Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 6 tháng 1, 2018

VIỆT CỔ: CÁI NÔI CỦA VĂN MINH CHÂU Á


Tao Babe



Tôi sinh ra ở Việt Nam.Khi viết những lời này, tôi suy nghĩ tới ý nghĩa thực sự và sâu sắc nhất của chúng. Ra khỏi cái bóng tối tăm của quê hương tôi trong quá khứ, trộn lẫn sương mù và khói thuốc pháo, tôi hầu như không thể nhìn thấy diện mạo của những người đến trước tôi; những khuôn mặt quen thuộc thoáng qua của một ngàn năm xa vắng; những người tự gọi mình là người Việt Nam.Khói và sương mù trở nên dày hơn, xa xăm hơn, tôi cố gắng nhìn thấu. Sau hai ngàn năm, không khuôn mặt nào còn lại, chỉ có những hình thức mơ hồ. Quá khứ, chỉ có bóng tối. Và nó ở lại ... hàng ngàn năm Bóng Tối.Tôi lớn lên với ý nghĩ, chúng ta chỉ là một phần nhỏ bé của một nền văn minh khổng lồ và mạnh mẽ ở phía bắc, xa hơn rất nhiều trong lịch sử được ghi lại; một nền văn minh đã phát minh ra hàng ngàn điều quan trọng, từ gốm, giấy, lụa. Đối với người Việt Nam, chúng tôi đã được chứng minh là hoàn toàn không có sáng tạo, tích cực gì; xã hội của chúng ta không có kỹ thuật và tiên tiến đủ để có những người khổng lồ tinh thần có khả năng làm những kỳ công như vậy. Tôi nghĩ rằng chúng tôi đã phát minh ra nước mắm, nhưng rồi cũng thất bại trong cuộc tranh luận vì trong lịch sử, người Hy Lạp đã khẳng định trước ý tưởng đó.Người Trung Quốc ở phía Bắc là một quốc gia giàu có và mạnh mẽ mà chúng tôi là những người nghèo khó ở phía nam, những người hầu như trần truồng và đói khát. Tôi lớn lên với suy nghĩ rằng sở dĩ tiếng nói và phong tục tập quán Việt tương tự như Trung Quốc bởi vì chúng tôi đã sao chép chúng, mà không hề có nguyên bản gốc của mình.Tôi rất xin lỗi.
Tôi chỉ có thể xin tổ tiên của tôi tha thứ. Tôi không biết. Làm thế nào tôi biết được? Chúng tôi chưa bao giờ biết sự thật, và sự thật là:
Đất Việt cổ, phía nam sông Hoàng Hà, là cái nôi của nền văn minh châu Á!
Vậy làm sao chúng tôi có thể trở thành cái nôi của nền văn minh châu Á? Rõ ràng, chúng tôi không có các tác phẩm lịch sử ghi lại điều này. Tất cả lịch sử lâu đời và nổi tiếng của chúng tôi đã bị xoá bỏ hơn hai ngàn năm trước và bị đàn áp trong đau đớn và chết chóc. Và ngoài ra, các bài viết lịch sử không phải bao giờ cũng là chứng cứ bởi lẽ mọi người đều biết lịch sử được viết bởi những người chiến thắng và không nhất thiết gần với sự thật.
Không, đây là một tuyên bố phi thường, và như Carl Sagan nói, 'yêu sách phi thường đòi hỏi phải có bằng chứng phi thường.' Vì vậy, với ít tác phẩm lịch sử trưng dẫn này, cái “bằng chứng bất thường của tôi”đến từ đâu? Hai từ-khảo cổ di truyền học và khảo cổ học.
Khảo cổ di truyền học
Hãy bắt đầu với Archaeogenetics (khảo cổ di truyền học), vì nó có các gen để tìm ra những người tạo ra một nền văn minh. Archaeogenetics là một phương pháp tương đối mới để nghiên cứu khoa học quá khứ của con người bằng cách áp dụng các kỹ thuật di truyền phân tử: phân tích ADN thu được từ các di tích khảo cổ học, phân tích ADN từ dân số hiện đại và áp dụng các phương pháp toán thống kê các tài liệu khảo cổ học và vật liệu di truyền.
Phương pháp này gần đây đã có sẵn do công việc đột phá của các nhà di truyền học khám phá bộ gen của con người. Với bản in màu xanh khoa học này, các nhà khoa học đã có thể khảo sát dòng dõi con người từ quá khứ xa xôi và làm sáng tỏ những gì trước đây không rõ ràng.
Đây là tuyên bố công khai mở từ một tài liệu được phát hành vào năm 1992 bởi một nhóm các nhà di truyền học thuộc Hiệp hội Di truyền Hoa Kỳ.
DNA của ty thể (mtDNAs) từ 153 mẫu độc lập bao gồm bảy quần thể châu Á đã được khảo sát về biến thể tuần tự bằng cách sử dụng phản ứng chuỗi polymerase (PCR), phân tích endonuclease hạn chế và lai tạo oligonucleotide.
Tất cả các quần thể châu Á chia sẻ hai hình thái đa dạng sinh học AluIIDdI cổ ở 10394 và 10397 và tương tự về mặt di truyền cho thấy chúng có chung tổ tiên. Sự đa dạng mtDNA lớn nhất và tần số cao nhất của mtDNAs với HfiaI / HincII morph 1 đã được quan sát thấy ở người Việt Nam cho thấy một nguồn gốc Mongoloid Nam của người châu Á.
Tần số đa dạng cao của người Việt Nam và tần số cao của HincII / H # aI morph 1 haplotypes cho thấy phía Nam Trung Quốc là trung tâm của phát tán mtDNA châu Á (BLANC et al.1983) ... Các tần số cao của nhóm haplotype xóa D * mtDNAs ở Đông Nam Á, các hòn đảo Thái Bình Dương và Thế giới Mới ngụ ý rằng những người di cư mang nhãn hiệu này là hậu duệ từ một cộng đồng người sáng lập đơn lẻ. ( Hiệp hội Genetics của Mỹ) * Nghiên cứu kỹ càng của về trình tự gen của họ đã cho thấy một sự thật đáng kinh ngạc: "Dữ liệu cung cấp bằng chứng cho thấy người Việt Nam đa dạng nhất, và do đó, dân số già nhất." * Điều này có nghĩa là (trống vui lòng), lịch sử mà con người liên quan đến chúng ta, thực hiện những lời dạy thầm vì thiếu bằng chứng bằng văn bản, về Đế quốc Việt Nam vĩ đại của chúng ta, thật sự là tất cả.
Khảo cổ học
Bây giờ chúng ta đến với Khảo cổ học. Sách có thể bị đốt cháy và các nhà sử học có thể bị chôn sống để trấn áp sự thật và lịch sử, nhưng số lượng lớn các hiện vật cổ xưa nằm không bị xáo trộn, dưới lòng đất ngàn năm không dễ bị phá hủy như vậy. Với việc khôi phục các hiện vật cũng đi đến sự phục hồi của quá khứ cổ xưa của nhân dân tôi.
Tất cả những gì cần làm là:
1) Xác định di cốt và những thứ khác
2) Niên đại của chúng
3) Ghi lại các vị trí địa chất của chúng
Sự thật sẽ xuất hiện một khi các hiện vật cổ đã được tìm thấy.
Niên đại và vị trí là rất quan trọng bởi vì trước năm 111 TCN, khu vực Nam sông Dương Tử, từ Thái Bình Dương đến biên giới phía đông của Miến Điện, là toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Bản đồ dưới đây cho biết đâu là lãnh thổ của Việt Nam và được gọi là gì. 
