(Các bác
Long Beo -
Đỗ Đại Gia không tìm thấy trên google, hai bài Đất nước.. và bài về bác Thọ muối. Tôi treo lại đây)
(Mục chân dung nhà văn- Đỗ Trường)
Có lẽ, không nơi đâu có sự hình thành hai luồng văn học thật rõ ràng như cộng đồng người Việt ở Đức. Sự khác biệt ấy, không chỉ về tư tưởng, mà còn về cả phương thức sáng tác. Hố ngăn đó, bởi nhiều nguyên nhân, nhưng lịch sử là yếu tố chính tạo nên hai dòng chảy này. Nếu những sáng tác của người Việt (thuyền nhân) vùng phía Tây là sự tiếp nối của văn học miền Nam, thì những sáng tác của người Việt ở miền Đông nước Đức là cánh tay nối dài của nền văn học bác Thỉnh (Hữu Thỉnh), bác Thiều (Nguyễn Quang Thiều) dưới sự dẫn dắt, chỉ đường của đồng chí Đinh Thế Huynh.
Trong bối cảnh ấy, từ trong cộng đồng đã xuất hiện một số cây viết mới. Tuy ở vị thế cũng như tư tưởng khác nhau, nhưng nó đã nói lên được nhiều điều về lẽ sống, con người. Và có thể nói, Nguyễn Văn Thọ là một nhà văn điển hình như vậy. Dù sống ở đất nước tư bản đang giãy chết đã khá lâu, nhưng ông là một trong những tác giả sung sức ở miền Đông nước Đức vẫn kiên định rọi soi tính Đảng vào trong những tác phẩm của mình.
* Hành trình đến với Quyên
Nhà văn Nguyễn Văn Thọ sinh năm 1948 tại Thái Bình, trong một gia đình có cha là họa sỹ khá nổi tiếng. Ông có những năm tháng dài trong quân ngũ. Thời gian này, ông cũng tập tành viết lách, nhưng không để lại dấu ấn. Có lẽ do tài năng, hoặc chưa gặp thời, gặp vận chăng? Sau chiến tranh trở về với nghề muối và mộng văn chương dường như đã tắt ngấm trong ông. Trong khung cảnh đói khát, bần cùng tịt lối không riêng Nguyễn Văn Thọ, mà của chung toàn xã hội đương thời. Là một Đảng viên trung thành, cần mẫn, do vậy ông đã được Đảng giải thoát bằng con đường xuất khẩu lao động tại Đông Đức, với tư cách đội trưởng.
Mấy năm sau bức tường Berlin sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Nga và Đông Âu tan rã, đe dọa nghiêm trọng đến chế độ nơi quê nhà. Những biến động ấy, như những nhát búa gõ vào tâm hồn, làm Nguyễn Văn Thọ bừng tỉnh. Và dường như ông cảm thấy phải có trách nhiệm trước sự tồn vong của chế độ. Vì vậy, Nguyễn Văn Thọ lại tìm đến văn chương, tuyên truyền, gieo niềm tin của Đảng đến đồng bào, không chỉ nơi hải ngoại. Thời kỳ này, ông đã viết khá nhiều truyện ngắn và thơ chủ yếu về dĩ vãng chiến tranh với anh hùng chiến sỹ thi đua, người tốt việc tốt... nhưng vẫn chưa gây được dư luận. Và sau này, nếu không có cặp mắt xanh của Đảng, đưa về với bác Thỉnh, bác Thiều, thì có lẽ, ông vẫn còn lẩn quất đâu đó, chứ không phổng phao, tên tuổi như bây giờ... Qủa thực, văn chương cũng có số phận như con người vậy.
Và từ đây, con đường văn thơ của ông phát tiết, đi đúng đường rày. Tiểu thuyết Quyên là một minh chứng hùng hồn nhất. Sau khi nhận giải thưởng của hội nhà văn, Quyên đã bế thẳng Nguyễn Văn Thọ xông vào lãnh địa điện ảnh, tuyên truyền. Làm ông sướng đến phát khóc.
Vâng! Nhà văn Nguyễn Văn Thọ là người dễ xúc động lắm, khi nghĩ về chiến tranh, nghĩ đến tình thương yêu của Đảng luôn làm ông sụt sùi rơi lệ. Thật chẳng ngoa tẹo nào, có người bảo, cứ đà này, ông sẽ trở thành nhà “khóc học“ chứ chẳng chơi.
