Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 1 tháng 4, 2018

Trực giác, thứ duy nhất thực sự có giá trị

Phạm Việt Hưng
Bình luận sự kiện khám phá ra sóng hấp dẫn, trang web của Đại học Boston kêu lên: “Cái tên Einstein bao lâu nay vẫn đồng nghĩa với thiên tài”. Mọi người đều tán thành với điều này, nhưng một lần nữa, câu hỏi cũ lại dấy lên: Làm sao Einstein có thể có một sức mạnh tư duy phi thường đến như vậy? Câu trả lời là… “trực giác, thứ duy nhất thực sự có giá trị”, như chính Einstein đã nói.
Trực giác là một khái niệm được mọi người thừa nhận, kể cả người vô thần lẫn hữu thần. Tuy nhiên, người vô thần và hữu thần có cách giải thích khác nhau về bản chất của trực giác. Người hữu thần coi đó là một quà tặng đặc biệt của Chúa, trong khi người vô thần cho rằng trực giác, dù thế nào chăng nữa, cũng chỉ là một dạng thức của tư duy – một dạng hoạt động đặc biệt của bộ não. Vì thế, bản chất của trực giác phụ thuộc vào cấu tạo vật chất của bộ não, và do đó có thể giải thích được bằng khoa học. Đó là lý do để người ta đi tới quyết định sẽ nghiên cứu bộ não của Einstein sau khi ông mất, hòng khám phá xem yếu tố vật chất cụ thể nào đã làm cho Einstein trở thành một thiên tài phi thường đến như vậy. Và quyết định đó đã được thực hiện:
Không đầy 7 tiếng rưỡi đồng hồ ngay sau khi Einstein mất, người ta đã mổ hộp sọ của ông để lấy bộ não mang đi nghiên cứu. Thậm chí đôi mắt của ông cũng bị lấy đi và được giao cho một bác sĩ nhãn khoa. Trong quá trình nghiên cứu, bộ não đã bị cắt ra thành 240 phần, mỗi phần khoảng 1cm3, hiện phần lớn được lưu giữ tại Bảo tàng Quốc gia Mỹ về Sức khỏe và Y khoa, và 46 phần được lưu giữ tại Bảo tàng Mütter ở Mỹ.
Nhưng theo Wikipedia, việc lấy não của Einstein để nghiên cứu đã trở thành một vấn đề gây tranh cãi, vì người ta không biết chắc chắn việc này có được sự đồng ý của chính Einstein trước khi mất hay không. Trong tiểu sử Einstein viết năm 1979, Ronald Clark nói rằng “ông (tức Einstein) cứ nhất định muốn bộ não của mình được sử dụng để nghiên cứu và xác ông được hỏa táng”, nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy điều Clark nói không đúng, và việc bộ não của ông bị lấy đi để nghiên cứu thực ra đã không được phép của cả Einstein lẫn những người thân của ông (xem Wikipedia, Albert Einstein’s brain, Fate of the brain).
Tôi thấy ý kiến của Clark khó tin, bởi làm sao mà Einstein “cứ nhất định” (insist) muốn bộ não của ông phải đem ra nghiên cứu? Thủ tục phẫu thuật thường bao gồm chữ ký tán thành của bệnh nhân hoặc người thân của bệnh nhân. Tại sao trong trường hợp này không thấy nhắc đến, nhất là khi đã có dư luận nghi ngờ. Vả lại, nói như Clark thì xem ra Einstein tự coi mình là một siêu nhân phi phàm, điều này không phù hợp với tính cách khiêm tốn của ông nói chung.
Tóm lại, nếu việc mổ xẻ này mà không được ông và người thân của ông cho phép thì thật là thất đức. Điều khó hiểu hơn nữa là đôi mắt của ông cũng bị lấy đi. Tại sao phải lấy? Chẳng lẽ thiên tài còn phụ thuộc vào đôi mắt nữa ư? Đó là hệ quả của tư duy duy vật và vô thần. Nhưng hãy tạm gác chuyện này để tìm hiểu xem việc nghiên cứu bộ não của Einstein có kết quả gì không.