Bản đồ này không cho thấy Đài Loan, mặc dù các mô hình di cư cho thấy tổ tiên cổ của tôi đã đi tới đảo đó ít nhất là ba đợt liên tiếp. Làn sóng đầu tiên là vào năm 4.000 trước Công nguyên từ khu vực gần Hòa Bình (trong vùng Bắc Việt Nam hiện nay). Dụng cụ đá và vật liệu di truyền từ các mảnh xương khớp với những vật liệu được tìm thấy từ cả hai địa điểm. Làn sóng thứ hai xuất phát từ khu vực Bắc Sơn (cũng tại Bắc Việt Nam ngày nay) và cũng có các công cụ, rìu, di truyền, vv ... làn sóng thứ ba là đa dạng nhất, đến từ Java và Malaysia. Đợtg cuối cùng này định cư dọc theo khu vực duyên hải miền Trung Việt Nam và tạo nên người Champa ngày nay (mô hình chuyển đổi này sẽ được trình bày kỹ hơn trong bài đăng sau).
Bản đồ cho thấy thời cổ đại Bách Việt (百越 / 百 粵) cổ xưa như thế nào. Thuật ngữ Bách Việt có nghĩa là một trăm bộ lạc người Việt, nối lại câu chuyện cổ đại của Lạc Long Quân và u Cơ, và 100 con của họ sinh ra từ một túi trứng với 100 quả trứng. Mặc dù thần thoại giống như câu chuyện cổ tích của trẻ em nhưng nó là nghiên cứu khoa học về di truyền học xác định sự lan rộng địa lý của người Việt Nam trong khu vực đó chứ không phải trí tưởng tượng kỳ diệu của ai đó về một quá khứ vinh quang mà có thể hoặc không thể tồn tại.
Bất cứ thứ gì tìm thấy trong vùng đó có niên đại trước năm 111 TCN là nguồn gốc Việt Nam vì đó là nơi mà người Việt Nam đã sống hàng ngàn năm trước năm 111 TCN. Vâng, bây giờ là lãnh thổ Trung Quốc và bất cứ điều gì xảy ra sau năm 111 TCN đều có thể được Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, nhưng điều đó không phủ nhận thực tế là người Việt Nam sống ở khu vực đó trước khi bị người Hán chiếm giữ. Điều này có nghĩa là bất kỳ hiện vật cổ nào cũng phải thuộc về người Việt Nam chứ không phải người Hán.
Vì tôi không thể đi vào chi tiết của tất cả các hiện vật khác nhau có nguồn gốc Việt Nam do phạm vi bài viết nhỏ này, bây giờ tôi sẽ tập trung vào gốm sứ. Tôi sẽ cố gắng tìm hiểu chi tiết những khám phá khảo cổ khác trong các bài đăng sau này.
Theo LADIR Dynamics, Phòng thí nghiệm Tương tác và Phản ứng ở Đại học Paris 6, các miếng gốm cổ có từ 4000 năm trước Công nguyên (đã hơn 6.000 năm trước). Trong phân tích của họ, đồ sứ và đồ trang sức đã xuất hiện ở khu vực Đông Nam Á, nơi người Việt đang sinh sống vào thời đó.
Những mảnh gốm cổ nhất (<4000 B.C.) được tìm thấy ở Đài Loan, ở Philippines và ở Việt Nam. Các đồ gốm sứ Việt Nam đầu tiên có từ thời Hùng (700 TCN). Mẫu vật bao gồm từ màu nâu đỏ đến màu be-vàng, từ màu xám đến trắng, và phong cách của chúng rất đơn giản, theo truyền thống Phật giáo. Đồ gốm Celadon xuất hiện với sự độc lập về chính trị, dưới triều Lý (1009-1225) và Trần (1225-1400) và trở nên phổ biến ở Trung Quốc.
Cũng có bằng chứng bằng văn bản về điều này vẫn còn tồn tại ở Mông Cổ theo yêu cầu của Kubilai Khan:
Kubilai Khan, vị hoàng đế Mông Cổ, đã yêu cầu "bát sứ trắng" bao gồm trong cống mà ông hoàng của Việt Nam nợ ông. Các đồ gốm đơn sắc của Lý và Trần được phủ ba loại men (màu ngà, nâu và ngọc bích); chúng bao gồm các bình lớn, bát, đĩa, chén, bình, và có thể được trang trí bằng lá, hoa, động vật, v.v.
Các phân tích cũng xác định loại đất sét, nguyên liệu cùng các kỹ thuật được sử dụng và khu vực địa lý mà đất sét được lấy.
Cấu trúc vi mô của gốm sứ chứa rất nhiều thông tin về các kỹ thuật và vật liệu được sử dụng vào thời điểm đó. Nhờ quang phổ Raman, thành phần có thể được phân tích mà không gây nguy hiểm cho bản thân đối tượng. Có vẻ như đồ gốm Việt Nam có tỷ lệ ôxít sắt tương đối cao, nó giải thích màu sắc của chúng, cũng như oxit kali và đặc biệt là nhôm (> 30%) và phải được nung ở nhiệt độ rất cao. Quang phổ Raman có thể cho thấy sự khác biệt giữa các bản sao hiện đại và cổ đại.
Với tất cả những bằng chứng này, tôi đã nhận ra rằng tổ tiên tôi là một đế quốc hùng mạnh một thời, rộng khắp khắp lục địa Châu Á. Chúng tôi đã có một quá khứ dài và nổi tiếng, đầy những anh hùng vĩ đại và các vị vua hùng mạnh.
Người dân chúng ta lan rộng khắp nơi, di cư đến các vùng đất xa về phía bắc của nước Việt Nam ngày nay. Các gen của chúng ta-máu mẹ của chúng ta chảy qua anh em chúng ta ở phía bắc (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) và phía Nam (Malaysia, Indonesia, Philippines).
Sự thật đau đớn là, chúng ta là một đế chế sụp đổ. Chúng ta đã mất lịch sử, chữ viết, kiến thức, mất cả mối quan hệ máu máu huyết với đất nước chúng ta, thậm chí chúng ta đã mất đi ký ức về vương quốc hùng mạnh đó. Nhưng từ tro tàn, một con phượng mới tri thức sống dậy. Sự thật đã giải phóng tôi khỏi phức cảm tự ti mà tôi thường mang theo từ khi còn nhỏ.
Bây giờ tôi biết rằng chúng tôi đã không sao chép bất cứ ai và chúng tôi không phải là kẻ bắt chước. Kiến thức và trí tuệ của chúng tôi đã được kết hợp chặt chẽ với lối sống Hán, ngôn ngữ và phong tục của chúng tôi, lộn xộn và đồng hóa cho đến khi chúng tôi, những đứa trẻ Việt Nam, thậm chí còn không nhận ra nó là gì, như đã từng thuộc về chúng ta. Nhưng trong động mạch và tĩnh mạch của tôi chảy dòng máu cổ từ một đế chế tuyệt vời và vinh quang. Ngay cả khi tôi là người duy nhất nhận ra điều này, ít nhất trong khi tôi vẫn còn sống, những ký ức về tổ tiên của tôi vẫn còn.
Hầu hết người Hán miền Nam trên thực tế là người lai hoặc người Việt / Yueh hoàn toàn. Máu không bao giờ bị mất vì hầu hết người Hán ở Nam Hàn vẫn có thể cảm nhận được một số kết nối với Việt Nam, Thử nghiệm DNA không nói dối. Miền Bắc Việt Nam không khác biệt với Nam Hán Trung Quốc,


