Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2018

Nối vòng tay lớn, kiến tạo các mối quan hệ chiến lược dài hạn…




TS. Đinh Hoàng Thắng

Bài đăng trên báo Văn Nghệ: http://baovannghe.com.vn/noi-vong-tay-lon-kien-tao-cac-moi-quan-he-chien-luoc-dai-han-18191.html Phiên bản gốc bị báo Văn Nghệ cắt-đục-bỏ hai chỗ quan trọng: (1) “Ba đặc khu” là OBOR trá hình, bị chữa thành “Thận trong với mô hình cũ”; (2) “Ta càng nhân nhượng, kẻ muốn ăn thịt ta càng lấn tới” (lấy ý từ lời kêu gọi của Hồ Chí Minh). Sau cách mạng Tháng Tám là như vậy, từ sau Hội nghị Thành Đô đến nay lại càng như vậy! Câu này bỉ đục-bỏ hoàn toàn! Điều này chứng tỏ: (1) Chính quyền rất ngại người dân biết “Ba đặc khu” nằm trong “Sáng kiến Vành đai, Con đường” (BRI) của Trung Quốc, nên báo Văn Nghệ phải đổi cái subtitle này! (2) “Hội nghị Thành Đô” vẫn còn là một “từ khoá” đầy huý kỵ trong từ điển chính trị đương đại ở Việt Nam. Lộ ra câu chuyện Thành Đô thì dù có trích lời từ Hồ Chí Minh cũng bị xoá bỏ!

Những ngày “Tết Độc lập” năm nay, cả nước tuy được tưới tắm các giá trị của hòa bình thật đấy, nhưng dấu ấn của bất định và bất toàn vẫn còn đeo đẳng khôn nguôi. Từ Hội nghị Ngoại giao lần trước (tháng 8/2016), Bộ trưởng Phạm Bình Minh đã khái quát các điều kiện quốc tế của ta: “Ở bên ngoài, môi trường chiến lược của nước ta đã và đang nổi lên nhiều thách thức chưa từng có, tác động trực tiếp đến các lợi ích an ninh và phát triển”[1]. Tại Hội nghị Ngoại giao lần này (tháng 8/2018), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục đánh giá, trước đây ta nhận định tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường, cho đến nay nhận định ấy vẫn giữ nguyên giá trị; môi trường đối ngoại trong những năm tới sẽ còn phức tạp, sẽ còn khó lường. Tổng Bí thư chỉ thị cho đội ngũ làm công tác đối ngoại “cần thường xuyên theo dõi sát các diễn biến và dự báo đúng chiều hướng phát triển của tình hình bên ngoài và nhất là đánh giá thật kỹ các tác động đến Việt Nam, để không bị động, bất ngờ và có đối sách đúng”[2].

Vòng tròn định mệnh…

Mãi mãi về sau, các thế hệ người Việt sẽ còn nhắc lại cái thời khốn khó, cái thế đứng chông chênh của những ngày tháng Tám năm ấy… “Ôn cố tri tân” cũng là cách để góp phần giải bài toán hiện tại. Lịch sử ngoại giao Việt Nam ghi nhận tầm nhìn xuyên không—thời gian của “những năm tháng không thể quên” ấy khi chúng ta khẳng định chính sách ngoại giao của nước Việt Nam mới là thân thiện với tất cả các nước. Riêng đối với Trung Hoa và Mỹ, chúng ta có mối cảm tình đặc biệt. Trung Hoa là nước gần gũi ta nhất về địa thế, về sinh hoạt, kinh tế cũng như về văn hoá. Còn Mỹ là nước dân chủ, không có tham vọng về đất đai mà lại có công nhất trong việc đánh bại kẻ thù của ta nên ta coi Mỹ như một người bạn tốt[3]. Lịch sử cũng đã ghi nhận“Tạm ước 14/9/1946” vào thời điểm bấy giờ là một giải pháp chính trị linh hoạt, tài tình nhằm cứu vãn Hội nghị Phôngtennơblô và kéo dài thêm khoảng thời gian hòa bình quý giá, để củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Giai đoạn tiếp sau đó, Hồ Chí Minh còn viết tới 8 lá thư gửi Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ mà nội dung chủ yếu là yêu cầu Mỹ ủng hộ tinh thần cho nền độc lập mới thu hồi của Việt Nam, nhưng rồi tất cả đều rơi vào im lặng. Hồ Chí Minh buộc phải tìm một chọn lựa khác…

73 năm trôi qua, lịch sử lởn vởn cái nguy cơ lặp lại “vòng xoáy định mệnh” tháng 8/1945. Đọc kỹ“Địa-chính trị trong chiến tranh Việt Nam” của James Burnham, chuyên gia phân tích từ Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS), tiền thân của CIA ngày nay, có thể chiêm nghiệm thêm cái “điềm báo” bất ổn năm nào. Hồi bấy giờ, Burnham từng coi chiến tranh Việt Nam là một phần của cuộc tranh hùng để giành quyền kiểm soát Đông Nam Á và chiếm thế thượng phong tại Tây Thái Bình Dương. Trong một báo cáo đề ngày 20/11/1964, ông nhận xét: “Cuộc chiến tại Việt Nam không phải là vấn đề địa phương, không phải là vấn đề cục bộ. Đó là một trận chiến quan trọng trong cuộc tranh giành châu Á, Tây Thái Bình Dương và Biển Đông”[4]. Hơn nửa thế kỷ sau, Biển Đông lại dậy sóng dữ. Nhưng lần này, “các vai diễn” đã được thay thế. Trung Quốc từ chỗ “chống lưng” cho Việt Nam (trong kháng chiến) mà mục đích tối hậu cũng là mượn đường xuống Đông Nam Á, thì nay vẫn kiên định mục tiêu bá quyền ấy, nhưng đã bước lên vũ đài trong một tâm địa khác xưa. Với “giấc mộng Trung Hoa”, Trung Quốc quyết vượt đại dương để “ăn thua” với Hoa Kỳ, về lâu dài nhằm thay đổi “Trật tự quốc tế” hiện nay. Điều trớ trêu là Việt Nam luôn nằm trên con đường hành tiến của người Trung Quốc. Nói bang giao Việt—Mỹ là quan trọng, nhưng nó luôn quan trọng vì nhân tố thứ ba là nhìn nhận từ cái lăng kính địa—chính trị khắc nghiệt ấy.

Và giờ đây, kịch bản cũ hoàn toàn có thể xẩy ra, nếu Việt Nam không nhanh chóng hoá giải được điều mà Tổng bí thư cũng nhấn mạnh tại Hội nghị Ngoại giao năm nay: “Trong quan hệ với các đối tác quan trọng, nhất là các nước lớn, có những ‘điểm nghẽn’ nào cần tháo gỡ hoặc khâu ‘đột phá’ nào cần mở ra?”[5] Tổng bí thư nêu vấn đề một cách khá sát sườn : “Các khuôn khổ quan hệ đã ký kết có tạo được hiệu quả tương xứng với tên gọi hay còn mang nặng tính hình thức? Có giúp xử lý một cách hiệu quả các vấn đề phát sinh không?”[6] Đặt ra câu hỏi cũng là một cách trả lời. Thực tế vừa qua, khi Trung Quốc ép Việt Nam không được khai thác các giếng dầu ngay trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình, ấy vậy mà không một đối tác chiến lược (ĐTCL) nào trong hơn hai chục ĐTCL đứng ra “chống lưng” góp phần giúp Việt Nam “xử lý một cách hiệu quả” các vấn đề phát sinh ấy. Rõ ràng, tình hình thật đáng đáng phải báo động.

