Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 20 tháng 12, 2017

Đài phương tây nói gì về VN:

Dân chủ cho dân hay cho ai nghe Đảng?
RFA 2017-12-18 - Khi họ nói dân chủ đến mọi người dân là những người dân do họ lựa chọn. Những người này có tiếng nói thuận với chính quyền và không trái ý với chính quyền. Còn người dân nào nói trái ý chính quyền tức là những người bất đồng chính kiến thì chính quyền không bao giờ lắng nghe. Đặc biệt họ không bao giờ dám trưng cầu dân ý những vấn đề quan trọng của quốc gia. Điều đó cho thấy họ không có một thiện chí nào để thực hiện tinh thần dân chủ."

Thủ tướng Việt Nam ông Nguyễn Xuân Phúc
Trong phát biểu đọc tại Diễn đàn phát triển Việt Nam 2017 tổ chức tại Hà Nội hôm 13/12 vừa qua, Thủ tướng Việt Nam ông Nguyễn Xuân Phúc có đưa ra 5 giải pháp để tăng năng suất cho Việt Nam. Trong 5 giải pháp được nói đến, có một điểm đáng chú ý mà ông Phúc đưa ra là Chính phủ tiếp tục phát huy dân chủ cho mọi người dân.

Một màu u ám

Trao đổi với RFA, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, hiện đang sống ở Hải Phòng, cũng là thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ, cho rằng ông Nguyễn Xuân Phúc nói muốn phát huy dân chủ chỉ để lấy lòng người dân và các đối tác nước ngoài, nhằm tạo thuận lợi cho các hợp đồng kinh tế:
Thực tế tình hình ở trong nước Việt Nam từ đầu năm đến nay, chính quyền cộng sản họ thẳng tay đàn áp lực lượng đối lập và bài trừ tôn giáo rất mạnh mẽ. Ngay mấy tháng nay khi họ biết rằng Mỹ đã rút khỏi TPP thì họ lại càng thẳng tay đàn áp hơn. Sau khi bắt cóc Trịnh Xuân Thanh và có nguy cơ quan hệ kinh tế, đối ngoại với khối Liên minh châu Âu xấu đi, nhưng các vụ án họ bắt và đưa ra xét xử vẫn rất nặng. Nặng hơn những năm 2006, 2007 hồi chúng tôi bị bắt.
Những tháng gần đây việc bố ráp anh em dân chủ càng nặng nề hơn. Thậm chí việc hành hung, theo dõi anh chị em dân chủ khi họ ra khỏi nhà, mặc  dù họ không làm gì hết mà chỉ ra khỏi nhà thôi cũng đã khó khăn và gắt gao hơn.
Các nhà quan sát và các tổ chức theo dõi nhân quyền đều cho rằng năm 2017 là một trong những năm chính phủ Hà Nội đàn áp mạnh tay nhất đối với giới hoạt động dân chủ. Nhiều thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ bị bắt chỉ trong vòng mấy tuần lễ. Nhiều nhà hoạt động bị tuyên những bản án nặng nề như Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị y án 10 năm tù, bà Trần Thị Nga 9 năm tù và gần đây nhất là nhà hoạt động trẻ tuổi Nguyễn Văn Hóa 7 năm tù giam.
Nhiều nhà hoạt động khác bị hành hung nhằm trả đũa cho tiếng nói kêu gọi dân chủ của họ. Mới ngày 17/12 vừa qua, Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập, ông Phạm Chí Dũng đã bị xe tông khiến ông bị thương nặng. Nhiều người cho rằng đây không phải là một tai nạn bình thường mà là một kế hoạch trả thù ông đã được lập sẵn.
Về tôn giáo, báo cáo tự do tôn giáo 2016 của Hoa Kỳ đưa ra nêu rõ là chính quyền chính quyền Cộng sản Việt Nam tiếp tục hạn chế hoạt động của các nhóm tôn giáo không được công nhận và những người từ các dân tộc thiểu số vẫn bị chính quyền sách nhiễu bằng nhiều hình thức khác nhau, kể cả tấn công hành hung, tạm giam ngắn hạn, truy tố và hạn chế đi lại.
Cách đây vài ngày, giáo dân tại giáo xứ Kẻ Gai, xã Hưng Tân, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An cho biết họ bị chính quyền cùng Hội Cờ Đỏ tấn công và đánh đập khi đang đào một con mương để ngăn nước tràn vào ruộng.
Nhà hoạt động Nguyễn Thiện Nhân ở Sài Gòn cho rằng khi Việt Nam nói phát huy dân chủ là dân chủ trong khuôn phép của Đảng, chứ không phải là dân chủ thực sự:
"Không có một dấu hiệu nào cho thấy sự cởi mở hơn từ phía chính quyền đối với vấn đề dân chủ nhân quyền. Do đó các phát biểu của quan chức mang ý nghĩa định hướng của chế độ. Tức là dân chủ đó theo quan điểm của chế độ chứ không phải là dân chủ thực sự. Đôi lúc họ nói dân chủ được hiểu là dân chủ trong Đảng chứ không phải là dân chủ trong dân.
Khi họ nói dân chủ đến mọi người dân là những người dân do họ lựa chọn. Những người này có tiếng nói thuận với chính quyền và không trái ý với chính quyền. Còn người dân nào nói trái ý chính quyền tức là những người bất đồng chính kiến thì chính quyền không bao giờ lắng nghe. Đặc biệt họ không bao giờ dám trưng cầu dân ý những vấn đề quan trọng của quốc gia. Điều đó cho thấy họ không có một thiện chí nào để thực hiện tinh thần dân chủ."
RFA cũng trao đổi với một số người dân về khái niệm phát huy dân chủ tới mọi người. Nhiều người kêu than rằng quyền lợi chính đáng của họ ngày càng mất đi. Chị Thanh, một người dân tỉnh Bình Phước nói với chúng tôi:
"Em thấy trật lấc, nói thì nói vậy thôi nhưng nó đâu có đúng. Người ta nói quyền dân chủ tự do nhưng tụi em bây giờ thấy mất quyền dữ lắm ạ."
Một người dân khác là chị Ngọc ở Hà Nội lại nói rằng chị yêu dân chủ, và muốn được tìm hiểu dân chủ nhưng lại bị chặn truy cập những trang web về dân chủ. Vì vậy chị phân vân không hiểu Nhà nước muốn phát huy dân chủ đến với mọi người dân bằng cách nào:
"Tôi vẫn nghe thấy nhiều, theo tôi dân chủ là người dân làm chủ một cách thực sự. Từ trước đến nay tôi thỉnh thoảng vẫn lên internet, đài thì không có. Nhưng trên internet thì cũng khó lắm vì những trang mạng có thể tiếp cận với thế giới bên ngoài rất là khó tiếp cập vì thường bị họ chặn."

Con đường dân chủ

Từ bức tranh hiện thực xã hội ở Việt Nam, nhà hoạt động Nguyễn Thiện Nhân khẳng định rằng nếu Nhà nước muốn phát huy dân chủ theo đúng ý Thủ tướng nói thì bước đầu tiên cần cải cách luật pháp:
"Trước tiên phải ban hành những luật đã quy định trong Hiến pháp về quyền cơ bản của người dân và đặc biệt là những quyền quan trọng ví dụ như lập hội, biểu tình, tự do ngôn luận, tự do báo chí,..
Đến bây giờ những quyền cơ bản của người dân vẫn không được luật hóa và thực hiện thì không thể nói đến vấn đề dân chủ.
Những sự kiện vấn đề lớn của đất nước phải được trưng cầu dân ý hay lấy ý kiến rộng rãi trên các tờ báo lớn để thấy lòng dân như thế nào."
Hiện tại các quyền cơ bản của người dân như tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền lập hội, biểu tình,… đều được quy định trong Hiến pháp Việt Nam. Tuy nhiên riêng quyền lập hội và biểu tình có trong Hiến pháp nhưng chưa được quy định trong luật pháp của Việt Nam. Nhiều năm nay, người dân luôn thúc giục Chính phủ phải ban hành luật biểu tình và lập hội để họ được thực hiện quyền của mình một cách hợp pháp nhưng Việt Nam luôn trì hoãn hết lần này đến lần khác. Đầu năm nay, trong một phiên họp Quốc hội, Chính phủ lại một lần nữa “khất” việc ban hành luật biểu tình.
Vì chưa có luật nên nhiều người dân bị bắt thậm chí kết án tù khi tham gia vào các cuộc biểu tình, chẳng hạn như biểu tình chống Trung Quốc hay chống nhà máy Formosa ở Hà Tĩnh. Nhiều hội nhóm độc lập bị đàn áp, trả thù.
Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa đồng ý với quan điểm của nhà hoạt động Nguyễn Thiện Nhân, nhưng ông bổ sung thêm rằng Việt Nam cần ngay lập tức hủy bỏ những điều luật trái với nền dân chủ được Thế giới công nhận:
"Phải bãi bỏ điều luật 79, 88 và 258 và một vài điều luật trái hẳn với quy định của Liên Hiệp Quốc và thậm chí trái với Hiến pháp của Việt Nam.
Thứ hai, là công nhận lực lượng đối lập, các nhà bất đồng chính kiến, phải gặp gỡ và đối thoại dân chủ ở trong nước cũng như lực lượng dân chủ của Việt Nam đang hoạt động ở hải ngoại để tìm ra con đường thực sự ôn hòa cho cả hai bên để đất nước có dân chủ thật sự và xây dựng một đất nước phồn vinh."
Điều 79 Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định tội danh hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, điều 88 là tuyên truyền chống Nhà nước và điều 258 quy định tội Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích quốc gia. Đây là những điều luật Việt Nam thường xuyên áp dụng để quy chụp tội danh cho giới bất đồng chính kiến. Các tổ chức quốc tế đã rất nhiều lần lên tiếng yêu cầu Việt Nam bãi bỏ những điều luật này vì cho rằng chúng quá mơ hồ và vi phạm nghiêm trọng quyền cơ bản của con người.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/pm-wants-to-promote-democracy-in-vn-the-current-situation-and-measures-to-take-12182017134212.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc che giấu quá khứ