.

CÔ GÁI LÀM SỤP ĐỔ NỀN NGỤY KHOA HỌC

Hà Văn Thùy

.
Bạn tôi, ông Alan J. Patterson, người Canada, là cơ trưởng của Hãng máy bay Boeing. Sau phần đời dài lang thang khắp bầu trời thế giới, ông chọn nơi đậu cuối cùng là Sài Gòn, bên cạnh người vợ Việt Nam quá cố. Ông đang giúp tôi hiệu đính bản tiếng Anh cuốn Viết lại lịch sử Trung Hoa. Ông gửi tôi bài báo của cô gái người Việt ở Mỹ, nhan đề Ancient Việt: Cradle of Asian Civilization. Theo link từ bài viết, tôi vào trang https://taobabe.wordpress.com, gặp cô gái còn rất trẻ có bút danh Tao Babe. Người phương Tây không hiểu nghĩa bút danh này nhưng theo tôi, phải chăng là Bé Tạo hay Con Tạo? Nếu vậy cô bé muốn làm Tạo Hóa? Có thể, vì cô cho rằng mình là người đầu tiên khám phá sự thật về lịch sử dân tộc Việt! Cô bé viết, từ khi còn nhỏ, cô luôn buồn tủi vì được dạy rằng tổ tiên cô bất tài vô dụng không làm nên chuyện gì cho nhân loại. Đồng bào cô sống gần như trần truồng đói khổ bên cạnh Trung Quốc hùng cường với nền văn minh vĩ đại. Nhưng rồi cô là người đầu tiên phát hiện: tổ tiên cô sinh ra các dân tộc châu Á. Toàn bộ nền văn minh phương Đông trước năm 111 BC đều là của người Việt. Khi viết những dòng như vậy, tim cô rộn niềm vui…
Đọc cô, tôi gặp lại mình, vào một đêm tháng Tám năm 2004, choáng váng như say sóng khi biết rằng người tiền sử theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam 70.000 năm trước… Những thông tin gây chấn động. Không chỉ dẫn tới viết lại lịch sử mà còn làm thay đổi vận mệnh dân tộc! Tôi dừng công việc văn chương, tập trung tâm trí tìm về cội nguồn. Từ đó cho ra những tiểu luận và những cuốn sách. Điều lạ lùng là, suốt những năm tháng ấy, tôi nói tiếng Việt giữa cộng đồng người Việt mà như độc thoại cùng sa mạc. Không một học giả nào đáp lại tôi, dù đồng tình hay phản đối. Sách của tôi họ liếc qua rồi vứt xó. Họ khép cửa phòng hì hục sao chép những điều tưởng như tuyệt vời trí tuệ nhưng thực ra là dối trá và ngớ ngẩn! Là những người được đặc tuyển, họ cho mình độc quyền ban phát chân lý! “Hà Văn Thùy ư? Một kẻ ghen ăn tức ở, thấy ông Nguyễn Tài Cẩn quá nổi tiếng thì quậy phá!” Một vị chức sắc trong môi trường Đại học tuyên bố. “Hà Văn Thùy chỉ là một thường dân. Ở phương Tây không có chuyện thường dân phê phán các giáo sư!” Vị giáo sư đại học Mỹ phán. “ Ông ta chỉ cóp nhặt trên mạng về rồi viết nhăng cuội, không đáng tin!” Một vị giáo sư phát biểu. Họ kê cao gối ngủ trên tấm đệm kiến thức bốc mùi. Yên chí lớn: chỉ khi mình mở mắt thì trời mới sáng!
Trong khi đó một cô gái trẻ, tuổi chỉ bằng con cháu họ nói với họ chính những điều Hà Văn Thùy từng nói. Nghe hay không, không còn là việc riêng của họ! Một điều chắc chắn, như giọt nước tràn ly chính cô gái trẻ này sẽ làm sụp đổ nền học thuật dối trá và ngu dân họ đã tạo dựng. Dưới chân cô, những bộ “cuốc sử” mới ra đời hay đương hoài thai trở thành nỗi ô nhục của những người tự xưng là trí thức!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chuyện khẩu hiệu