Thời đại cuốn màn sương…

Ảnh Ban nhạc Hạm đội 7 đang biễu diễn bài “Nối vòng tay lớn”: 

"Rừng núi giang tay nối lại biển xa…” Ban nhạc Hạm đội 7 Hoa Kỳ “phiêu” cùng người dân Đà Nẵng dưới chân cầu Rồng. Một đêm nhạc không thể nào xúc động hơn… được tổ chức trong không gian mở là khu vực hoạt động văn hóa đã thu hút hàng trăm người dân cỗ võ cho một tương lai mới mẻ đang hé chào. Những giọt nước mắt tràn đầy hạnh phúc nhưng cũng thật cay đắng… Không biết khi sáng tác ca từ này, “người hát rong” họ Trịnh thuở ấy có nghĩ rằng, rồi một ngày… “Nối vòng tay lớn” sẽ được những người bạn từ bên kia Thái Bình Dương, trình diễn ngay tại thành phố Đà Nẵng “có cứng mới đứng đầu gió” này — một biểu tượng cho cuộc đấu tranh vì độc lập, chủ quyền, vì sự hội nhập toàn diện của Việt Nam bung ra với thế giới?

Bà Andrea L. Thompson, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố: “Tổng thống Trump đã đến Việt Nam, các Bộ trưởng Ngoại giao, Quốc phòng, tôi chỉ là cấp khiêm tốn, nhưng như vậy là thứ trưởng Ngoại giao cũng đã thăm Việt Nam… Tất cả cho thấy Việt Nam quan trọng như thế nào đối với Hoa Kỳ”.

Lịch sử sẽ còn nhắc lại tuyên bố nổi tiếng của Donald Trump tại Đà Nẵng (tháng 11/2017): “Tôi rất vinh dự được có mặt tại Việt Nam — vùng trung tâm của khu vực Ấn Thái Dương để phát biểu trước người dân và các lãnh đạo doanh nghiệp nơi này”[7] (FOIP). Từ cột mốc đáng nhớ ấy, các hành động và phản-hành động đã liên tục diễn ra giữa hai nước lớn Trung Mỹ, tình hình ngày một cẳng thẳng và chưa có điểm dừng. Liệu xung đột thương mại Mỹ—Trung tới đây có lan ra Biển Đông hay không? Theo một nghiên cứu của Deutsche Bank, nếu Mỹ thực hiện đến cùng việc đánh thuế 10% nhằm vào hàng xuất khẩu trị giá 200 tỷ USD từ Trung Quốc, thì tăng trưởng GDP hàng năm của đại lục sẽ giảm từ 0,2— 0,3%. Tình trạng bất ổn của xã hội Trung Quốc sẽ gia tăng. Chủ tịch Tập Cận Bình cho đến nay vẫn giữ im lặng, thay vào đó, đẩy Lý Khắc Cường ra “đứng mũi chịu sào”. Ông Tập, theo giới phân tích, đang “ủ mưu” cho cuộc chiến cùng lúc trên cả hai mặt trận: đối phó với các vấn nạn thương mại—công nghiệp—tài chính với Mỹ, đồng thời đối phó với làn sóng chỉ trích, thậm chí chống lại tệ sùng bái cá nhân ông trong xã hội. Nếu cùng đường, khó loại trừ khả năng Tập sẽ mở rộng xung đột với các nước trên Biển Đông như một hướng “giải toả”, nhằm “chữa trị” các bấn loạn trong nước.

Mà các xung đột về ngoại thương—công nghiệp—tài chính nói trên giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng có thể lan ra Biển Đông theo một vec-tơ ngược lại. Theo những tin tức mới nhất, các cuộc đàm phán thương mại Mỹ—Trung vừa qua nặng về chi tiết nhưng không đạt được mấy tiến bộ. Khi các nhà đàm phán Mỹ nêu ra những trường hợp nhiều công ty Mỹ bị tổn hại bởi các tập tục của Trung Quốc thì Trung Quốc lập luận rằng họ đã tuân thủ các nghĩa vụ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hai ngày đàm phán ở Washington do các quan chức cấp thứ trưởng dẫn đầu chẳng làm được gì mấy để giải quyết tranh chấp thương mại—công nghiệp—tài chính ngày càng trầm trọng giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới. Các cuộc thương thuyết kết thúc vào ngày 23/8 mà không ra được thông cáo chung. Cuộc đàm phán lần thứ tư này được nối lại vào lúc hai bên tiếp tục thực hiện lời đe dọa áp đặt thuế quan lên hàng hóa của nhau. Bắc Kinh đã đệ đơn khiếu nại lên WTO về thuế quan của Mỹ. Trong đàm phán, các nhà thương thuyết Trung Quốc nhiều lần viện dẫn điều mà họ nói là Bắc Kinh tuân thủ các qui định của WTO, một lập luận chẳng mấy gây ấn tượng đối với phía Mỹ. Một trong các nguồn tin mô tả phản ứng của Mỹ: “Chúng tôi không quan tâm đến WTO chừng nào quí vị còn cho phép tình trạng dư thừa sản lượng, phá hoại các ngành công nghiệp và đánh cắp tài sản trí tuệ. Chúng tôi sẽ không chịu bó tay đâu”.

Tất nhiên, thương mại không phải là nguồn gốc duy nhất dẫn đến sự căng thẳng giữa Washington và Bắc Kinh. Trung Quốc gần đây đã tự thừa nhận các hoạt động quân sự hoá của mình trên Biển Đông và Hoa Kỳ vẫn chưa có một chiến lược ngăn chặn hiệu quả. Đạo luật về chi tiêu quốc phòng năm 2019 (mang tên TNS John Sidney McCain III vừa qua đời sáng 26/8/2018), đã được Tổng thống Trump phê duyệt, là một trong những nỗ lực mới nhất của Mỹ ngăn chặn các hành động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông. Liệu chính quyền Trump có kết nối các vấn đề thương mại với các biện pháp hữu hiệu hơn nhằm góp phần chống lại sự bành trướng trên các vùng biển đảo mà Bắc Kinh cưỡng chiếm của Việt Nam hay không? Bởi vì, theo đạo luật mới, Bộ Quốc phòng Mỹ sẽ công bố nhiều hơn các hành vi bức hiếp của Bắc Kinh ở Biển Đông. Các hoạt động quân sự và bồi đắp đảo của Trung Quốc trong khu vực cũng phải được thông báo ngay lập tức cho Quốc hội Mỹ và công bố rộng rãi để nắm rõ hơn về hoạt động của Trung Quốc.

