tài năng tự
do của mình sẽ được dễ dàng hơn rất nhiều nếu ông/bà ta làm việc trong một nhà
trường tự do.
Nhà trường tự do là nơi có những đứa trẻ tự do và những người thầy tự do.
Không có nhiều những trường học như thế trên thế giới, nhưng dù sao vẫn có, thế
nghĩa là lý tưởng này đã thành hiện thực. Cái quan trọng ở nhà trường tự do không
phải là để cho trẻ muốn làm gì thì làm, thoát khỏi kỷ luật, mà là tinh thần tự do học tập,
sự tự lập, sự kính trọng người thầy. Trên thế giới có nhiều những ngôi trường rất tinh
tuyển với những nề nếp truyền thống đã đào tạo nên những con người giá trị nhất.
 Bởi vì ở đó những con người tự do, tài năng, những người thầy trung thực miệt mài
với công việc của mình – và vì ở đó tinh thần công tâm được đề cao. Nhưng trong
những ngôi trường uy tín đó không phải tất cả mọi đứa trẻ đều lớn lên thành người tự
do. Ở những trẻ yếu đuối tài năng tự do bị bóp nghẹt, nhà trường đã bẻ gãy chúng.
Trường học tự do thực sự là nơi bọn trẻ đến trường với niềm vui. Chính ở ngôi trường
như thế bọn trẻ mới tìm thấy ý nghĩa cuộc sống. Chúng học được cách suy nghĩ tự do,
 cư xử tự do, sống tự do và biết quý tự do – của mình và của mỗi người.
*
Con đường giáo dục những người tự do
Tự do vừa là mục đích vừa là con đường.
Đối với người thầy điều quan trọng là bước lên con đường này và đi theo nó, không
nghiêng ngả. Con đường đến tự do rất khó nhọc, không tránh khỏi vấp ngã, nhưng ta
hãy cứ bám theo mục đích.
Câu hỏi đầu tiên của người giáo dục con người tự do là: liệu ta có áp chế bọn trẻ
không? Nếu ta áp chế chúng một việc gì đấy thì là vì cái gì? Ta nghĩ là vì lợi ích của
chúng, nhưng thế liệu ta có giết chết tài năng tự do của chúng không? Trước mặt ta là
lớp học, ta cần duy trì một trật tự nhất định để giảng dạy, nhưng thế liệu ta có bẻ gãy
đứa trẻ không, khi cứ cố bắt nó phụ thuộc vào kỷ luật chung?
Có thể không phải người thầy nào cũng tìm được câu trả lời cho từng câu hỏi, nhưng
quan trọng là tất cả các câu hỏi phải được đặt ra cho mình.
Tự do sẽ chết nơi nỗi sợ xuất hiện. Con đường giáo dục những con người tự do khởi
đi khi tránh thoát được mọi nỗi sợ hãi. Thầy không sợ trò, trò không sợ thầy – khi đó
tự do sẽ tự đến trong lớp học.
Tự do thoát khỏi nỗi sợ là bước đi đầu tiên trên con đường đến tự do trong nhà trường.
Chỉ cần nói thêm rằng con người tự do bao giờ cũng đẹp đẽ. Giáo dục những con
người kiêu hãnh, đẹp đẽ về tinh thần – há đấy chẳng phải là mơ ước của người thầy sao?
(Ngân Xuyên dịch từ nguyên bản tiếng Nga)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thủ Thiêm và làng Mùi


Sau 20 năm vụ chính quyền cướp đất của dân ở Thủ Thiêm, nay đã có kết luận chính thức của Thanh tra chính phủ. Kết luận không chỉ ra được cụ thể "tội ác" của đứa nào, chỉ đề nghị thủ tướng xem xét xử lý những người liên quan.

Tôi đồ rằng sau 20 năm nữa, nếu chính thể dạng này còn tồn tại, thủ tướng (khi ấy không biết là lão XYZ nào) sẽ chính thức kết luận đã xem xét và tiếp tục đề nghị bộ chính trị xử lý, thi hành kỷ luật, rồi khoảng 20 năm nữa sẽ có kỷ luật cách chức những nguyên, những cố, những mồ ma, hồn ma bóng quỷ và con vịt giời.

Cuối cùng chỉ dân Thủ Thiêm gánh chịu cái quy trình khốn nạn ấy. Điều mà họ nhận được trên thực tế là đất bị cướp, nhà bị tan, ruộng vườn bị mất, mồ mả bị đào bới, tài sản do ông cha bao đời truyền lại cho con cháu bị cướp sạch, cha mẹ vợ chồng con cái thì sống vất vơ vất vưởng "tạm cư"; và nhận được những lời hứa hão của nhiều nhiệm kỳ con ma nhà họ hứa.