Kết quả nghiên cứu bộ não của Einstein

Theo Wikipedia, bộ não của Einstein chỉ nặng 1230 grams, nhẹ hơn mức trung bình của một người trưởng thành, vốn là 1400 grams. Từ đó lập tức suy ra rằng khối lượng não, hay cụ thể hơn là số lượng tế bào não, không tỷ lệ thuận với trí tuệ!
Chú ý rằng các nhà tiến hóa rất thích chứng minh sự tiến hóa của khỉ lên người bằng cách chỉ ra kích thước ngày càng lớn của bộ não: não lớn hơn là bằng chứng của sự tiến hóa hơn. Vậy các nhà tiến hóa sẽ nghĩ gì khi biết bộ não của Einstein nhỏ hơn người bình thường?
Cũng nên liên hệ tới số gene của người. Trước khi hoàn thành bản đồ gene người, các nhà khoa học đều nghĩ rằng số gene của con người phải nhiều hơn loài vật rất nhiều. Ý nghĩ này dựa trên một ấn tượng duy vật chủ nghĩa, rằng sinh vật càng phức tạp càng có nhiều gene, sinh vật càng tiến hóa cao càng có nhiều gene. Nhưng khi bản đồ gene được công bố năm 2000, các nhà khoa học đều ngã ngửa: số gene của người cũng xấp xỉ như loài chuột, thậm chí chẳng nhiều hơn loài giun là bao. Thiết nghĩ, đó là một trong những bài học lớn dạy cho loài người rằng tư duy vật chất cân đong đo đếm là một kiểu tư duy thổ thiển ấu trĩ. Nhưng tiếc thay, kiểu tư duy ấy dường như đã thấm vào xương tủy các nhà khoa học duy vật, đến mức không thể thay đổi. Vậy nếu tổng số tế bào của toàn thể bộ não không nói lên được điều gì thì hãy tìm hiểu số lượng tế bào trong từng khu vực đặc biệt của bộ não. Trước sau vẫn quy về số lượng.
Thật vậy, năm 1999, tạp chí y học Lancet của Anh công bố kết quả nghiên cứu của Sandra Witelson và các cộng sự của bà tại Đại học McMaster, Ontario, Canada cho thấy những điều mới lạ về bộ não của Einstein: Phần thuỳ phụ trách tư duy tưởng tượng và tư duy toán học lớn hơn phần thùy của người bình thường 15%. Sự kiện này được xem như một khám phá quan trọng đến nỗi báo chí Úc cũng đưa tin. Tờ Sydney Morning Herald ngày 19/06/1999 viết:
Trong khoa học, kích thước là yếu tố rất quan trọng. Vào khoảng đầu thế kỷ 20 người ta quan tâm rất nhiều đến vấn đề liệu những người có bộ não lớn hơn có thông minh hơn không. Sau Thế Chiến II, việc nghiên cứu chủ đề này gần như bị huỷ bỏ, nhưng gần đây công nghệ hiện đại cho phép xử lý hình ảnh bằng computer nên các nhà khoa học lại hướng vào việc tìm mối tương quan giữa thể tích não và chỉ số thông minh IQ. Sau khi Einstein mất năm 1955, bộ não của ông đã được bảo quản và đo đạc, nhưng người ta không đo thể tích của nó mà chỉ đo trọng lượng. Kết quả cho biết trọng lượng não của Einstein không khác gì mấy so với trọng lượng não của hầu hết mọi người bình thường khác. Các nhà khoa học kết luận: Một bộ não lớn (nặng) không phải là điều kiện thiết yếu để có một trí tuệ phi thường. Vì thế họ đã chuyển sự chú ý vào phần thuỳ của não (parietal lobes), mà theo họ đó là khu vực nhạy cảm có chức năng sản sinh và điều khiển các hình ảnh không gian ba chiều và trình bầy các khái niệm toán học. Điều bất ngờ đã được phát hiện: Phần thuỳ trong não của Einstein rộng hơn 15% so với phần thuỳ trong não của 35 người đàn ông và 50 người đàn bà có trí tuệ bình thường được chọn để nghiên cứu. Bài báo đặc biệt nhấn mạnh rằng khả năng nhận thức về hình ảnh không gian, tư duy toán học và tưởng tượng về chuyển động, tức những nhân tố thiết yếu để phát minh ra Thuyết tương đối, phụ thuộc rất lớn vào phần thuỳ trong não. Thêm một điều đặc biệt nữa: Não của Einstein là trường hợp duy nhất không có đường rãnh “sulcus” ngăn cách phần thuỳ thuộc thái dương (temporal lobe) với phần thuỳ dưới hộp sọ (parietal lobe). Trong não của Einstein, đường rãnh này lại nằm ở một vị trí khác. Các nhà khoa học suy đoán rằng sự vắng mặt đường rãnh tại phần thuỳ có thể cho phép hình thành thêm nhiều neuron thần kinh tại khu vực này, thiết lập nên một kênh thông tin nối liền các phần não với nhau để cùng làm việc chung một cách dễ dàng, tạo ra một khu vực rộng phi thường trên vỏ não có khả năng tổng hợp cao.
Kết quả nghiên cứu nói trên có giải thích được điều gì về thiên tài của Einstein không?
Theo tôi là KHÔNG! Nó chỉ nói lên được một điều, rằng một bộ não có cấu tạo thể chất tốt sẽ có khả năng hoạt động nhạy bén, tức là có chỉ số IQ cao. Nhưng chỉ số IQ và ý thức là hai vấn đề hoàn toàn khác xa nhau. Trong thực tế, có người có chỉ số IQ cao không những không đem lại lợi ích gì cho xã hội mà thậm chí còn làm hại xã hội. Tương tự như một chiếc computer tốt không có nghĩa là nó chứa đựng hoặc đưa ra những thông tin hữu ích.
Tóm lại, việc giải mã thiên tài của Einstein không thể dựa vào những yếu tố vật chất, vì thực ra ý thức và trực giác của con người là những hiện tượng hoàn toàn phi vật chất. Để hiểu biết bản chất của ý thức và trực giác, phải có phương pháp tiếp cận phi vật chất.

Bản chất của ý thức và trực giác

Loài người đã tiến rất xa trong việc khám phá bí mật của tự nhiên nhưng hầu như chẳng tiến được bước nào trong việc tìm hiểu chính mình. Cho đến nay, khoa học vẫn chưa có một lời giải thích nào thỏa đáng về bản chất của ý thức, cái làm nên giá trị người nhiều nhất, và có thể sẽ không bao giờ có. Tại sao vậy?
Vì khoa học tự trói buộc mình trong thế giới vật chất, trong khi ý thức là một thực tại khách quan phi vật chất, nằm ngoài thế giới vật chất. Không thể dùng vật chất để tác động tới thế giới phi vật chất.
Cụ thể hơn, tôi cho rằng ý thức thuộc một tầng nhận thức cao hơn khoa học. Chẳng hạn, thiền sẽ giúp ta tiệm cận tới bản chất của ý thức. Hoặc các suy niệm tâm linh cũng giúp chúng ta chứng ngộ ý thức là gì. May mắn hơn, nếu chúng ta được mặc khải bởi các lực lượng siêu nhiên. Muốn thế thì điều kiện tiên quyết là phải rũ bỏ cái áo chật hẹp của chủ nghĩa duy vật, cho phép tư tưởng được hoạt động tự do, dựa trên những gì ta có thể cảm nhận được.
Cảm nhận giúp ta khám phá chân lý chứ không phải lý lẽ logic. Không cần phải thuyết phục ai, nếu người ấy không thể hoặc không muốn học hỏi bằng con đường cảm nhận. Charlie Chaplin nói: “Chúng ta tư duy nhiều quá nhưng cảm nhận ít quá” (We think too much and feel too little).
Có những người thích rao giảng khoa học bằng ngôn ngữ hàn lâm khó hiểu. Ấy là vì họ tư duy nhiều quá mà cảm nhận ít quá. Einstein khuyên: “Nếu bạn không thể trình bầy một vấn đề sao cho đơn giản, ấy là vì bạn chưa thấu hiểu vấn đề đó” (If you can’t explain it simply, you don’t understand it well enough).
Vậy tôi xin trình bày những gì tôi cảm nhận. Dưới ánh sáng của Định lý Bất toàn của Kurt Gödel và Lý thuyết Thông tin, tôi cho rằng:
● Một, phải khẳng định dứt khoát như Gödel, rằng chủ nghĩa duy vật – hệ tư tưởng cho rằng toàn bộ vũ trụ là vật chất và chỉ có vật chất – là một thế giới quan sai lầm. Lý thuyết thông tin chỉ ra rằng thông tin là một thực tại khách quan phi vật chất, tồn tại độc lập với vật chất. Đây là một kết luận mang tính cách mạng, mở ra một thế giới mới, bao gồm những thực tại phi vật chất. Trong thế giới mới này, những nguyên lý của khoa học vật chất không còn thích hợp nữa. Vì thế, việc đối lập duy vật với duy tâm là một kiểu nhận thức đã lỗi thời. Trong thời đại ngày nay, nên kết hợp mọi dạng nhận thức, miễn là tiếp cận càng tới gần sự thật càng tốt.
● Hai, ý thức là một thực tại khách quan phi vật chất. Ý thức có nhiều đặc điểm của thông tin. Nhiều nguyên lý của thông tin có thể áp dụng để giải thích các hiện tượng thuộc về ý thức. Ý thức có thể là một dạng siêu thông tin.
● Ba, vì mọi thông tin đều có nguồn, nên ý thức cũng có nguồn của nó. Nguồn của ý thức có thể là một lực lượng siêu tự nhiên mà nhân loại từng sử dụng nhiều từ ngữ khác nhau để gọi tên, như Thượng đế, Đấng Tối cao, Chúa, Đấng Sáng tạo, Brahma, Jehovah, Allah, Bà Mẹ Tự nhiên, Nhà thiết kế vĩ đại… Bộ não của con người không phải là nguồn của ý thức, cũng không phải là cỗ máy sản xuất ra ý thức, mà chỉ là một bộ máy tiếp nhận, xử lý, chuyển giao thông tin.
Thí dụ: Thuyết tương đối là một sản phẩm cao cấp của ý thức. Xét cho cùng nó là một tệp tin (một file) về tự nhiên. Bộ não của Einstein nhận được những thông tin của tệp tin đó, xử lý nó, và chuyển giao cho chúng ta. Câu hỏi đặt ra là tại sao chỉ có bộ não của Einstein nhận được hoặc xử lý được tệp tin đó, mà không phải chúng ta?
Một lần nữa câu trả lời là: TRỰC GIÁC!
Ai cũng thừa nhận có trực giác, nhưng không ai biết bản chất của trực giác là gì. Bản thân Einstein rất nhiều lần nhắc đến trực giác, chứng tỏ ông rất chú ý đến hiện tượng này, rất coi trọng nó, nhưng ông thú nhận rằng ông cũng không biết gì về bản chất của nó. Hãy lắng nghe ông nói.