Tuy nhiên, vấn đề then chốt hơn, nghiêm trọng hơn trong thời gian tới, chính là sư va chạm giữa hai quyết tâm chiến lược: “Sáng kiến Vành đai, Con đường” của Bắc Kinh (BRI), mà danh xưng lúc đầu là “Nhất đới nhất lộ” (OBOR) và “Chiến lược Ấn Thái Dương tự do và rộng mở” của “Bộ tứ Kim cương” (OFIP từ Nhật—Mỹ—Ấn—Úc). Phân tích về của cuộc đối đầu giữa BRI (hay OBOR) với OFIP này, Ngoại trưởng Đức Gabriel tuyên bố tại Hội nghị An ninh toàn cầu ở Munich ngày 17/2/2018: “Trung Quốc đang dùng OBOR để gây ra cuộc chiến giữa chế độ dân chủ và độc tài”.Còn Tư lệnh Thái Bình Dương, Đô đốc Harry Harris thì khẳng định: “Khu vực OFIP đang ở vào bước ngoặt lớn khi chứng kiến cuộc cạnh tranh địa-chính trị giữa tự do và áp bức”[8]Trong một hàm ý gửi tới các quốc gia hay các tổ chức muốn hưởng ứng, như một “thành viên sau hậu trường” (shadow member) đối với OFIP, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mattis mới đây tuyên bố: “Hoa Kỳ không gợi ý bất kỳ nước nào phải chọn giữa Mỹ hay Trung Quốc… Hoa Kỳ đề  nghị mối quan hệ “đối tác chiến lược”, chứ không phải lệ thuộc về chiến lược”; và ông Bộ trưởng tiếp tục: “Chỉ khi các quốc gia trở nên độc lập, không bị chi phối và trở nên vững mạnh thì mới giúp đỡ được nước khác, mới hỗ trợ được các quốc gia khác”. Giúp bạn cũng là tự giúp mình! Nguyên tắc này chẳng mấy xa lạ trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, đang đặt ra cho Việt Nam những nghĩa vụ và trách nhiệm mới trong tương lai không thể thoái thác.

“Ba đặc khu” là OBOR trá hình

Trong khi Mỹ ngày càng tỏ ra không ngán đối đầu với sự bành trướng của

Trung Quốc trên Biển Đông và nhiều nước, điển hình mới đây nhất là Malaysia của Dr. Mahathir không còn muốn tham gia vào OBOR của Trung Quốc thì ở nước ta, mùa hè qua, rộ lên câu chuyện “Ba đặc khu”. Theo đánh giá của các chuyên gia trong nước, sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 chẳng những sẽ mang lại các công nghệ mới trong sản xuất, liên kết và kinh doanh, xây dựng nên những mạng dịch vụ chưa từng có, mà còn tạo ra những kết nối, tái cấu trúc các chuỗi cung ứng, dịch vụ, các công cụ và phương thức trong huy động – phân bổ các nguồn lực; bởi vậy mà vòng đời của sản phẩm thời CMCN 4.0 sẽ ngày càng ngắn lại và càng sớm bị thay thế. Nói cách khác, CMCN 4.0   đang loại bỏ gần như hoàn toàn mô hình các đặc khu như đang dự định hình thành. Đòi hỏi hàng đầu của Việt Nam hôm nay không phải là kéo thêm lực từ bên ngoài vào bằng mọi giá! Nhất là khi tình hình của ta và của khu vực đang tiềm ẩn nhiều mối nguy khó lường, vượt ra ngoài khả năng kiểm soát rất yếu kém hiện nay của đội ngũ quản trị quốc gia. Cho nên đi vào mô hình đặc khu là mắc bẫy OBOR, hay BRI trá hình, rất nguy hiểm và đầy thảm hoạ[9].

Để bắt đầu một tuần lao động mới, chúng ta nên xem lại các kinh nghiệm về xây dựng đặc khu của quốc đảo Singapore nổi tiếng. Đừng quên một chi tiết nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn. Nguyên Bộ trưởng Bộ tài chính Singapore là người đã từng làm cố vấn cho Trung Quốc về việc xây dựng các đặc khu kinh tế. Là nước phát triển kinh tế thị trường chậm hàng nửa thế kỷ so với thế giới, tất cả các chính sách kinh tế-tài chính mà Việt Nam áp dụng đều đã được hàng trăm quốc gia trên thế giới thực hiện rồi, tại sao còn phải lo thực nghiệm? Và hãy cùng nhau đọc lại phiên bản tiếng Việt cuốn “Hồi ký Lý Quang Diệu”. Bởi vì, thật hiếm nguyên thủ quốc gia nào có thể cho bạn thấy nhiều góc khuất đến thế của thế giới, thấy cả một giai đoạn rục rịch chuyển giao của các nhà nước, qua giọng văn không kiêng nể. Thứ trưởng Ngoại giao Đặng Đình Quý cho rằng, ông Lý Quang Diệu là nhà lãnh đạo huyền thoại của châu Á, là nhân vật lập quốc của Singapore hiện đại. Rất nhiều lãnh đạo Việt Nam, từ Tổng bí thư Đỗ Mười, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và các nhà lãnh đạo khác sau này đều coi Lý Quang Diệu là người bạn chân thành, sâu sắc của bản thân các lãnh đạo và của Việt Nam nói chung. Theo các nhà quan sát ở ta, trong tất cả các cuộc tiếp xúc với lãnh đạo Việt Nam từ những lần đầu tiên vào những năm 1992 đến đầu những năm 2000, ông Lý Quang Diệu đều đưa ra những nhận xét rất thẳng thắn, mà đến giờ đọc lại những lời góp ý đó vẫn còn thấy giật mình.

Ông Lý Quang Diệu từng nói: “Lẽ ra vị trí số một ở châu Á phải là của Việt Nam”. Theo ông, vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên thiên nhiên phong phú là hai yếu tố hàng đầu có thể đưa Việt Nam trở thành “con hổ ở châu Á”; càng vì có vấn đề Trung Quốc, Việt Nam càng phải trưởng thành lên như thế… Nhưng đáng tiếc ngày nay, năng suất lao động của người Việt Nam chỉ bằng 1/15 của người Singapore, 1/5 của người Malaysia, 2/5 của người Thái. Theo ông Lý, sự thành công của một quốc gia ngày nay bao gồm ba yếu tố chính là: (i) điều kiện tự nhiên, như vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên, (ii) con người và (iii) thời cơ; nhưng căn bản nhất vẫn là yếu tố con người… Cũng do vậy, Lý Quang Diệu đã rất lấy làm hối tiếc, vì Việt Nam không biết trọng dụng nhân tài, và cho rằng nhân tài của Việt Nam phần lớn đã định cư ở nước ngoài hết rồi.

*
*    *

Cục diện khu vực và thế giới ngày nay đang đi vào một bước ngoặt lớn; một dạng trật tự mới đang hình thành giống như cái bước ngoặt đã từng xẩy ra sau chiến tranh thế giới thứ hai. Bước ngoặt sau năm 1945 là mâu thuẫn “bất cộng đới thiên” giữa một bên là chủ nghĩa tư bản và một bên là chủ nghĩa cộng sản. Bước ngoặt 2018 hôm nay là xung đột quyền lực “một mất một còn” chi phối thế giới thế kỷ 21 giữa Trung Quốc và Mỹ. Sự giống nhau của hai “bước ngoặt” này là nguy cơ xuất hiện từ tình huống “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”. Sự khác nhau giữa thời 2018 so với thời sau năm 1945 là các nước “bên thứ ba” hôm nay có nhiều khả năng làm chủ tình hình hơn, nếu ý thức được đầy đủ về quốc gia-dân tộc mình, về vai trò của đất nước mình trong cái trật tự đang hình thành ngày càng rõ nét. Liên quan đến Việt Nam, đất nước đã có quá nhiều trải nghiệm xương máu của cái thời bước ngoặt sau 1945 cho đến tận hôm nay, chúng ta càng phải thấm thía bài học khắc cốt ghi xương: “Ta càng nhân nhượng, kẻ muốn ăn thịt ta càng lấn tới” (lấy ý từ lời kêu gọi của Hồ Chí Minh). Sau cách mạng Tháng Tám là như vậy, từ sau Hội nghị Thành Đô đến nay lại càng như vậy! Điều hoàn toàn khác với thời 1945 là: Việt Nam hôm nay không phải là một nước nhược tiểu! Điều Việt Nam hôm nay cần làm và làm ngay: Phải ý thức được về chính mình, về sức mạnh của mình, của cộng đồng mà mình là thành viên, ý chí quyết sống, ý thức về vai trò và trách nhiệm của mình đối với khu vực, đối với thời đại!