Orville Schell

Huỳnh Hoa dịch

Cuộc “cách mạng thường trực” của lãnh tụ đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông đã giết hàng chục triệu người. Từ thắng lợi của phe cộng sản trong cuộc nội chiến Trung Hoa năm 1949, xuyên qua những biến động, nạn đói và những biến cố đẫm máu trong các thời kỳ Đại Nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa cho đến khi Mao chết năm 1976, đảng Cộng sản Trung Quốc đã xúi các bộ phận của xã hội đánh nhau với các bộ phận khác trong nhiều đợt bùng nổ của cuộc đấu tranh giai cấp tàn bạo. Khi làn sóng man rợ này tiếp làn sóng man rợ khác quét qua đất nước Trung Hoa, hàng triệu người đã bị giết, hàng triệu người khác bị đưa vào các trại “cải tạo qua lao động” và bị tiêu diệt.
Mao đã hình dung trước mức độ tàn bạo đó. Có lần ông ta tuyên bố: “Một cuộc cách mạng không phải là bữa dạ hội, không phải là viết một bài văn, vẽ một bức tranh, hoặc thêu một tấm áo. Cách mạng không thể tinh tế như thế, nhàn nhã như thế, lịch thiệp, ôn hòa, tử tế, nhẫn nhục và cao thượng như thế. Một cuộc cách mạng là một cuộc nổi dậy, một hành vi bạo lực mà một giai cấp tiến hành để lật đổ một giai cấp khác”.

Ngày nay, ngay những chuyên gia về lịch sử Trung Quốc cũng khó mà dõi theo tất cả những “phong trào quần chúng” đẫm máu đã định hình cuộc cách mạng của Mao - những sự kiện mà đảng [Cộng sản Trung Quốc] thường xuyên tán tụng bằng nhiều khẩu hiệu khác nhau: sau khi những người Cộng sản giành được quyền lực năm 1949, Mao tiến hành hàng loạt chiến dịch để “xóa bỏ địa chủ”; để “trấn áp bọn phản cách mạng” vào đầu thập niên 1950; tiêu diệt bọn “hữu khuynh” cuối thập niên 1950; lật đổ bọn “tàn dư của chủ nghĩa tư bản” trong cuộc Cách mạng Văn hóa cuối thập niên 1960; và để “chỉnh huấn” tư tưởng của thế hệ trẻ qua việc gửi thanh niên xuống các vùng nông thôn nghèo khó nhất trong Phong trào đi về nông thôn cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970. Những lời lẽ hoa mỹ về ý thức hệ đã che lấp sự cực đoan tàn bạo của những hành động chính thức, qua đó đảng cho phép hành hạ, thậm chí thủ tiêu vô số “các phần tử phản cách mạng” đủ mọi loại. Một trong những tuyên bố đáng chú ý nhất của Mao là “đảng chỉ huy súng, súng không bao giờ được phép chỉ huy đảng”. Rất lâu sau khi Mao qua đời, những người kế vị ông ta vẫn thực thi truyền thống đó, rõ nhất là trong vụ thảm sát ở quảng trường Thiên An Môn và cuộc đàn áp tiếp sau đó mà đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành để đối phó với những cuộc phản đối hòa bình năm 1989, dẫn tới không biết bao nhiêu người chết và bị thương.

Ngày nay, Trung Quốc có một giai đoạn tương đối ổn định. Đảng Cộng sản Trung Quốc đang đề cao tầm nhìn về “xã hội hài hòa” thay thế cho đấu tranh giai cấp, tán dương sự giàu có tiện nghi thay cho bạo lực thanh tẩy. Những người không quen thuộc với đất nước này có thể được thông cảm khi họ phỏng đoán rằng nó đã hòa giải với quá khứ gần đây và đã tìm được phương thuốc chữa lành vết thương để tiếp tục đi tới.

Hoàn toàn không phải như vậy. Trong thực tế, một du khách lang thang trên các đường phố của bất kỳ thành phố Trung Quốc nào hôm nay đều không tìm ra được một tấm biển ghi dấu địa điểm từng diễn ra những cuộc bố ráp và bắt bớ đám đông, không một bức tượng nào ghi nhớ những nạn nhân bị hành hạ, không đài tưởng niệm nào được dựng lên để tôn vinh những người đã bị tiêu diệt sau khi bị xếp loại là “kẻ thù giai cấp”. Mặc cho tất cả những cái chết, những nỗi thống khổ về tinh thần và thể xác mà đảng Cộng sản Trung Quốc đã gây ra, đảng không bao giờ công bố một lời thừa nhận chính thức về các tội lỗi đó, nói gì tới việc cho phép nhân dân ghi nhớ hoặc tưởng niệm các nạn nhân của đảng. Và, bởi vì mọi sự hối hận và xin lỗi đều có nguy cơ xói mòn tính chính danh của đảng, hủy hoại độc quyền cai trị của đảng, nên không có một hành vi tưởng nhớ hay xin lỗi nào có thể diễn ra chừng nào đảng Cộng sản Trung Quốc còn nắm giữ quyền lực.

ĐƯỢC VIẾT (LẠI) BỞI NGƯỜI CHIẾN THẮNG

Mặc dù đảng [Cộng sản Trung Quốc] đã có những thành công thật sự ấn tượng trong công cuộc lèo lái sự phát triển kinh tế Trung Quốc, đưa đất nước này lên vị trí cường quốc toàn cầu, đảng vẫn hết sức bất an và dễ bị tổn thương, có lẽ bởi vì các lãnh tụ đảng vẫn ý thức một cách đau đớn về những món nợ lịch sử của đảng. Ban Tuyên giáo trung ương đảng – cùng với vô số cơ quan nhà nước khác có nhiệm vụ kiểm duyệt báo chí truyền thông và bảo đảm tất cả các tài liệu giáo dục đều theo đúng đường lối của đảng – đã phong tỏa nhiều khu vực rộng lớn của quá khứ Trung Quốc. Nhiều hậu quả nghiêm trọng đã sinh ra từ cuộc thao túng những gì được coi là nền tảng của bản sắc dân tộc, những DNA của lịch sử.

Duy trì một phiên bản lịch sử “đúng đắn” không chỉ đòi hỏi phải có sự kiểm soát toàn trị mà còn triệt tiêu khả năng của người dân Trung Quốc trong việc khám phá, tranh luận, nhận thức và hòa giải với ý nghĩa đạo đức của những gì đã gây ra cho họ và những gì họ bị buộc phải làm cho chính họ và cho người khác.

Nhiệm vụ “chỉnh sửa” hoặc bôi xóa hoàn toàn nhiều mảng quá khứ của đất nước là hết sức tốn kém và mệt mỏi. Giáo sư Glenn Tiffert, một học giả về Trung Quốc tại Đại học Michigan gần đây đã làm rõ một trường hợp cho thấy con đường dài mà các quan chức tuyên truyền của Trung Quốc đã phải trải qua. Thông qua một cuộc tìm kiếm bền bỉ, ông phát hiện ra rằng hai kho lưu trữ kỹ thuật số - gồm Hạ tầng kiến thức quốc gia Trung Quốc (China National Knowledge Infrastructure) liên kết với Đại học Thanh Hoa (Tsinghua), và Cơ sở dữ liệu khoa học xã hội quốc gia (National Social Science Database) được chính phủ Trung Quốc tài trợ - đã mất cùng một tập tài liệu gồm 63 bài viết đã đăng trên các tạp chí nghiên cứu pháp luật bằng tiếng Trung Quốc từ năm 1956 đến 1958. Những bài báo này từ lâu đã có sẵn ở cả hai kho lưu trữ nói trên nhưng đã biến mất một cách khó hiểu. (Tiffert không biết chắc việc xóa bỏ chúng xảy ra khi nào). Ông phát hiện ra một số học giả nào đó, đặc biệt là những người bị ảnh hưởng của phương Tây và không tán thành đường lối chính trị thường xuyên thay đổi của đảng, là những người mà bài viết của họ gần như luôn bị xóa bỏ.

Cũng trong thời gian này, một số chủ đề nào đó, chẳng hạn như “sự vượt trội của luật pháp so với chính trị và giai cấp, nguyên tắc suy đoán vô tội, tính kế thừa của luật pháp”, và một số thuật ngữ, chẳng hạn như cụm từ “nhà nước pháp quyền”, “các yếu tố hữu khuynh”, cũng bị coi là lý do để bài viết bị xóa bỏ. Đáng chú ý là, có một sự đồng nhất kỳ lạ trong số các cây bút và các chủ đề bị xóa bỏ.

Ngoại trừ một vài tổ chức nghiên cứu giáo dục nước ngoài còn lưu giữ bộ sưu tập các bản in của các tạp chí ấy, người dân Trung Quốc và thế giới đã không còn được đọc các bài viết như vậy. Công cuộc thao túng còn hiểm độc hơn vì “ngay cả cung cách nghiên cứu đúng đắn cũng không thể tự bảo vệ được mình”, như Tiffert chỉ ra. “Trái lại, các học giả càng trung thành với các nguồn tài liệu đã bị kiểm duyệt, càng có khả năng họ vô tình quảng bá cho các thành kiến, các chương trình của người kiểm duyệt và để cho những người này sử dụng cái thẩm quyền độc lập có được từ danh tiếng chuyên môn của họ”.