Tư tưởng về trực giác của Einstein

● “Thứ duy nhất thực sự có giá trị là trực giác” (The only real valuable thing is intuition)
● “Tri thức đóng vai trò thứ yếu trên con đường khám phá. Có một bước nhảy vọt trong ý thức, được gọi là trực giác hoặc gọi thế nào tùy bạn, lời giải đến với bạn mà bạn không biết như thế nào và tại sao… thứ có giá trị thực sự là trực giác” (The intellect has little to do on the road to discovery. There comes a leap in consciousness, call it intuition or what you will, the solution comes to you and you don’t know how or why… the truly valuable thing is the intuition).
albert-einstein-physicist-there-is-no-logical-way-to-the-discovery-of-these● “Tôi tin vào trực giác và cảm hứng… Những lúc đó tôi cảm thấy chắc chắn tôi đúng mặc dù không hiểu tại sao” (I believe in intuition and inspiration… At times I feel certain I am right while not knowing the reason).
● “Tư duy trực giác là một quà tặng thiêng liêng và tư duy lý lẽ là một tên đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội vinh danh tên đầy tớ và bỏ quên món quà tặng” (The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honors the servant and has forgotten the gift).
● “Không có con đường logic để khám phá ra những định luật cơ bản này. Chỉ có duy nhất con đường của trực giác, được trợ giúp bởi một cảm giác về cái trật tự nằm đằng sau vẻ bề ngoài” (There is no logical way to discover of these elementary laws. There is only the way of intuition, which is helped by a feeling for the order lying behind the appearance).
● “Một ý tưởng mới thình lình xuất hiện và đúng ra là theo cách trực giác, nhưng trực giác chẳng là gì ngoài kết quả của những trải nghiệm trí thức trước đó” (A new idea comes suddenly and in a rather intuitive way, but intuition is nothing but the outcome of earlier intellectual experiences).
● “Điều ấy xẩy đến với tôi nhờ trực giác, và âm nhạc là động lực đằng sau trực giác. Khám phá của tôi là kết quả của nhận thức âm nhạc” (It occurred to me by intuition, and music was the driving force behind that intuition. My discovery was the result of musical perception)
Đọc những ý kiến của Einstein, tôi nghĩ ông không chỉ là một thiên tài khoa học, mà còn là một nhà hiền triết thâm thúy và sâu sắc. Tôi ghét triết lý sách vở bao nhiêu thì yêu thích những triết lý thiết thực bấy nhiêu. Triết lý của Einstein về trực giác là những triết lý rất thiết thực, làm sáng tỏ nhiều mảng tối trong nhận thức, đáng để cho người đời suy ngẫm và học hỏi.

