Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 8 tháng 9, 2017

Những ngịch lý..


 

Nguyễn Quang Dy



“Chúng ta không thể thay đổi được quá khứ, nhưng chúng ta có thể sắp xếp lại tương lai” “We cannot change the past, but we can reshape the future” (Dalai Lama)
Chiến tranh Viêt Nam đã đi vào lịch sử lâu rồi. Đã 42 năm kể từ khi cuộc chiến đó chấm dứt, nhưng người ta vẫn còn tranh luận về Chiến Tranh Việt Nam (hay còn gọi là cuộc “Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai”). Tại sao “bóng ma Việt Nam” đến giờ vẫn còn ám ảnh người Mỹ và người Việt, nhất là thế hệ những người đã trực tiếp dính líu vào Việt Nam, dù là quân nhân hay dân sự và nhà báo. Tại sao người ta vẫn tiếp tục viết sách và làm phim về Việt Nam? Phải chăng vì Chiến tranh Việt Nam có quá nhiều nghịch lý và ngộ nhận?
Hệ quả chiến tranh
Chiến tranh Việt Nam đã làm 58.000 người Mỹ và hàng triệu người Viêt (cả hai phía) bị thiệt mạng, và làm cho hai quốc gia bị tổn thất nặng nề và chia rẽ sâu sắc. Sau chiến tranh, hầu hết các trường hợp người Mỹ mất tích (MIA) đã được kiểm chứng, nhưng hàng vạn người Việt mất tích (cả hai phía) vẫn chưa được kiểm chứng. Ngay lúc này, tại khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, người ta vẫn đang tìm kiếm mộ tập thể của hàng trăm liệt sỹ thiệt mạng trong “Tết Mậu Thân” (1968) mà đến nay vẫn coi như “mất tích”. Người ta vẫn đang phải chi nhiều triệu USD để rà soát bom mìn và tẩy độc dioxin tại nhiều nơi ở Việt Nam.
Ngoài 257 nhà báo quốc tế sống sót sau Chiến tranh Viêt Nam, tham gia câu lạc bộ “Vietnam Old Hacks”, 73 đồng nghiệp xấu số của họ bị mất tích trong chiến tranh, đến nay vẫn chưa được kiểm chứng. Sau nhiều năm tìm kiếm vô vọng, phóng viên ảnh Tim Page và thân hữu vẫn chưa chịu bỏ cuộc, tuy Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam vẫn chưa làm gì để giúp họ tìm kiếm. Trong khi những người Mỹ mất tích trong chiến tranh đã được kiểm chứng, tại sao các nhà báo quốc tế mất tích trong chiến tranh lại bị Mỹ và Việt Nam “bỏ quên”? Thật là bất công và bất nhẫn khi số phận người sống lẫn người chết vẫn chưa hóa giải.
Trong bộ phim tài liệu mới “The Vietnam War” (gồm 10 tập, dài 18 giờ, sẽ chiếu trên PBS từ 17/9/2017) Ken Burns và Lynn Novick đã chọn cựu binh Mỹ John Musgrave để nói lên một sự thật đau lòng (ngay từ đầu bộ phim): “Có lẽ chúng tôi là những đứa trẻ cuối cùng của một thế hệ tin rằng chính phủ của mình không bao giờ nói dối chúng tôi” (We were probably the last kids of any generation that actually believed our government would never lie to us). Câu nói đó chắc sẽ ám ảnh khán giả, và tiếp tục ám ảnh người Mỹ và Việt Nam.
Bộ phim “The Vietnam War” làm tôi nhớ lại một kỷ niệm vào năm 1985 khi chúng tôi đứng trên đỉnh đèo Hải Vân nhìn xuống bãi biển Non Nước (còn gọi là “China Beach”). Thomas Vallely (một cựu binh ở Massachusetts) đứng trước ống kính máy quay phim để làm một “stand-up” giữa trời nắng chang chang, đã phải lặp lại nhiều lần một câu nói làm tôi bị ám ảnh, nên đã thuộc đến tận bây giờ: “Hai mươi năm trước tôi đã đổ bộ vào Đà Nẵng khi còn là một thanh niên 19 tuổi. Chính tại Việt Nam tôi đã hiểu về cuộc chiến tranh, về bản thân, và về đất nước của mình… Chúng ta không nên đưa thanh niên vào chỗ chết, chỉ vì lòng tự hào của mấy ông già”. (Twenty years ago, I landed here in Da Nang as a nineteen years old. It was here in Vietnam that I had learned about the War, about myself and about my country… We should not be in the businees of sending young men to die for the old men’s pride).
Lịch sử thường lặp lại với nhiều nghịch lý. Nước Mỹ đã lặp lại một sai lầm mà tướng Omar Bradley đã từng cảnh báo (15/5/1951): Chiến tranh Việt Nam đã trở thành “một cuộc chiến sai lầm, tại một địa điểm sai, vào một thời điểm sai, và chống một kẻ thù sai” (The wrong war, in the wrong place, at the wrong time, and with the wrong enemy). Tại sao một chính quyền có nhiều người tài giỏi như vậy, mà vẫn mắc sai lầm? Phải chăng là do “ngạo mạn về quyền lực”, nên họ đã ngộ nhận về “quyền năng tuyệt đối”? Phải chăng do cực đoan và tự phụ nên họ không chịu lắng nghe lời khuyên, mà còn lừa dối Quốc hội và Nhân dân.
Tại sao Việt Nam
Năm 1990, tôi có dịp gặp ông Archimedes Patti tại Bangkok trong khi ông ấy chờ máy bay đi Việt Nam để dự kỷ niệm sinh nhật cụ Hồ. Ông đã ký tặng tôi cuốn sách “Tại sao Việt Nam” (“Why Vietnam: Prelude to America’s Albatross”, University of California Press, 1980) và kể lại nhiều kỷ niệm với cụ Hồ và OSS. Tuy ông Patti và cuốn sách đã đi vào lịch sử, nhưng câu hỏi Why Vietnam vẫn còn ám ảnh nhiều người Mỹ và người Việt Nam.
Khi tôi hỏi ông Patti là người Mỹ có đọc cuốn sách của ông không, ông buồn rầu trả lời là rất ít người đọc. Mãi sau này người ta mới đưa nó vào danh mục sách tham khảo của các trường đại học. Trong một lần trả lời phỏng vấn (1981), ông Patti nói:“Theo tôi, chiến tranh Viêt Nam là một sự lãng phí khồng lồ. Trước hết, nó không cần phải xảy ra. Hoàn toàn không. Không đáng tí nào cả. Trong suốt những năm chiến tranh Việt Nam, không ai đến gặp tôi để tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra năm 1945 hoặc 1944. Trong suốt những năm tôi làm việc ở Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao và Nhà Trắng, không một ai có quyền hành đến gặp tôi cả…”

Năm 1995, nhân kỷ niệm 20 năm kết thúc chiến tranh, ông Robert McNamara đã viêt cuốn sách “Hồi tưởng: Bi kịch và Bài học Việt Nam” (Robert McNamara, “In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam”, Vintage books, 1995). Cuối cùng ông McNamara đã thừa nhận sai lầm. Nhiều người đặt câu hỏi tại sao một người thông minh tài giỏi như vậy, phải mất tới 20 năm mới nhận ra hay thừa nhận sai lầm. Phải chăng nghịch lý quá khó để nhận ra, hay sai lầm quá lớn để thừa nhận? Trong khi sử gia Arthur Schlesinger khen ngợi ông McNamara là dũng cảm và chân thành thừa nhận sai lầm, thì nhiều người khác lại cho rằng ông McNamara thừa nhận sai lầm quá chậm trễ như vậy là thiếu tử tế (indecent). Những người trong cuộc phải hiểu cái giá của sự chậm trễ trước mỗi bước ngoặt của lịch sử. Theo Đại tá Andre Sauvageot, “Đáng lẽ Tổng thống Nixon phải rút quân khỏi Việt Nam sớm hơn…”

Năm 1997, ông H.R. McMaster đã viết cuốn “Bỏ rơi Nhiệm vụ” (H.R. McMaster, “Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs, and the Lies that led to the War”, Harper, 1997). Đó là nhận xét thẳng thắn của một sỹ quan dũng cảm dám nói ra sự thật, dù là sự thật đau lòng. Chắc lúc đó ông McMaster không biết rằng sau này mình sẽ trở thành Chủ tịch Hội đồng An Ninh Quốc gia. Liệu ông có thể làm gì để sửa chữa sai lầm khi có cơ hội, vì sau Việt Nam, Chính quyền Mỹ tiếp tục nói dối và mắc sai lầm tại Iraq.
Trong cuốn sách đó, McMaster đã nói rõ không chỉ có Chính quyền Johnson đã lừa dối Quốc Hội trong sự kiện Vịnh Bắc Bộ, mà các tướng lĩnh cầm đầu cũng tham gia sự “đồng thuận dối trá” (Contriving consensus). Tướng Earle Wheeler và các tham mưu trưởng liên quân, được gọi là “năm người đàn ông im lặng” (five silent men) đã tiếp tay cho Tổng thống lừa dối Quốc Hội leo thang chiến tranh tại Việt Nam, như gia tăng quân Mỹ để gây sức ép (graduated pressure). McMaster gọi đó là “bãi lầy dối trá” (quicksand of lies).
Nhà báo Peter Arnett (CNN) gọi đó là“sự bất tài, dối trá, và ngạo mạn của những quan chức Mỹ cao cấp nhất” (the ineptness, duplicity and arrogance among the most senior officials of the US). Còn nhà báo Joe Galloway (US News & World Reports) đã nhận xét:“Những người có quyền lực và trách nhiệm đã gây ra thảm họa chiến tranh và để lại dấu vết khắp nơi…McMaster đã làm sáng tỏ hơn và biết rõ hơn về ‘những người tài giỏi và thông minh nhất’ đã dùng dối trá và bí mật để che đậy cho họ như thế nào, nhằm khuynh đảo và thao túng đất nước, xô đẩy Mỹ trượt theo con đường chiến tranh và thất bại cay đắng” (men of power and responsibility caused that disastrous war and left their fingerprints all over it. He sheds fresh light and understanding on how ‘the best and the brightest’ shielded by lies and top secret, maneuvered and manipulated our country down the road to war and bitter defeat).
Bất đồng chính kiến