Nguyễn Thông - Phải nói ngay rằng bây giờ khẩu hiệu đã bớt đi rất nhiều so với mươi năm trở về trước. Dạo ấy, cứ ra khỏi nhà là gặp khẩu hiệu, chứ không phải gặp anh hùng (làm gì còn anh hùng mà gặp).

Khẩu hiệu rợp trời. Ảnh: internet
Một anh lớn hơn tôi vài tuổi, đi Tây đi Mỹ xoành xoạch như đi chợ, không chỗ nào trên thế giới mà anh không tới, thậm chí còn bảo nếu sức khỏe tốt sẽ đi Bắc cực hoặc Nam cực một chuyến cho đã, anh bảo rằng xứ mình là vua khẩu hiệu. Bọn Tây bọn Mỹ nó ít treo khẩu hiệu lắm, chỉ có những doanh nghiệp lớn thì thỉnh thoảng dùng, chứ chính quyền nó không thích thứ này. Đi xuyên bang cả ngàn cây số, nhà cửa phố xá của nó san sát, cấm thấy cái khẩu hiệu nào. Tôi cười nói với bác ấy, tại Mỹ nó đếch có ban tuyên giáo, đếch có bộ 4T, đứa nào giăng mắc kẻ khẩu hiệu ra đường, dân nó tẩn bỏ mẹ.

Xứ ta thì khác. Khẩu hiệu là đặc sản, là nét độc đáo, là sự áp dụng chủ nghĩa Mác sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam. Cứ thử hình dung, một ngày nào đó sáng ngủ dậy thấy vắng bặt hẳn khẩu hiệu, lò mò đi khắp nơi không tìm ra câu khẩu hiệu nào, lại chả phát điên. Nhưng cán bộ, nhà chức việc điên thôi, chứ dân lại chẳng hò reo ăn mừng, tôi chớ kể.

Đành rằng xứ ta khẩu hiệu kẻ vẽ giăng mắc quanh năm chứ chẳng phải xuân thu nhị kỳ, nhưng chúng được mùa nhất vào những dịp đại hội, lễ kỷ niệm, tết nhất, ngày sinh cụ này, ngày chết ông kia. Khắp chợ cùng quê, chỗ nào cũng đỏ ối, vải đỏ bay phần phật, nhìn hoa cả mắt. Ông bà nào thần kinh không vững, bị tiền đình chẳng hạn, có khi ngã sấp mặt gẫy răng bởi khẩu hiệu chứ chả đùa.

Khẩu hiệu là gì? Anh chị nào rành tiếng Anh, biết nó có tên tây là slogan. Đó là một từ, một cụm từ, hoặc một câu ngắn gọn truyền đạt nội dung gì đó, gây ấn tượng với người đọc. Cái hãng bảo hiểm Prudential khi sang xứ ta, nó vẫn lôi theo câu slogan khẩu hiệu nổi tiếng của nó từng dán vào mắt cả mấy tỉ người trên khắp thế giới, dịch ra quốc ngữ ta là: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”. Chỉ 8 chữ tiếng Việt vậy thôi, ối ông bà dù nhà đang nghèo rớt mùng tơi vẫn bị nó dụ, chạy bằng được tiền để cống cho nó. Nó nghe mình, nó hiểu mình, thì mình còn sợ cái gì. Nó chứ có phải chính quyền, chính phủ đâu mà mình nghi ngờ. Prudential thắng ở xứ ta là vậy.

Trong tiếng Việt, khẩu hiệu là từ Hán Việt. Khẩu là cái mồm, mà mồm thì để nói. Một câu nói được xướng lên làm hiệu lệnh, làm chủ trương, đường lối, chính sách, hướng dẫn hành động cho số đông, thì gọi là khẩu hiệu.

Xứ ta, bất kỳ ông bà nào khi ngoi lên được vị trí lãnh đạo là bắt cái mồm hoạt động hết cỡ. Khẩu hiệu cứ phun ra phì phì. Mình không khẩu hiệu, làm sao chúng biết mình là lãnh đạo. Phun xong, sai bọn loong toong, sai nha đi kẻ vẽ khắp mọi bức tường, giăng vải đỏ khắp cột đèn cột điện. Khẩu hiệu nhét đầy các hội trường nơi phố thị, bay về tận vùng sâu vùng xa. Tuyên giáo đã ra tay thì dân có mà chạy đằng trời. Càng đói càng phải đọc khẩu hiệu. Đọc cho quên đói, khỏi đói.