Bình luận của PVHg’s Home về trực giác

● Einstein nói “Tư duy trực giác là một quà tặng thiêng liêng…”. Vậy đó là quà tặng của ai? Nếu quà tặng đó là thiêng liêng thì người tặng hoặc nguồn tặng ắt phái rất cao quý, siêu nhiên. Tại sao Einstein không nói rõ? Phải chăng ông tế nhị, tránh va chạm với những người vô thần, vốn rất đông xung quanh ông trong giới khoa học nửa đầu thế kỷ 20?
Như trên đã nói, để mở rộng hiểu biết, ta phải cởi bỏ chiếc áo chật hẹp của chủ nghĩa duy vật, vậy tôi xin mạn phép “làm đầy đủ” câu nói của Einstein như sau:
Tư duy trực giác là một quà tặng thiêng liêng của Tạo Hóa / Tư duy trực giác là một quà tặng thiêng liêng của Chúa…
Người Đông phương thường nói trực giác là cái năng khiếu Trời phú cho. Ta không thấy Ông Trời ở đâu cả, nhưng ta tin có Ông Trời phú cho ta nhiều năng khiếu khác nhau. Tổ tiên chúng ta nói thế, không lẽ tổ tiên chúng ta bịa đặt ư? Người vô thần cũng thường sử dụng chữ “thiên tài” để ca ngợi những tài năng đặc biệt mà họ ngưỡng mộ và tôn kính. Nhưng “thiên tài” là gì nếu không phải là tài năng Trời phú? Vậy cớ sao lại nói không có Ông Trời, không có Thượng Đế. Có người biện bác nói rằng Đức Phật nói không có Thượng đế. Theo tôi, những người này nói sai. Đức Phật không nói thế. Xin các nhà nghiên cứu về Phật giáo lên tiếng.
● Einstein phàn nàn rằng chúng ta đã tạo ra một xã hội bỏ quên món quà tặng. Đó là một lời phê phán nhẹ nhàng, tế nhị. Nếu nói thẳng, nói mạnh, thì phải nói rằng chủ nghĩa duy vật thô thiển đã tước bỏ vai trò của Đấng Sáng tạo, do đó không đề cao vai trò của trực giác. Điều này biểu hiện rõ nhất trong nền giáo dục hiện đại. Phương pháp giáo dục bây giờ nặng về nhồi nhét tri thức, tức là coi trọng “tên đầy tớ”, trong khi sao nhãng hoặc thiếu khả năng đánh thức người học, không biết kích thích trực giác, tức là bỏ quên “quà tặng thiêng liêng”. Kurt Gödel có ý nghĩ gần như Einstein, nhưng nói một cách thẳng thắn hơn, mạnh mẽ hơn, bộc trực hơn: “Chủ nghĩa duy vật là sai lầm” (Materialism is false).
Tóm lại, nếu thừa nhận trực giác tồn tại, thì không thể không thừa nhận sự hiện hữu của Chúa. Bởi trực giác chính là quà tặng thiêng liêng của Chúa.
● Nếu trực giác là thứ duy nhất thực sự có giá trị (mà tôi tin đúng là như thế) thì mọi thứ bằng cấp danh hiệu đều chỉ là những thứ trang sức phù phiếm. Bằng cấp là thước đo tri thức (vinh danh tên đầy tớ), chủ nghĩa bằng cấp và thói háo danh là một biểu hiện của sự vô minh của con người, bởi nó không ý thức được rằng thứ duy nhất có giá trị thực sự là trực giác, quà tặng thiêng liêng của Đấng Sáng tạo.
● Không nên nhầm lẫn khái niệm trực giác với sự suy diễn bề ngoài. Chẳng hạn, quan niệm về biến dị và di truyền của Darwin không xuất phát từ trực giác, mà xuất phát từ suy diễn. Darwin trông thấy những biến đổi nhỏ trong thế giới sinh vật, rồi suy diễn ra rằng những biến đổi nhỏ ấy tích tụ dần trong một thời gian dài hàng trăm triệu năm hoặc hàng tỷ năm để trở thành những biến đổi lớn, biến loài này thành loài khác, tức là tiến hóa. Câu chuyện về cái cổ của hươu cao cổ là thí dụ điển hình cho kiểu suy diễn của Darwin. Nếu phải biện hộ cho Darwin thì có một cách tiện lợi nhất, ấy là đổ hết các sai lầm cho Lamarck, vì thực tế là Darwin đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi quan niệm di truyền sai lầm của Lamarck. Thật vậy, sai lầm vô cùng lớn của Lamarck là ở tư tưởng cho rằng những biến đổi do ngoại cảnh đem lại (biến đổi không bẩm sinh) có thể di truyền cho các thế hệ sau. Thí dụ: Một động vật nào đó chẳng may bị cụt một chân, thì sự biến đổi này có thể di truyền cho thế hệ sau, thông qua đường máu. Darwin đã tiếp thu tư tưởng di truyền sai lầm đó, để từ đó tạo nên lý thuyết chọn lọc tự nhiên – sinh vật có xu hướng chọn lọc những biến dị có lợi, để rồi biến dị ấy được di truyền cho đời sau, tích tụ qua nhiều đời thành một biến đổi lớn. Giới tiến hóa ngày nay đánh lận con đen, gọi những biến đổi trong loài là vi tiến hóa (micro-evolution), và biến đổi lớn, tức biến đổi từ loài này thành loài khác, là tiến hóa vĩ mô (macro-evolution). Thực tế hoàn toàn không có tiến hóa nào cả, dù là vĩ mô hay vi mô. Cái gọi là “vi tiến hoá” chỉ là cách chơi chữ, đặt tên để cứu vãn thuyết tiến hóa. Thực tế đó chỉ là sự biến đổi trong loài, và không hề có sự tiến bộ nào trong những biến đổi này để gọi đó là vi tiến hóa.
● Không nên nhầm lẫn khái niệm trực giác với trí tưởng tượng. Thí dụ, tư tưởng cho rằng sự sống có thể hình thành từ vật chất không sống, mà trong sinh học gọi là lý thuyết sự sống hình thành tự phát (spontaneous generation), là một sự tưởng tượng 100%. Chẳng hạn từ một xác động vật chết ta thấy xuất hiện dòi bọ. Trí tưởng tượng của người Hy Lạp cổ đại cho rằng dòi bọ đã ngẫu nhiên hình thành từ không khí xung quanh xác động vật chết. Trong thế kỷ 19, Louis Pasteur đã chứng minh rằng trí tưởng tượng đó hoàn toàn sai, và ông khẳng định sự sống chỉ có thể ra đời từ sự sống. Đó là định luật nguồn gốc sinh học của sự sống (biogenesis). Nhưng thuyết tiến hóa vẫn tiếp tục theo đuổi lý thuyết sự sống hình thành tự phát, họ biến lý thuyết này thành giả thuyết “nồi soup nguyên thủy”, hay còn gọi là lý thuyết về nguồn gốc sự sống, thậm chí khoác một cái tên kêu hơn, đó là “thuyết tiến hóa hóa học” (chemical evolution). Thực chất, đây là sự ngụy biện cho một trí tưởng tượng ngây thơ từ thời cổ đại.
● Tất cả các nhà khoa học có những đóng góp thiên tài đều có trực giác thiên tài và đều thừa nhận vai trò quyết định của trực giác trong sáng tạo khoa học.
Blaise Pascal gọi trực giác bằng một cái tên văn chương hơn, đó là “lý lẽ của trái tim” (la raison du Coeur). Ông tuyên bố: “Trái tim có những lý lẽ mà lý lẽ chẳng hiểu gì cả” (Le coeur a ses raisons que la raison ne connait point). Pascal không chỉ có trực giác khoa học thiên tài, mà còn có trực giác tâm linh sâu sắc [để biết rõ điều này, xin đọc “Lửa của Pascal” trên PVHg’s Home ngày 16/12/2013]. Với trực giác đó, ông có một đức tin tôn giáo mạnh mẽ, đến nỗi ông cho rằng ai không có đức tin sẽ vô cùng thiệt thòi. Ông nói : « Nếu Chúa không tồn tại, thì dẫu sao bạn cũng chẳng mất gì khi tin Ngài; nhưng nếu Chúa tồn tại, bạn sẽ phải chịu mất tất cả nếu không tin Ngài » (If God does not exist, one loses nothing by believing in Him anyway; While if God exists, one stands to lose everything by not believing). Ông cho rằng biết có Chúa chưa đủ. Phải yêu kính Chúa mới thật sự là có đức tin. Ông nói: “Từ chỗ biết Chúa đến chỗ yêu kính Chúa vẫn còn quá xa” (The knowledge of God is very far from the love of God). Lấy tiêu chuẩn của Pascal làm thước đo, ta có thể nhận xét rằng Einstein tuy có trực giác siêu việt về thế giới vật chất – toàn bộ thế giới vật chất đã được ông tóm gọn trong công thức E = mc2 – nhưng trực giác tâm linh còn thấp. Thật vậy, Einstein tin có Đấng Sáng tạo nhưng không có tinh thần yêu kính Chúa.