Khác với Robert McNamara (cựu Bộ trưởng Quốc phòng) và McGeorge Bundy (cựu Cố vấn An ninh Quốc gia), George Ball (cựu Thứ trưởng Ngoại giao, 1961-1966) lúc đó đã nhận ra sai lầm và cố khuyên can Tổng thống Kennedy và Johnson đừng can thiệp vào Việt Nam: “Tôi nhìn thấy trước một cuộc phiêu lưu rất nguy hiểm…Chúng ta sẽ sa vào một cuộc xung đột kéo dài, còn nguy hiểm hơn cả Triều Tiên”. Trong số những nhân vật mà David Hamberstam gọi là the Best and the Brightest trong Chính quyền Kennedy, George Ball là thiểu số đơn độc giữa sự đồng thuận dối trá và ngạo mạn về quyền lực. Tuy lập luận của George Ball rất thuyết phục, nhưng họ không buồn nghe, nên ông đã từ chức (năm 1966).

George Ball là một nhân vật đóng vai phản biện (devil’s advocate) có uy tín trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ trong thập niên 1960. Ông đã cố thuyết phục Tổng thống Kennedy đừng gửi quân sang Việt Nam và đã cảnh báo từ rất sớm là cuối cùng Mỹ phải đưa tới đó hàng trăm ngàn quân: “Việt Nam như một cái vòng luẩn quẩn với những khe sâu và bãi lầy khó thoát” (Vietnamese detour with its deep ruts and treacherous quicksands). Ông dự đoán chiến tranh sẽ kéo dài, quân Mỹ sẽ mắc kẹt vào một cuộc chiến tranh trong rừng rậm, Trung Cộng sẽ can thiệp, sự ủng hộ của dân chúng Mỹ sẽ mất dần khi thương vong tăng lên, dư luận quốc tế sẽ phản đối chiến tranh, và cuối cùng Mỹ sẽ thất bại.
Ngay từ đầu thập niên 1960, George Ball đã nhấn mạnh giá trị của ngoại giao, và khuyến nghị “rút quân chiến thuật” để tránh thảm họa. Ông kêu gọi ngừng bắn, có ủy ban quốc tế giám sát, tiếp theo là bầu cử tại Miền Nam, cho Việt Cộng tham gia, tiến tới thống nhất Việt Nam. Ông khuyến nghị tìm kiếm một giải pháp ngoại giao, vì nếu thiếu thì Mỹ sẽ khó tránh được thảm họa, dẫn tới thất bại nhục nhã. Lịch sử đã chứng minh George Ball có tầm nhìn sáng suốt, tuy lúc đầu ông không phản đối quyết liệt. Chính ông George Ball và TNS William Fulbright đã ủng hộ “Nghị quyết vịnh Bắc Bộ” (mà George Ball cùng soạn thảo).
Nhưng có lẽ chính họ cũng bị lừa dối, vì sau đó, George Ball ngày càng bất đồng chính kiến, với những khuyến nghị quyết liệt hơn. TNS Fulbright đã viết cuốn “Sự Ngạo mạn của Quyền lực” (William Fulbright, “The Arrogance of Power”, Random House, 1966). Ông cho rằng “quyền lực bị lẫn lộn với đạo đức thì nó thường bị ngộ ngận là quyền năng tuyệt đối” (omnipotence). Ông lập luận “trong một nền dân chủ, bất đồng chính kiến là từ lòng tin, giống như tin vào thuốc chữa bệnh, mà giá trị của nó không phải vị đắng ta nếm, mà là công hiệu của thuốc”. Không phải chỉ có George Ball và William Fulbright bất đồng chính kiến, mà còn một số người khác như TNS Earnest Gruening và TNS Wayne Morse, là hai người dũng cảm trong Thượng viện đã bỏ phiếu chống “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” (1964). Sau cuốn sách của Fulbright, Gruening đã viết cuốn Vietnam Folly, góp phần làm thay đổi nhận thức nhiều người Mỹ về Chiến tranh Việt Nam (Earnest Gruening, “Vietnam Folly”, National Press, 1968).
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Ngày 2/8/1964, ba tàu phóng ngư lôi của Bắc Việt Nam đã tấn công tàu khu trục USS Maddox trong vịnh Bắc Bộ (cuộc “tấn công lần thứ nhất”). Hai ngày sau (4/8/1964) tàu USS Maddox và USS Tuner Joy tiếp tục tuần tra trinh sát tại vịnh Bắc Bộ. Trong đêm tối mịt mù, sóng to gió lớn làm mất tầm nhìn, thủy thủ hai tàu phát hiện trên màn hình radar những đốm sáng và hơn 20 vật thể di chuyển giống ngư lôi của đối phương, nên tàu phải tăng tốc để tránh, thả thủy lôi và bắn trả 650 quả pháo xuống biển (tưởng là cuộc “tấn công lần thứ hai”).
Nhưng sau đó, họ không tìm thấy dấu vết ngư lôi hay tàu của đối phương bị phá hủy hay tháo chạy trước hỏa lực cực mạnh của hai tàu Mỹ. Trong vòng mấy giờ sau đó, thuyền trưởng tàu USS Maddox John Herrick đã gửi điện khẩn về Honolulu báo cáo không phát hiện thấy địch bằng mắt thường, và báo động bị địch tấn công bằng ngư lôi có thể là do thời tiết xấu và phản ứng hồ đồ của các kỹ sư sonar. Ông khuyến nghị “cần đánh giá lại toàn bộ trước khi có hành động tiếp theo” (complete evaluation before any further action taken). Nhưng Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã lập tức khuyến nghị ném bom Bắc Việt Nam, và Tổng thống Johnson đã nghe lời khuyên của McNamara, vội vã tuyên bố Mỹ bị “tấn công vô cớ” (unprovoked attack) trên hải phận quốc tế. Ba ngày sau, hai viện Quốc Hội thông qua “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” cho phép Tổng thống toàn quyền hành động, triển khai quân đội Mỹ tại Đông Nam Á. Đó là bước ngoặt để Chính quyền Johnson quyết định leo thang chiến tranh.
Năm 2003, trong bộ phim tài liệu “Sương mù Chiến tranh” (Fog of War) ông McNamara đã thừa nhận “không có cuộc tấn công lần thứ hai, ngày 4/8/1964”. Tổng thống Johnson cũng nói “Theo tôi biết, hải quân của chúng ta đã bắn cá voi ở đó” (For all I know, our navy was shooting at whales out there). Phi công James Stockdale, lúc đó đang lái máy bay hải quân F-8 Crusader bay trên vùng “có chiến sự” đã báo cáo về như sau: “Tôi đang ngồi ở vị trí tốt nhất để quan sát “các tàu khu trục của chúng ta đang bắn vào các mục tiêu bóng ma…Chẳng có cái gì ở đó ngoài nước biển tối đen và hỏa lực của Mỹ” (our destroyers were shooting at phantom targets ... There was nothing there but black water and American firepower).
Năm 2005, Cục An ninh Quốc gia (NSA) đã giải mật nhiều tài liệu bao gồm các bức điện trao đổi xung quanh “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, nên các sử gia có cơ sở để kết luận là “không có cuộc tấn công lần thứ hai” (ngày 4/8/1964). Sử gia Edwin Moise tin rằng do thời tiết xấu, các đàn cá bơi gần mặt nước, hoặc sự cố cảm biến của radar đã làm các kỹ sư sonar hiểu lầm các tín hiệu trên màn hình. Biển cả đầy rẫy các hiện tượng lạ mà thủy thủ có thể hiểu lầm là mối đe dọa. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và chứng minh thủ phạm trong “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” là một loài cá họ mực có tên là pyrosomes, thường đi ăn ban đêm hàng đàn gần mặt nước, với đội hình trông giống quả ngư lôi, tuy tốc độ di chuyển chậm hơn, nhưng cũng phát sáng và tạo vệt sóng, nên hình ảnh trên màn hình radar trông giống ngư lôi.
Giáo sư Todd Newberry (University of California, Santa Cruz) cho rằng hình ảnh và tập quán di chuyển của loài cá pyrosomes khớp với sự cố xảy ra. Newberry cho biết vào mùa hè 1966 ông đã gặp một kỹ sư sonar của tàu USS Turner Joy tại Monterey Bay. Anh ta kể lại sự cố đêm hôm đó với ông Newberry (một giáo sư sinh vật biển). Theo lời anh ta, trên màn hình radar của tàu USS Turner Joy xuất hiện những vật thể trông giống ngư lôi, nhưng cách nó di chuyển không giống những quả ngư lôi mà từ trước tới nay anh ta đã thấy. Câu chuyện của Newberry về loài cá pyrosomes phát sáng là một ví dụ về những ngộ nhận cực đoan của con người về thế giới tự nhiên đa dạng, nhưng có thể làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Thực ra hơn nửa thế kỷ qua, các nhà hải dương học đã nghiên cứu và kể lại nhiều mẩu chuyện về loài cá pyrosomes trong các bài giảng ở trường đại học, nhưng ít người để ý (ví dụ trong sự cố Vịnh Bắc Bộ). Trong bộ phim the Fog of War, ông McNamara nói “Chiến tranh quá phức tạp để đầu óc con người có thể hiểu được tất cả các biến số. Nhận định và hiểu biết của chúng ta không đủ, và chúng ta giết người một cách không cần thiết” (War is so complex it’s beyond the ability of the human mind to comprehend all the variables. Our judgment, our understanding, are not adequate. And we kill people unnecessarily).
Bóng ma Việt Nam và Iraq
Sau Việt Nam, người ta tưởng Mỹ sẽ không bao giờ mắc lại sai lầm nữa. Nhưng Iraq đã làm sống lại bóng ma Việt Nam. Chính quyền Bush đã mắc lại sai lầm cũ, làm mất lòng dân, không chỉ người Mỹ mà còn nhiều dân tộc khác trên thế giới. Tuy Mỹ chống chủ nghĩa khủng bố là đúng, nhưng đã sai khi ngộ nhận và ngạo mạn về quyền lực. Mỹ đã sai khi Washington đi theo chủ nghĩa đơn phương (unilateralism), chỉ dựa vào sức mạnh cứng (hard power) mà quên mất sức mạnh mềm (soft power) làm vũ khí chống khủng bố. Mỹ đã sai lầm khi Chính quyền Bush đã nói dối Quốc hội và nhân dân Mỹ về lý do tấn công Iraq.