Như ông Phương Lập Trí (Fang Lizhi), một nhà vật lý thiên văn và trí thức bất đồng chính kiến của Trung Quốc, viết năm 1990 về những cuộc tấn công do nhà nước bảo trợ vào ký ức lịch sử của Trung Quốc:

“Mục tiêu [của chính sách] này là cưỡng bức toàn xã hội phải quên đi lịch sử của mình, và đặc biệt phải quên đi lịch sử thật của chính đảng Cộng sản Trung Quốc... Trong nỗ lực ép buộc toàn xã hội vào một sự lãng quên liên tục, chính sách này đòi hỏi mọi chi tiết của lịch sử không phù hợp với lợi ích của đảng Cộng sản Trung Quốc đều không được thể hiện trong tất cả các phát ngôn, sách vở, tài liệu và các phương tiện truyền thông khác”.

Ông Phương viết những lời này chỉ ngay sau cuộc thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn, khi ông bị kẹt trong đại sứ quán Hoa Kỳ và đảng Cộng sản Trung Quốc đang tiến hành một trong những nỗ lực táo tợn nhất trong việc xóa bỏ lịch sử - nói đúng ra là quét sạch mọi dấu vết của tội ác mà đảng vừa tiến hành, khỏi các kho lưu trữ, sách báo và truyền thông điện tử. Vụ kiểm duyệt này thành công đến nỗi vào năm 2004, nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc, sau này là người nhận giải Nobel Hòa bình, ông Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo) phải than thở rằng mặc dù “người dân Trung Quốc lục địa đã chịu đựng nhiều thảm họa không thể hình dung nổi sau ngày Cộng sản chiếm được quyền lực…, nhưng thế hệ sau Thiên An Môn lại không có ấn tượng sâu sắc nào về các thảm họa ấy và không có kinh nghiệm trực tiếp về sự đàn áp của nhà nước cảnh sát”. Mười năm sau nữa, nghệ sĩ Trung Quốc Ngãi Vị Vị (Ai Weiwei) nói thẳng hơn: “Bởi vì không có cuộc tranh luận nào về những biến cố này cho nên người Trung Quốc vẫn chỉ hiểu biết rất ít về hậu quả của chúng. Kiểm duyệt đã có tác động làm trung hòa (neuter) xã hội, cải biến nó thành một thực thể bị tổn hại, phi lý tính và không mục đích”.

Bằng cách này, Trung Quốc đã trở thành nước “Cộng hòa nhân dân Quên lãng” (People’s Republic of Amnesia) nói theo từ ngữ của Louisa Lim, cựu phóng viên đài BBC và NPR tại Bắc Kinh, người đã dùng cụm từ đó làm nhan đề một cuốn sách xuất bản năm 2014 của bà. Trong sách này, Louisa viết: “Một hành động ghi nhớ đơn lẻ của công chúng cũng có thể phơi bày tính mong manh của cái cấu trúc về lịch sử được nhà nước xây cất cẩn thận, được dựng trên cả một thế hệ và giữ cho đứng vững nhờ một kết cấu giữa sự kiểm duyệt nghiêm ngặt, sự dối trá trắng trợn và sự lãng quên ngoan cố”.

SỎI ĐÁ LÊN TIẾNG

Nhưng việc ghi nhớ tập thể những giai đoạn lịch sử đau buồn liệu có thật sự là điều tốt hơn cho các xã hội và cộng đồng hay không? Liệu việc nhìn lại quá khứ như vậy có làm mở miệng những vết thương cũ, làm sống lại những cuộc đấu tranh chém giết của ngày xưa hay không? (Đây là những lập luận mà nhà văn David Rieff biện bạch trong cuốn sách gần đây của ông, In Praise of Forgetting) (Ca tụng sự Lãng quên). Đảng Cộng sản Trung Quốc muốn thần dân mà họ cai trị - và phần còn lại của thế giới – chấp nhận những lập luận như vậy và tin rằng, lảng tránh sự thật tàn ác của quá khứ là con đường tốt nhất để chữa lành vết thương.

Tuy nhiên, một trào lưu tư tưởng hoàn toàn khác đã nổi lên từ kinh nghiệm của Đức quốc trong việc đối mặt với các tội ác của chế độ Quốc xã. Người vạch lộ trình cho công cuộc chuộc tội của Đức là nhà triết học và phân tâm học Karl Jaspers; từ năm 1945 ông đã trình bày hàng loạt bài giảng có ảnh hưởng lớn ở trường Đại học Heidelberg, sau này được tập hợp thành cuốn sách nhan đề The Question of German Guilt (Vấn đề tội lỗi của Đức). Jaspers cho rằng, dù những gì đã xảy ra dưới thời Adolf Hitler “giống như một sự biến thái của con người”, người Đức vẫn phải “chịu trách nhiệm tập thể”. Tất cả những “người nào biết tới, hoặc có thể biết” - kể cả những người đã nhắm mắt bịt tai trước các biến cố, hoặc tự cho phép mình bị đầu độc, bị cám dỗ, bị mua chuộc bằng lợi lộc cá nhân, hoặc tuân lệnh vì sợ hãi” – đều phải chia sẻ trách nhiệm. Ông tuyên bố, “nhiệt tình vâng lệnh”, và “sự tuân thủ không điều kiện chủ nghĩa dân tộc mù quáng” đã cấu thành “tội lỗi đạo đức”. Con người, theo Jaspers, phải chịu trách nhiệm “với mọi ảo tưởng dối lừa mà chúng ta quy phục”. Ông đặt niềm tin vào việc chữa lành vết thương thông qua “sự vun trồng sự thật” và “thực hiện cải thiện” – một tiến trình mà ông tin rằng phải hoàn toàn độc lập với mọi hoạt động tuyên truyền hoặc thao túng của nhà nước.

Ông tuyên bố: “Không có câu hỏi nào là không thể đặt ra; không có gì được coi là hiển nhiên một cách ngớ ngẩn, không có lời nói dối nào về cảm xúc hoặc thực tế được coi là cần phải bảo vệ và không được đụng chạm tới”. Theo quan niệm của Jaspers, chỉ có thông qua nhận thức lịch sử thì người Đức mới có thể hòa giải với quá khứ của họ và tự hồi phục sức khỏe tinh thần và xã hội.

Cách tiếp cận của Jaspers chịu nhiều ảnh hưởng của lý thuyết phân tâm học và trước tác của Sigmund Freud. Đối với Freud, tìm hiểu quá khứ của bệnh nhân cũng giống như “khai quật một thành phố bị chôn vùi”, như ông viết vào năm 1895. Thật vậy, Freud rất thích trích dẫn một câu ngạn ngữ Latin, saxa loquuntur, nghĩa là “Đất đá lên tiếng”. Một ngành khảo cổ học tinh thần như vậy rất quan trọng với Freud bởi vì ông tin rằng quá khứ bị đè nén tất yếu sẽ gây ra cho hiện tại và tương lai các chứng loạn thần kinh chức năng, trừ phi có một tiếng nói của ý thức giúp lấp đầy cái mà ông gọi là “khoảng trống ký ức”. Theo nghĩa này, lịch sử và ký ức là đồng minh của Freud, lãng quên là kẻ thù của ông.

Mao cũng say mê lịch sử, nhưng ta ông có một cái nhìn về lịch sử thực dụng hơn rất nhiều: với ông, sử sách chủ yếu để phục vụ cho việc củng cố các lý thuyết cải tạo xã hội của ông. Các sử gia độc lập tham gia vào việc khám phá quá khứ theo phương cách tự do là những người đại diện cho một mối đe dọa sâu sắc và dưới thời Mao, nhiều người trong số họ đã bị mất việc, bị cáo buộc “phản cách mạng”, bị đưa đi “cải tạo tư tưởng” ở các trại cưỡng bức lao động và trong nhiều trường hợp, bị ngược đãi đến chết.

LỊCH SỬ NGUY HIỂM

Do Tập Cận Bình thích chủ nghĩa Mao mới (neo-Maoist) cho nên đừng ngạc nhiên khi thấy ông chủ tịch Trung Quốc hiện nay cũng coi các học giả độc lập như là những người truyền bá nguy hiểm những gì mà báo chí nhà nước Trung Quốc gọi là “chủ nghĩa hư vô lịch sử” (historical nihilism). Năm 2015, tờ nhật báo quân giải phóng nhân dân (People’s Liberation Army Daily) cảnh báo rằng Trung Quốc “phải cảnh giác” chống lại những thế lực thù địch như vậy, bởi vì giờ đây họ “đang gieo rắc từ lĩnh vực hàn lâm sang văn hóa trực tuyến… những ý tưởng đồng bóng đang làm lệch lạc những tư tưởng lịch sử và dẫn đi sai đường”.

Tiffert vạch ra những gì sẽ xảy ra khi các sử gia Trung Quốc vấp phải các nhà kiểm duyệt của đảng. Ông viết rằng, họ sẽ đương đầu “với hàng loạt biện pháp trừng phạt từ thấp đến cao, bao gồm việc bị nhà cầm quyền sách nhiễu, cơ sở xuất bản bị đóng cửa, tài khoản trực tuyến bị xóa, những vụ điều tra mang tính nhục mạ vào công việc cá nhân, hoạt động kinh doanh và tình trạng đóng thuế, và cuối cùng là thất nghiệp, bị trục xuất hoặc bị xử tội hình sự”. Năm ngoái, luật pháp dân sự Trung Quốc thậm chí còn được sửa đổi để trừng phạt “những người vi phạm tên tuổi, sở thích, danh tiếng hoặc danh dự của một anh hùng, liệt sĩ, vân vân, gây hại cho lợi ích công cộng của xã hội”, Tiffert viết và giải thích tại sao “các trí thức và nhà hoạt động trước kia từng lên tiếng nói thì nay đều im lặng”.