Chúng ta hãy đọc lại đoạn trích lời ngợi ca của nhà văn Nguyễn Văn Thọ, nhân lần thứ 80 ngày sinh của Đảng, để thấy rõ tình yêu Đảng trong ông dạt dào biết nhường nào: “...Lịch sử 80 năm Đảng Cộng sản Việt Nam là lịch sử hai lần thiên tài. Một đội quân ban đầu chỉ có gươm, mác, súng kíp và tầm vông, mà hai lần đánh thắng hai đế quốc lớn nhất thế giới: Pháp và Mỹ, hoàn thành sứ mạng, thống nhất giang sơn về một mối. Ở khắp nơi trên thế giới người ta đã biết đến Việt Nam, một dân tộc anh hùng bất khuất và điều ấy một lần mang lại niềm tự hào cho người Việt Nam. Lần thứ hai, khi phe xã hội chủ nghĩa tan rã, nhiều quốc gia tưởng vững mạnh đã sụp đổ, song nước Việt Nam vẫn đứng vững, lại tìm ra giải pháp đổi mới toàn diện để vượt qua những giai đoạn đau khổ nhất sau 4 cuộc chiến tranh, đưa đất nước Việt Nam từ một nước đói nghèo, trở thành một quốc gia có vị thế đáng nể trên thế giới..."
Có nhiều ý kiến và dư luận cho rằng, diễn văn ngợi ca trên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ là thẻ thông hành đưa Quyên đến với điện ảnh một cách tưng bừng, rầm rộ, tốn kém như vậy. Tuy nhiên, tôi nghĩ khác, đường đường là một nhà văn, đời nào bác Thọ lại làm một cái công việc hèn mạt, bẩn thỉu ấy. Nhưng hôm rồi, có ông bạn dí màn hình Ifon vào mặt bảo: Ông không nhìn thấy bác Thọ Muối đang nghiêng mình, suýt bật khóc, trịnh trọng cảm ơn ông Trương Xuân Thanh, trưởng lãnh sự quán sứ quán VN tại Franfurt, người đã đưa Quyên đến với điện ảnh sao?
Điều này, làm tôi phân vân tự hỏi, lẽ nào những ý kiến và dư luận trên là sự thật? Bởi đồng chí Trương Xuân Thanh là Đảng, là chính phủ Việt Nam ở Đức.
Nhưng thôi, điều này không còn quan trọng nữa. Bởi hiện tại, dường như nhà văn Nguyễn Văn Thọ đã trở về Việt Nam được gần Đảng, gần các đồng chí và ôm Quyên của mình. Dù ông vẫn hưởng tiền trợ cấp xã hội hay hưu trí (?) của thằng tư bản được cho là kẻ thù của giai cấp (đỏ).
Trước đây, tôi đã đọc một số truyện ngắn của Nguyễn Văn Thọ, quả thực, văn và tư tưởng của ông không phải là thứ tôi thích. Thời gian sau, tôi đọc Quyên, nhưng đành phải dừng lại chương thứ 7 hoặc 8 gì đó. Gần đây, độp một phát, lại thấy rầm rộ Werbung quảng cáo Quyên và bác Thọ đã ẵm nhau lên phim. Với những lời lẽ đao to búa lớn này, làm cho tôi giật mình. Có lẽ, trước đây mình đã sai lầm, để lọt Quyên chăng? Tôi lọ mọ tìm Quyên và bác Thọ để đọc. Đọc xong, tôi lại thấy tiếc, bởi, giá như đừng đọc hết cuốn sách, có lẽ sẽ còn tia hy vọng hay một chút gì đó còn đọng lại, nhưng đọc xong, thấy trống rỗng, trôi tuột đâu mất rồi.
Hôm chiếu Quyên tuyên truyền trên Berlin, tôi gọi điện hỏi nhà văn Võ Thị Hảo, có đi xem phim không? Chị bảo, có vé mời, nhưng nhân cách của Nguyễn Văn Thọ không đáng để xem, nên chị không đi. Rồi chị xuống giọng: Đỗ Trường cũng đi xem à! Tôi trả lời, không có thời gian, hơn nữa truyện què cụt, có lẽ, phim còn cơm nguội hơn!