Hình như người ta không chịu học bài học Việt Nam: Bắt đầu một cuộc chiến mà không có tầm nhìn rõ ràng, không biết giới hạn của quyền lực, nên cuối cùng không thắng được và không thu phục được lòng dân địa phương. Iraq một lần nữa lại chia rẽ nước Mỹ khi chiến tranh kéo dài với tổn thất lớn, nhưng không có lối thoát. Có thể nói, bóng ma Việt Nam được phục sinh bởi Iraq, và lịch sử đã lặp lại một lần nữa. Mỹ lại đứng trước thế “tiến thoái lưỡng nan” (như Catch-22): hoặc mất Iraq hoặc phải “Iraq hóa” chiến tranh để Mỹ có thể rút quân nhằm tránh những rắc rối lớn hơn trong nước. Đó không chỉ là thất bại của bộ máy chiến tranh với “sự ngạo mạn của quyền lực”, mà còn là thất bại của một triết lý chiến tranh dược dẫn dắt bởi một tầm nhìn thiển cận, dựa trên chủ nghĩa đơn phương và sức mạnh cứng.
Bài học Việt Nam là một trường hợp điển hình về sức mạnh cứng được sử dụng tối đa, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Ông McNamara đã mất hơn 2 thập kỷ mới nhận ra sai lầm chết người đã xô đẩy nước Mỹ vào một cuộc chiến tàn khốc, không chỉ đem lại thương vong và tổn thất to lớn cho nước Mỹ, mà còn tàn phá Việt Nam “trở về thời kỳ đồ đá” (lời tướng Curtis LeMay), khó tái thiết sau chiến tranh. Kết cục cả Mỹ và Việt Nam đều bị tổn thương và chia rẽ nghiêm trọng, cả về vật chất lẫn tinh thần, đến tận bây giờ vẫn chưa lành vết thương.
Vì vậy mà hai thập kỷ sau chiến tranh, cuốn sách “Hồi tưởng” của ông McNamara lại mở ra vết thương lòng với vết sẹo Chiến tranh Việt Nam vẫn chưa lành. Ba thập kỷ sau chiến tranh, bóng ma Việt Nam vẫn ám ảnh John Kerry và George Bush trong cuộc vận động tranh cử tổng thống (2004). Đến tận bây giờ, bóng ma Việt Nam vẫn tiếp tục ám ảnh hai quốc gia và và chia rẽ hai cộng đồng người Việt, làm cho hòa giải vẫn vô cùng khó khăn. Nhiều người Việt và người Mỹ vẫn như là “tù binh của quá khứ”, không thể kiến tạo được tương lai.
Hình như có một nghịch lý “yêu-ghét” (love-hate paradox) giữa hai quốc gia, do ám ảnh của quá khứ với mặc cảm tội lỗi (như trường hợp ông Bob Kerrey). Nó nuôi dưỡng những ẩn ức và ngộ nhận do “tư duy cũ” (mindset) bị “bất cập” trước thực tế mới với “khác biệt lớn” (big gaps). Chỉ khi nào những “bất cập” đó được tháo gỡ, mở đường cho thiện chí hợp tác dựa trên những giá trị nhân bản của con người, thì mới có thể hàn gắn được vết thương lòng và vết sẹo chiến tranh. Quá trình này chỉ có thể thực hiện được khi quan hệ con người được xây dựng trên nền tảng “sức mạnh mềm” để khai thác được tiềm năng con người qua giao lưu và kết nối, như “hệ quả không định trước” của chiến tranh, với một tầm nhìn mới về tương lai.
Nhà báo David Lamb (Nieman Fellow, LA Times, mất năm 2016) nhận xét: “Một trong những sai lầm lớn nhất của chúng ta là không hiểu người Việt Nam, không hiểu lòng kiên nhẫn, sự ngoan cường, chủ nghĩa dân tộc, khả năng chiến đấu, lịch sử, văn hóa, và ngôn ngữ của họ. Đối với thắng thua trong chiến tranh thì đó là sự thiếu hiểu biết chết người. Tôi ước rằng Mỹ đã có thể rút ra được bài học kinh nghiệm từ Việt Nam, nhưng đáng tiếc là chúng ta lại sa vào cuộc chiến tại Iraq, một thảm họa không khác cuộc chiến tranh Việt Nam”.
Thoát Trung và Biển Đông
Trong Chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã từng đánh Bắc Việt Nam để bảo vệ Nam Việt Nam nhằm ngăn chặn Trung Quốc. Nhưng sau khi Mỹ bắt tay với Trung Quốc, họ đã bỏ rơi Nam Việt Nam (năm 1975). Trong mấy thập kỷ tiếp theo, Mỹ đã hợp tác và giúp Trung Quốc trỗi dậy bằng chính sách “tham dự tích cực” (Constructive Engagement), với hy vọng Trung Quốc sẽ “trỗi dậy hòa bình”. Nhưng đáng tiếc, Trung Quốc đã bộc lộ bộ mặt thật hung hăng như con quái vật Frankeinstein (lời cố Tổng thống Nixon). Trung Quốc bắt nạt các nước láng giềng, quân sự hóa Biển Đông để độc chiếm nó như cái ao riêng của mình, đồng thời thách thức vai trò và lợi ích cơ bản của Mỹ và các đồng minh / đối tác tại Châu Á.
Năm 1964-1965, tàu chiến Mỹ thuộc Hạm đội 7 (như tàu khu trục USS Maddox) đến Vịnh Bắc Bộ để chống Việt Nam. Còn bây giờ tàu khu trục USS John McCain đến Cam Ranh để hợp tác với Việt Nam nhằm ngăn chặn Trung Quốc bành trướng tại Biển Đông. Lịch sử đang lặp lại “Trò chơi Vương quyền” (Game of Thrones), nhưng đổi chỗ diễn viên theo luật chơi mới với kịch bản mới. Lịch sử Việt Nam có nhiều nghịch lý và uẩn khúc bất thường. Làm thế nào người Việt Nam có thể bảo vệ được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc, mà không để các nước lớn lợi dụng biến mình thành quân cờ của họ trong bàn cờ nước lớn?
Bàn cờ Biển Đông đầy cạm bẫy, nhất là từ khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD981vào Biển Đông, như một bước ngoặt bất ngờ gây ra cuộc khủng hoảng Viêt-Trung (5/2014). Việt Nam đã phải trả giá quá nhiều và quá lâu, bởi những sai lầm của kẻ khác, cũng như của chính mình, trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, cũng như suốt thời hậu chiến (sau 1975), với cuộc chiến “bạn thù” với Campuchia và Trung Quốc. Sau bài học đẫm máu xung đột Viêt-Trung (2/1979), là bài học xương máu Thành Đô (9/1990). Đã đến lúc người Việt phải quyết tâm đổi mới tư duy, vượt qua ý thức hệ đã lỗi thời, để đổi mới thể chế và kiến tạo lại tương lai.
Có thể nói “thoát Trung” không phải là “bài Trung” (chống Trung Quốc) mà thực chất là đổi mới tư duy và ý thức hệ đã lỗi thời để đổi mới thể chế, nhằm kiến tạo một nước Việt Nam độc lập và tự cường, có thể bảo vệ được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc của mình. Nói cách khác, muốn “tái cân bằng tích cực” (active rebalance) với Trung Quốc, Việt Nam cần phải hợp tác chặt chẽ với các nước lớn (như Mỹ, Nhật, Ấn) trong khuôn khổ đối tác chiến lược vì an ninh tập thể, nhưng không nên quá phụ thuộc vào các nước lớn (như hiện nay đang phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc). Đã đến lúc Việt Nam phải đổi mới thể chế toàn diện, bao gồm đổi mới những nguyên lý cơ bản của chính sách đối ngoại, trong bối cảnh mới.
Thay lời kết
Trong một bài diễn văn để vinh danh TNS John McCain và TNS John Kerry vì đã đóng góp cho hòa giải Mỹ-Việt (Boston, 2001), Đại sứ Mỹ Pete Peterson nói: “Chiến tranh không chấm dứt khi ngừng tiếng súng…Chiến tranh chỉ thực sự chấm dứt khi hai bên hòa giải với nhau”. Nhưng hòa giải không chỉ diễn ra trên bàn đàm phán giữa hai chính phủ, mà còn diễn ra trên chiến trường xưa, giữa những cựu chiến binh đã từng bắn giết lẫn nhau, và trong lòng những người thân của họ (ở cả hai phía). Nó đòi hỏi phải vươt qua thù hận và định kiến.
Cách đây không lâu, cựu ngoại trưởng John Kerry đã nói tại một cuộc hội thảo tại California (10/10/2016): “Tôi đã từng chiến đấu tại Việt Nam. Chúng tôi tưởng là đến đây để ngăn chặn nơi này biến thành cộng sản… Nhưng nay chỉ có chủ nghĩa tư bản cuồng nhiệt tại Việt Nam”. Dù đúng hay sai, ông Kerry phản ánh một nghịch lý trớ trêu tại Việt Nam. Thực ra, đó cũng là “hệ quả không định trước” (unintended consequences). Nhưng đáng buồn là Việt Nam đang bị nhầm lẫn chạy theo những gì tồi tệ nhất của CNXH và CNTB. Đó là “CNXH thân hữu” để bảo kê cho thế lực “Tư bản Đỏ” (còn gọi là “các nhóm lợi ích”), lợi dụng “định hướng XHCN” để thao túng chế độ và cướp đoạt thành quả cách mạng của thế hệ trước.
Ông Phạm Xuân Ẩn, (“Điệp viên Hoàn hảo”) có kể với tôi một câu chuyện vui đầy nghịch lý. Khi ông đến gặp một quan chức CIA vừa mới tới Sài Gòn (khoảng năm 1961-1962), ông bạn Mỹ đã khuyên ông Ẩn phải cẩn thận với ông Ngô Đình Nhu. Khi ông Ẩn hỏi tại sao thì được ông ấy “bật mí” rằng ông Ngô Đình Nhu “có thể là cộng sản”. Ông Ẩn về kể lại câu chuyện đó với ông Nhu. Sau mấy giây ngỡ ngàng, ông Nhu phá ra cười. Khi ông Ẩn hỏi “tại sao toi lại cười?” ông Nhu đã trả lời (không biết đùa hay thật) “có lẽ nó nói đúng đấy…”. Việt Nam đầy nghịch lý. Nhưng có một nguyên lý cần phải nhớ là trên đời này “không có đồng minh hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn” (Winston Churchill).
Tham khảo
1. William Fulbright, “The Arrogance of Power”, Paperback, 1966)
2. Robert McNamara, “In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam”, Vintage, 1995
3. H.R. McMaster, “Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs, and the Lies that led to the War”, Harper, 1997).
4. Errol Morris, “The Fog of War: Eleven Lessons from the Life of Robert McNamara”, Sony Pictures Classics (documentary), May 2003.
5. Nguyen Quang Dy, “Iraq has revived the ghosts of Vietnam, Nieman Watchdog Discussion, May 31, 2006
6. Chris Reeves, “Did a Glowing Sea Creature Help Push the US Into the Vietnam War?”, Atlantic, July 11, 2017
7. Ken Burns & Lynn Novick, “The Vietnam War”, Florentine Films & WETA (documentary), September 2017
NQD.18/7/2017