Hết


[5] &
[6] ttp://baoquocte.vn/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-ngoai-giao-30-7.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

BỘ TƯ PHÁP PHẢI HỦY THÔNG TƯ 19 VỀ NHÂN DÂN TỆ



BỘ TƯ PHÁP PHẢI ĐÌNH CHỈ THÔNG TƯ SỐ: 19/2018/TT-NHNN CHO PHÉP LƯU THÔNG ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ TẠI 7 TỈNH BIÊN GIỚI VÌ: VI HIẾN, VI PHẠM LUẬT NGÂN HÀNG VÀ NGHỊ ĐỊNH Số: 89/2016/NĐ-CP

Phạm Viết Đào.

Hiến pháp 2013 quy định:
“Điều 55
3. Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số: 46/2010/QH12 quy định:
“Điều 17. Phát hành tiền giấy, tiền kim loại
1. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, tiền kim loại của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Ngân hàng Nhà nước bảo đảm cung ứng đủ số lượng và cơ cấu tiền giấy, tiền kim loại cho nền kinh tế.
4. Tiền giấy, tiền kim loại phát hành vào lưu thông là tài sản "Nợ" đối với nền kinh tế và được cân đối bằng tài sản "Có" của Ngân hàng Nhà nước.

Điều 33. Hoạt động ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc mua, bán ngoại hối trên thị trường trong nước vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia; mua, bán ngoại hối trên thị trường quốc tế và thực hiện giao dịch ngoại hối khác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.

Điều 34. Mua, bán ngoại tệ giữa Dự trữ ngoại hối nhà nước với ngân sách nhà nước
Thủ tướng Chính phủ quy định mức ngoại tệ Bộ Tài chính được giữ lại từ nguồn thu ngân sách để chi các khoản chi ngoại tệ thường xuyên của ngân sách nhà nước. Số ngoại tệ còn lại Bộ Tài chính bán cho Dự trữ ngoại hối nhà nước tập trung tại Ngân hàng Nhà nước…”

Nghị định Số: 89/2016/NĐ-CP quy định các điều kiện thành lập cơ sở đổi ngoại tệ:

“Điều 4. Điều kiện đối với tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động đại lý đổi ngoại tệ
Tổ chức kinh tế chỉ được thực hiện hoạt động đại lý đổi ngoại tệ sau khi được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp Giấy chứng nhận đăng ký đại lý đổi ngoại tệ. Điều kiện để tổ chức kinh tế được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét, cấp Giấy chứng nhận đăng ký đại lý đổi ngoại tệ:
1. Được thành lập hoặc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Có địa điểm đặt đại lý đổi ngoại tệ tại một hoặc nhiều địa điểm theo quy định sau:
a) Cơ sở lưu trú du lịch đã được cơ quan quản lý nhà nước về du lịch xếp hạng từ 3 sao trở lên;
b) Cửa khẩu quốc tế (đường bộ, đường không, đường thủy);
c) Khu vui chơi giải trí có thưởng dành cho người nước ngoài được cấp phép theo quy định pháp luật;
d) Văn phòng bán vé của các hãng hàng không, hàng hải, du lịch của nước ngoài và văn phòng bán vé quốc tế của các hãng hàng không Việt Nam;
đ) Khu du lịch, trung tâm thương mại, siêu thị có khách nước ngoài tham quan, mua sắm.
3. Có cơ sở vật chất đáp ứng được yêu cầu hoạt động của đại lý đổi ngoại tệ sau đây:
a) Có nơi giao dịch riêng biệt (phòng hoặc quầy giao dịch không gắn liền với các hoạt động kinh doanh khác, chỉ chuyên làm dịch vụ đổi ngoại tệ);
b) Nơi giao dịch phải trang bị đầy đủ các phương tiện làm việc tối thiểu bao gồm điện thoại, máy fax, két sắt, bảng thông báo tỷ giá công khai, bảng hiệu ghi tên tổ chức tín dụng ủy quyền và tên đại lý đổi ngoại tệ.
4. Nhân viên trực tiếp làm ở đại lý đổi ngoại tệ phải có Giấy xác nhận do tổ chức tín dụng ủy quyền cấp, xác nhận đã được đào tạo, tập huấn kỹ năng nhận biết ngoại tệ thật, giả.
5. Có quy trình nghiệp vụ đổi ngoại tệ, có biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn trong quá trình đổi ngoại tệ.
6. Được tổ chức tín dụng được phép ủy quyền làm đại lý đổi ngoại tệ.
7. Một tổ chức kinh tế chỉ được làm đại lý đổi ngoại tệ cho một tổ chức tín dụng được phép và tổ chức kinh tế có thể thỏa thuận đặt đại lý đổi ngoại tệ ở một hoặc nhiều địa điểm trên địa bàn nơi tổ chức kinh tế có trụ sở chính hoặc chi nhánh…”
Căn cứ vào các quy định trên, không có điều khoản nào trong Hiến pháp 2013 và Luật Ngân hàng Nhà nước số: 46/2010/QH12 và Nghị định số: 89/2016/NĐ-CP cho phép sử dụng và lưu thông đồng nhân dân tệ trên lãnh thổ Việt Nam…
Những đồng tiền này khi vào Việt Nam muốn được lưu thông phải được chuyển đổi sang đồng tiền Việt Nam, thông qua các cơ sở đổi tiền do Ngân hàng nhà nước cấp phép…
Do vậy, việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư Số: 19/2018/TT-NHNN ngày 28/8/2018, cho phép lưu thông tự do đồng nhân dân tệ trên thị trường là vi hiến, trái Luật Ngân hàng nhà nước và trái Nghị định 89/2016/NĐ-CP.
Theo Điều 24 của Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật số Số: 80/2015/QH13 quy định:
“Điều 24. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành thông tư để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
2. Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình..”