Phải nói, tôi là người chưa bao giờ tham gia hội đoàn hay hội họp, có chăng ngày lễ tết, anh em bạn bè riêng tư gọi đến đàn hát cho vui vậy thôi. Nên tôi không va chạm, ít để ý đến những sinh hoạt cộng đồng. Nhưng không hiểu sao, chẳng riêng gì ở Đức, mà ở Ba Lan hay Tiệp… cũng vậy, trong bữa nhậu, tiệc tùng cứ nhắc đến tên nhà văn Nguyễn Văn Thọ, y rằng nghe được những lời bàn cãi. Hôm 28-6 vừa rồi, sinh nhật ông bạn ở câu lạc bộ 100 Erfurt. Bia, rượu vào, người đã tưng tửng, tôi cầm đàn hát ông ổng… rồi lôi cả mấy bài thơ con cóc của mình ra đọc. Có ông bạn cũng ngân ngất, có vẻ khoái, kéo thốc tôi ra, giới thiệu với một bác già, có lẽ đến bảy bó (70). Ông bác nhìn tôi gằm gằm từ đầu đến chân, cảm giác còn kinh hơn cả gặp an ninh VN, gằn giọng như định tiu nhau:
- Các ông viết gì, làm gì cũng được, đừng như Thọ Muối thì buồn lắm đấy!
*Quyên, một tác phẩm què quặt, nặng tính tuyên truyền.
Một tác phẩm văn học nghệ thuật dù có sử dụng bất cứ hình thức, thể loại, vòng vo trừu tượng, siêu hình hay gì gì... đi chăng nữa, rốt cuộc đối tượng vẫn phải là con người gắn liền với xã hội đương thời. Nếu tác phẩm ấy, không đi đến tận cùng của sự thật một cách trung thực, thì nó chỉ là những trang viết què cụt, bệnh hoạn.
Thật vậy, khi đọc Quyên của Nguyễn Văn Thọ, ta thấy thiếu hẳn bối cảnh xã hội Việt Nam đương thời. Và những lý giải, tại sao rất nhiều thành phần trí thức như Dũng, như Quyên cũng như dòng người Việt phải vượt rừng trốn chạy, một cách rất mơ hồ. Thiết nghĩ, việc lấy 40 năm chiến tranh để che đậy, biện giải cho sự đói nghèo, dẫn đến những cuộc di dân của tác giả là đưa tuyên truyền chính trị một cách gượng gạo vào tiểu thuyết. Vâng! Dù tác giả có cố tình che đậy, thì cho đến hôm nay, tức là sau hai mươi năm, sâu bọ vẫn tiếp tục sinh sôi, nảy nở như chính ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang đã nói. Sự thối nát, cũng như hiện tại và tương lai đang đi vào ngõ cụt đó mới chính là nguyên nhân trốn chạy của những Thuyền nhân, Tường nhân, rồi đến Dũng, đến Quyên... là những “Rừng nhân“. Đoạn trích dưới đây, cho ta thấy được sự tuyên truyền nhàm chán ấy: “Vâng, chúng tôi xin ghi nhận! Xin ông (bà) kiên trì chờ đợi phán xét của Tòa án liên bang. Đó là câu nói cuối cùng, rất lịch sự, tràn trề hy vọng, dành cho mọi đối tượng tới từ một xứ sở gần 40 năm với 4 cuộc chiến đẫm máu, đang chuyển mình sang kinh tế thị trường với cả thành công và thất bại.
Như vậy, sở ngoại kiều, suy cho cùng, người ta đều biết tỏng thực chất xin cư trú của người Việt đều là vấn đề cơm áo gạo tiền, chứ chẳng có nguyên nhân nào khác. Họ cũng biết tỏng, sự mong muốn thoát khỏi cảnh đối nghèo đã đẩy bao người Việt tới đây bằng mọi giá đắt, với nhiều con đường khác nhau “(Quyên-nguồn watt.pad.com)
Sự trốn chạy của hàng triệu người sau 30-4-1975, và mấy chục ngàn người Việt từ Đông Âu, từ Việt Nam vượt tường, vượt rừng thoát sang Tây Âu sau năm1989, sách báo và một số nhà nghiên cứu trong nước gần đây cho rằng, đó là hiện tượng di dân. Một lời lý giải đậm tính ngụy biện, cả vú lấp miệng em, đánh tráo khái niệm một cách trắng trợn. Sự đánh tráo khái niệm này, phải chăng nhằm che đậy, xóa nhòa những sai lầm và tội ác của chế độ đã gây ra với chính những người anh em cùng chung giống nòi?