(Còn tiếp, còn dài)
Nguyễn Thông
(FB Nguyễn Thông)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

cạn đáy thực sự



Luân Lê

NGƯỜI NÔNG DÂN CẦM SÚNG

Tôi nói đến hình ảnh này là bởi tôi muốn nhắc đến vụ án đầy ám ảnh và xót xa vừa xảy ra, mà trong sự tuyên phạt sau những nhát búa chát chúa của luật pháp, một người nông dân đã vừa phải nhận lấy một bản án có lẽ là khắc nghiệt nhất và trong sự thiếu đi sự đánh giá toàn diện sự thật khách quan của nó.


Vào năm ngoái, khi xảy ra sự việc nổ súng rúng động tại Đăk Nông, với việc một số người dân làm nương rẫy đã phản kháng lại những hành động côn đồ ngang nhiên từ một nhóm người của công ty đóng vai là chủ đầu tư dự án mà đang có sự nhập nhằng (tranh chấp) về ranh giới, diện tích đất với những người dân nói trên - bằng cách họ đã buộc phải nổ súng khiến 3 người chết và theo thông tin lúc ấy thì cùng 19 người khác bị thương, nhưng sau đó xác định là chỉ có 13 người - ngay tại thời điểm đó, tôi đã có nhận định rằng tranh chấp đất đai chính là nguồn cơn của những xung đột dân sinh, xã hội về lợi ích lớn nhất và cũng là sâu sắc nhất, mà một bên là kẻ có tiền sẵn sàng dùng những gói dự án béo bở thông qua chính quyền thu hồi đất để biến chúng thành những kho vàng vô cùng giá trị, một bên là những người dân thấp cổ bé họng, đơn độc và dường như trong cuộc chiến đó, luật pháp không đứng về phía họ mà nằm trong túi của những kẻ vô lương khác.

Và tôi đã đặt câu hỏi cuối bài viết mang tính tu từ, rằng, câu cảm thán của Chí Phèo gần một thế kỷ trước ngay trước khi hắn chết lại một lần nữa được vang lên đầy ác nghiệt giữa cái thời mà người ta luôn ca tụng với nhau là tươi đẹp, rực rỡ và an bình nhất - ai cho tao lương thiện bây giờ? Nhưng ngày đó tay Bá Kiến cũng chết - tên ác nhân đại diện cho cường quyền, và người khốn cùng nhất của xã hội được duy trì nhờ sự bóc lột hà khắc cũng chết - người bị áp bức và dồn đẩy bởi những bàn tay quyền lực man rợ, ma quái và gớm ghiếc.

Người dân, nếu được bảo vệ dầy đủ và vững chắc nhất các (quyền) tài sản cũng như tính mạng bằng luật pháp theo một lẽ công bình và nghiêm minh nhất, thì chắc chắn đã không thể có câu chuyện hàng trăm hộ dân đang sinh sống và khai thác lợi ích từ những mảnh đất khai hoang và cả được giao quyền hợp pháp để tạo lập, xây dựng cuộc sống phải bị dồn đẩy và dần mất hết những tấc đất vốn như từng phần máu thịt và là nguồn sống quan trọng của họ vào tay của một vài công ty tư nhân nhưng lại thể hiện chúng đầy quyền lực nào đó.

Không những thế, họ không chỉ không thể nắm giữ hay bảo vệ tài sản của mình bằng tư cách một người chủ sở hữu tài sản mà theo Hiến pháp đã quy định, đó là những quyền bất khả xâm phạm cũng như được bảo hộ nghiem ngặt, họ còn bị chà đạp một cách tàn bạo từ những kẻ được sai khiến nhưng hoàn toàn không đại diện cho hay nhân danh pháp luật cũng như lực lượng công quyền. Họ, những người dân nơi đây, đã bị bạo hành, bị đánh đập, ức hiếp, bị hãm hại bằng đủ trò và liên tiếp trong một thời gian khá dài (rất nhiều năm) trước sự thờ ơ (hoặc biết mà không ngăn cản, hoặc từ những đám có quyền mà có lợi ích cùng muốn đám tư nhân vô lương kia thâu tóm) của chính quyền địa phương.




Khi mà cơ quan hành pháp không giải đáp khiếu nại của dân triệt để, khi mà toà án không phân xử những đơn kiện của những người tha thiết van xin và bấu víu vào vạt áo công lý, khi mà những tình trạng người dân phải tự liên kết bằng tất cả những gì nguyên sơ nhất để chống chọi lại những cuộc tấn công bằng bạo lực của những đám côn đồ được bảo kê, thì rõ ràng rằng, những người dân không có lựa chọn nào khác trước sự tấn công bất hợp pháp luôn muốn trực tiếp xâm hại tài sản, thậm chí tước đoạt mạng sống của họ hay người thân họ, thì những quyền năng cơ bản và cũng là quan trọng nhất của một con người là quyền tự vệ được Hiến định và bảo hộ tối cao luôn là thứ có hiệu lực và hữu ích nhất với chính họ.

Những phát súng của người nông dân ấy, nó chỉ được bục phát ra trước tình thế khốn cùng nhất mà không còn lựa chọn nào khác khi những kẻ côn đồ bất chấp bằng mọi cách đang tấn công họ một cách quyết liệt nhất. Dù trong nhiều năm ròng đã nhiều người dân nơi đây phải mất mạng, chịu thương tật, bị đánh đập mà không tìm được sự bảo vệ của luật pháp, dẫu rằng chính người nông dân chân chất buộc phải cầm súng tự vệ đã dùng sự nhân nhượng và chút lương tâm được cân nhắc kỹ lưỡng ở điểm giới hạn cuối cùng của mình mà bắn chỉ thiên để cho đám người hung hãn kia hãy chấm dứt ngay tức khắc những hành động tấn công côn đồ đang áp đảo và bất chấp để đạt mục đích của mình nhắm vào họ. Nhưng chính những kẻ kia đã lựa chọn sự ác nghiệt với bản thân chúng, khi mà chúng đã tiếp tục thực hiện đến cùng hành vi tấn công với mục đích quyết xâm hại sức khoẻ, tính mạng của những người nông dân nhỏ bé và đơn độc kia.