“Điều 5. Nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
1. Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.
2. Tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3. Bảo đảm tính minh bạch trong quy định của văn bản quy phạm pháp luật…”
Do việc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư Số: 19/2018/TT-NHNN có các vi phạm nghiêm trọng kể trên, yêu cầu Bộ Tư pháp đình chỉ và hủy bỏ Thông tư Số: 19/2018/TT-NHNN, báo cáo Thủ tướng để có hình thức kiểm điểm và xử lý ký luật các cá nhân liên quan đến việc ban hành Thông tư nói trên…

P.V.Đ.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

MỘT NHÀ NƯỚC CÀNG CHÂN CHÍNH THÌ CÀNG MẠNH MỘT NHÀ NƯỚC CÀNG GIAN TÀ THÌ CÀNG YẾU


PHẦN KẾT
*****
Một con người như vậy dù có làm mẫu hậu một quốc gia đông cả tỷ dân cũng không thể biết đến giá trị của hai chữ Tự do, vì thế nhà văn Bá Dương người Trung Quốc mới viết: một con lừa cũng có thể làm vua cai trị cả tỉ người Trung Hoa. Câu nói đó hàm nghĩa, khi không có tự do cả tỷ người Trung Quốc chỉ là bầy cừu đòi ăn uống mà thôi, và để thống trị bầy cừu đó thì cũng chỉ cần một con lừa làm vua là đủ.
Triết gia Aristote cho rằng: “Con người là một động vật chính tri”. Chính trị là đòi hỏi hàng đầu của mỗi người trong xã hội, bởi vì, đó chính là quyền sống, môi trường sống thiết yếu của mọi người. Theo nghĩa Hán tự, “Chính trị” tức là sử dụng những phương pháp chân chính – chính đáng để cai trị dân. Ngược với chính trị, là “tà trị” tức đem những mưu lược gian dối xảo trá ra để trị dân. Khi đem điều chân chính ra để điều hành xã hội, thì hiển nhiên mọi người được sống trong bình an, công bằng, tốt đẹp. Trái lại khi đem những mách lới mưu mô gian dối xảo trá kết hợp với bạo quyền ép buộc phi lý bất công ra để trị dân, thì mọi người phải sống trong đè nén, bất an, bất công, tranh giành, xâu xé, ăn miếng trả miếng lẫn nhau, xã hội đầy rẫy những cái bẫy được giăng ra để đánh lưới nhau, hoặc đầy rẫy những bạo lực đánh đập, cầm tù, sát hại lẫn nhau. Trong cuộc sống, khi đã sinh ra, chẳng ai lại không mong muốn một cuộc đời bình an, công bằng, hạnh phúc, và điều mong muốn đó chỉ có thể được đáp ứng trong một nền chính trị chân chính, chứ không thể có được trong một nền chính trị bạo lực hoặc “cưỡng từ đoạt lý” hay lấy sức mạnh của bạo lực để “cả vú lấp miệng em”.
Một Nhà nước càng chân chính thì càng mạnh, và Nhà nước đó càng tạo nhiều điều kiện để cho các công dân của nó được tự do. Một Nhà nước càng gian tà, càng dựa vào bạo lực thì Nhà nước đó càng yếu, và càng không dám để cho các công dân có được quyền tự do – dù là rất tối thiểu. Trong một xã hội văn minh, người ta sẽ chú trọng đến tự do, tri thức, sự tiến bộ của mọi người nhiều hơn – vì đó là xã hội chân chính. Trái lại, trong một xã hội đen tối, khi những giá trị về tự do, tri thức, tiến bộ ở mức quá thấp, người ta càng đua nhau có được vị thế làm quan. Ở nơi càng lạc hậu, càng ít nhà bác học, các tác giả lớn, và nghệ sĩ lớn, ở đó càng nhiều quan lại, quan lớn, quan nhỏ, có cả rất nhiều cán bộ lãnh đạo hư danh thiếu cả cơ cấu và chức năng làm việc.
#quanpham
(còn nữa)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2018

Lưu thông đồng Nhân Dân Tệ và bi kịch cuối cùng


Chấp nhận cho doanh nghiệp Trung Quốc thanh toán Nhân dân tệ tại Việt Nam chắc chắn sẽ là điều mà Trung Quốc khao khát nhất với một đất nước đang kiệt quệ về kinh tế như Việt Nam. Và nếu điều đó thành sự thật, thì việc xâm lược nước Việt Nam sau hơn 1000 năm bế tắc của người Tàu sẽ hoàn thành. Vì đơn giản, họ sẽ in đủ tiền để mua tất cả đất nước của chúng ta.
Ngày 1/10/2016 đúng vào ngày quốc khánh TQ, đồng Nhân dân tệ của TQ được đưa vào nhóm giỏ các đồng tiền dự trữ của thế giới cùng với các đồng tiền Đôla Mỹ, Bảng Anh, Yên Nhật là 4 đồng tiền nằm trong nhóm đồng tiền sử dụng cho quyền rút vốn đặc biệt (SDR). Đã nhiều chuyên gia kinh tế thế giới ngăn cản điều này vì đồng Tệ của TQ không chiếm tỷ trọng lớn trong thanh toán quốc tế và chúng ta có thể coi đây là một thành công của TQ trong việc khẳng định vị thế của mình.

Đối với đất nước ta thì đây là một quyết định nguy hiểm, vì với một đất nước đã lệ thuộc nhiều mặt thì chúng ta dễ dàng phu thuộc sâu hơn và đánh mất quyền kiểm soát TQ khi đồng tiền họ mạnh lên. Với tình trạng thiếu vốn trầm trọng cho các dự án trong nước và không có nguồn thu (do tham nhũng , trốn thuế) . Doanh nghiệp và các tổ chức nhà nước sẽ dễ dàng vay nợ, chấp nhận thanh toán bằng đồng Tệ của TQ và biến nước ta trở thành nền kinh tế phụ thuộc hoàn toàn với TQ. Những phân tích sau đây cho thấy sự nguy hiểm và kết cục của vấn đề này.

1. TƯƠNG QUAN GIỮA 2 NỀN KINH TẾ: CHUỘT VÀ VOI.

GDP của Việt Nam trong năm 2015 theo thông báo là 198,8 tỷ USD. Năm 2016 chúng ta chưa có số liệu song chắc chắn sẽ suy sụp thảm hại do thảm họa Formosa đã hủy hoại các ngành thủy hải sản, du lịch và gây rối loạn trong xã hội, ước tính còn 180 tỷ USD. Trong khi đó GDP của TQ năm 2016 đạt 10.000 tỷ USD. Như vậy nền kinh tế chúng ta so với TQ là 1/56 lần. Một tương quan tệ hại.

Song chưa dừng tại đó, chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nước ta là khu vực đầu tư nước ngoài. Năm 2015, khu vực này xuất khẩu đạt 115,1 tỷ USD so với khu vực kinh tế trong nước chỉ xuất khẩu được 47,3 tỷ USD. Như vậy sức sản xuất của khu vực trong nước chiếm chưa đầy một nửa so với khu vực đầu tư nước ngoài.

Nước ta thường xuyên nhập siêu với TQ với tốc độ tăng chóng mặt. Trong 15 năm qua, GDP chúng ta tăng 5,5 lần song nhập siêu từ TQ tăng 171 lần. Đây là biểu hiện cho một nền kinh tế lệ thuộc sâu. Và lệ thuộc kinh tế luôn kéo theo lệ thuộc chính trị và mọi mặt đời sống. Trong năm 2015, tốc độ nhập siêu từ TQ lần đầu giảm, do sự có mặt của các mặt hàng xuất khẩu điện tử của Samsung tuy nhiên điều này không thay đổi bản chất vấn đề. Theo con số thông báo là năm 2015, Việt Nam nhập siêu 32 tỷ USD từ TQ. Con số thực tế có thể gấp đôi vì sự hoạt động của hàng lậu với sự tiếp tay chính thức và không chính thức là không thể kiểm soát.