Henri Poincaré, một trong những nhà toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại, người từng được mệnh danh là “con quỷ toán học” và “Mozart của toán học”, xác định rất rõ vài trò tiên phong của trực giác trong sáng tạo qua tuyên bố sau đây: “Nhờ logic ta chứng minh, nhờ trực giác ta khám phá” (C’est par la logique que nous prouvons; c’est par l’intuition nous inventons).
Louis Pasteur, người có trực giác thiên tài khi tiên đoán rằng tính bất đối xứng (thuận tay trái) là đặc trưng của sự sống. Sau hơn một thế kỷ rưỡi kể từ khi ông nêu lên nhận định đó, toàn thể giới sinh học đều thừa nhận đó là một định luật của sự sống. Thậm chí ông còn muốn khái quát định luật đó cho toàn bộ vũ trụ, rằng vũ trụ là bất đối xứng. Ông lấy làm tiếc đã không tiếp tục phát triển tư tưởng này đến mức hoàn chỉnh. Hết sức bất ngờ, vật lý hiện đại cũng đi tới kết luận vũ trụ bất đối xứng. Tôi sẽ trình bày vấn đề này trong một dịp khác.
Giới tiến hóa trong thâm tâm rất ghét Pasteur, một phần vì ông là người có tư tưởng tôn giáo sâu sắc, phần khác vì các định luật của ông tự động bác bỏ thuyết tiến hóa. Nhưng họ không có cách nào chống lại định luật sự sống thuận tay trái. Chừng nào không giải thích được tại sao sự sống thuận tay trái thì chừng ấy thuyết tiến hóa sẽ không thể chứng minh được nguồn gốc sự sống. Tuy nhiên Pasteur nhắc nhở chúng ta rằng: “Trực giác chỉ đến với những ai đã dày công chuẩn bị để đón nhận nó” (Intuition is given only to him who has undergone long preparation to receive it). Không thể có trực giác toán học nếu bạn không say mê toán học đến mức hiến dâng sức lực cho nó, thậm chí hiến dâng cuộc đời cho nó. Làm sao có thể có một thiên tài âm nhạc không dâng hiến cuộc đời cho âm nhạc?
● Không chỉ vĩ nhân mới có trực giác. Tất cả chúng ta đều có trực giác, chỉ khác nhau ở mức độ và thiên hướng mà thôi. Có người có trực giác mạnh trong âm nhạc, có người có trực giác mạnh trong toán học,… Kinh tế là lĩnh vực đòi hỏi trực giác rất cao. Nhiều người học hành ít nhưng có trực giác cực kỳ nhạy bén về làm ăn lỗ lãi mà các tiến sĩ kinh tế học không có. Nếu so sánh hai giới, ta thấy dường như phụ nữ có thiên hướng tư duy trực giác nhiều hơn, nam giới có xu hướng tư duy lý trí nhiều hơn, do đó phụ nữ tình cảm hơn và thực tế hơn, nam giới lý luận và viển vông hơn.
6 copyMarilyn Monroe, cô đào điện ảnh nổi tiếng nhất thế kỷ 20, đã nói thay mọi phụ nữ, rằng “Phụ nữ nhận thức bằng trực giác, hoặc bản năng, cái tốt nhất đối với cô ta” (A woman knows by intuition, or instinct, what is best for herself). Vì thế trong nhiều trường hợp, phụ nữ cảm nhận được sự thật nhanh hơn nam giới, hoặc chính xác hơn nam giới. Điều này hoàn toàn trái với quan điểm của Darwin cho rằng phụ nữ kém tiến hóa so với nam giới. Vì thế, mỗi người nên biết rõ điểm mạnh, điểm yếu của mình để hợp tác với cộng đồng, tạo nên một xã hội vững mạnh. Một xã hội tốt là xã hội biết tạo điều kiện để mỗi cá nhân phát huy được điểm mạnh của mình và cùng hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau làm nên một xã hội văn minh và tiến bộ. Vì thế, đề cao quy luật đấu tranh sinh tồn là phản lại xã hội, chống lại con người.
● Trong sáng tạo văn học nghệ thuật, trực giác đóng vai trò cốt yếu đến mức có thể đưa ra một lời khuyên rằng nếu bạn không có trực giác trong lĩnh vực này thì bạn không nên bước vào đó. Trực giác ở mức thấp có thể gọi là năng khiếu. Cao hơn, trực giác có thể tạo ra những khoảnh khắc ngẫu hứng thần kỳ. Trong tiểu sử Ludwig Van Beethoven, tôi nhớ nhất một chi tiết kể rằng, tại một salon quý tộc, Beethoven đã lật ngược một bản nhạc mà trước đó một danh cầm người Pháp vừa biểu diễn. Ông chơi câu đầu tiên của bản nhạc lật ngược đó, tất nhiên đó là một dãy nốt rất vô nghĩa, nhưng từ một chủ đề vô nghĩa ấy, ông bắt đầu biến tấu, sáng tác, vừa chơi vừa sáng tác, vừa chơi vừa biến hóa, thành những nét nhạc kỳ diệu, trước sự kinh ngạc của đám khách khứa có mặt. Hầu như tất cả các nhạc sĩ lớn như Mozart, Beethoven, Chopin,… đều có khả năng sáng tác và biểu diễn ngẫu hứng như thế. Những nghệ sĩ biểu diễn đoạt các giải thưởng âm nhạc quốc tế như Tchaikovsky, Chopin,… cũng là những người có trực giác âm nhạc rất nhạy bén, nhưng có lẽ không thể so sánh với các nhạc sĩ sáng tác bậc thầy. Điều này giới âm nhạc biết rõ hơn ai hết.
Trong hội họa, trực giác của họa sĩ cũng lộ ra rất rõ qua tranh vẽ. Đó là cái mà giới hội họa thường gọi là “cá tính”. Vincent Van Gogh là một trong những họa sĩ biểu lộ cá tính mạnh nhất. Ông nói: “Tôi mơ bức tranh của tôi và tôi vẽ giấc mơ đó” (I dream of my painting and I paint my dream).
2
Giới biểu diễn sân khấu cũng đòi hỏi những phút ngẫu hứng xuất thần. Nếu phải bỏ phiếu bầu một nghệ sĩ vĩ đại nhất của mọi thời đại, tôi không cần đắn đo mà bầu ngay Charlie Chaplin. Chỉ cần một “Ánh đèn sân khấu” (Limelight) của ông là đủ để thấy cái vĩ đại đó. Đó là một câu chuyện cảm động rớt nước mắt nhưng đầy chất nhân bản, chan chứa tình người, tình yêu thương, đem lại cho ta một niềm hy vọng vào cái Thiện, cái Đẹp trong cuộc sống, khuyến khích ta đứng thẳng người lên để sống. Những đoạn hội thoại đầy ắp triết lý nhân sinh. Âm nhạc tha thiết, da diết, thanh khiết, gợi lên một thế giới thanh cao để vươn tới. Khó có giai điệu nào đẹp hơn thế nữa. Ông Calvero trong phim (chính là Chaplin) chơi violin hay đến mức tôi tưởng đó là Nicolo Paganini sống lại. Tất cả đều do Chaplin – một mình ông kiêm tất cả các vai trò quan trọng nhất của một bộ phim: đạo diễn, tác giả kịch bản, diễn viên chính, tác giả nhạc phim, người chơi nhạc cho phim. Nếu không phải là một thiên tài do Chúa tạo ra, liệu có thể có một người chịu khó học hành để thành tài như thế không? Vậy mà Chaplin cũng chỉ được trao tặng một Giải Oscar cho toàn bộ sự nghiệp. Suy ra rằng các giải thưởng chỉ phản ánh được một phần nào sự thật mà thôi. Chỉ có những ai biết rõ tài năng là gì, trực giác là gì, thế nào là một món quà của Chúa, thế nào là một quà tặng thiêng liêng,… chỉ những người ấy mới biết thưởng thức giá trị của các tài năng.
4Để kết phần này, tôi xin trích ý kiến của một diễn viên điển ảnh nổi tiếng trong thấp kỷ 1950-1960. Đó là Ingrid Bergman. Bà nói: “Bạn phải rèn luyện trực giác của bạn – bạn phải tin vào tiếng nói nhỏ nhẹ bên trong bạn, nó nói với bạn một cách chính xác nên nói gì, quyết định gì” (You must train your intuition – you must trust the small voice inside you which tells you exactly what to say, what to decide).