Phiên toà xử người nông dân tự vệ để bảo vệ tài sản và tính mạng của mình, mà làm ngơ cũng như bỏ qua những kẻ ra lệnh cho đám người thực hiện hành vi bạo lực nhằm vào người dân vì mục đích muốn chiếm đoạt tài sản là đất đai của họ, với tội danh giết người cùng với mức án tử hình là một sự kết liễu đau đớn đối với thân phận của luật pháp.

Trước phiên toà, họ không còn gì, chỉ còn chút hy vọng mong manh đầy dè dặt vào việc sẽ tồn tại điều kỳ diệu cuối cùng nào đó sẽ hiện hữu để cứu lấy tất cả những hậu quả nghiệt ngã mà thực chất một phần lớn nguyên nhân khởi tạo nên sự việc này là do sự thờ ơ, bỏ mặc của chính nơi mà nó với vai trò đại diện cho họ để duy trì luật pháp cũng như có nghĩa vụ phải bảo vệ họ.

Về luật pháp, trong việc vận dụng và thực thi trong vụ án này, người ta đã bỏ qua quá nhiều tình tiết quan trọng mà có lợi để giảm nhẹ đúng mức cho một lương tri khốn cùng phải cầm súng tự vệ, để tuyên một cái án tử hình dành cho họ thì quả là một nỗi đau đớn dành cho thân phận của người nông dân, bởi họ chịu quá nhiều những bất công và nơi đáng ra để dẹp bỏ nó lại tước đoạt thân phận của họ thêm một lần nữa.

Những kẻ tham nhũng hàng ngàn tỷ, làm điêu đứng xã hội và tạo ra những bất ổn cho đất nước còn khủng khiếp hơn bội lần những hành vi đơn lẻ vượt quá giới hạn của sự phòng vệ chính đáng, nếu nộp lại 3/4 số tài sản tham nhũng có thể thoát án tử, nhưng người nông dân chân chất lam lũ chỉ mong được sống an bình trong cuộc đời mình phải bứt lên sự phản kháng trước cảnh bị dồn đẩy vào chỗ khốn cùng trong sự làm ngơ của hệ thống đại diện công quyền lại dễ dàng bị tước bỏ mạng sống đến mức mà khiến cho người ta cảm thấy rằng, mọi thứ có lẽ đã cạn đáy thực sự: công lý, luật pháp và cả tình người!

Quyền lực không được kiểm soát là quyền lực bị tha hóa, cuối cùng trở thành cái bẫy cho chính mình

Chuyện Vũ đi Vũ về và kiểm soát quyền lực

Kết quả hình ảnh cho ảnh Cù huy Hà Vũ và Vũ Nhôm?'Phan Van Anh Vu' bị giữ ở Singapore là Vũ 'nhôm' - Ảnh 1



Trang bìa The Power Game
Các ngài TXT, Đinh A#, giờ là Vũ “nhôm”, xưa là bầu Kiên, rồi các đại gia ngân hàng, Vinalines, Vinashin, PetroVietnam… dính pháp lý sau hàng thập kỷ tung hoành nằm ở chỗ quyền lực không bị kiểm soát, trò chơi quyền lực luôn bẩn thỉu.