2. CHÚNG TA LẤY GÌ BÙ ĐẮP CHO SỰ THÂM HỤT THƯƠNG MẠI VỚI TQ.

Lẽ dĩ nhiên, thâm hụt thương mại sẽ dẫn đến sự thiếu ngoại tệ để thanh toán quốc tế. Mỗi năm Việt Nam cần nhu cầu khoảng 15 – 20 tỷ USD để trả nợ là một gánh nặng khủng khiếp với một nền kinh tế chưa tới 200 tỷ USD. Phần lớn nền kinh tế đó dựa trên đầu tư, và vốn đầu tư là vay nợ nước ngoài. Trong những năm gần đây, các nguồn ODA từ Nhật Bản và nguồn vay từ WB đang giảm dần , các nguồn hỗ trợ không hoàn lại đã không còn do Việt Nam đã thoát chuẩn nước nghèo. Khiến chúng ta khốn đốn và nguồn vay hiện nay của Việt Nam là TQ. Sự lệ thuộc càng trở nên trầm trọng với hơn 90% dự án quan trọng rơi vào tay nhà thầu TQ với nhiều yêu cầu tai hại. 100% dự án do các nhà thầu này thi công vượt vốn chậm tiến độ và thua lỗ thảm hại. Nhiều dự án không thể đưa vào hoạt động. Cuộc tấn công bằng kinh tế đã tỏ ra hiệu quả gấp 100 lần các cuộc chiến tranh trước đây bởi vì chúng ta đã bán đất để bù váo sự thâm hụt đó. Có thể coi đất là một mặt hàng Việt Nam đã xuất cho TQ.

TQ xuất khẩu sang Việt Nam phần lớn thiết bị, công nghệ cũ kỹ, rau quả , hóa chất độc hại. Hóa chất độc hại lan tràn trên khắp đất nước dẫn đến bệnh tật, hủy hoại nhân tính người Việt. Chúng ta xuất khẩu sang TQ, nguyên liệu thô như khoáng sản, than , rau quả sạch hơn với giả rẻ mạt. Sự thao túng của Trung quốc vào nền kinh tế đã khiến nền kinh tế chúng ta bị tê liệt. Chúng kiểm soát vận tải, kiểm soát các chợ đầu mối. Tiền lời bằng tiền Việt chúng dành cho các công ty sân sau mua đất Việt Nam. Đất nước có quá nhiều doanh nghiệp giàu đột xuất , mua đất chiến lược khắp nơi, xây chùa chiền to hoành tráng đều từ nguồn tiền này. Và quyền kiểm soát các khu đất chiến lược quan trọng trên khắp toàn quốc dần thuộc về người TQ.

3. CÁI CHẾT CUỐI CÙNG: SỬ DỤNG NHÂN DÂN TỆ

Ngay từ đầu năm 2015, truyền thông Việt Nam đã dọn dường cho việc sử dụng Nhân Dân Tệ tại Việt Nam với bài báo Kiến nghị dùng nhân dân tệ trên vnexpress.net . Và sau sự ký kết 15 thỏa thuận của Việt Nam với TQ vừa rồi điều này sẽ diễn ra không xa. Trong 15 điều này đều là sự tính toán sâu xa quỷ quyệt của TQ với Việt Nam khi cố tình áp đặp mọi chiến lược Quốc phòng, Kinh tế, Nhân sự, Giáo Dục triệt để để đồng hóa Việt Nam. Song chúng ta chú ý tới 4 điều:

2. Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ban Kinh tế Trung ương với Trung tâm Nghiên cứu phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc;

5. Hiệp định khung hợp tác cửa khẩu biên giới đất liền giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Tổng cục Hải quan Trung Quốc;

9. Kế hoạch hợp tác Du lịch Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 2017-2019;

15. Biên bản ghi nhớ giữa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Phát triển Trung Quốc về Hợp tác tài trợ dự án và cho vay song phương trung dài hạn giai đoạn 2017-2019.

Đây là những điều sẽ dẫn tới việc ban hành quyết định chấp nhận thanh toán bằng Nhân Dân Tệ tại Việt Nam sắp tới.

Và đó là cái chấm hết cho một dân tộc lệ thuộc. Đã không đứng trên đôi chân mình để sản xuất, tự cường. Mà dùng sức mạnh quyền lực để kìm hãm và tiêu diệt nhau. Để thủ lợi và tiêu diệt dần sức sản xuất trong nước. TQ không cần tiêu diệt Việt Nam bằng một cuộc chiến tranh đẫm máu và gây dự luận bất lợi với Thế giới như trong lích sử. Họ dùng tiền để mua đất nước chúng ta , và bằng muôn mưu ma chước quỷ lừa gạt bằng tâm linh, ý thức hệ.

Sau một thời gian khó khăn, dân Việt sẽ đồng loạt bán đất để ăn dần. Trong vòng 2-3 năm, chúng ta có nhiều tiền Nhân Dân Tệ trong ngân hàng, song ra đường, tất cả mọi nơi đều là người Tàu.

Hãy đau xót và nhìn nhận số phận đang chờ đợi. Khi đồng Nhân Dân Tệ được chấp nhận lưu thông tại Việt Nam. Cách bán nước nhanh nhất có trong đầu óc bạn, nếu bạn chấp nhấn sử dụng đồng tiền này. Trung Quốc chỉ cần chấp nhận lạm phát 3-5 % bằng cách in thêm tiền. Thì họ đã đủ sức MUA ĐỨT VIỆT NAM.


Hãy góp tay Đăng lại bài viết này và góp không sử dụng Nhân Dân Tệ tại Việt Nam

Nguồn: Facebook
http://baolua.net/luu-thong-dong-nhan-dan-te-va-bi-kich-cuoi-cung.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Xin hỏi hai ông Tư Sang và Ba Dũng




Nguyễn Đăng Quang
2-9-2018

Cách đây 4 năm, trước việc các LLVT (gồm quân đội và công an) bị huy động tùy tiện và trái pháp luật vào các cuộc cưỡng chế, giải tỏa đất đai bất hợp pháp, và nhất là vào việc ngăn chặn, cản trở các cuộc biểu tình yêu nước của toàn dân phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo Tổ quốc, ngày 2/9/2014, hai mươi (20) cựu sĩ quan Quân đội và Công an chúng tôi đã cùng nhau ký kiến nghị gửi tới Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (sau đây gọi tắt là “Kiến nghị 20”).



Kiến nghị nêu 4 yêu cầu rất cụ thể. Tôi xin đề cập 2 trong 4 đòi hỏi của “Kiến nghị 20” này như sau:

Kiến nghị 1 nêu rõ: “Không được huy động Quân đội và Công an vào bất cứ việc gì có hại cho nhân dân. Quân đội có nhiệm vụ Hiến định là “Bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm”, do vậy tuyệt đối không được huy động Quân đội vào những việc mang tính đối kháng với nhân dân, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa… Công an có nhiệm vụ Hiến định là “Bảo vệ An ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm”, do vậy tuyệt đối không lạm dụng Lực lượng Công an vào việc đàn áp những người dân vô tội đấu tranh đòi giải quyết những quyền lợi hợp pháp của mình.” (Hết trích 1)

Kiến nghị 4 nêu cụ thể: “Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và LLVT Việt Nam phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ với nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung, và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo… Về Hội nghị Thành Đô, có tin nói Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo đã công bố nội dung thỏa thuận giữa 2 bên, trong đó trích dẫn: “Việt Nam mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng và Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận yêu cầu nói trên, và cho Việt Nam thời hạn 30 năm (1990-2020) để ĐCSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”. Chúng tôi không rõ thật giả thế nào, yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ thỏa thuận tại Thành Đô năm 1990” (hết trích 2).