Thay lời kết

Xem thế thì thấy nhà khoa học chân chính và nghệ sĩ chân chính rất giống nhau: họ đều có trực giác nhạy bén để khám phá ra chân lý, cái đẹp và cái thiện. Một cách tổng quát, ta có thể thấy Thuyết Tương đối của Einstein là một tác phẩm nói về Cái Đẹp của Tự nhiên. Cái đẹp ấy không chỉ biểu lộ ở công thức toán học rất đơn giản, cân đối và gọn đẹp của ông, mà còn ở tư tưởng toát ra từ lý thuyết ấy – một tư tưởng bao trùm vũ trụ, giống như một bức tranh hoành tráng mô tả vũ trụ. Ai từng có niềm đam mê ngắm bầu trời đầy sao đều có thể đam mê thưởng thức Thuyết Tương đối Tổng quát, bởi bản chất Cái Đẹp là Một.
Và thú vị thay khi ta thấy Albert Einstein, một bậc kỳ tài trong thiên hạ, lại tỏ ra mến phục và ngưỡng mộ Charlie Chaplin đến mức xin gặp Chaplin bằng được. Chaplin đã nhận lời và hai ông đã gặp nhau. Chaplin đưa Einstein đến phim trường của ông để tham quan. Trên đường đi, Einstein nói với Chaplin: “Ông là một người vĩ đại, vì đã sáng tạo ra những câu chuyện cười ra nước mắt mà ai cũng hiểu”. Chaplin đáp: “Ông cũng là một người vĩ đại, vì đã sáng tạo ra những phương trình không ai hiểu nổi”.
5Câu chuyện trên có nhiều dị bản. Dị bản sau đây có lẽ gần với sự thật hơn, và thú vị hơn:
Einstein: “Điều tôi ngưỡng mộ nhất về nghệ thuật của ngài là ở chỗ ngài không nói một lời nào, ấy thế mà… toàn thế giới hiểu ngài” (What I admire most about your art is that you do not say a word, and yet… the world understands you).
Chaplin: “Đúng thế… nhưng danh tiếng của ngài còn lớn hơn. Toàn thế giới ngưỡng mộ ngài trong khi không ai hiểu ngài” (It’s true… but your fame is even greater. The world admires you, when nobody understands you).
Nhưng dù sự thật chính xác là như thế nào thì hai bậc kỳ tài đó đã gặp nhau – hai tư tưởng lớn gặp nhau. Một người hướng ra vũ trụ ngoài tự nhiên, một người hướng vào vũ trụ trong lòng người, nhưng cùng được nhận món quà thiêng liêng của Thượng đế, thứ duy nhất thực sự có giá trị, đó là TRỰC GIÁC!
Chúc bạn được Chúa ban cho một trực giác tuyệt vời để thưởng thức Cái Đẹp của vũ trụ cũng như Cái Đẹp trong tâm hồn con người!


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thiến sĩ Trần Đình Thiên!



Tân Thái Bá

Viện trưởng Viện Kinh Tế,
Tiến sĩ Trần Đình Thiên,
Nói một câu, tôi đọc,
Suýt nữa thì phát điên:
“Sản xuất ta lạc hậu
Là vì ta hiện nay
Giá điện còn quá thấp.
Thật đáng tiếc điều này”.
Tôi vốn không ít chữ,
Thế mà đành cạn lời.
Chỉ còn biết ghi lại
Để lưu cho muôn đời.
Về phần mình, các bác
Không muốn đọc thì thôi.
Chí ít khỏi ngất xỉu
Hoặc phát điên như tôi.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Loại visa mới đi Úc cho giới trẻ Việt Nam


https://baomai.blogspot.com/
Hàng năm, 200 công dân trẻ tuổi Việt Nam đủ tiêu chuẩn sẽ được cấp thị thực lao động kết hợp kỳ nghỉ để đến Australia

Từ ngày 1/3/2017, Việt Nam và Australia sẽ bắt đầu thực hiện chương trình "Thị thực Lao động Kết hợp Kỳ nghỉ" (visa subclass 462), theo thông cáo của Đại sứ quán Australia tại Việt Nam.

Chương trình hợp tác này cho phép các công dân trẻ tuổi Việt Nam, với độ tuổi từ 18 đến 30, đến Australia trong thời hạn một năm để làm việc ngắn hạn và học tập. Chương trình này cũng cho phép các công dân trẻ tuổi Australia đến Việt Nam làm việc và du lịch.

https://baomai.blogspot.com/

Hàng năm sẽ có 200 ứng viên Việt Nam đủ tiêu chuẩn được cấp thị thực subclass 462 đến Australia và tương tự - 200 công dân Australia đủ tiêu chuẩn sẽ có thể nhập cảnh Việt Nam.

Theo chương trình này, các công dân Việt Nam đủ tiêu chẩn sẽ được lưu trú tại Australia trong thời hạn một năm.

Trong thời gian đó, họ có thể tham gia vào các hoạt động trao đổi văn hóa và du lịch; lưu trú với thời hạn 12 tháng tại Australia kể từ ngày nhập cảnh đầu tiên; làm việc trong thời gian lưu trú 12 tháng, nhưng không quá sáu tháng với mỗi một chủ sử dụng lao động; và học tập không quá bốn tháng.

https://baomai.blogspot.com/

Các ứng viên cũng có thể xin visa subclass 462 lần thứ hai nếu họ đã từng làm việc trong các ngành du lịch, khách sạn, nông nghiệp, lâm nghiệp, đánh bắt thuỷ sản tại lãnh thổ phía Bắc Australia trong ba tháng.

Chương trình Thị thực Lao động Kết hợp Kỳ nghỉ được bắt đầu từ ngày 1/3/2017 và sẽ được mở lại vào 1 tháng Bảy hàng năm.

https://baomai.blogspot.com/

Trong Ngân sách Liên bang 2016-17, chính phủ Australia cho biết sẽ áp dụng thử nghiệm nhiều loại visa mới trong những thị trường quan trọng trong đó có Việt Nam để mời gọi khách du lịch và nhà đầu tư, trang Tin tức Australia cho hay.

https://baomai.blogspot.com/

Được biết chính phủ Australia sẽ sớm đưa ra hình thức visa du lịch nhập cảnh nhiều lần trong 3 năm (three-year multiple entry visa) dành cho công dân của những quốc gia có nguy cơ thấp về di trú trong đó có Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ, và Chile.