Phần nhận xét hiển thị trên trang

BIỂN ĐÔNG: NHÂN NHƯỢNG HAY...?



Nguyễn Quang Dy

Kết quả hình ảnh cho Nguyễn Quang Dy
 

 
“Một dân tộc tìm cách tránh chiến tranh bằng cái giá của sự nhục nhã, thì cuối cùng sẽ nhận lấy cả sự nhục nhã và chiến tranh” (Winston Churchill).

Nhân nhượng Trung Quốc hay chiến tranh tại Biển Đông? Đó là cách nhìn bàn cờ Biển Đông bằng lăng kính trắng đen của một số học giả và chính khách phương Tây (và phương Đông). Về cơ bản, họ cho rằng đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc là “diều hâu”, sẽ dẫn đến chiến tranh, vì vậy phải nhân nhượng Trung Quốc. Đó là quan điểm nhầm lẫn của một số học giả như Hugh White (Lowy Institute) hay Lyle Goldstein (Naval War College).

Hệ quả của nhân nhượng

Thực tế bàn cờ Biển Đông vốn phức tạp với nhiều ẩn số và biến số, cũng như Châu Á là một bức tranh mosaic nhiều màu sắc đa dạng. Không thể thay đổi được bức tranh đó, nhưng cần thay đổi cách nhìn về nó, mới có thể tìm được giải pháp hiệu quả. Không nhất thiết phải nhân nhượng hay chiến tranh với Trung Quốc như trò chơi một mất một còn (zero sum). Một đường lối cứng rắn không nhất thiết dẫn đến chiến tranh, mà có khi còn ngược lại.
Trong tám năm cầm quyền, Tổng thống Obama đã nhân nhượng Trung Quốc, tuy ông và ngoại trưởng Hillary Clinton đề xướng chủ trương xoay trục sang Châu Á (hay tái cân bằng) và thúc đẩy Hiệp định TPP làm chỗ dựa để Mỹ và đồng minh kiềm chế Trung Quốc. Đó là một chủ trương đúng, nhưng thực hiện thiếu quyết liệt, vì nhân nhượng Trung Quốc. Tuần tra biển Đông (FONOPs) cũng làm chiếu lệ vì “đi qua vô hại” (innocent passage) như “tiếng kèn ngập ngừng” do Obama “lãnh đạo từ phía sau”. Một chính sách nhân nhượng như vậy (với lý do để tránh né chiến tranh) là phản tác dụng và có thể gây nguy hiểm cho khu vực.
Thứ nhất, Trung Quốc sẽ hiểu sự nhân nhượng đó là dấu hiệu nhu nhược, nên họ càng làm già, thậm chí còn tạo ra khủng hoảng để hù dọa chiến tranh (brinkmanship). Lãnh đạo Trung Quốc đã nắn gân Obama tuy có tư tưởng đúng nhưng thiếu quyết liệt nên họ không sợ, thậm chí coi thường. Vì vậy Trung Quốc đã tranh thủ chiếm bãi cạn Scarborough của Manila (2012). Trung Quốc biết Hạm đội 7 tuy rất mạnh, có nhiều tàu chiến và máy bay hiện đại, nhưng Nhà Trắng lại “non gan” (no balls). Lịch sử đã lặp lại từ năm 1974 khi Trung Quốc chiếm Hòang Sa, và năm 1988 khi họ chiếm một phần Trường Sa, nhưng Mỹ không phản ứng.
Thứ hai, các nước Đông Á cũng hiểu Mỹ nhân nhượng Trung Quốc là dấu hiệu nhu nhược, có thể bỏ rơi họ vì “nước Mỹ trước tiên” (America first), nên một số nước đã xoay trục ngả theo Trung Quốc. Các nước đồng minh của Mỹ (có căn cứ quân sự) như Philippines và Thailand đã xoay trục trước, bỏ Mỹ theo Tàu. Đó là một nghịch lý, do chính sách của Mỹ xô đẩy họ chứ thực sự họ không muốn thế. Các nước khác độc lập hơn, có truyền thống chống Tàu (như Việt Nam và Indonesia) cũng buộc phải ứng xử nước đôi bằng cách “đu dây”.
Thứ ba, Trung Quốc đã tranh thủ “cơ hội vàng” này để bành trướng và quân sự hóa Biển Đông, nhằm từng bước biến nó thành cái ao riêng của họ. Trung Quốc không chỉ muốn kiểm soát Biển Đông, mà còn độc chiếm luôn nguồn tài nguyên (dầu khí và đánh cá). Vì vậy, họ đã ráo riết thay đổi thực địa và áp đặt chủ quyền theo “đường lưỡi bò” (đã bị phán quyết của tòa PCA bác bỏ). Nếu Mỹ tiếp tục nhân nhượng thì đến năm 2030, Biển Đông sẽ trở thành cái ao của Trung Quốc (Asia-Pacific Rebalance 2025 report, CSIS, January 19, 2016).
 
Những dấu hiệu mới
 
Chính quyền Obama (và các chính quyền Mỹ trước đó) đã “có công” giúp Trung Quốc trỗi dậy bằng chính sách “Constructive Engagement”, nên họ đã trở thành “quái vật Frankenstein” (theo lời cựu Tổng thống Richard Nixon). Trung Quốc còn tham vọng muốn thâu tóm Biển Đông làm bàn đạp để giúp họ thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”, với quốc sách “Một vành đai, Một con đường”, nhằm vượt Mỹ để trở thành siêu cường đứng đầu thế giới. Đến lúc đó, nếu Mỹ muốn ngăn chặn Trung Quốc thì chắc đã quá muộn (too little too late).

Một số học giả theo trường phái realism, nhưng lại thiếu thực tế về khu vực, vì họ chỉ quan tâm đến cân bằng lực lượng giữa các nước lớn (như megapowers), mà không thực sự quan tâm đến lợi ích các nước nhỏ trong khu vực (như micropowers). Họ không quan tâm (hoặc vô cảm) trước thế giới mới với bản chất quyền lực đã thay đổi, và cấu trúc quyền lực đã chuyển dịch. Trong khi các megapowers bị suy tàn (decay) và mất dần quyền lực, thì các micropowers có vai trò ngày càng lớn hơn, không chỉ tại nước Mỹ mà còn khắp nơi trên thế giới.