Một Vũ “đi” là ông Cù Huy Hà Vũ từng nổi đình đám vì những phát ngôn động trời. Cuối cùng bị bắt tháng 11-2010, bị tuyên phạt tù 7 năm, được tha trước thời hạn và bay thẳng sang Mỹ để chữa bệnh.
Vũ “về” là Vũ “nhôm” (Phan Văn Anh Vũ) tên dài có 4 từ như ông họ Cù vừa từ Singapore trở về, bị trục xuất với lý do dùng hộ chiếu giả.
Một là luật sư, một là doanh nhân kiêm sỹ quan an ninh. Cả hai cùng hưởng lộc không nhỏ của chế độ. Một ông sở hữu nhà hai mặt tiền trên đường Điện Biên Phủ và Trần Phú, ông kia sở hữu mấy chục ngôi nhà có giá trị lớn tại Đà Nẵng.
Ông Cù HH Vũ bị bắt do hai bao cao su đã sử dụng, nhưng vài ngày sau thì đã đổi thành “Tuyên truyền chống Nhà nước” theo điều 88.
Ông Vũ “nhôm” chạy trốn và bị truy nã với lý do “cố ý làm lộ bí mật nhà nước”. Hiện chưa rõ “bí mật” đó là gì nhưng việc ông trở về từ Singapore có thể mở ra nhiều loại tội danh khác nhau. Chuyện thay đổi tội danh thuộc tầm…nhân loại.
Ông Cù HH Vũ khởi kiện UBND tỉnh Thừa Thiên – Huế về quyết định cấp phép đầu tư xây dựng dự án khách sạn Life Resort trên đồi Vọng Cảnh và thắng, ứng cử chức Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin, tranh cử Đại biểu Quốc hội, kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đương chức lúc đó, chưa kể các phát ngôn làm báo chí quốc tế cũng phải giật tít “Vũ nói…”
Ông Vũ “nhôm” kín tiếng hơn nhưng có lần được cho là dám chỉ mặt Chủ tịch thành phố Đà Nẵng dọa cho “nghỉ việc” nếu làm trái ý ông ta. Kinh hồn.
Một bên dựa lưng vào sóng dư luận là báo chí và mạng xã hội, một bên dựa vào ai đó thì chưa biết, nhưng nguyên việc sở hữu tới 3 hộ chiếu đủ nói lên bàn tay lông lá của doanh nhân.
So sánh hai nhân vật này là khập khiễng, nhưng việc hai ông Vũ trong tiếng Hán là “mưa” hay “múa”, viết không dấu đều là “mua”, cũng đáng suy ngẫm về thời cuộc.
Ông Vũ “nhôm” là sản phẩm từ thời TT Dũng và ông Nguyễn Bá Thanh Đà Nẵng, dựa vào thế lực để làm giầu. Cù HH Vũ cũng nổi tiếng do thời đó nhưng chọc ngoáy chính quyền.
Nghĩ lại thấy rất có thể Vũ này liên quan đến Vũ kia. Nếu TT Dũng cứ để cho Cù HH Vũ kiện thoải mái, để ông ta phát ngôn với báo chí, và đừng bắt ông ta vì lý do hai bao cao su, trong khi TT tự điều chỉnh chính sách để khỏi điều ong tiếng ve về quốc nạn hối lộ, tham nhũng, lạm quyền, thì chắc chắn không có đứa con của thể chế như Vũ “nhôm” được sinh ra đang làm khó cho những người “gò nhôm”.
Chưa kể “điều tiếng” của Nguyễn Bá Thanh giờ cũng đang được bàn đến vì sự đồn đại về bất động sản khủng mà Vũ “nhôm” đang sở hữu lại có từ thời cụ Bá.
Cù HH Vũ từng đứng ra xin bào chữa cho thiếu tướng công an Trần Văn Thanh. Năm 2009, ông có bài viết “Chánh án Tòa Đà Nẵng lập kỷ lục vi phạm nhân quyền” nói về Tòa án Đà Nẵng vi phạm nhân quyền nghiêm trọng khi đưa tướng công an Trần Văn Thanh đang bị hôn mê ra xét xử với tội danh “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, tập thể và cá nhân” theo Khoản 1, Điều 258, Bộ luật hình sự.
Sau đó Văn phòng luật sư Cù Huy Hà Vũ chính thức nhận lời bào chữa cho Thiếu tướng Thanh nhưng bị gạt vì lý do đã cận ngày.
Ông Cù HH Vũ cho rằng phiên toà xử tướng Thanh “mang hàm ý đe dọa người dân, đe dọa những người chống tham nhũng”. Vụ án này được cho là tạo ra nhằm tiêu diệt tướng Thanh” vì ông chỉ đạo điều tra vụ án tham nhũng liên quan trực tiếp đến cụ Bá Thanh lúc đó là Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng và sau này là bí thư thành ủy Đà Nẵng quyền thế vô biên.
Nếu cùng tướng Thanh chống tham nhũng, cứ để Cù HH Vũ tham gia tranh tụng, rồi cụ Bá và ekip điều chỉnh kịp thời thì những doanh nhân như Vũ “nhôm” vẫn phất lên một cách đàng hoàng, win win từ nhiều phía tại thành phố giấc mơ bên sông Hàn, chứ không phải chạy trốn và bị trục xuất.
Không hiểu thời cụ Bá thì Vũ “nhôm” có quyền thế ra sao, nhưng nếu doanh nhân này nhúng tay vào việc tướng Thanh thì bây giờ ông chả có điều gì hối hận khi ngồi sau song sắt.
Trò chơi quyền lực luôn là thế. Hôm nay anh là hổ gầm thì mai là thỏ trốn trong sợ hãi bởi quyền lực luôn bị thách thức và luân chuyển.
Quyền lực không được kiểm soát là quyền lực bị tha hóa, cuối cùng trở thành cái bẫy cho chính mình. Vũ “mưa”, Vũ “múa” hay Vũ “mua” sẽ kết thúc như nhau bởi thiếu vắng sự kiểm soát.
HM. 6-1-2017

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bia đá chữ Chăm trên cao nguyên xứ Thượng (bài Nguyễn Quang Tuệ)

Giao blog

Bài đã được đưa lên mạng năm 2011.

Cả ảnh và văn là của anh Nguyễn Quang Tuệ - một nhà nghiên cứu gốc xứ Thanh đã sống và lăn lội điền dã ở Tây Nguyên mấy chục năm nay. Một vài lần đã cùng anh đi xe máy cả trăm cây tới những bản làng ở tít xa.

Chép nguyên từ trang của nhóm NQT.

---
















alt
























NQT, PK, sáng 2/6/2010. Tôi đang loay hoay đánh vật với sự học hành muộn màng cuối đời của một kẻ vô tích sự thì chuông điện thoại tỉ ti. Một đứa em ở huyện xa. Hắn hổn hển báo cho thằng anh ham chơi một chuyện li kì chưa từng có: Gần nơi y đang sống bỗng trồi lên một tảng đá bự vuông vức, hai mặt khắc đầy những dòng chữ đều và đẹp nhưng… không ai đọc được. Nghe phát ham, tôi cáo ngay với người có trách nhiệm rằng bản thân có việc cần kíp lắm lắm, không nghỉ không được. Và, vù đến đó…




Tìm vàng trong đá 

Nắng như đổ lửa. Nhưng sự chờ đợi của một nhóm anh em nơi đây còn nóng hơn lửa đổ. Có thể là do năm 2006, tôi và các cộng sự đã tìm ra một cái tháp Chăm ở Krông Pa và bây giờ người ta sẽ khai quật nó, có thể là do đứa em kia thấy mình hay loạng quạng nơi làng xã mà quảng cáo cho anh hơi quá một tẹo? Cho nên hình như, bà con đã vui nghĩ là tôi có thể sẽ đọc được những dòng chữ bí ẩn ấy. Và biết đâu đấy, dưới cái hòn đá lừng lững kia là một… kho vàng. Khi đó, mọi người ắt sẽ giàu có, tất sẽ mua ô tô mà chạy cho mát, chứ nhất định là không phải bán mặt cho đất bán lưng cho trời bất luận nắng mưa như xưa nay nữa. Muôn đời ước mơ vẫn chỉ là mơ ước thôi, chẳng nói ra nhưng không hiểu sao tôi lại tự bỉ mình như vậy…