Kiến nghị trên được gửi ông Tư Sang và Ba Dũng đã tròn 4 năm. Đến nay cả 2 ông đều đã nghỉ hưu để “ráng làm người tử tế”. Song rất buồn và đáng trách, giống hệt như các Lãnh đạo cao cấp khác, 2 ông Tư và Ba này đã không trả lời “Kiến nghị 20” một câu. Phải chăng trong đầu và trái tim họ đã mất hết suy nghĩ về nghĩa vụ và trách nhiệm của người lãnh đạo đối với công dân, mà trong trường hợp này lại là đồng đội, đồng chí của mình? Đây quả là cách ứng xử lạ lùng và kỳ cục nếu không nói là thiếu chuẩn mực đạo đức và luật pháp, mà chỉ duy nhất thấy ở lãnh đạo các quốc gia theo thể chế độc tài, toàn trị.

Trong số 20 cựu sỹ quan LLVT ký tên, người trẻ nhất nay cũng đã 77 tuổi, còn người cao tuổi nhất đã bước sang tuổi đại thượng thọ: 103 tuổi. Đó là lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền VN tại TQ. Tướng Vĩnh vào Đảng năm 1939, được phong hàm Thiếu tướng năm 1959. Trong tất cả sỹ quan cấp tướng do đích thân Chủ tịch HCM tấn phong, cụ là người duy nhất còn sống cho đến nay. Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh kể lại cho tôi chuyện sau: Lúc đương chức, cả 2 ông Tư Sang và Ba Dũng đều cử phái viên đến thăm cụ. Một lần ông Ba Dũng cử 1 vị tướng đến thăm với mục đích thẳng băng là yêu cầu cụ bớt phê phán và lên án ông ta. Ông tướng này (chỉ bằng tuổi con cụ) nói: “Bác nguyên là Trung ương Ủy viên, tôi cũng là nguyên Ủy viên Trung ương. Bác là sỹ quan cấp tướng, tôi cũng cấp tướng.” Nghe đến đây, cụ bèn ngắt lời khách: “Không dám. Tôi vào Đảng khi anh còn chưa sinh. Còn khi tôi được phong hàm tướng và tham gia BCHTW, có lẽ lúc đó anh mới chỉ học cấp 1. Anh so sánh như vậy là khập khiễng. Vả lại khi tôi được phong tướng và được bầu vào Trung ương, thời kỳ ấy Đảng ta còn rất trong sạch, chứ đâu như bây giờ. Nay tất cả là do đồng tiền chi phối và quyết định, khác hẳn trước đây”. Biết là thất thố và không thể đối đáp tiếp, ông tướng nọ vội vàng cáo lui, lẳng lặng ra về.

Đến nay có 1/5 số ký “Kiến nghị 20” đã rời cõi tạm về nơi vĩnh hằng. Đó là Thiếu tướng Lê Duy Mật và 4 đại tá: Bùi Văn Bồng, Phạm Hiện, Nguyễn Thế Trường và Lê Hồng Hà. Xin mạn phép hỏi ông Tư Sang và Ba Dũng: Vì lý do gì mà các ông không phúc đáp và trả lời 4 vấn đề nêu trong “Kiến nghị 20” gửi các ông 4 năm trước? Thực sự là do đâu? Chắc ở dưới suối vàng, 5 sỹ quan quá cố và khả kính kia sẽ không tha thứ cho 2 ông về tội đã phớt lờ bổn phận và đạo lý của mình. Bốn yêu cầu trong “Kiến nghị 20” đâu phải là những đòi hỏi vô lý, ngược lại đấy là những vấn đề rất thiết thực, nằm trong khuôn khổ và phù hợp với Hiến pháp. Trong số ký “Kiến nghị 20” có nhiều người đáng tuổi cha chú hai ông, họ góp phần xương máu trong 3 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để các ông được cơ cấu “làm đày tớ của dân” (lời Chủ tịch HCM). Đảng bố trí các ông ngồi vào 2 trong 4 ghế tứ trụ triều đình để phục vụ ai? Các ông đã coi khinh, không lên tiếng trả lời, vậy lương tâm các ông còn không? Các ông hành xử bất tín, bất nghĩa, vô chính trị như vậy là do tự ý cá nhân hay theo chỉ đạo của ai, thưa 2 ông?

Mong rằng cách ứng xử thiếu văn hóa, khiếm nhã và vô đạo lý nói trên sẽ không bao giờ lặp lại trong sinh hoạt chính trị, nhất là trong tư duy của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta.
____

 (P/s:  Xin mời quý độc giả đọc toàn văn bản “Kiến nghị 20” dưới đây:) 

KIẾN NGHỊ của 20 cựu sĩ quan LLVT 
gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ CHXHCN Việt Nam 

Ngày 2 tháng 9 năm 2014.  

KÍNH GỬI:

– Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thống lĩnh các Lực lượng Vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.
– Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.

Chúng tôi là những người lính trọn đời “Trung với Nước, Hiếu với Dân”, luôn trăn trở với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân. Đứng trước tình hình nghiêm trọng, đe dọa an ninh, chủ quyền và sự phát triển của Quốc gia, chúng tôi vô cùng lo lắng và thấy cần phải kiến nghị với Lãnh đạo Nhà nước một số điểm như sau.

1. Lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân phải luôn luôn vì Nhân dân, nên không được huy động Quân đội và Công an vào bất cứ việc gì có hại cho Nhân dân. Sức mạnh của Lực lượng vũ trang chỉ có được khi dựa vào Nhân dân, nên không được đánh mất tín nhiệm đối với Nhân dân. Vì vậy, để bảo vệ uy tín của Quân đội là lực lượng có nhiệm vụ hiến định “quốc phòng”, tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào những sự vụ mang tính đối kháng với Nhân dân, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa… Để khôi phục uy tín của Công an, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ hiến định “bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”, tuyệt đối không lạm dụng lực lượng Công an vào việc đàn áp những người dân vô tội, chỉ yêu cầu giải quyết quyền lợi hợp pháp của mình.

2. Các chiến sĩ Lực lượng vũ trang chỉ có thể yên tâm rèn luyện và sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc khi tin tưởng rằng cống hiến của họ luôn được Nhà nước ghi nhận thỏa đáng và gia đình của họ sẽ được Nhà nước chăm sóc chu đáo. Việc cố tình phớt lờ cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 và mấy trận chiến bảo vệ biển đảo không chỉ phủ nhận lịch sử, xúc phạm đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh xương máu vì Tổ quốc, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới tinh thần và quyết tâm chiến đấu của Lực lượng vũ trang. Đó là sai lầm không được phép tái phạm. Để khắc phục hậu quả, phải nhanh chóng giải quyết những cách cư xử không đúng đối với với thương binh và gia đình liệt sĩ. Đặc biệt, phải sớm khôi phục danh dự và quyền lợi đã bị lãng quên của các liệt sĩ và thương binh đã hy sinh xương máu trong chiến tranh biên giới phía bắc và ngoài biển đảo, gấp rút tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ dọc biên giới phía Bắc đã bị bỏ bê hơn hai chục năm qua.