Trong khi hệ thống quyền lực chính thống (mainstream) bị suy tàn (như Moises Naim lập luận trong cuốn sách “the End of Power”), thì Trumpism (và Brexitim) là hiện tượng mới bất thường, đang làm đảo lộn thế giới. An ninh quốc tế ngày càng bất ổn, đặc biệt là tại Biển Đông, trước nguy cơ Trung Quốc trỗi dậy, bắt nạt các nước láng giềng yếu hơn và đòi thay đổi trật tự thế giới. Liệu “Trục người lớn” (Axis of Adults) có ngăn được Trump trở thành “Chump” (như Tom Friedman cảnh báo) có thể làm Trung Quốc (chứ không phải Mỹ) vĩ đại trở lại (making China great again). Theo Richard Haass (Council on Foreign Relations president), chính sách đối ngoại của Trump là tạm bợ (adhocracy), dựa trên ứng phó (improvisations).

Nói cách khác, liệu James Mattis, PR McMaster, Rex Tillerson (MMT) có đủ khôn ngoan và thực tế để không trở thành những chính khách realist ngộ nhận lăp lại sai lầm tai hại, nhân nhượng Trung Quốc quá đà như chính phủ Chamberlain của Anh đã nhân nhượng Hitler bằng chính sách appeasement đầy tai tiếng trong lịch sử. Rốt cuộc, nhân nhượng kiểu Chamberlain không ngăn được nước Đức Phát xít thôn tính Châu Âu. Gần đây, phát biểu của James Mattis và Malcom Turnbull tại Shangri-La Dialogue (3/6/2017) là một dấu hiệu mới tích cưc là Mỹ và đồng minh Úc cứng rắn hơn với Trung Quốc, không để Trump bị ngộ nhận mắc mưu Tập Cận bình, trao đổi vấn đề Biển Đông với vấn đề Bắc Triều Tiên.

Điều đáng chú ý là những dấu hiệu điều chỉnh thái độ của Mỹ và đồng minh (như Nhật, Úc, Ấn) trùng hợp với điều chỉnh thái độ của Việt Nam đang xích lại gần Mỹ và Nhật, qua hai chuyến đi Mỹ và Nhật gần đây của thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. Thái độ của Hà Nội đã cứng rắn hơn về chủ quyền và thăm dò dầu khí tại Biển Đông, bất chấp đe dọa của Trung Quốc, muốn ép Hà Nội dừng hoạt động thăm dò dầu khí tại hai dự án nhạy cảm là Cá Voi Xanh (Blue whale) tại lô 118 (hợp tác với Exxon Mobil của Mỹ) và Cá Rồng Đỏ (Red Dragon Fish) tại lô 136-3 (hợp tác với Talisman của Úc/nay là Repsol của Tây Ban Nha).

Thay lời kết

Thái độ cứng rắn hơn của Hà nội phản ánh kết quả của những hoạt động ngoại giao tích cực gần đây giúp tăng cường cam kết và hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt và Nhật-Việt, không chỉ liên quan đến chủ trương khai thác tài nguyên dầu khí tại Biển Đông (oil politics) mà còn tác động đến trò chơi cân bằng quyền lực (power politics) trong tam giác Mỹ-Trung-Nhật. Một liên minh khu vực vì an ninh tập thể (a regional coalition for collective security) dựa trên nền tảng TPP, là một sự răn đe hiệu quả để duy trì hòa bình. Lời Mở đầu (Preamble) của Hiến chương UNESCO đã khẳng định, “Vì chiến tranh bắt đầu từ trong tâm thức con người, nên phải xây dựng phòng tuyến hòa bình ngay trong tâm thức con người” (Since wars begin in the minds of men, it is in the minds of men that the defenses of peace must be constructed).

Nếu Việt Nam trở thành đối tác chiến lược của Mỹ và Nhật, thì quy chế đặc biệt về Cam Ranh giành cho đồng minh là tất yếu, làm bàn cờ Biển Đông thay đổi. Thời gian không còn nhiều để tiếp tục trò chơi bập bênh và đu dây, trong khi Biển Đông đang trở thành cái ao của Trung Quốc. Khi Alexander Vuving viết “Ai kiểm soát Biển Đông sẽ thống trị châu Á, và bất cứ ai thống trị châu Á sẽ thống trị thế giới.” thì chắc chắn anh ấy nghĩ tới Trung Quốc. Chống lại nguy cơ đó, Mỹ không nhất thiết sa vào bẫy Thucydides như Graham Allison cảnh báo, mà ngược lại nhân nhượng Trung Quốc quá đà sẽ làm tăng thêm nguy cơ chiến tranh. Trong khi người Trung Quốc đánh ván cờ Biển Đông theo lối cờ vây, vận dụng binh pháp Tôn Tử (Sun Tzu) thì người Mỹ và phương Tây không nên chỉ chấp vào học thuyết Clausewitz.

Tham khảo
Ely Ratner, “The false choice of war or accommodation in the South China Sea”, Lowy Institute, 30 June 2017;
Hugh White, “South China Sea US policy must begin at home”, Lowy Institute, 26 June 2017
Ely Ratner, “Course Correction: How to Stop China’s Maritime Advance”, Foreign Affairs, July/August 2017)
Tom Friedman, “Trump Is China’s Chump”, New York Times, June 28, 2017
Doug Bandow, “Who Is Making U.S. Foreign Policy?”, National Interest, June 26, 2017
Lyle Goldstein, “The Main Problem with America’s Abundant South China sea Hawks”, National Interest, October 28, 2015.
Alexander Vuving, “Think again: Myths and Myopia about the South China Sea”, National Interest, October 16, 2015;
Lyle Goldstein, “The South China Sea Showdown: 5 Dangerous Myths, National Interest, September 29, 2015;
Alexander Vuving, “Trung Quốc sẽ làm gì ở Biển Đông?”, Đại sử ký Biển Đông, 21/2/2016.
Nguyễn Quang Dy, “Trung Quốc CÓ THỂ làm gì ở Biển Đông? Viet-studies, 26/2/2016

NQD. 1/7/2017
Tác giả gửi cho TNC


Phần nhận xét hiển thị trên trang

MẤT LÒNG DÂN THÌ CÒN GI ?


Publié par Tran Nhuong

 

Vũ Bình Lục

 
Kết quả hình ảnh cho Nguyễn Trãi
 

(Về bài thơ QUAN HẢI của Nguyễn Trãi)
 
Phiên âm:
QUAN HẢI
 
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,
Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên.
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ,
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỷ thiên niên.
Càn khôn kim cổ vô cùng ý,
Khước tại thương lang viễn thụ yên.
 
Dịch nghĩa:
ĐÓNG CỬA BIỂN
 
Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
Xích sắt giăng ngầm dưới sông cũng uổng công thôi.
Thuyền bị lật mới tin câu nói “dân như nước”,
Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
Hoạ phúc có manh mối, không phải chỉ trong một ngày,
Anh hùng để mối hận đến mấy nghìn năm sau.
Cái ý vô cùng của trời đất xưa và nay,
Lại nằm ở chỗ sắc nước trong xanh, làn khói trên chòm cây xa vời.
 
DỊCH THƠ
Bản dịch của Hưởng Triều:
 
Lớp lớp cọc lim chắn biển khơi,
Thêm ngầm dây sắt, uổng công thôi!
Lật thuyền, thấm thía: Dân như nước,
Cậy hiểm, mong manh, mệnh ở trời.
Họa phúc có nguồn, đâu bỗng chốc,
Anh hùng để hận, dễ gì nguôi.
Xưa nay trời đất vô cùng ý,
Dòng nước, chòm cây khói tuyệt vời...
 

Bản dịch của Huy Cận:
 
Rào lim lớp lớp ngăn triều,
Ngầm sông xích sắt xô theo sóng tràn.
Lật thuyền biết nước sức dân,
Cậy gì đất hiểm, không ngăn mệnh trời.
Mầm họa phúc rễ xa vời,
Anh hùng để hận ngàn đời thế gian.
Lẽ sầu trời đất khôn bàn,
Ấy nơi sắc nước mơ màng khói bay.
 

Bản dịch của Bảo Định Giang:
 
Ngăn sông cọc cắm càng dày,
Khóa sông dây sắt giăng đầy khó nên.
Sức dân như nước úp thuyền,
Nhờ chi hiểm yếu, do trên mệnh trời.
Khó xong họa phúc một ngày,
Hận anh hùng vẫn khó khuây bao đời.
Vô cùng trời đất xưa nay,
Chính nơi mây khói lùm cây bên dòng.
 

Bản dịch của Vũ Bình Lục:
 

Cọc gỗ vững ken dày trước sóng,
Xích sắt ngầm giăng khắp sông sâu.
Lật thuyền mới biết bởi đâu,
Dân như nước, đất hiểm sâu giúp gì!

Họa phúc có mầm, đâu một buổi,
Hận anh hùng, để mấy ngàn năm!
Lẽ trời kim cổ xa xăm,
Vẫn xanh sắc nước, tím bầm khói mây.
 