Xin visa Mỹ có thể phải khai ‘lý lịch dùng mạng xã...
Vì sao người Việt ở lại Mỹ dù quá hạn visa?

https://baomai.blogspot.com/


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Canada ngừng tiếp nhận Visa công dân Việt Nam


https://baomai.blogspot.com/
Nội các chính phủ Canada: Quyết định ngừng tiếp nhận Visa công dân Việt Nam 2018: Có hiệu lực từ 1/4/2018 với lý do…

Bắt đầu từ tháng 1/4/2018, Việt Nam là một trong năm nước nằm trong danh sách các nước bị xét tư cách lưu trú nghiêm ngặt, không tiếp nhận visa du học sinh, trong ngày hôm nay 10/3/2018 tới, nhiều đơn vị tư vấn du học của Việt Nam đã bị Cục lưu trú Đức từ chối cấp VISA. Nguyên nhân bị từ chối cấp VISA có thể là một trong các nguyên nhân sau:

1. Trường Canada ngữ bảo lãnh cho du học sinh có uy tín thấp:

https://baomai.blogspot.com/

Những trường Đức ngữ có số học sinh bỏ học, phạm tội, cư trú bất hợp pháp trên 10 người sẽ bị xét duyệt nghiêm ngặt, nếu có quá 40 học sinh bỏ trốn sẽ bị tước quyền bảo lãnh. Những trường Canada bị phát hiện bao che cho học sinh làm quá giờ, kê khai không trung thực số giờ lên lớp của du học sinh sẽ bị đưa vào sổ đen.

2. Đơn vị tư vấn du học tại Việt Nam nằm trong danh sách đen của Cục lưu trú Canada:

https://baomai.blogspot.com/  

Những Đơn vị tư vấn du học tại Việt Nam có số học sinh đưa sang bỏ trốn nhiều thì hồ sơ của du học sinh sau này đưa sang cũng bị xét duyệt gắt gao. Do Đơn vị tư vấn du học đó nằm trong danh sách đen của Cục lưu trú Canada, nhiều đơn vị tư vấn đã bị Cục lưu trú Canada loại 100% hồ sơ trong năm 2018. Những Đơn vị tư vấn du học bị phát hiện gian dối hồ sơ, làm giả tài liệu cũng bị đưa vào danh sách đen của Cục lưu trú Canada.

3. Hồ sơ của du học sinh không hoàn hảo:

https://baomai.blogspot.com/

Hồ sơ của du học sinh không đầy đủ, nội dung không thống nhất giữa các tài liệu, dịch thuật hồ sơ không chính xác, văn phong, câu chữ trong hồ sơ dịch thuật “ngây ngô, không theo cấu trúc và câu chữ trong soạn thảo văn bản tiếng Canada”, đây là nhân khiến hồ sơ bị loại.

4. Hồ sơ của du học sinh không đủ điều kiện để đi du học

https://baomai.blogspot.com/

Học sinh có học lực yếu, hạnh kiểm trung bình, số ngày nghỉ học ghi trong học bạ nhiều hơn 15 ngày trong 3 năm học PTTH (cấp 3), học sinh đã đi Tu nghiệp sinh (thực tập sinh) nhưng bỏ về giữa chừng, tu nghiệp sinh (thực tập sinh) về nước chưa được 1 năm, học sinh đã tốt nghiệp các trường PTTH, Cao đẳng, Đại học và ngừng việc học cách đây trên 3 năm, học sinh quá 30 tuổi… đều dễ dàng bị từ chối cấp VISA.

5. Khi Cục lưu trú Canada gọi điện về

https://baomai.blogspot.com/

Học sinh và người bảo lãnh không trả lời, hoặc trả lời không được, hoặc trả lời không thống nhất với hồ sơ đã nộp cho Cục lưu trú Canada thì sẽ dễ dàng bị từ chối cấp VISA.

6. Xuất thân của Du học sinh

Du học sinh xuất thân từ những địa phương có nhiều người đang phạm tội hoặc đang cư trú bất hợp pháp tại Canada sẽ gặp khó khăn khi xét cấp VISA
Kể từ năm 2018 trở đi du học sinh Việt có thể rất khó sang Canada Học tập. 

Vì sao vậy? Vì đây là hậu quả của các bạn đi trước. Bộ tư pháp Canada trong năm 2018 sẽ đóng 50% trường dạy tiếng Canada và sẽ làm chặt hồ sơ của du học sinh Việt như…

https://baomai.blogspot.com/

“Cửa đi Du học Canada 2018 đang đóng lại với người Việt – Do đâu”
Gần đây cục điều tra sự cố của Canada đã chính thức thống kê 2 năm gần đây tình trạng trộm cắp trên cả nước Canada đã tăng vọt, dẫn đầu là các du học sinh Việt và một số nước khác.

Đi du học Canada đối với đa số người Việt chỉ là một hình thức sang Canada vừa đi làm vừa đi học, có nhiều người sang Canada đi làm là chính. Thực tế hiện nay chi phí để đi được quanh 200 triệu, tùy theo trường, tùy khu vực. 

Thứ nhất, Học sinh, sinh viên có thể lựa chọn khóa học phù hợp với điều kiện và khả năng của mình từ một trong hai năm (học tiếng Canada , học nghề, học đại học …). Cùng với việc học, du học sinh được phép đi làm thêm 28 giờ trong tuần với mức lương từ 800 – 1.200 usd một lần (tương ứng với khoảng 22 triệu đồng / tháng). Nhưng hầu hết du học sinh Việt đều làm quá 28h/tuần, điều này có nghĩa đã vi phạm luật của Canada , mà người Canada thì không muốn như vậy.

https://baomai.blogspot.com/

Thứ hai, Trong các ngày nghỉ, kỳ nghỉ lễ, Tết, học viên được phép làm thêm tới 40 giờ /tuần, với số giờ làm này thì thu nhập khoảng gần 40 triệu đồng. Với số giờ làm thêm này sẽ giúp đủ để chi trả tiền ăn ở và đóng học phí ngoài ra còn có thể tiết kiệm gửi về cho gia đình. Khi tốt nghiệp các sinh viên có thể ở lại Canada làm việc hoặc có thể học cao hơn nếu có nhu cầu. Thời gian ở Canada không bị giới hạn. Nếu đi làm tại Canada và đóng thuế từ 5 năm trở lên, bạn sẽ có cơ hội được cấp visathường trú và ở tại Canada , không bị bắt buộc phải trở về nước.

https://baomai.blogspot.com/

Với 2 yếu tố trên đã thu hút được rất nhiều người tìm đủ mọi cách để sang Canada du học. Và từ đây dẫn tới có rất nhiều người sang du học nhưng chỉ chú tâm vào làm việc và dẫn tới các hệ lụy khác, như: thường xảy ra các vụ trộm, cướp trong các lễ, tết, dịp hè…

Điều này làm cho chính phủ Canada bắt buộc phải thắt chặt đối với người Việt đang làm việc và học tập tại Canada, và tiếp tới năm 2018 thắt chặt hơn việc làm hồ sơ xin visa để đi du học Canada .

https://baomai.blogspot.com/


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bắt cả triệu người tin ai đó « tâm thần » là tội ác !




Bắt cả triệu người tin một ai đó "tâm thần" thì chắc chắn là tội ác chứ không chỉ là âm mưu!
  
Mấy ngày qua, từ khóa "tâm thần" được mạng xã hội sử dụng khá nhiều. Có người sử dụng đầy nghi hoặc, có người sử dụng đầy phấn khích. Cũng có người, sử dụng trong trạng thái "đạo đức, thương cảm người thân" nhưng nhìn cho rõ thì đó là một âm mưu không hơn không kém. 