Tiffert còn tường thuật rằng “chính phủ Trung Quốc đang sử dụng đòn bẩy công nghệ để lén lút xuất khẩu chế độ kiểm duyệt quốc nội của họ ra nước ngoài… bằng cách thao túng cách thức mà các quan sát viên ở khắp nơi nhận thức về quá khứ, hiện tại và tương lai của Trung Quốc”. Thật vậy, mùa hè vừa qua, Bắc Kinh đã dọa nạt nhà xuất bản Cambridge University Press, buộc họ phải thanh lọc kho lưu trữ kỹ thuật số của tờ The China Quarterly– một tạp chí học thuật quan trọng bằng tiếng Anh – loại bỏ khoảng 300 bài báo đã đăng trên tạp chí này mà đảng Cộng sản Trung Quốc phản đối vì chúng có thể được tìm thấy trên mạng ở Trung Quốc. (Vài ngày sau, nhà xuất bản đã đảo ngược quyết định sau khi nhiều cơ quan truyền thông đưa tin về vụ đầu hàng của họ). Thế rồi đến tháng 11, nhà xuất bản Springer Nature – nơi xuất bản các tạp chí khoa học như Nature và Scientific American, đã xóa khỏi các trang mạng tiếng Trung Quốc của mình một số lượng lớn các bài báo có chứa những dẫn chiếu nhạy cảm về chính trị - tất cả có hơn 1.000 bài báo như vậy đã bị xóa, theo tờ Financial Times.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có vẻ tin rằng họ có thể thoát khỏi cái lịch sử đã bị đảng của họ bóp méo mà không bị trừng phạt, ít nhất là trong ngắn hạn – và có thể họ đã đúng. Dù sao, những tiến bộ kinh tế của Trung Quốc và sự nổi lên của nước này như một cường quốc toàn cầu quan trọng dường như đã không bị ngăn trở, ít nhất là tới lúc này. Đảng Cộng sản Trung Quốc đặt cược rằng, họ có thể che giấu, hoặc ít ra cũng có thể lẩn tránh, những thiệt hại lâu dài mà họ đã gây ra cho nhân dân Trung Quốc bằng cách đơn giản là bôi xóa lịch sử.

Nhưng việc giấu diếm tội ác của quá khứ cứ cựa quậy bên cạnh giáo lý của đảng Cộng sản Trung Quốc rằng, không có cái gọi là “những giá trị phổ quát” luôn luôn đồng hành với dân chủ và nhân quyền, mà đảng coi là những thứ phương Tây lén lút đưa vào Trung Quốc để làm suy yếu hệ thống chính trị chuyên chế độc đảng của nước này. Theo quan điểm này, con người không có thiên kiến chung chống lại những thứ như khủng bố, bức cung, tra tấn bằng nhục hình, đàn áp bằng bạo lực; không có khát vọng chung căn bản về tự do, về tự do biểu đạt, tự do lập hội và tự do tín ngưỡng; cũng không có mong muốn được sống trong một thế giới mà những bất công cuối cùng sẽ có thể được đền bù.

Tuy nhiên, nếu điều đó là đúng thì đảng không có lý do gì phải sợ một cuộc giải trình thành thực về quá khứ. Dù sao, nếu những giá trị phổ quát không tồn tại thì những cuộc tấn công của Mao vào những người phê phán và các kẻ thù của ông ta sẽ không phải là một tội lỗi nghiêm trọng. Và thế thì tại sao đảng Cộng sản Trung Quốc phải trăm phương ngàn kế tìm cách che giấu sự thật về những hành động như vậy – một mâu thuẫn cho thấy điều gì đó giống như một sự cắn rứt lương tâm hoặc ít ra là một sự bối rối nếu sự thật được phơi bày. Nếu quả đây là trường hợp của Trung Quốc thì có thể một chế độ nào đó trong tương lai của nước này sẽ phải tìm cách công nhận, thậm chí hòa giải với quá khứ trong chiều kích đầy đủ của những gì mà đảng Cộng sản đã làm cho Trung Quốc – chuyện xấu cũng như chuyện tốt. Tuy nhiên, điều đó dường như không thể xảy ra trong tương lai gần.

Sau phong trào Bức tường Dân chủ ở Trung Quốc năm 1978-1979, trong đó hàng chục ngàn người dân Bắc Kinh đã tụ tập trước một bức tường gạch không có gì nổi bật để treo lên đó các bích chương chính trị, đọc các bài diễn văn và tổ chức các cuộc tranh luận chính trị, các nhà văn Trung Quốc đã bắt đầu chú ý tới nhiều thập niên đàn áp chính trị ở đất nước họ. Tác phẩm của các nhà văn này được nói tới như là “phóng sự điều tra”, hoặc “văn học vết sẹo”. Nhưng những cuộc tự vấn như vậy đã kết thúc sau năm 1989, và từ khi ông Tập Cận Bình lên cầm quyền, năm 2012, một bức màn kiểm duyệt thậm chí còn nặng nề hơn đã vùi Trung Quốc ngày càng sâu vào tình trạng mù lịch sử. Một nghiên cứu gần đây của dự án Truyền thông Trung Quốc thuộc Đại học Hong Kong, đã tìm kiếm trong 140 xuất bản phẩm trong nội địa Trung Quốc những bài báo về cuộc Cách mạng Văn hóa – một giai đoạn kéo dài 10 năm trong đó hàng triệu người trung lưu Trung Quốc đã bị hành hạ, bị thảm sát vì “có lý lịch giai cấp xấu”. Các nhà nghiên cứu chỉ tìm thấy 3 bài báo dám đào sâu vào chi tiết của thập niên ấy. Đi tìm những xuất bản phẩm trình bày chủ đề này một cách toàn diện hơn “sẽ có nghĩa là tìm tới rủi ro một cách ngu ngốc”, các tác giả báo cáo của dự án viết.

Và cho dù một công trình nghiên cứu như vậy một ngày nào đó lại được chào đón ở Trung Quốc thì tác động của nó có lẽ sẽ không gây ấn tượng nhiều, bởi vì quá nhiều thứ đã bị lấp liếm và bị kìm nén. Nói như lời của nhà bất đồng chính kiến Lưu Hiểu Ba: “Những đôi mắt nhìn vào bóng tối quá lâu sẽ khó mà thích nghi được với ánh sáng rực rỡ ban ngày bỗng dưng tràn vào qua cửa sổ”.

Orville Schell là giám đốc Trung tâm về quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc tại Hội châu Á (Asia Society)

Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/articles/china/2017-12-12/chinas-cover

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trái Đất sắp hết chỗ cho con người ở?


Richard Gray - BBC Future - Dân số quá tải, biến đổi khí hậu, làn sóng di cư… quan hệ của chúng ta với mặt đất chưa bao giờ phức tạp đến thế. Liệu Trái Đất có phải nguồn tài nguyên ngày càng quý giá và không được đánh giá đúng mức không? Từ trên cao, người ta cảm thấy như cả thành phố đang trôi dạt trên Ấn Độ Dương. Một cánh rừng đầy những tòa tháp vươn cao giữa màu nước biển xanh ngọc, trong khi đó chỉ một nhúm cây chen chúc qua bức màn bê tông.
Bản quyền hình ảnhOTHERS
Với những người sống ở Malé, thủ đô đông đúc của Maldives, họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc xây nhà lên theo chiều cao. Vây quanh nơi này là biển khơi, người dân không có thêm đất để mở rộng, trong khi đó dân số thành phố đã tăng thêm 52% từ năm 2006. Cuộc điều tra dân số gần nhất vào năm 2014 cho thấy 158.000 người đang nhồi nhét sống ở thành phố chỉ rộng 5,7km2 này, và các quan chức nói dân số vẫn tiếp tục tăng thêm.

"Khi nghĩ về Maldives, người ta thường nghĩ về một thiên đường đẹp với những vụng nước trong biếc và bãi cát trắng," Shamau Shareef, người vừa trúng cử chức phó thị trưởng thành phố cho biết. "Malé lại rất khác. Chúng tôi có không gian rất hạn chế và cuộc sống rất khó khăn."

Không gian là thứ xa xỉ ở Male đến mức vỉa hè thường chỉ rộng chưa tới 0,9m, buộc người đi bộ phải đi hàng một, trong khi rất nhiều con đường khác không hề có vỉa hè.

Giá thuê nhà tăng cắt cổ và, ở một số khu vực nghèo nhất, thậm chí có khi đến 40 người chen chúc nhau sống trong những ngôi nhà chỉ chừng 23,2m2, tương đương một căn hộ studio nhỏ.

Với quá nhiều người sống chen chúc cạnh nhau, tội phạm, ma túy và bạo hành gia đình đã gia tăng đáng báo động khi thành phố này thường xuyên mất nước. Một hòn đảo hoàn toàn mới làm từ rác thải thành phố đã trồi lên mặt biển.


Bản quyền hình ảnhTUOMAS LEHTINEN / ALAMY STOCK PHOTOImage captionMalé, thủ đô của Maldives, là một đô thị trên hòn đảo nhỏ ngày càng trở nên đông đúc và chật chội

"Vào đầu thập niên 1990, những tòa nhà cao nhất trong thành phố chỉ có hai tầng lầu," Shareef nói. "Giờ đây chiều cao trung bình là tám tầng và một số tòa nhà cao đến 25 tầng. Mọi người đến đây bởi nơi này có chăm sóc sức khỏe, giáo dục và việc làm, nhưng quá tải dân số đang dẫn tới nhiều vấn đề kinh tế xã hội."