3. Lực lượng vũ trang cần được xác định rõ ràng và chính xác đối thủ, không thể mơ hồ biến thù thành bạn hoặc coi bạn là thù. Đối tượng tác chiến của Quân đội phải là những thế lực có thể đe dọa chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong hiện tại và tương lai, chứ không thể là những đối thủ đã thuộc về quá khứ. Đối tượng khống chế của Công an phải là những kẻ tội phạm và các hành vi vi phạm hiến pháp, pháp luật, dù ở trong hay ngoài bộ máy cầm quyền, chứ không thể là những người dân vô tội. Lịch sử đã chỉ ra rằng Nhân dân ta phải thường xuyên đề cao cảnh giác trước nguy cơ ngoại xâm từ nước láng giềng phương Bắc. Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trên vùng đặc quyền kinh tế của của chúng ta, tuy nay đã tạm rút đi, nhưng vẫn cho thấy họ không hề từ bỏ quyết tâm bá chiếm Biển Đông. Lịch sử cũng cho thấy, sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước cựu thù đã hợp tác với nhau rất hiệu quả và bền vững, ví dụ như mối quan hệ giữa CHLB Đức và ba nước Mỹ, Anh, Pháp, giữa Nhật Bản và Mỹ, giữa Việt Nam và hai nước Pháp, Nhật Bản. Do đó, không thể vì những quan niệm bảo thủ, giáo điều mà đánh mất các cơ hội hợp tác với các cường quốc tiên tiến văn minh, nhằm phát triển kinh tế, công nghệ, nâng cao sức mạnh quốc phòng và tăng cường sự ủng hộ quốc tế trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.

4. Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và lực lượng vũ trang phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ ràng với Nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền của Quốc gia. Về Hội nghị Thành Đô, có tin nói rằng Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đã công bố nội dung thỏa thuận giữa hai bên, trong đó trích dẫn: “Việt Nam mong muốn sẵnsàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. Chúng tôi không biết thật giả thế nào, yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ thỏa thuận tại Hội nghị Thành Đô năm 1990. Chuyến đi thăm Trung Quốc gần đây của đặc phái viên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã thỏa thuận với phía Trung Quốc về ba nguyên tắc chỉ đạo phát triển quan hệ Việt-Trung mà nội dung chỉ nhắc lại những câu sáo ngữ, không nói gì tới thực trạng và các biện pháp chấm dứt các hành động ngang ngược của thế lực bành trướng Trung Quốc xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta trong mưu đồ bá chiếm Biển Đông. Chưa biết bên trong còn có những thỏa thuận cụ thể gì, nhưng toàn dân và toàn quân yêu cầu lãnh đạo Đảng và Nhà nước có đối sách đúng đắn trước mưu đồ và hành vi xâm lược của thế lực bành trướng Trong Quốc, không thể chấp nhận thái độ thể hiện sự thần phục họ, và càng đòi hỏi phải công khai, minh bạch thực trạng quan hệ giữa hai bên.

Trên đây là mấy đòi hỏi cấp bách, nhằm khôi phục uy tín của Quân đội và Công an trong Nhân dân, đồng thời tăng cường sức chiến đấu của Lực lượng vũ trang, để có thể đáp ứng được những thách thức to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

DANH SÁCH KÝ TÊN:

  1. Lê Hữu Đức, Trung tướng, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu.
  2. Trần Minh Đức, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh hậu cần Mặt trận Trị Thiên – Huế.
  3. Huỳnh Đắc Hương, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào.
  4. Lê Duy Mật, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 2, cựu Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên (Hà Giang) 1979-1984.
  5. Bùi Văn Quỳ, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh chính trị Binh chủng Tăng-Thiết giáp.
  6. Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng, nguyên Chính ủy Quân khu 4.
  7. Bùi Văn Bồng, Đại tá, nguyên Trưởng Đại diện báo Quân đội Nhân dân tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
  8. Phạm Quế Dương, Đại tá, nguyên TBT tạp chí Lịch sử Quân sự.
  9. Nguyễn Gia Định, Nghệ sĩ ưu tú Điện ảnh quân đội.
  10. Lê Hồng Hà, nguyên Chánh Văn phòng Bộ Công an, Ủy viên Đảng đoàn Bộ Công an.
  11. Phạm Hiện, Đại tá, nguyên Chánh Văn phòng B.68 Đoàn chuyên gia giúp Campuchia.
  12. Phạm Xuân Phương, Đại tá, nguyên chuyên viên Cục Nghiên cứu Tổng cục Chính trị.
  13. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an.
  14. Đào Xuân Sâm, Cựu chiến binh Hà Nội, nguyên Chủ nhiệm khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
  15. Tạ Cao Sơn, Đại tá, nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2.
  16. Đoàn Sự, Đại tá, nguyên Phó Cục trưởng Cục Xuất bản Tổng cục Chính trị.
  17. Lê Văn Trọng, Đại tá, nguyên Trưởng Ban lịch sử Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu.
  18. Nguyễn Thế Trường, Đại tá, nguyên TBT báo Quân giải phóng Trung Trung bộ.
  19. Nguyễn Văn Tuyến, Đại tá, cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên cán bộ Viện Lịch sử Quân sự.
  20. Nguyễn Huy Văn (tức Kim Sơn), Đại tá, cán bộ lão thành cách mạng, nguyên Phó Trưởng phòng Sở chỉ huy Cục Tác chiến – Bộ Tổng Tham mưu.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

'Tôi đề nghị xét lại việc cho lưu hành tiền TQ ở VN'

Nên nghe toàn văn bài nói của TS Doanh trong trang gốc: https://www.bbc.com/vietnamese/media-45383117

1 tháng 9 2018 - "Điều này là trái với Hiến Pháp của Việt Nam. Hiến Pháp của Việt Nam chỉ cho phép trên lãnh thổ của Việt Nam chỉ có đồng tiền của Việt Nam [được lưu hành] mà thôi, còn ai chịu trách nhiệm, có lẽ sẽ là trách nhiệm của Quốc Hội, của Chính phủ xác định về việc này," Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói với Quốc Phương của BBC Tiếng Việt từ Hà Nội.
 
"Chủ quyền về tài chính, chủ quyền về tiền tệ là một trong những nội dung hết sức quan trọng về chủ quyền kinh tế," Tiến sỹ Lê Đăng Doanh bình luận với BBC về một quyết định của Nhà nước Việt Nam cho phép lưu hành đồng Nhân Dân Tệ của Trung Quốc song song với đồng tiền Việt Nam tại các tỉnh biên giới giáp ranh với Trung Quốc. "Đấy là quyền kiểm soát về đồng tiền để thanh toán trong bất kỳ một nền kinh tế nào," nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương nêu quan điểm hôm 01/9/2018.

"Và mọi chính phủ, mọi nhà nước đều hết sức nghiêm ngặt trong việc thực hiện chủ quyền này. Tôi hy vọng và tha thiết đề nghị là Quốc Hội và Chính phủ Việt Nam sẽ xem xét về Thông tư 19 này."

Theo chuyên gia về chính sách và quản lý kinh tế vĩ mô này, quyết định kể trên đến từ một thỏa thuận giữa hai nhà nước Trung Quốc và Việt Nam được ký kết ở cấp Bộ trưởng, và sau đó Thông tư của Ngân hàng Nhà nước đã hướng dẫn thực hiện.

"Điều này là trái với Hiến Pháp của Việt Nam. Hiến Pháp của Việt Nam chỉ cho phép trên lãnh thổ của Việt Nam chỉ có đồng tiền của Việt Nam [được lưu hành] mà thôi, còn ai chịu trách nhiệm, có lẽ sẽ là trách nhiệm của Quốc Hội, của Chính phủ xác định về việc này," Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói với Quốc Phương của BBC Tiếng Việt từ Hà Nội.


https://www.bbc.com/vietnamese/media-45383117

Phần nhận xét hiển thị trên trang