Rồi cuối cùng cũng chẳng chết đứa có quyền nào, chỉ chết dân Thủ Thiêm.

Vụ Thủ Thiêm có thể được coi là một trong những tấn bi - hài kịch lớn nhất của chế độ này suốt gần nửa thế kỷ qua.

Những xử lý thanh tra điều tra hứa nhăng hứa cuội của nhà cai trị với vụ Thủ Thiêm làm tôi sực nhớ tới cuộc cách mạng được Lỗ Tấn viết trong AQ chính truyện. Làng Mùi vật vã với phong trào cách mạng, dân chúng hy vọng sẽ có thay đổi, nhưng rốt cuộc các cụ cố họ Triệu, họ Tiền vẫn y nguyên, lão Tây giả vẫn là lão Tây giả, còn đám dưới đáy xã hội như AQ, vú Ngò, cu D, Vương râu xồm... càng bị đẩy vào chân tường, và nhận bản án tử hình, chết mà chưa kịp sống.

Nguyễn Thông

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Diễn biến vụ kiện Formosa ở Đài Loan




 
Cindy Sui
BBC News, Đài Bắc 

7 tháng 9 2018 

Một nhóm cư dân Đài Loan sống gần nhà máy Naphtha Cracker số 6 của tập đoàn Formosa Plastics Group (FPG), đang kêu gọi tòa án địa phương xem xét kỹ lưỡng đơn kiện công ty của họ.

Thấy gì sau hai năm thảm họa Formosa ở VN'?
Formosa: Đã đền bù thỏa đáng?

Vào tháng Tám 2015, 74 người sống ở thị trấn Đài Tây cạnh nhà máy ở thị trấn Mạch Liêu, cùng các thành viên gia đình, nộp đơn kiện năm công ty con của FPG.

Kể từ đó, tòa án đã có 10 buổi lắng nghe. Nhưng lần cuối cùng tòa mở là tháng 9/2017. Tòa cũng chưa mở điều tra và tìm kiếm ý kiến chuyên gia.

Cư dân Ngô Nhật Huy, có năm thành viên gia đình qua đời vì ung thư trong ba năm qua, nói: "Vụ này kéo dài lâu quá rồi."

"Một số người kiện đã qua đời, hoặc yếu quá không thể tới tòa. Liệu sẽ còn ai sống cho tới khi xử xong."

Trong đơn kiện họ cáo buộc rằng ô nhiễm từ nhóm nhà máy thường được gọi là Lục Khinh đã dẫn tới tỉ lệ ung thư cao trong người dân. Họ yêu cầu bồi thường 70 triệu Tân Đài Tệ, tương đương khoảng 2,28 triệu đôla Mỹ.

Theo điều tra của họ, trong năm 2012 và 2013, 75% cái chết ở ba làng thuộc thị trấn Taixi là do ung thư, cao hơn tỉ lệ trung bình 34,5% ở Đài Loan.

Một nghiên cứu của Đại học Quốc lập Đài Loan vài năm trước thấy rằng có mức kim loại nặng cao hơn trong những người sống cách nhà máy 10, 20, 30 cây số, so với dân số chung, theo lời những người này.

Các nhóm môi trường và nhà nghiên cứu tin rằng sáu thị trấn ở huyện Vân Lâm trực tiếp tiếp xúc với khói từ nhà máy. Gió cũng có thể mang khói đến những nơi khác của Đài Loan.

Tổng cộng 23.000 người có đăng ký là cư dân ở thị trấn Taixi bị ảnh hưởng nặng nhất. Một số người đã chuyển đi nơi khác vì ô nhiễm, nhưng người già và một số trẻ em ở lại vì họ không còn nơi nào khác. 

Đinh Khánh Phú, từng sống ở Taixi, nói ông tin rằng nhiều người trong gia đình ông đang bị ung thư hay chết vì ung thư do ô nhiễm từ nhà máy.

Ông Đinh nói: "Mẹ tôi qua đời vì ung thư phổi 5 năm trước, bố tôi bị ung thư gan, anh vợ tôi và hai hai em họ cũng ung thư, một người trong đó đã qua đời."

Tòa án quận Vân Lâm, nơi đang xử lý vụ kiện, rốt cuộc mở buổi tiền thẩm hôm 31/8. Vị thẩm phán quyết định yêu cầu cơ quan bảo vệ môi trường của Đài Loan xác định các loại chất gây ô nhiễm thải ra từ nhà máy và tác động của chúng cho sức khỏe. 