Bài thơ chữ Hán Quan Hải, (Đóng cửa biển), có lẽ Nguyễn Trãi viết sau chiến thắng chống quân Minh xâm lược. Tác giả quan sát và suy tư. Quan sát thiên nhiên nơi cửa biển Sắc nước bát ngát, mà suy tư về lẽ hưng vong của triều đại nhà Hồ ngắn ngủi, đồng thời cảm thán về nỗi đau uất hận của anh hùng thất thế.
Bài thơ thất ngôn bát cú luật Đường. Hai câu mở đầu, khơi nguồn từ một hiện thực như vẫn còn đang hiển hiện trước mắt:
Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển,
Xích sắt giăng ngầm dưới sông cũng uổng công thôi!
Cọc gỗ và xích sắt, đấy là những thứ mà nhà Hồ cho làm để chống quân Minh xâm nhập vào cửa biển nước ta. Công bằng mà nói, đó là những việc làm cần thiết đối với việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống ngoại xâm lúc bấy giờ. Có việc hơi giống tiền nhân Ngô Quyền chống quân Nam Hán, đời tiền Lê (Lê Hoàn) chống quân Tống, và đời Trần (Trần Hưng Đạo) chống Nguyên Mông, đóng cọc gỗ ở sông Bạch Đằng, cũng là để chống giặc phương Bắc. Nhưng tiền nhân thì thành công, còn cha con Hồ Quý Ly thì thất bại, cuối cùng bị bắt làm tù binh, rồi chết thảm ở đất giặc. Chỉ riêng Hồ Nguyên Trừng được tha, vì có tài, sau làm quan cho nhà Minh, có công chế tạo súng Thần cơ cho nhà Minh. Việc cũ đã qua, nhưng vật chứng vẫn đang còn đó, Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển / Xích sắt ngầm dưới sông cũng uổng công thôi!…như những chứng tích, rưng rưng hiển hiện trước mắt và trong tâm tưởng thi nhân, như thể một nỗi đau xót xa của lịch sử. Hai câu mở đầu, đã thấy rõ thái độ của tác giả.
Bốn câu thơ tiếp theo, luận về nguyên nhân của sự thành bại và anh hùng thất thế.
Nguyễn Trãi viết: Thuyền bị lật, mới tin rằng dân như nước / Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời / Hoạ phúc có manh mối, không phải một ngày / Anh hùng để hận mấy nghìn năm sau
Sử sách chép rằng, khi giặc Minh chuẩn bị xua quân sang xâm lược nước ta, cha con Hồ Quý Ly họp bàn tìm kế chống giặc. Người con cả, Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng nói rằng: Đánh thì không sợ, chỉ sợ lòng dân không theo! Quả đúng như sự thật đã diễn ra sau đó. Về quân sự, nhà Hồ không có tướng tài, đúng hơn là không thể tập hợp được nhân tài. Bản thân Hồ Quý Ly chỉ là một nhà quân sự kém cỏi. Mấy lần làm tướng đánh nhau với quân Chiêm Thành dưới triều Trần, Hồ Quý Ly đều thua trận, bỏ cả đại quân mà chạy tháo thân, lại còn gian manh đổ tội cho người khác, thu vén công lao về cho mình. Còn tướng lĩnh ở triều nhà Hồ, phần lớn chỉ là đồ gan chuột (Ý thơ Nguyễn Mộng Tuân). Vua tôi như vậy, làm sao thắng giặc? Huống nữa nhà Hồ mới đoạt vương quyền từ nhà Trần suy thoái, lòng dân chưa theo, làm sao có sức mạnh giữ cho con thuyền đất nước không bị lật? Dẫu có đóng cọc trước sóng biển, có giăng xích sắt ở cửa sông, có tìm đất hiểm xây thành đá vững bền, cũng chẳng thể nào ngăn được quân giặc dữ, khi mà lòng dân không theo! Trương Hán Siêu, trong bài phú sông Bạch Đằng đã viết: Giặc tan, muôn thủa thanh bình / Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao! Không có thiên thời, không có nhân hoà, không có “đức cao”, chỉ mới có địa lợi, làm sao mà thắng giặc? Bởi thế nên Nguyễn Trãi viết rằng Thuyền bị lật, mới tin rằng dân như nước (Dân chu thuỷ, phúc tín dân do thuỷ)! Chở thuyền là dân, làm lật thuyền cũng là dân. Không có sự ủng hộ của nhân dân, sao có thể làm nên sự nghiệp lớn lao? Vua tôi cha con bị bắt làm tù binh, nước mất nhà tan (Thuyền bị lật), Hồ Quý Ly bấy giờ mới kịp nhận ra, mới tin rằng sức dân như nước (Phúc tín dân do thuỷ). Bài học lịch sử ấy, đã có từ xa xưa, vậy mà cha con họ Hồ vẫn dẫm chân vào vết xe đổ, thật tiếc lắm thay! Tác giả có quy các nguyên nhân thất bại của nhà Hồ vào mệnh trời, thì cũng chỉ là trừu tượng hoá một sự thật lịch sử vào một khái niệm chung nhất, nhuốm màu sắc siêu hình mà thôi. Tuy nhiên, sau đó, tác giả lại quay về với một kết luận mang đậm màu sắc triết lý biện chứng:
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỷ thiên niên!
Thế nghĩa là mọi hiện tượng và sự vật đều có nguồn gốc sinh diệt cả. Như cái hoạ hoặc cái phúc kia, chẳng phải tự dưng mà đến, chẳng phải một ngày mà sinh ra, bởi thực ra nó đã có mầm mống cả rồi! Ví như cái này là Nhân (nguyên nhân) thì cái kia là Quả (kết quả) và ngược lại, như triết lý Nhân-Quả của Phật giáo vậy thôi! Để đất nước rơi vào thảm hoạ bị ngoại bang dày xéo, người anh hùng còn ôm hận đến mấy ngàn năm sau!...
Cha con Nguyễn Trãi từng làm quan cho nhà Hồ, nên Nguyễn Trãi có thể xem Hồ Quý Ly như một vị anh hùng? Tôi cho rằng, ở đây không hẳn chỉ là như vậy! Bàn chuyện thất bại của nhà Hồ, nhưng ở hai câu luận này, tác giả đã mở rộng phạm vi chủ đề, để gửi gắm tâm sự nói chung của những người anh hùng thất thế. Cũng không loại trừ đó là dự cảm về số phận của chính ông, chỉ ít năm sau đó, đã vướng hoạ tru di vô cùng xót xa thương cảm, cho đến nay, vẫn còn “mưng mủ” trong lòng bao thế thệ hậu sinh…
Kết thúc bài thơ, tác giả lại tiếp tục luận bàn, nhưng là sự luận bàn ở khía cạnh rộng rãi hơn, khái quát hơn, qua đó mà nêu chân lý khách quan, lại cũng hơi có vẻ siêu hình:
Càn khôn kim cổ vô cùng ý,
Khước tại thương lang viễn thụ yên.
(Cái lẽ của trời đất xưa nay thật là vô cùng,
Vẫn là ở chỗ sắc nước bát ngát, cây khói xa vời)
Cái lẽ của trời đất ở đây là gì vậy? Nó vô hình vô ảnh thật đấy, bởi vì nó là Vô cùng ý, sâu xa và cũng vô cùng màu nhiệm. Thực ra thì bản chất cái lẽ của Càn khôn kim cổ, tác giả đã nói ở trên rồi, ở đây chỉ là mở rộng để gửi gắm một nỗi niềm man mác buồn thương của người trong cuộc, của người đương thời mà thôi! Và cái ý vô cùng của trời đất, vẫn còn biểu hiện ở ngay đây, ở chỗ sắc nước xanh thẳm và bát ngát ngoài biển kia, ở chỗ Cây khói xa vời kia, như thể những chứng nhân bất tử cho sự thăng trầm dâu bể của cõi người!
Một bài thơ đầy ắp tâm trạng và vô cùng sâu sắc. Những bài học mà Nguyễn Trãi nêu trong bài thơ chữ Hán này, đến nay vẫn còn tươi mới, và sẽ mãi còn tươi mới. Để mất lòng dân thì còn gì? Câu trả lời duy nhất là sẽ mất tất cả! Nguy cơ an ninh đất nước bị đe doạ, đã thấy ở nhãn tiền. Dẫu có đóng cọc gỗ lim, giăng lưới sắt tất cả các cửa biển, dẫu có đội quân trăm vạn, vị tất đã có thể ngăn nổi quân xâm lược, mà những ai đó có thể mặc nhiên mà ngồi an hưởng phú quý hay sao?

Hà Nội 19-8-2011
V.B.L

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Biết được những giai đoạn thông thái trong cuộc đời mỗi người để khỏi phải trách mình bất tài, vô dụng