Dù ngặt nghèo như vậy, nhưng Male chỉ là một tiểu cảnh so với những gì đang xảy ra ở quy mô lớn hơn rất nhiều trên toàn thế giới. Cứ mỗi năm lại có thêm 83 triệu người sinh ra trên hành tinh này, dân số tăng cao đang gia tăng áp lực lên vấn đề đất đai.
Trái Đất đang thiếu đất?

Ước tính gần đây nhất của Liên Hiệp Quốc cho thấy có 7,6 tỷ người đang chen chúc nhau sống trên Trái Đất và con số đó sẽ tiếp tục tăng đến 9,8 tỷ người vào năm 2050. Vào cuối thế kỷ, họ dự đoán sẽ có khoảng 11,2 tỷ người trên hành tinh của chúng ta.

Thế giới lo lắng khi băng tan ở Mỹ

Hòn đảo chết chóc nhất thế giới thời hậu Liên Xô

Các vụ va đụng tàu ngoài biển khó tránh?

Mỗi người trong số đó đều cần một nơi để sống, một chỗ đi làm, một mảnh đất màu mỡ trồng lương thực cho họ. Họ cũng sẽ cần nước và năng lượng để giữ ấm hoặc thắp sáng đường về nhà.

Họ sẽ muốn có đường lái xe và nơi đậu xe. Với người may mắn, họ sẽ có thêm không gian cho hoạt động nghỉ ngơi và thư giãn.

Nhưng với tất cả loài người, những tác động mà họ gây ra với đất - và những ảnh hưởng mà họ có thể kiểm soát - sẽ là một trong những thách thức lớn mà nhân loại phải đối mặt trong thế kỷ tới.
Thiếu nơi ở, thừa đất hoang

Đầu tiên, người ta có thể dễ dàng gạt bỏ ý nghĩ con người sẽ hết không gian ở và cho rằng đó là chuyện ngớ ngẩn. Về mặt vật lý, mặt đất có thể dễ dàng chứa khoảng 11 tỷ người - có khoảng 13,4 tỷ hectares đất không có băng trên hành tinh này.

Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGESImage captionMalé đã phải tạo ra đảo nhân tạo từ đống rác thải khổng lồ bởi rác đe dọa chiếm chỗ chiếm đất của thành phố

Nhưng nhiều vùng đất tới giờ hầu như không thể định cư vì điều kiện khí hậu và vị trí xa xôi như: khu vực đất đai rộng lớn ở Siberia quá khắc nghiệt để sống. Và một vùng rộng lớn ở Australia quá khô hạn để nhiều người sống được, nghĩa là đa số dân cư nước này phải chen chúc dọc khu vực bờ biển.

Trong khi đó, những khu vực thành phố và các đô thị như tại Malé không thể tiếp tục phát triển vĩnh viễn. Họ bị ràng buộc bởi điều kiện tự nhiên vây quanh, dù là đại dương hay núi cao. Những vùng đất có thể sinh sống được giờ đang đối mặt với nhiều thách thức, như đô thị quá đông đúc và dân số tăng cao.

"Nếu bạn có quá nhiều người, rõ ràng là nhu cầu sử dụng tài nguyên và thực phẩm sẽ tăng cao hơn rất nhiều," John Wilmoth, giám đốc của Ban Dân số Liên Hiệp Quốc cho biết. "Nhưng người ta vẫn đặt nhầm chỗ sự quan tâm khi cố gắng giải quyết vấn đề bằng cách kiểm soát dân số hoặc giới hạn dân số."

Các chuyên gia cho biết việc chỉ tập trung vào số lượng dân cư hay xem xét liệu có đủ chỗ trên hành tinh cho tất cả mọi người là cách nhìn lầm lạc.

"Những quốc gia có dân số tăng nhanh nhất thực ra lại là nơi sử dụng ít tài nguyên của Trái Đất nhất tính theo đầu người," Johnathan Foley nói. Ông là giám đốc điều hành Học viện Khoa học California, người đã dành cả sự nghiệp nghiên cứu tác động của văn minh con người đối với môi trường. "Những người trong thế giới giàu có và phát triển đã tiêu thụ nhiều tài nguyên hơn rất nhiều so với phần trung bình của con người."

Những thành phố và thị trấn mà con người đang sống chỉ chiếm chưa tới 3% tổng diện tích Trái Đất, nhưng có khoảng 30%-45% đất được sử dụng cho nông nghiệp. Khi dân số tăng, nhiều lo sợ dấy lên là người ta sẽ cần nhiều đất hơn để trồng lương thực. Và việc quản lý đất đai sẽ phải xử lý rất nhiều chuyện quản lý tài nguyên - ta ăn gì, ta trồng loại lương thực đó ra sao, và ta ăn chúng thế nào.

Bản quyền hình ảnhRICCARDO CROCI TORTI / ALAMY STOCK PHOTOImage captionCó rất nhiều vùng đất trên hành tinh của chúng ta không thích hợp để sinh sống hay làm nông nghiệp

Để có thể nuôi sống lượng dân số đang tăng nhanh, một nghiên cứu của các nhà khoa học tại Đại học Stanford ước tính phải cần thêm 2,7 - 4,9 triệu hectares đất. Trên hành tinh này, còn khoảng 445 triệu hectares đất có thể trồng trọt được.

Các nhà nghiên cứu dự đoán nhu cầu tăng cao về thực phẩm, nhiên liệu sinh học, ngành trồng rừng công nghiệp và sự gia tăng của đô thị sẽ dẫn đến tình trạng quỹ đất bị cạn kiệt hoàn toàn vào năm 2050.

Vì thế trong thế kỷ 21, làm sao có thể quản lý đất đai không chỉ để có đủ chỗ cho tất cả mọi người sinh ra thêm, mà còn đủ chỗ cho tất cả các cánh đồng lương thực sẽ nuôi sống chừng đó con người?

Dành không gian cho nông trại

Tin xấu là gì? Nhu cầu xây dựng các cánh đồng mới và nông trại cho gia súc được cho là chiếm 80% nguyên nhân phá rừng để lấy đất trồng nông nghiệp trên khắp thế giới, quét sạch những vùng đa dạng sinh học rộng lớn và cây cối vốn đóng vai trò là màng lọc tự nhiên làm sạch khí hiệu ứng nhà kính.

Thế còn tin tốt là gì? Theo Foley thì không nhất thiết phải làm theo cách đó.

"Cách chúng ta sử dụng đất ngày nay cực kỳ thiếu hiệu quả," ông nói. "Có quá nhiều đất đai đang được sử dụng để trồng thức ăn cho gia súc - 75% đất nông nghiệp thế giới được dùng để nuôi những gia súc mà chúng ta sẽ ăn thịt. Khoảng 40% lương thực trồng được trên thế giới chưa bao giờ đến được với người ăn - chúng bị vứt bỏ. Điều đó có nghĩa tất cả đất đai trồng số lương thực đó đang bị lãng phí."

Vì thế, một giải pháp hiệu quả: đó là hãy ăn ít thịt hơn và giảm bớt việc vứt bỏ thức ăn đi.

Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGESImage captionRất nhiều nơi đất đường dùng cho nông nghiệp nhưng nông sản thu về lại bị bỏ lãng phí - 40% nông sản trên thế giới bị vứt bỏ, gây lãng phí đất đai và các nguồn lực

Thực ra, "đã có nhiều tiến triển," Foley cho biết. "Trung Quốc đã bắt đầu nói về việc giảm tiêu thụ thịt và có nỗ lực giảm hao phí thực phẩm ở Châu Âu và Hoa Kỳ." Kiềm chế thói quen tiêu thụ có thể dẫn đến khả năng giảm việc sử dụng đất cho mục đích nông nghiệp.

Tuy nhiên, ở những nơi giàu có trên thế giới, sự tiêu thụ của con người còn vượt xa hơn nhu cầu ăn uống.

Không gian cho tầng lớp trung lưu mới nổi

Sự thịnh vượng ngày càng tăng ở nhiều quốc gia đang phát triển trên thế giới, cùng với các quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ, đã dẫn tới tầng lớp trung lưu toàn cầu tăng rất nhanh. Đó là nhóm dân cư sẽ chiếm khoảng 4,9 tỷ người trên thế giới vào năm 2030.

Mỗi người trong số đó có thể mua thêm tủ lạnh,điện thoại di động, TV, máy tính và xe hơi, nhu cầu về năng lượng sẽ có thể gấp đôi trong hai thập niên tới.

Và ở những nơi như Malé, thủ đô bé xíu với dân số bùng nổ, đó là một thách thức khổng lồ mà họ phải đối mặt.

"Chúng ta cần phải lo lắng ít hơn về việc liệu có đủ lương thực hoặc có đủ năng lượng hay không và nhìn vào hậu quả của việc tiêu thụ," John Wilmoth từ Liên Hiệp Quốc đặt vấn đề. "Nếu chúng ta có tiến bộ trong mức sống toàn thế giới xảy ra đồng thời khi dân số tăng lên, chúng sẽ nhân lên những tác động lớn với Trái Đất và môi trường."

Trong nỗ lực giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, cách thế giới đáp ứng những nhu cầu này sẽ có thể thay đổi rất nhiều số lượng đất đai chúng ta còn lại.

Và đó là vấn đề của những bờ biển có mật độ tập trung dân số cao trên Trái Đất.
Nước biển dâng cao

Trong lịch sử, thương mại đã kích thích sự phát triển của tầng lớp trung lưu và sự thịnh vượng ở các khu vực bờ biển. Điều này khiến nhiều thành phố trở thành nơi đông đúc nhất trên hành tinh chúng ta.

Một nghiên cứu từ Đại học Kiel ở Đức và Trung tâm Nghiên cứu về Biến đổi Khí hậu Tyndall ở Anh Quốc đã ứng tính có khoảng 625 triệu người đang sống ở các vùng thấp gần bờ biển vào năm 2000. Vào năm 2060, con số này sẽ tăng nhanh đến hơn một tỷ người.

Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGESImage captionMực nước biển dâng nhanh do tình trạng thay đổi khí hậu đang gây ra tình trạng ngập lụt tại các thành phố duyên hải đông dân, như Miam hay Florida, và đang dần gặm nhấm vào vùng đất ven biển

Nhưng cùng với biến đổi khí hậu, mọi thứ trở nên phức tạp hơn nhiều.

"Bờ biển là không gian bị hạn chế vì thế có rất nhiều áp lực lên môi trường và hệ sinh thái ở đó," Barbara Neumann, một chuyên gia về nguy cơ bờ biển và nước biển dâng tại Đại học Kiel, người đứng đầu nhóm nghiên cứu cho biết.

"Chẳng hạn, các đụn cát giống như thành lũy chống ngập tự nhiên. Nếu loại bỏ chúng, ta sẽ loại bỏ rất nhiều rào cản bảo vệ chống bão bờ biển và nước biển dâng."

Nước biển dâng vì biến đổi khí hậu có vẻ đã gia tăng thêm áp lực với những khu vực gần bờ biển chật ních người, bà cảnh báo. Các đảo quốc như Maldives đặc biệt dễ mất đất vì vấn đề này. Miami ở Florida là một ví dụ nổi tiếng khác.

"Malé chỉ cao hơn mực nước biển hai mét," Shareef giải thích. "Chúng tôi từng có nước biển tràn bờ khi có gió mùa mỗi năm nhưng biến đổi khí hậu đang làm tình hình trở nên tệ hơn."

Xa hơn vấn đề bờ biển, dân số tăng nhanh khắp nơi cũng khiến nơi này trở nên bất an hơn trong tương lai.

Ở Bangladesh, nơi 80% quốc gia là đồng bằng ngập nước, hàng chục triệu người bị tác động bởi lũ lớn xảy ra mỗi năm. Bỗng nhiên, đất bỗng trở thành một thứ cao cấp.

Thậm chí ở các quốc gia phát triển như Anh Quốc, áp lực nhà cửa đã dẫn đến sự phát triển ở quy mô lớn tại những khu vực thường ngập lụt. Trong thập niên vừa qua, ngập lụt ở những khu vực này đã gây ra thiệt hại lên đến hàng tỷ bảng Anh.

"Chúng ta cần cân bằng phát triển dân số và phát triển với bảo tồn hệ thống tự nhiên đang bảo vệ ta," Neumann cho biết. Ví dụ như Hà Lan, vốn thấp hơn mực nước biển, đã giải quyết vấn đề ngập lụt bằng cách dẫn nước vào một số khu vực. Đó là cách tiếp cận mà một số quốc gia khác như Anh Quốc, nói rằng họ cố gắng sẽ học theo.

Người tị nạn di chuyển ồ ạt để trốn chạy các thay đổi khí hậu khắc nghiệt, các biến động chính trị và các khó khăn khác dồn vào càng làm căng thẳng cho các khu vực vốn đã rất đông đúc

Nhưng trạng thái thời tiết hỗn loạn và thay đổi liên tục không chỉ tác động đến vùng đất trên thành phố của chúng ta. Nó có thể ảnh hưởng đến các khu vực xung quanh.
Biến đổi khí hậu dẫn đến di dân

Khoảng 21,5 triệu người buộc phải rời bỏ nhà cửa vì những thảm họa thời tiết mỗi năm.

"Hạn hán ở miền bắc Syria dẫn đến làn sóng di dân khổng lồ của người dân từ các khu vực nông thôn đến những thành phố lớn như Aleppo và trở thành một trong những điểm bùng phát cho xung đột khủng khiếp mà ta thấy hiện thời," Lloyd Axworthy, chủ tịch Hội đồng Người tị nạn Thế giới và cựu ngoại trưởng Canada, cho biết. Với tình trạng biến đổi khí hậu và khả năng xảy ra hạn hán, lũ lụt và bão tố, Axworthy cảnh báo vấn đề có khả năng sẽ trở nên tồi tệ hơn.

Theo Ủy ban về Người Tị nạn của Liên Hiệp Quốc, 65,6 triệu người đã buộc phải rời bỏ nhà cửa vì xung đột và bạo lực trong năm 2016, con số cao gấp khoảng 300.000 ngàn lần so với thời điểm đỉnh cao của Đệ Nhị Thế Chiến.

"Điều này không chỉ xảy ra một lần,"Axworthy cảnh báo. "Có rất nhiều khu vực đất đai rộng lớn ngày càng mất đi những yếu tố cơ bản cho sự sống. Nhiều chính phủ quá tệ hại đến mức họ không biết phải làm gì. Điều này có nghĩa là những quốc gia khác phải chia sẻ và hỗ trợ một lượng dân cư lớn mất khả năng sinh kế và sống còn."

Điều này nghĩa là giờ đây ngày càng có thêm nhiều thách thức phải tìm kiếm không gian cho người mất nhà cửa vì chiến tranh, nạn đói và hạn hán. Với những người mất nhà cửa năm ngoái, 22,5 triệu người xin tị nạn khắp các khu vực biên giới quốc tế. Tìm nhà mới cho lượng dân cư lớn như vậy thực sự khó khăn - chỉ có 189.300 người được nhận vào tái định cư ở quốc gia khác trong năm 2016. Đa số vẫn phải sống ở những khu trại lớn và sinh sống như những cư dân không tổ quốc, tất cả họ đều cần thực phẩm, nước uống và nơi trú thân.

Không có đất để tạo sinh kế cuộc sống, họ phải dựa vào người khác giúp đỡ. Một loạt các vấn đề như chiến tranh, nạn đói, hạn hán làm phức tạp thêm và khiến các quốc gia như Hy Lạp và Uganda không biết phải làm gì với đất đai của họ, khi làn sóng dân nhập cư từ Syria và Nam Sudan khiến nguồn tài nguyên tự nhiên nơi này càng bị áp lực.

"Vấn đề không phân biệt biên giới"

Quay trở lại Malé và rất nhiều nơi khác trên thế giới, có rất nhiều lý do khó chịu khác ngoài xung đột và thiếu nước khiến cho đất đai ngày càng chật chội.

Khả năng tiếp cận cơ sở vật chất như y tế, giáo dục và việc làm từ lâu đã lôi cuốn dân nông thôn về thành thị. Hơn một nửa dân số thế giới giờ đây sống ở đô thị. Cũng như ở Male, điều này gâp áp lực khổng lồ lên những mảnh đất bé xíu.

Cuộc sống đô thị cần phải được lên kế hoạch chặt chẽ, trong khi rất nhiều nơi trên thế giới sống khá thoải mái với nguồn nước chảy, vệ sinh và hệ thống thoát thải, thì nhiều thành phố ở các quốc gia đang phát triển lại ngập ngụa trong những khu ổ chuột nơi chẳng có hệ thống cơ sở vật chất nào cả.

Châu Phi và Châu Á đang đô thị hóa nhanh hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. Vào năm 2020, Châu Phi dược dự đoán sẽ trở thành lục địa đông dân thứ hai trên hành tinh này, với 560 triệu người ở thành phố lớn, trong khi Châu Á sẽ có 2,4 tỷ người. Chưa hết, theo OECD, cơ sở vật chất đô thị ở Châu Phi không thể theo kịp và tình trạng quá tải sẽ tiếp diễn.

"Thách thức không phải là có đủ không gian hay không, mà là chúng ta không hề nghĩ mọi người sẽ ở đâu và chất lượng sống của họ thế nào," Joel Cohen, lãnh đạo Phòng thí nghị Dân số tại Đại học Rockerfeller và Đại học Columbia cho biết. "Tăng trưởng dân số xảy ra nhanh nhất ở các quốc gia nghèo nhất, nơi đã có rất nhiều khu ổ chuột. Người ta ước tính sẽ có thêm khoảng một tỷ người sống ở các khu ổ chuột vào cuối thế kỷ này."

Nói cách khác, mỗi nơi đều có thử thách riêng.

Trong tình trạng chật chội ở Malé, nơi Maldives nổi tiếng với vẻ đẹp tự nhiên, thiên nhiên hầu như đã bị bóp nghẹt ở thành phố thủ đô này. Nhưng trên hết, là những vấn đề khác mà ta đã đề cập, yếu tố thân thiện với môi trường chưa hề được nghĩ đến.

"Hai mươi năm trước chúng tôi vẫn còn rất nhiều cây ở đây," phó thị trưởng Shareef nói. "Giờ đây cây hầu như đã bị chặt hết để lấy chỗ xây nhà."

Và còn nhiều hơn thế. Có lẽ sự đầy rẫy của đất đai trên hành tinh này,cũng như chức năg cơ bản cuả nó là nền tảng cơ bản cho sự sinh tồn, chính là nguyên nhân gây ra hàng loạt vấn đề.

Hành tinh này tất nhiên có thể tìm không gian cho thêm nhiều người hơn nữa sinh sống. Nhưng trong thế kỷ 21, có lẽ câu hỏi thật sự mà ta cần tự hỏi là ta muốn chia sẻ mảnh đất của mình với ai và với cái gì.

Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.

http://www.bbc.com/vietnamese/vert-fut-42357824

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam


19/12/2017 - Bùi Trinh - Từ khi chuyển từ hệ thống hạch toán sản xuất vật chất (MPS) sang hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), nhiều chỉ tiêu của Việt Nam ngày càng tương đồng với thế giới. Đồng thời cũng phát sinh một số ngộ nhận về con số GDP coi GDP gần như là chỉ tiêu thu nhập (lẽ ra chỉ tương quan cùng chiều) và trong nhiều trường hợp gây ra những hiểu lầm đáng tiếc .