Luật sư cho những người đi kiện xem đây là dấu hiệu tích cực. Luật sư Quốc Ngạn, chủ tịch Hội nhân quyền Đài Loan, nói: "Tôi tin rằng sau khi có kết quả đánh giá, vụ việc sẽ sớm có kết cục."

Đa số nguyên liệu thô do nhà máy sản xuất được xuất khẩu sang Trung Quốc và Đông Nam Á, dùng cho các sản phẩm nhựa, theo lời nguyên đơn. Họ cho rằng nhà máy này không cần có ở Đài Loan.

Trong phiên xử ở tòa ngày 31/8, các luật sư của Formosa nói rằng không có bằng chứng cho thấy tỉ lệ ung thư ở của cư dân lân cận là do hoạt động của nhà máy. Họ biện luận rằng bằng chứng của luật sư bên nguyên không cho thấy nguyên nhân và hậu quả. Họ nói công ty đã đầu tư cho thiết bị kiểm soát ô nhiễm. 

Nhưng Hội quyền môi trường (ERF), đang giúp đỡ các nguyên đơn, chỉ ra rằng trong nhiều năm, giới khoa bảng đã điều tra liệu có phải các chất gây ô nhiễm cũng gây ra tỉ lệ ung thư cao và đã kết luận có quan hệ nhân quả.

Mặc dù luật sư của Formosa nói việc thải khí của nhà máy không vượt quá hạn chế của chính phủ, các nhóm môi trường nói trong quá khứ, chính phủ không công bố tài liệu theo dõi nên không thể biết có vượt quá giới hạn hay chưa.

Theo họ, một khó khăn khác của nguyên đơn là thống kê của Bộ y tế về người chết do ung thư lại thấp hơn con số của nguyên đơn, mà lý do là vì nhiều người ráng sống để về đến nhà rồi mới chết, và bệnh viện không ghi rõ nguyên nhân tử vong.

Ông Ngô, chủ tịch hội hỗ trợ ô nhiễm Lục Khinh, nói quá trình xác minh và kiểm tra khó khăn nên tòa án cần thêm thời gian. Nhưng ông cũng nói các nạn nhân không thể chờ đợi quá lâu.

"Liệu chúng tôi có thể chiến thắng hay không?" ông Ngô nói, bày tỏ cảm giác bất lực của người dân.

Công ty mẹ Formosa Plastics Group từ chối bình luận, nói rằng vụ việc đang trong quá trình xử án và họ sẽ chờ đến khi xử xong.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tây Tạng : Trả lời báo Mỹ, lãnh 5 năm tù



Tashi Wangchuk, thanh niên Tây Tạng tố cáo việc Trung Quốc đồng hóa dân tộc mình, bị lãnh án 5 năm tù giam.

(AFP) – Tây Tạng : Trả lời báo Mỹ, lãnh 5 năm tù

Hiệp hội Ký giả Ngoại quốc tại Trung Quốc hôm nay 07/09/2018 cho biết vô cùng kinh ngạc và phẫn nộ trước bản án phúc thẩm 5 năm tù giam dành cho Tashi Wangchuk, một người Tây Tạng khi trả lời New York Times đã tố cáo việc ngôn ngữ Tây Tạng không còn được giảng dạy tại các trường học ở Thanh Hải, cho rằng đây là sự « thảm sát nền văn hóa Tây Tạng ».



(Reuters) – Trung Quốc sẽ huấn luyện quân Afghanistan

Trung Quốc sẽ huấn luyện các quân nhân Afghanistan tại Hoa lục, theo khẳng định của đại sứ nước này tại Bắc Kinh hôm qua 06/09/2018, để đối phó với Al Qaida và tổ chức Nhà nước Hồi giáo. Bắc Kinh cũng sẽ cung cấp hai máy bay vận tải để tải thương, và các trực thăng tác chiến. Trước đó hôm 30/8 Trung Quốc đã cải chính tin triển khai quân sang Afghanistan.

Hôm nay bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis và tổng tham mưu trưởng liên quân Mỹ, tướng Joseph Dunford bất ngờ đến Kabul để gặp tân chỉ huy trưởng lực lượng NATO tại Afghanistan.

(AFP) – Dữ liệu khách hàng British Airways bị đánh cắp

Hãng hàng không Anh British Airways hôm nay 07/09/2018 thông báo sẽ bồi thường cho các khách hàng bị thiệt hại, sau vụ tin tặc đánh cắp thông tin từ 380.000 thẻ tín dụng của khách.




nhận xét hiển thị trên trang