Mới đây, các nhà khoa học vừa công bố một khám phá thú vị: Khả năng làm toán hay khả năng đọc được cảm xúc của người khác của một người bình thường sẽ còn phát huy cho đến khi chạm đến độ tuổi trung niên hoặc thậm chí là hơn thế nữa.
Có thể bạn nghĩ rằng mình đã trải qua nhiều thăng trầm, thậm chí là đã đạt đến một giới hạn nào đó của bản thân trong cuộc sống, tuy nhiên các nhà khoa học lại chứng minh rằng còn rất nhiều khả năng đặc biệt của bạn sẽ được phát hiện ra và được hoàn thiện trong tương lai.
Joshua Hartshorne, nhà khoa học, đồng thời là tác giả tiên phong của một công trình nghiên cứu về sự thay đổi trí tuệ theo độ tuổi cho biết: “Ở bất kì độ tuổi nào, hầu hết chúng ta đều sẽ có khả năng vượt trội ở một vài khía cạnh, còn những khía cạnh còn lại thì kém hơn.”
Đối tượng tham gia công trình nghiên cứu khoa học này là hàng nghìn người trong độ tuổi từ 10 đến 90 tuổi. Họ được kiểm tra về khả năng ghi nhớ chuỗi từ, nhận dạng khuôn mặt, ghi nhớ tên và làm toán. Kết quả mà các nhà khoa học thu được đã chứng tỏ ở bất cứ độ tuổi nào cũng đều có một khả năng vượt trội.
18 tuổi: Khả năng vận hành não bộ và ghi nhớ chi tiết đạt tối ưu
Các nhà khoa học đã sử dụng bài kiểm tra Digit Symbol để kiểm tra một người từ sa sút trí tuệ đến tổn thương não bộ. Người tham gia phải cùng một lúc vận dụng một số khả năng nhận thức như tốc độ vận hành, duy trì sự tập trung và khả năng của thị giác bằng cách sử dụng các cặp số và kí hiệu.
Một phần bài kiểm tra cũng sử dụng thang đo trí tuệ người trưởng thành – Wechsler, một trong những phương pháp đo lường trí tuệ phổ biến nhất hiện nay. Sau khi nhận kết quả bài kiểm tra về sự thay đổi của trí thông minh theo từng độ tuổi, các nhà khoa học nhận thấy những người ở cuối độ tuổi vị thành niên đạt được kết quả cao nhất.
22 tuổi: Khả năng ghi nhớ những tên gọi xa lạ đạt tối ưu
Hầu hết người trưởng thành không giỏi trong việc ghi nhớ những thông tin không gợi lên ngữ cảnh, các chuyên gia thần kinh gọi hiện tượng này là nghịch lí Baker. Chẳng hạn, bạn có thể dễ dàng ghi nhớ trong đầu nghề nghiệp của một người là thợ làm bánh hơn là phải nhớ rằng người nào đó tên Baker.
Bởi vì khi nhắc đến thợ làm bánh thì ta sẽ hình dung đến màu sắc mùi vị của một chiếc bánh hay quá trình làm bánh, còn cái tên Baker chỉ đơn giản là một chuỗi kí tự. Khi đó, không hề có bất kì ngữ cảnh nào liên kết giữa người và tên gọi khiến ta khó lưu lại hình dung về người đó khi cần thiết phải nhớ ra.
Một nghiên cứu năm 2011 đã chỉ ra con người đạt tối ưu trong việc ghi nhớ các tên gọi mới trong những năm đầu độ tuổi 20.
32 tuổi: Khả năng nhận diện khuôn mặt đạt tối ưu
Não bộ con người có một năng lực đáng kinh ngạc về việc ghi nhớ và xác định những gương mặt khác nhau. Tính trung bình, khả năng này được nhận định sẽ phát triển tốt nhất không lâu sau khi con người bước qua độ tuổi 30.
43 tuổi: Khả năng tập trung tối ưu
Một nghiên cứu năm 2015 của Đại học Havard thực hiện cùng với Phòng nghiên cứu năng lực tập trung và học tập Boston đã chỉ ra rằng sự duy trì tập trung sẽ được cải thiện theo thời gian và đạt cực đại vào khoảng 43 tuổi.
Joe DeGutis, một trong những tác giả chủ chốt của công trình này, đưa ra nhận xét: "Trong khi những người trẻ tuổi vượt trội về tốc độ và sự linh động của việc dẫn truyền thông tin, thì những người ở độ tuổi trung niên lại hơn hẳn về khả năng duy trì sự chú ý".
48 tuổi: Khả năng hiểu rõ cảm xúc người khác đạt tối ưu
Không ít chàng trai cô gái trong giai đoạn hẹn hò thường bị trách không hiểu tâm lý đối phương. Chúng ta thường rất kém trong việc đọc cảm xúc của người khác cho đến khi chạm đến những năm cuối ở độ tuổi 40. Đối tượng tham gia nghiên cứu được cho xem qua hàng nghìn bức ảnh chụp những đôi mắt khác nhau và được yêu cầu miêu tả cảm xúc họ thấy khi xem ảnh. Kết quả thu được chính xác nhất là từ những người khoảng 48 tuổi.
50 tuổi: Khả năng giải những bài số học cơ bản đạt tối ưu
Nhiều người nghĩ rằng khả năng giải toán của họ sẽ bị mai một khi rời ghế nhà trường và ngừng tập luyện. Nhưng thật ra khả năng giải những bài toán cộng, trừ, nhân, chia vẫn chưa đạt đến đỉnh điểm cho đến khi bạn bước vào độ tuổi 50. Nói cách khác, "sẽ không có một độ tuổi nào mà con người có thể làm tốt nhất tất cả mọi thứ".
50 tuổi: Khả năng nhớ và hiểu những thông tin mới đạt tối ưu
Theo nghiên cứu của Hartshorne, tương tự như việc giải các bài toán cơ bản, khả năng nhớ và hiểu thông tin thường thức, những sự kiện lịch sử hay quan điểm chính trị, sẽ chưa đạt tối ưu khi con người chưa bước sang độ tuổi 50.
67 tuổi: Khả năng từ vựng đạt tối ưu
Theo như kết quả trắc nghiệm khả năng thông hiểu từ vựng, hầu hết những người tham gia trò chơi ghép từ đều không đạt được kết quả tốt nhất, trừ những người ở cuối độ tuổi 60 hay đầu độ tuổi 70.
Theo Ninh Linh
Trí thức trẻ

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thế giới – Bắc Triều Tiên.


Tổng thống Putin nêu phương án đầy bất ngờ để giải quyết vấn đề hạt nhân Triều Tiên