Nhìn chung thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn và khoảng cách giàu nghèo đang gia tăng. Ảnh: Một người phụ nữ bán hàng rong đi qua khu bán hàng xa xỉ phẩm ở Hà Nội. Nguồn: Getty image. 

Thu nhập của người lao động từ sản xuất (một nhân tố của GDP) được hiểu bao gồm thu nhập bằng tiền và hiện vật của người lao động trong quá trình sản xuất. Hiện nay hằng năm Tổng cục Thống kê (TCTK) không công bố chỉ tiêu này, nhưng dựa vào bảng cân đối liên ngành (input-output table) có thể ước tính thu nhập từ sản xuất chiếm khoảng 53% GDP, như vậy GDP bình quân đầu người năm 2016 khoảng 2188 USD, tăng 25% so với năm 2012 (1755 USD), nhưng một điều trớ trêu là trong đó thu nhập từ sản xuất bình quân của người lao động chỉ tăng 1,2% (khoảng 870 USD năm 2016 so với 860 USD năm 2012). 


Điều này cho thấy phần thặng dư bình quân tăng rất cao, do nền kinh tế phụ thuộc vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nên việc thặng dư tăng cao về thực chất không có ích gì nhiều cho Việt Nam mà chỉ có lợi cho nước ngoài. 

Cũng theo số liệu của TCTK, tổng thu nhập bình quân đầu người năm 2016 khoảng 1648 USD, điều này có nghĩa khoản thu nhập bình quân đầu người ngoài sản xuất (từ sở hữu và từ chuyển nhượng) là khoảng 778 USD; nếu tỷ lệ giữa thu nhập từ sản xuất so với tổng thu nhập năm 2012 khoảng 74-75% thì đến năm 2016 tỷ lệ này giảm xuống 53%, phần còn lại là thu nhập kiếm được từ ngoài quá trình sản xuất (47%). 

Như vậy có thể thấy GDP bình quân đầu người và thu nhập bình quân đầu người là hoàn toàn khác nhau; và nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào bên ngoài (FDI) từ khâu sản xuất, lưu thông và phân phối lại.

Số liệu của TCTK cũng cho thấy khoảng cách giữa thu nhập bình quân đầu người từ sản xuất và tổng thu nhập bình quân đầu người ngày càng bị nới rộng, điều này phần nào do lượng kiều hối những năm gần đây chuyển về Việt Nam khá lớn. Với số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2012 về tổng thu nhập bình quân đầu người khoảng 2 triệu đồng tháng thì tổng thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2016 khoảng hơn 3 triệu đồng tháng. Đó là mức thu nhập khiêm tốn, rất khó khăn cho người dân, đặc biệt là khu vực nông thôn tổng thu nhập bình quân đầu người trên tháng năm 2016 chỉ là 2,4 triệu đồng thấp hơn mức bình quân, trong khi 66% dân số là ở nông thôn. Đó là chưa kể đến tình trạng phân hóa giàu nghèo, làm cho khoảng cách thu nhập giữa 20% người nghèo nhất và 20% người giàu nhất lên tới gần 10 lần và đang tăng lên. 

Các nhà mô hình và các nhà lập chính sách mất nhiều công sức chú trọng vào cấu trúc và sự liên kết ngành, tuy nhiên một số nghiên cứu gần đây cho thấy mức độ chi tiêu dựa trên thu nhập của các nhóm dân cư ảnh hưởng quan trọng đối với tăng trưởng, một điều được rút từ mô hình cân bằng tổng thể cho thấy chi tiêu của nhóm có thu nhập cao không lan tỏa nhiều đến nền kinh tế trong nước bằng các nhóm thu nhập trung bình và thấp. Việc phân hóa giàu nghèo trong xã hội cần phải được đặt ngang hàng với mục tiêu tăng trưởng GDP. Cái mà xã hội và người dân cần là các chính sách cần hướng đến người dân thay vì hoàn toàn hướng đến doanh nghiệp.

Mặt khác cũng theo số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy tỷ lệ giữa tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình từ năm 2010-2016 và 9 tháng năm 2017 luôn ổn định ở mức 70 – 72% GDP, như vậy có thể thấy mức tiêu dùng bình quân đầu người trên tháng năm 2016 khoảng 2.572.000, trong khi đó thu nhập từ sản xuất bình quân tháng khoảng 2.386.000 đồng. Từ những con số này có thể thấy đa số người dân không những không có để dành mà còn phải đi vay một phần để tiêu dùng! Đây là tín hiệu khá nguy hiểm, không những thế nó còn cho thấy việc GDP tăng cao hầu như không có ý nghĩa với người dân. 

Tuy nhiên mức tổng thu nhập của dân cư (bao gồm từ sở hữu và chuyển nhượng1) hằng tháng vẫn cao hơn mức chi tiêu khoảng 500.000 đồng, nhưng lại chưa bao gồm rất nhiều khoản lạm thu của chính quyền địa phương từ những khoản “đóng góp” gần như bắt buộc của các tổ chức ở địa phương, nên phần còn lại (saving) của khu vực hộ gia đình chỉ còn khoảng 30.000 tỷ đồng, tương đương 1,2 - 1,5 tỷ USD. Như vậy lượng kiều hối đổ vào Việt Nam mấy năm gần đây trên dưới 10 tỷ USD nhưng lượng tiền có thể đưa vào đầu tư chỉ khoảng 1,2 – 1,5 tỷ USD.

Mặt khác, phân tích theo các nhân tố cấu thành giá trị gia tăng theo giá cơ bản bao gồm thu nhập của người lao động từ sản xuất, thặng dư sản xuất thuần (không bao gồm khấu hao tài sản cố định) cho thấy tỷ lệ thu nhập từ sản xuất so với giá trị gia tăng thuần tăng nhanh từ 63% năm 2000 lên 67% năm 2007 và giai đoạn hiện nay vào khoảng trên 80%. 

Điều này có nghĩa nếu năm 2000 có một đồng giá trị gia tăng sẽ có 0.37 đồng thặng dư thì đến giai đoạn hiện nay có một đồng giá trị gia tăng chỉ còn 0,2 đồng thặng dư. Như vậy việc tăng lương không gắn liền với tăng năng suất lao động sẽ khiến thặng dư của các doanh nghiệp giảm đi, nói cách khác tăng lương không dựa vào tăng năng suất sẽ khiến nguồn lực của nền kinh tế nhỏ lại ở những chu kỳ sản xuất sau, khi thặng dư của doanh nghiệp ngày một nhỏ lại dẫn đến việc đầu tư mở rộng sản xuất gặp khó khăn do không đủ khả năng tích lũy. 

Ngoài ra khi hệ số co giãn về lao động tăng cao, nền kinh tế phải cần một lượng vốn rất lớn mới có thể có được tăng trưởng. Đây là một trong những nguyên nhân khiến khối doanh nghiệp tư nhân trong nhiều năm qua không thể phát triển (giá trị gia tăng đóng góp vào GDP chỉ loanh quanh ở mức 7-8%). Tuy nhiên hệ số này ở các ngành là không giống nhau, hầu hết nhóm ngành chế biến chế tạo có hệ số thu nhập từ sản xuất so với giá trị gia tăng thuần rất cao, hệ số co giãn về thặng dư rất thấp, nên nếu quyết định tăng lương không từ năng suất (quyết định hộ doanh nghiệp) ở những ngành này sẽ làm doanh nghiệp càng thêm khó khăn. Nhưng ngược lại một số ngành lại có hệ số co giãn về thặng dư rất cao như nhóm ngành xây dựng, kinh doanh bất động sản, khách sạn nhà hàng… Điều đó cho thấy việc quyết định tăng lương không nên làm đồng loạt đại trà mà cần tính toán kĩ lưỡng cho các nhóm ngành khác nhau, thậm chí nên nghiên cứu cho ngành trong vùng.

Do đó, để nền kinh tế phát triển lành mạnh, việc tối quan trọng là tăng năng suất lao động, nhưng trước tiên cần tăng thu nhập cho người lao động ít nhất bằng với mức lạm phát. Khi nhận thức của xã hội được nâng lên hãy để doanh nghiệp tự quyết định cân nhắc việc tăng lương dựa trên hiệu quả sản xuất và nguồn nhân lực của họ.

Như vậy có thể thấy nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn rất khó xử, nếu không tăng lương người lao động sẽ rất khó khăn trong cuộc sống, nhưng nếu tăng lương đại trà mà không đi kèm với tăng năng suất lại dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp. Như vậy việc quan trọng nhất là năng suất lao động của Việt Nam cần tăng lên và tăng lương thế nào phải do bên sử dụng lao động quyết định.
———-

1 Cơ bản là kiều hối

Tài liệu tham khảo
Asian Development Bank. (2015). Financial Soundness Indicators for Financial Sector Stability in Vietnam. Manila.
Bui Trinh, Kiyoshi Kobayashi, Trung-Dien Vu, Pham Le Hoa. (2012). ‘New Economic Structure for Vietnam toward Sustainable Economic Growth in 2020’. Global Journal of Human Social Science, Vol. 12 Issue 10.
TCTK +Niên giám thống kê” 2016, NXB TK, 2017
Miyazawa. K (1976). “Input – output analysis and the structure of income distribution” Heideberg, Springer – Veriag
Nguyen Quang Thai, Bui Trinh (2017). Phân tích GDP và sự phát triển bền vững về môi trường” Tạp chí Kinh tế tài chính Việt Nam” Số 2 2017.

http://tiasang.com.vn/-dien-dan/Thu-nhap-binh-quan-dau-nguoi-o-Viet-Nam-11093

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bí thư Trịnh Văn Chiến không thể thoái thác trách nhiệm!



Bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa Trịnh Văn Chiến, ảnh: Thông tấn xã Việt Nam.

 

DU THIÊN
06:45 20/12/17
 
(GDVN) - "Anh quản lý như thế nào mà để cán bộ mắc từ sai phạm này đến sai phạm khác, nhưng vẫn được thăng chức? Lãnh đạo thế nào mà xử lý vi phạm như kiểu "phủi bui"?



Kỷ luật cho xong việc

Sau ông Đinh La Thăng, hàng loạt cán bộ, nguyên cán bộ cấp cao tại nhiều địa phương (Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Quảng Nam...) tiếp tục được cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, làm rõ, kỷ luật nghiêm khắc vi phạm có liên quan tới công tác tổ chức cán bộ.

Đáng chú là việc ông Ngô Văn Tuấn - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa vừa bị cách mọi chức vụ trong Đảng vì có nhiều vi phạm rất nghiêm trọng đặc biệt là việc "nâng đỡ không trong sáng" đối với bà Trần Vũ Quỳnh Anh.

Những tưởng sự việc sẽ được khép lại khi vị Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa nhận "án" kỷ luật khiển trách được nêu ra tại Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ 9, Khóa XVIII trước đó.

Và những tưởng thông báo kết luận của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Thanh Hóa sau nhiều lần bị trì hoãn, sẽ làm yên dư luận thì việc Trung ương vào cuộc xem xét, kết quả kiểm tra Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Thanh Hóa về việc thi hành kỷ luật đảng đối với ông Ngô Văn Tuấn cùng với việc đưa ra hình thức kỷ luật vị này khiến nhiều người đi từ bất ngờ tới tâm phục, khẩu phục.

Và từ kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, dư luận cũng có thể hình dung được rằng, việc cơ quan có thẩm quyền tỉnh Thanh Hóa đánh giá vi phạm, xử lý kỷ luật đối với ông Tuấn có phần hời hợt, nếu không muốn nói là rất hình thức hoặc làm cho xong chuyện.

Công tác cán bộ của tỉnh không trong sáng, diễn ra trong nhiều năm như vậy, nhưng cán bộ vi phạm vẫn được bổ nhiệm lên chức vụ cao hơn gây mất lòng tin trong dân chúng.

Liệu một mình ông Tuấn có thể lộng quyền đến mức như vậy trong nhiều năm không? 

Trách nhiệm của người đứng đầu tỉnh Thanh Hóa ra sao trước những vi phạm của ông Ngô Văn Tuấn cần phải được làm rõ.

Ông Trịnh Văn Chiến có trách nhiệm gì?  
   
Liên quan đến quá trình kỷ luật, xử lý cán bộ có vi phạm nghiêm trọng về công tác tổ chức cán bộ tại Thanh Hóa trong vụ việc nói trên, hôm 18/12, trao đổi với phóng viên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Vũ Quốc Hùng - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương cho rằng, cần làm rõ trách nhiệm của Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Trịnh Văn Chiến trong vụ việc nói trên.

"Người đứng đầu địa phương phải chịu trách nhiệm trước về mặt quản lý, lãnh đạo vì để cán bộ thuộc diện quản lý vi phạm.

Do đó đồng chí Bí thư Tỉnh ủy không thể nào thoái thác được trách nhiệm của mình trước những vi phạm của cán bộ thuộc cấp Thường vụ Tỉnh ủy quản lý", ông Hùng nhận định.

Ông Vũ Quốc Hùng, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương đặt ra hàng loạt câu hỏi về trách nhiệm của Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa: 

"Anh lãnh đạo, quản lý như thế nào mà để cán bộ mắc từ sai phạm này đến sai phạm khác?

Một cán bộ như ông Tuấn có khuyết điểm ngay từ thời làm Giám đốc Sở Xây dựng mà vẫn được cất nhấc lên vị trí cao hơn. 

Thế rồi, đến khi cán bộ bị phát hiện vi phạm thì lãnh đạo như thế nào mà lại xử lý như kiểu "phủi bụi". 

Hành vi ấy, biểu hiện ấy đáng phải xem xét trách nhiệm", ông Hùng nêu quan điểm. 

Ông Vũ Quốc Hùng cũng cho rằng, lãnh đạo tỉnh Thanh hóa cần làm rõ nguyên nhân trong quản lý, điều hành dẫn đến những vi phạm của ông Ngô Văn Tuấn và báo cáo Ban Bí thư.

"Vì sao đồng chí lại để xảy ra tình hình như thế? Anh là người đứng đầu tỉnh mà cái sai của ông Tuấn từ khi làm Giám đốc Sở Xây dựng, tại sao lại không nắm được? 

Ở đây có sự quan liêu bao che hay phe phái, nhóm lợi ích không? Cần phải làm rõ nguyên nhân về việc này.

Bên cạnh đó, cán bộ đảng viên nhận thức về vi phạm của ông Tuấn thế nào mà lại để vi phạm kéo dài như vậy? 

Tại sao sức chiến đấu của tổ chức Đảng cơ sở lại yếu kém như vậy?

Anh làm lãnh đạo nhưng trình kiểm tra, kiểm soát, quản lý cán bộ như vậy là lơi lỏng. Đến khi cần xem xét, xử lý cán bộ thì lại quá hời hợt.

Tôi cho rằng, vì quan liêu, nể nang, né tránh, hoặc "cùng hội cùng thuyền" nên mới xảy ra sự việc đáng tiếc như ở Thanh Hóa.

Trước  những vi phạm trên, cấp ủy cần kiểm điểm, tập thể phải kiểm điểm, cá nhân phải kiểm điểm và báo cáo với Ban Bí thư xem xét", ông Hùng đề nghị.

Hoan nghênh Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Nói về việc cơ quan có thẩm quyền vào cuộc, kiểm tra, xử lý hàng loạt nguyên cán bộ, cán bộ, cấp cao thời gian gần đây, ông Vũ Quốc Hùng cho rằng đây là điều rất mừng, đáng hoan nghênh, đồng thời củng cố lòng tin của người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

"Qua những sự việc trên có thể thấy rằng, nếu chúng ta đã quyết tâm thì sẽ làm được. 

Nhân dân hoan nghênh những việc Đảng đã làm được trong thời gian vừa qua và luôn ủng hộ Đảng để loại bỏ những thành phần gian xảo, tham nhũng ra khỏi bộ máy quản lý.

Tuy nhiên tất cả mới chỉ bắt đầu", ông Hùng nêu quan điểm.

Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương cũng bày tỏ nỗi lo khi sức chiến đấu của một số tổ chức Đảng cơ sở còn yếu kém.

"Căn bệnh tham nhũng, vi phạm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên còn diễn ra ở khá nhiều nơi. 

Trong khi thực tế nhiều tổ chức đảng về hình thức vẫn còn nhưng không còn tác dụng, hay nói cách khác là tê liệt.

Do vậy, Ủy ban Kiểm tra Trung ương cần tiếp tục kiểm tra sâu hơn nữa, rộng hơn nữa và yêu cầu các Ủy ban Kiểm tra các cấp phải phục vụ tốt cho cấp ủy, làm đúng chức năng của cấp ủy. 

Những nơi mà tổ chức đảng hoạt động kém thì phải kiện toàn lại để cho nó có sức sống. Những nơi tổ chức đảng kiệt quệ, không còn sức chiến đấu nữa thì phải thay thế, thay đổi", ông Hùng cho biết.


DU THIÊN

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hết thời ‘Bố là tất cả’


>> Đúng là con tạo xoay vần, nghĩ mà kinh!
>> Không ai là không biết chi phí cơ hội
>> Doanh nghiệp sẽ hết bị truy thu thuế oan
>> TP.HCM sẽ được thí điểm đánh thuế tài sản?
>> Bí thư Đà Nẵng: Chờ Trung ương chỉ đạo xếp việc cho ông Nguyễn Xuân Anh


NGƯỜI SÀNH ĐIỆU
PLO - Kính thưa quý khách, nhà ga xin thông báo:

Đoàn tàu tốc hành mang ký hiệu 5C chỉ còn ít phút nữa là tới giờ khởi hành. Tàu sẽ rời ga “Tranh thủ”, thực hiện hành trình mang tên “Cơ hội” để đến ga cuối cùng là “Hạ cánh”.

Nhằm đảm bảo đúng thứ tự ưu tiên để nhân viên đoàn tàu biết lựa chọn thái độ phục vụ, xin quý khách vui lòng ngồi đúng số ghế ghi trên vé. Cụ thể, con chị Ba là anh Vũ Văn A ngồi ghế số 1; bạn thân trong sáng của chú Năm là chị Trần Thị B ngồi ghế số 2, con chú Bảy là cháu Lê Văn C ngồi ghế số 3…

Nhà ga cũng xin nhắc nhân viên phục vụ nắm vững nguyên tắc phục vụ. Yêu cầu bảo đảm tiêu chí mềm dẻo trong ứng xử, linh hoạt khi xử lý tình huống và dứt khoát hoán đổi thứ tự hành khách khi có bản tin mới nhất về phụ huynh hoặc người thân của họ.

10 phút sau…

Kính thưa quý khách, vì một điều chỉnh đột xuất, chúng tôi sẽ lựa chọn vị trí ngồi không trên cơ sở người thân của quý vị. Quy định mới cho thứ tự ngồi từ nay sẽ là năng lực, bằng cấp, sự nhiệt huyết…

Chúng tôi cũng quyết định bỏ dấu ngoặc kép ở tên ga đi và tên hành trình, đồng thời nghiên cứu đổi tên cho ga “Hạ cánh”. Vui lòng không hậm hực… Nhà ga xin lỗi vì sự sắp xếp có phần ưu ái, nâng đỡ thiếu trong sáng trước đây.


Phần nhận xét hiển thị trên trang