Rồi thì nhóm anh em chúng tôi cũng đến được nơi cần. Đó là một vạt rẫy khô cằn, cỏ khô lạo xạo dưới chân người. Ở đó, nơi râm mát nhất cũng là nơi có nhiều cành cây gai góc nhất. Và giữa những gai góc rậm rạp ấy là cái hòn đá đứng với những kí tự lạ lùng mà sự háo hức càng khiến tôi thấy nó lạ lùng hơn nữa. Không dám nói mình dốt (dốt phải giấu chứ) nhưng nhìn vào đám chữ đều đẹp và bí ẩn kia, tôi chỉ còn muốn chui xuống đất cho xong. Chữ Chăm! Tôi buột thốt lên rồi lặng im… mắc cỡ. Tôi không có chuyên môn về lĩnh vực này. Tôi đã làm mọi người xung quanh thất vọng, khi tình thật: Cái này thì em xin chịu! Không đọc được chữ, cũng chẳng còn ai màng đến… vàng, dù chỉ là nói đùa cho quên bớt nắng, mọi người nhao đi bứt lá xanh về chà lên đôi mặt của tảng đá kia để những dòng chữ bí ẩn nọ nét hơn khi tôi chụp hình.

















Toàn cảnh khu vực có bia đá. Tấm bia này cao hơn hai mét, chu vi cũng có kích thước tương tự. Hình khối hiện tại của nó cho thấy sự tham gia tạo tác có ý thức của con người. Cả hai mặt bia đều có chữ. Mặt trước có khoảng 8 dòng và mặt sau là 3 dòng chữ khắc chìm trên đá. Các ký tự đã bị mờ đi khá nhiều và bị rêu phủ nhưng nếu sử dụng phương pháp khoa học chắc chắn sẽ cho hiệu quả cao hơn trong xác định nội dung, ý nghĩa của văn bản. Tấm bia này đã thực sự thách thức thời gian nhiều trăm năm và nay thì các kí tự bí ẩn ấy đang chờ đợi sự giải mã của con người hiện đại.

Đang nói câu chuyện lạ lùng chưa từng thấy, lại gặp thêm một chuyện lạ hơn thế nữa. Hóa ra, tấm bia này – nếu có thể gọi như vậy – đã được người đàn ông đang đi chăn bò, 72 tuổi đây biết từ… 1962! Choáng quá! Hóa ra, hồi còn trai tráng, chính cụ Nguyễn Xuân Thành đã cùng cụ Nguyễn Phi (đều ngụ tại thôn Tư Lương, xã Tân An, huyện Đak Pơ, Gia Lai) bạo gan mang dao cuốc đến chỗ này phát phát, đào đào những mong đổi đời. Không thấy gì cả, mấy chục năm sau này có thêm nhiều người thăm và săm soi nữa nhưng cũng không thấy gì, cụ nói. Nay thì ông Nguyễn Phi đã mất, đám rẫy có tấm bia đá nọ đang thuộc quyền khai thác của người con trai ông – anh Nguyễn Thuận. Còn cụ Thành thì vẫn nón lá trên đầu, roi tre trên tay đi chăn bò qua đây mỗi ngày.

alt
Nhân chứng từ 1962 – cụ Nguyễn Xuân Thành
alt
alt
alt
Mặt sau của bia
alt
Từ trái qua: Em Nhật, bạn Nguyễn Hữu Tốn, cụ Nguyễn Xuân Thành, các anh Đỗ Phú Tài và Võ Xuân Thành.





















































































































Bí ẩn hé mở?

Ngay sau khi trở về từ thực địa, tôi đã cố gắng liên lạc với những người bạn Chăm làm nghề nghiên cứu văn hóa. Sự bận bịu của mỗi người đã khiến thông tin phản hồi có bị chậm trễ chút ít. Nhưng cho đến mờ sáng hôm nay, tôi đã nhận được những dòng email đáng yêu nhất, đáng trông đợi nhất. Qua các hình ảnh do tôi gửi nhờ xác minh, bước đầu, một nhà nghiên cứu văn hóa Chăm cho biết: Đây chính là một bia đá sử dụng ngôn ngữ Phạn – Chăm. Niên đại của nó tạm được xác định là vào khoảng thế kỉ 11-12. Anh cũng cho hay, kiểu bia và chữ viết loại này giống với bia đá tại tháp Po Klaong Garai (Pô Klaung Girai) và bia đá Batau Blah (bia Đá Chẻ) cùng ở Ninh Thuận. Do chữ bị mờ nên nội dung văn bia chưa rõ ràng song nhà nghiên cứu cũng cho biết thêm, theo nguyên tắc thì bia Chăm thường ghi lại năm lên ngôi của vua, các sự kiện lịch sử, cuộc dâng cúng của tín đồ, thậm chí có bia còn ghi cả tên nô lệ và số ruộng đất của đền tháp… Và như vậy, bí ẩn về những ký tự cổ trên đá chắc chắn sẽ được tìm hiểu trong một ngày gần đây. Mong rằng thông tin từ bài viết nhỏ này sẽ trở nên hữu ích đối với những ai quan tâm đến vấn đề đang đề cập.

alt
Kiểu bia, chữ viết của bia đá vừa được phát hiện giống với bia đá tại tháp Po Klaong Garai, Ninh Thuận. Ảnh do nhà nghiên cứu văn hóa Chăm cung cấp.


























Đêm nay, tôi thức trắng. Đã suýt nữa định tếu táo vui khi nghĩ mình có chút… công lao. Bỗng nhớ về tấm bia đá trầm mặc giữa núi rừng. Nó đã ở đó cả mấy trăm năm rồi. Mưa nắng. Vui buồn. Trong cô quạnh. Mà đời người chớp mắt. Những dòng chữ kia nói gì? Ngày mai, ngày mai, tôi vẫn phải tin vào những điều bí ẩn…





Nguyễn Quang Tuệ
Theo: pleikucafe


Phần nhận xét hiển thị trên trang