Tổng thống Putin nêu phương án đầy bất ngờ để giải quyết vấn đề hạt nhân Triều Tiên
Ông Putin phát biểu tại Diễn đàn kinh tế phương Đông (EEF) ngày 7/9 (Ảnh: TASS)
Trong khi Mỹ và đồng minh kêu gọi siết chặt cấm vận Triều Tiên, tổng thống Nga Vladimir Putin lại cho rằng cần phải để Bình Nhưỡng tham gia vào các dự án chung của quốc tế.
Phát biểu tại Diễn đàn kinh tế phương Đông (EEF), đang diễn ra ở Vladivostok, Nga, tổng thống Putin cho rằng gắn kết Triều Tiên với các chương trình quốc tế là cách để hạ nhiệt căng thẳng trên bán đảo.
Ông nhận định, "Triều Tiên cần phải dần dần được tham dự vào các mối hợp tác trong khu vực. Riêng phía Nga đã có một số đề xuất cụ thể mà mọi người đều biết, như xây dựng tuyến đường sắt chung để nối tuyến đường sắt xuyên Siberia với các tuyến đường sắt đi qua Triều Tiên, cũng như sự phát triển của các đường ống dẫn (dầu, khí...), trong đó có một số cảng của Triều Tiên".
Ông cho rằng việc gây ra bầu không khí căng thẳng về quân sự và leo thang đe dọa sẽ phản tác dụng.
"Họ (Triều Tiên) tin rằng chỉ có sở hữu vũ khí hạt nhân và công nghệ tên lửa mới là cơ hội duy nhất để bảo vệ chính mình," Putin nói. "Các bạn có nghĩ là họ sẽ sẵn sàng vứt bỏ tất cả những điều đó hay không?"
Theo tổng thống Nga, nếu đường hướng mà Nga đề xuất được áp dụng thì cục diện khu vực sẽ dần thay đổi, cũng như quan hệ giữa Bình Nhưỡng và Seoul.
"Và rồi chúng ta sẽ có thể kỳ vọng một số bước tiến mới. Tuy nhiên, việc dọa dẫm họ là bất khả thi."
Ông nói thêm, "chúng ta nên lo ngại, nhưng cũng cần hợp tác để giải quyết vấn đề. Tôi nhấn mạnh rằng chúng ta có đủ khả năng đạt được những kết quả tích cực", và khẳng định việc tiếp tục đầu tư vào các dự án khu vực hoặc có nhân tố Triều Tiên là khả thi.
Ông Putin bày tỏ tại EEF rằng, vũ khí hủy diệt hàng loạt sẽ không được sử dụng để giải quyết vấn đề của Triều Tiên, và xung đột sẽ không mở rộng. Khả năng xử lý tình hình là thông qua đối thoại.
"Giống như người đồng cấp Hàn Quốc của mình (tổng thống Moon Jae In), tôi tự tin rằng xung đột sẽ không mở rộng hay dính líu đến vũ khí hủy diệt hàng loạt, bởi tất cả các bên sẽ có đủ nhận thức chung về trách nhiệm với người dân trong khu vực, cho nên chúng ta sẽ giải quyết thành công vấn đề bằng con đường ngoại giao."
Tổng thống Putin nêu phương án đầy bất ngờ để giải quyết vấn đề hạt nhân Triều Tiên - Ảnh 1.
Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae In gặp tổng thống Nga Putin ngày 6/9 tại EEF (Ảnh: Sputnik)
Trước đó vào ngày 6/9, Bộ trưởng phát triển vùng Viễn Đông của Nga, ông Aleksandr Galushka cho biết sau cuộc gặp với phái đoàn Triều Tiên ở EEF: "Các đối tác Triều Tiên của chúng tôi hướng tới phát triển các mối quan hệ kinh tế và thương mại."
"Chúng tôi hướng sự chú ý của họ đến thực tế rằng các hoạt động hạt nhân và tên lửa đang kìm hãm cơ hội phát triển các liên hệ về kinh tế và thương mại, và hủy hoại nghiêm trọng khía cạnh kinh tế thương mại trong quan hệ song phương," ông nói. "Chúng tôi đã yêu cầu họ ngừng hành động như vậy trong tương lai, vì điều đó làm vô hiệu các nỗ lực của ủy ban liên chính phủ Nga-Triều."
Đoàn đại biểu Triều Tiên, do Bộ trưởng quan hệ kinh tế đối ngoại Kim Young Jae dẫn đầu, đã đưa ra một loạt đề xuất ở các lĩnh vực có khả năng hợp tác với Nga.
Trong cuộc gặp với ông Moon Jae In ngày mùng 6, ông Putin cũng bày tỏ sẵn sàng phát triển các mối liên hệ với cả Hàn Quốc lẫn Triều Tiên. Ông chủ điện Kremlin đề cập các dự án 3 bên gồm "cung cấp khí đốt từ Nga cho bán đảo, tích hợp lưới điện và mạng lưới đường sắt ba nước".
Lãnh đạo Mỹ - Trung điện đàm 45 phút về Triều Tiên
Lãnh đạo Mỹ - Trung điện đàm 45 phút về Triều Tiên
Tổng thống Mỹ Donald Trump (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gặp nhau tại dịp hội nghị G20 ở Hamburg (Đức) ngày 8-7. Ảnh: REUTERS
Ông Tập ưu tiên đối thoại, ông Trump lấp lửng về phương án quân sự.
Quan điểm của Trung Quốc giải quyết khủng hoảng Triều Tiên thông qua đối thoại và các biện pháp hòa bình một lần nữa được Chủ tịch Tập Cận Bình khẳng định với Tổng thống Mỹ Donald Trump trong cuộc điện đàm ngày 6-9.
Theo thông báo của Nhà Trắng, trong cuộc điện đàm kéo dài 45 phút hai lãnh đạo thống nhất sự nguy hiểm từ Triều Tiên, cam kết hợp tác vì mục tiêu giải trừ hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên.
Nói với báo chí sau cuộc điện đàm với ông Tập, ông Trump cho biết” “Chủ tịch Tập sẽ làm gì đó. Chúng ta chờ xem ông ấy có thể làm gì hay không”.
Khi được hỏi về phương án quân sự với Triều Tiên, ông Trump lấp lửng: “Chắc chắn đó không phải là lựa chọn đầu tiên, nhưng chúng ta sẽ chờ xem điều gì xảy ra”, cảnh cáo Mỹ sẽ không tiếp tục tha thứ cho hành động khiêu khích của Triều Tiên. Trong cuộc điện đàm với Thủ tướng Anh Theresa May ngày 5-9, Tổng thống Trump tuyên bố lúc này không phải lúc đối thoại với Triều Tiên, mọi khả năng đều được để mở để bảo vệ Mỹ và đồng minh.
Trong khi đó theo thông báo của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Tập đã nói với ông Trump rằng Trung Quốc kiên định với mục tiêu giải trừ hạt nhân bán đảo Triều Tiên và bảo vệ hệ thống không phát triển vũ khí hạt nhân quốc tế.
“Chúng tôi luôn luôn kiên trì bảo vệ hòa bình và ổn định trên bán đảo Triều Tiên và giải quyết vấn đề thông qua đối thoại và tham vấn. Cần thiết phải duy trì con đường tiến tới một giải pháp hòa bình” – Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn lời ông Tập.
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng dẫn lời ông Trump rằng Mỹ lo ngại sâu sắc về vấn đề hạt nhân Triều Tiên và đánh giá cao “vai trò quan trọng” của Trung Quốc trong giải quyết chuyện này.
Ông Tập nói Trung Quốc chờ mong chuyến thăm của ông Trump cuối năm nay. Lần điện đàm gần đây nhất của hai ông là vào ngày 12-8. Hai ông cũng hy vọng sẽ có một giải pháp hòa bình giải quyết vấn đề Triều Tiên.
Mỹ và các đồng minh cho rằng tình hình này Trung Quốc cấp thiết phải tăng áp lực hơn nữa với Triều Tiên. Hiện Mỹ và Hàn Quốc đang yêu cầu LHQ trừng phạt nặng Triều Tiên sau khi nước này thử hạt nhân lần 6 ngày 3-9.
Trung Quốc trước giờ vẫn ưu tiên đối thoại, từng nói mình không phải là nước có trách nhiệm chính trong kiềm chế Triều Tiên, cho rằng trừng phạt không giải quyết được vấn đề.
Khả năng Hội đồng Bảo an LHQ sẽ không thể thông qua nghị quyết trừng phạt mới với Triều Tiên khi không những Trung Quốc mà Tổng thống Nga Vladimir Putin ngày 6-9 cũng cho rằng trừng phạt không khiến Triều Tiên từ bỏ hạt nhân, tên lửa.
Ông Tập Cận Bình vừa bị Triều Tiên "đưa vào thế", làm đúng những gì Bình Nhưỡng mong muốn?
Báo Chosun Ilbo (Hàn Quốc) ngày 4/9 dẫn lời ông Peter Hayes, giám đốc Viện nghiên cứu Nautilus (Mỹ), nói "nhân vật mà vụ thử hạt nhân nhắm đến không phải là ông Trump, mà là ông Tập Cận Bình".
Theo ông Hayes, Bình Nhưỡng muốn lợi dụng phát ngôn từ lãnh đạo cấp cao nhất của Trung Quốc để thuyết phục tổng thống Donald Trump đưa Mỹ-Triều trở lại cơ chế đối thoại.
Triều Tiên được cho là chủ định lựa chọn trưa ngày 3/9, ngay trước phiên khai mạc hội nghị thượng đỉnh nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) ở Hạ Môn, Trung Quốc, để tiến hành thử nghiệm bom H (bom nhiệt hạch), như một cách cho thế giới thấy nước này là một cường quốc vũ khí hạt nhân, tiếp theo là thể hiện sự không hài lòng với các biện pháp cấm vận mà Bắc Kinh đang áp đặt với Bình Nhưỡng.
Nhưng đây không phải là mục đích cơ bản nhất. Trong bối cảnh Mỹ và các đồng minh kêu gọi tăng cường trừng phạt toàn diện Triều Tiên, việc đẩy mạnh thử nghiệm tên lửa và hạt nhân, có thể là một lá bài nhằm tìm kiếm đàm phán với Mỹ - Chosun bình luận.
Tờ Dong-A Ilbo (Hàn Quốc) cho rằng "cuộc đối thoại Mỹ-Triều sẽ đầy kịch tính". Phân tích việc Triều Tiên lựa chọn thời gian và phương thức tiến hành vụ thử hạt nhân, tờ này cho rằng mục đích của Bình Nhưỡng là tìm cách mở đường đối thoại.
Vụ thử hạt nhân là "xúc tác" để nhà lãnh đạo Kim Jong Un chiếm thế thượng phong trong cuộc đàm phán với Mỹ.
Tối 6/9 (giờ Bắc Kinh), hai ông Tập Cận Bình và Donald Trump đã có cuộc điện đàm đầu tiên từ sau vụ thử hạt nhân của Triều Tiên.
Trong điện đàm, hai lãnh đạo chỉ trích vụ thử hôm mùng 3 là hành động "thách thức và gây bất ổn", và con đường Bình Nhưỡng đang đi "gây nguy hiểm cho thế giới" - theo thông cáo của Nhà Trắng.
Nhưng thông cáo của Trung Quốc không hề đề cập cách diễn đạt cứng rắn trên. Tân Hoa Xã đưa tin, ông Tập nói với ông Trump rằng "Trung Quốc kiên quyết gìn giữ thể chế quốc tế về không phổ biến vũ khí hạt nhân, duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực, và giải quyết vấn đề hạt nhân bằng đối thoại".
Chủ tịch Trung Quốc kêu gọi dàn xếp vấn đề một cách hòa bình, "kết hợp đối thoại với các biện pháp toàn diện khác" là cách tốt nhất để tìm ra giải pháp lâu dài.
Dù ông Tập tái khẳng định lập trường của Bắc Kinh rằng bán đảo phải phi hạt nhân hóa, song Triều Tiên vẫn có được điều họ muốn khi giải pháp đối thoại được ông nhấn mạnh.
Việc chính phủ Trung Quốc cùng và Nga trong vài ngày qua chỉ trích phương án gia tăng cấm vận của Mỹ/đồng minh là không hiệu quả cũng mang lại lợi thế cho Bình Nhưỡng. Bởi sau khi bỏ phiếu thuận ở Hội đồng bảo an LHQ về nghị quyết trừng phạt Triều Tiên hồi tháng trước, Bắc Kinh không muốn phải tiếp tục thông qua một gói cấm vận cứng rắn hơn nữa.
Ông Trump (trái) và ông Tập gặp nhau tại Florida, Mỹ hồi tháng 4/2017 (Ảnh: AP)
Trong khi Nga, Trung Quốc đều có quyền phủ quyết ở Hội đồng, sẽ rất gian nan cho Mỹ trong nỗ lực thông qua gói cấm vận mới "đủ mạnh" để gây sức ép lên Triều Tiên.
Theo nhà nghiên cứu thuộc Viện Sejong Hàn Quốc Hong Hyun Ik, "Mục tiêu hiện nay của Bình Nhưỡng là vừa muốn sở hữu vũ khí hạt nhân vừa đối thoại với Mỹ; biến Hàn Quốc trở thành 'con tin' trong cuộc đối thoại của Triều Tiên, và nắm chặt vũ khí hạt nhân trong tay, đề phòng những sự trả đũa quân sự của Mỹ."
Vì vậy, trong chừng mực nào đó, Triều Tiên muốn bỏ qua Hàn Quốc, tiến hành đối thoại trực tiếp với Mỹ.
Viện trưởng Viện quốc tế thuộc Đại học Seoul, Hàn Quốc, ông Park Cheol Hee nhận định "chính quyền Triều Tiên đang bị đe dọa, họ cần phải có sự đảm bảo an toàn từ phía Mỹ".
"Nếu Mỹ và Triều Tiên đạt được thỏa thuận về việc Mỹ rút lực lượng khỏi Hàn Quốc hay giải trừ quan hệ đồng minh, thì Hàn Quốc sẽ rơi vào tình thế hiểm nghèo," ông Park lo ngại.
Soha.vn

Phần nhận xét hiển thị trên trang