Chuyện không có gì lạ lẫm nữa khi mà việc vu cho một ai đó bị tâm thần hoặc ai đó cũng hơi "không bình thường", người ta lợi dụng vào điều đó để mưu lợi, không hề hiếm ở Việt Nam.

Chắc chúng ta chưa quên một đại gia ở Long An, anh Võ Minh Tuấn - Quyền Giám đốc Công ty Hoàng Gia (huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) - bị một nhóm người xông vào bắt trói rồi tống vào Bệnh viện Tâm thần TPHCM điều trị cưỡng bức. Sau đó, toàn bộ tài sản đứng tên anh đã bị sang tên cho người khác... 

Theo hồ sơ của Công an huyện Đức Hòa, ngày 24.1.2013, anh Võ Minh Tuấn (sinh năm 1982, ngụ ấp Miễu Hội, xã Thạnh Phú, huyện Châu Thành, Tiền Giang) có đơn tố cáo bà Bùi Thị Kim Hoa (SN 1955, ngụ 140 Nguyễn Thị Nhỏ, phường 15, quận 5, TPHCM) lập mưu đưa anh vào bệnh viện tâm thần rồi giả mạo chữ ký, chiếm đoạt toàn bộ tài sản của anh Tuấn. Vụ việc cũng làm đau đầu các cơ quan tố tụng trong một thời gian dài.

Khi bạn tung tin một ai đó bị tâm thần trên diện rộng, chắc chắn không phải là câu chuyện nói chơi hay là một "lo lắng kiểu thầm kín" nữa. Ẩn chứa sau đó không chỉ là một âm mưu mà còn có thể là một tội ác.

Xin kể lại chuyện cũ, khi tôi mới ra trường, có một thời gian tôi làm việc ở báo Sức khoẻ Đời sống. Thời đó, ông Lê Thấu làm Tổng biên tập và có một tay trưởng ban, tên Dũng, rất được vị Tổng biên tập này trọng dụng. Tay Dũng này một tay che trời. Trong ban, có một anh tên Bảo, là dược sĩ, tính tình hiền lành, hơi khờ khờ, viết những bài chuyên môn về dược. Do bị Dũng đè nén nhiều, đôi khi anh Bảo tức giận và chửi thầm Dũng. Chuyện đến tai Dũng và một hôm, Dũng chọc cho anh Bảo phải chử ; ngay lập tức, Dũng gọi Bệnh viện tâm thần vào bắt anh Bảo đi trước sự chứng kiến của nhiều người. Trong đó, có ông Thấu.
Tôi cứ nhớ mãi câu kêu cứu của anh Bảo: "Anh Thấu ơi, cứu em với! Em hoàn toàn bình thường mà! Tại sao anh có thể đứng nhìn thằng Dũng nó hãm hại em như thế".

Anh Bảo vào viện ít ngày thì ra, nhưng từ đó, trong mắt mọi người, anh Bảo là một kẻ tâm thần. Và dĩ nhiên, không ai nhận một kẻ tâm thần vào làm việc. Tôi cho rằng, đó là một vụ việc vô đạo đức và mất dạy nhất trong nghề báo mà tôi đã từng chứng kiến.

Quay trở lại với vụ ông Vũ Trung Nguyên, cá nhân tôi chả ưa gì tay này. Tôi biết, ông này hơi vĩ cuồng. Tôi biết, ông này đã có những hành động mà không phải ai cũng chấp nhận được. Thậm chí tôi cũng biết, tại sao ông - và thêm một số doanh nhân khác ở Việt Nam, có một thời điểm họ cứ tỏ ra hơi "cõi trên", hơi "tưng tửng" khi mà thực sự họ vẫn khôn rách trời chui xuống.

Đọc hai kỳ báo phỏng vấn bà vợ, với những thông tin công khai công luận, tôi thấy rằng bà vợ muốn cho toàn thể bạn đọc biết rằng ông Vũ đang...tâm thần. Bà Thảo làm thế vì mục đích gì thì chỉ có bà Thảo biết. Tuy nhiên, điều dễ dàng nhận thấy, một người tâm thần thì không thể điều hành được tập đoàn và khi ấy phải nhường sân cho người khác "tỉnh táo" hơn. Khớp lại toàn bộ thông tin trong bài, tôi chỉ "à" ra một tiếng.

Xin lỗi, đọc bài này, nếu bạn nào vào đặt mệnh đề "chuyện gia đình người ta biết gì mà nói" thì nên tự xem lại nhận thức của mình, vì tất cả mọi thứ có vẻ người trong cuộc đang muốn dùng báo chí để phơi bày ra, chứ chẳng ai đi vào nhà họ tò mò nữa. Tôi nghĩ, chẳng có thương cảm hay tiếc nuối gì ở đây cả. Và cũng chẳng có tình yêu để mà nhân danh. Nếu logic toàn bộ câu chuyện thì mọi thứ là một phép tính hoàn hảo. Và dĩ nhiên, sau hai màn từ ngôn tình diễm lệ đến bi kịch cuộc đời, thì người ta sẽ phải tin rằng, ông Vũ đang tâm thần, từ chính những lời kể kia.

Bởi vì nếu một người vợ thương chồng hơi không bình thường thì chẳng ai đi làm cái việc là đưa ra những câu chuyện để cả hàng triệu người phải tin rằng người ấy "tâm thần" cả. Và nếu người ấy mới chỉ hơi "tâm thần", bị dư luận chỉ trích và tấn công trên diện rộng, chắc chắn sẽ bị tâm thần nặng thêm mà thôi! Như vậy thì chả có thương xót cái quái quỷ gì đây cả!

Qua bao câu chuyện đau lòng chúng ta sẽ thấy, đòn thù của người thân nếu đem sử dụng với nhau sẽ vô cùng kinh khủng chỉ vì họ hiểu chúng ta hơn bất cứ kẻ thù nào bên ngoài! 

Thị trường cà phê quá rộng và lợi nhuận rất cao. Mất mùa hay mất giá, nông dân có thể điêu đứng chứ người sản xuất và kinh doanh cà phê thành phẩm vẫn không ảnh hưởng, vẫn giàu khủng. Thế nên, miếng bánh cà phê quá ngon lành để người ta có thể phải xóa bỏ một đế chế để xây dựng một đế chế khác. Và trong việc xây dựng đế chế ấy, không loại trừ khả năng sẽ vùi một ông vua vĩnh viễn xuống đáy sâu của những bức tường thành của chính đế chế đó, có khi chỉ vì những việc hồn nhiên giản dị và bi thương để nói rằng, người ấy đang bị tâm thần.

Nếu quả vậy, con người quá ác hơn mức tưởng tượng. Và sự thương cảm, sự cả tin của chúng ta khi được truyền thông dẫn dụ bằng những câu chuyện chưa kiểm chứng, cũng là cách chắp cánh cho tội ác lên ngôi.

FB HOÀNG NGUYÊN VŨ 01.04.2018

Phần nhận xét hiển thị trên trang