Đọc Quyên, ta có thể thấy, tuyên truyền không chỉ áp đặt trong tư tưởng, mà còn được cài đặt vào từng câu thoại của nhân vật. Vừa tới Đức, chưa biết tiếng, cũng như chưa chạm đến văn hóa và luật pháp nước sở tại, nhưng tác giả đã ấn vào miệng nhân vật Quyên một câu sặc mùi tuyên truyền giả tạo: “- Anh Kumar này. Anh Phi sẽ sống ra sao? Anh ấy vừa ra tù. Một người vừa ra tù, không họ hàng, không bạn thân, không vợ con... Ở nước Đức này, người có án thực khó mà có một cơ hội để có công ăn việc làm tử tế. Anh ấy đang cần chúng ta, như ngày nào em cần ai đó giúp đỡ. Ngày mai chúng ta tới thăm Phi, anh ạ.” ( Quyên- chương 10)
Vâng! Câu nói này, chắc chắn phải đảo ngược lại ở nơi lý lịch hóa con người như ở Việt Nam: Ở Việt Nam, người có án khó mà có một cơ hội để có công ăn việc làm tử tế. Có lẽ, ai đã từng sống ở Đức sẽ hiểu rõ, người Đức không lý lịch hóa con người và khái niệm lý lịch rất xa lạ với họ. Hết tù hết tội, hoàn toàn có cơ hội xin việc làm như những người bình thường khác. Tuy nhiên, người mới ra tù sẽ bị tạm cấm, làm chủ các nhà hàng, công ty, nhà máy trong một thời gian ngắn, luật pháp qui định rõ ràng. Sống và làm việc ở Đức đã 30 năm, chỉ một lần duy nhất tôi phải khai lý lịch, khi vào quốc tịch. Thật ra, lý lịch (Lebenlauf) ở Đức cũng chỉ khai sơ sơ vợ con, học vấn, nghề nghiệp. Tuyệt đối, không có mục cha mẹ, anh em họ hàng như ở Việt Nam. Sống và làm việc lâu năm ở Đức như nhà văn Nguyễn Văn Thọ hiển nhiên phải biết rõ điều này.
Có thể nói, khi viết Quyên, nhà văn Nguyễn Văn Thọ thiếu sự trải nghiệm, với sự quan sát hời hợt dẫn đến không có sự đồng nhất (logic), làm cho hình ảnh trở nên giả tạo. Ta có thể thấy nó ngay những dòng đầu cuốn sách, khi miêu tả Quyên bị hãm hiếp. Một người đàn bà 24 tuổi, trải qua nhiều ngày đói khát, rét mướt, vượt biên trốn chạy đến nỗi chiếc quần cũng trở nên cứng queo, thì dứt khoát mặt phải bạc đi, môi miệng thâm lại hôi hám, đùi, da phải tái choắt đi, nhất là trong hoàn cảnh sợ hãi đến tận cùng, khi bị hiếp dâm. Chứ làm sao mà thon thả, mịn màng, mơn mởn nõn nường, như tác giả miêu tả. Hơn nữa, một kẻ sống giữa rừng bẩn thỉu, lại mùa đông giá rét, củi đốt ám khói cả ngày, làm sao mà tóc nàng đổ xòa trên tấm ga trắng muốt, như trong khách sạn sang trọng bốn, năm sao vậy?
Vâng! Dù có tiểu thuyết hóa, thì những tình tiết, tâm lý, hành động cũng phải có tính logic của nó. Ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây để thấy rõ sự phi logic, thiếu trải nghiệm của tác giả:
“Cô gái vùng vẫy, giằng xé, cắn vào bàn tay thô ráp của gã khi áo ngoài, áo lót lần lượt bị giật tung. Chiếc quần Jeans, sau bao ngày lẩn lút, bươn lội từ Nga, trong rừng thẳm, tuyết dày, đẫm mùi mồ hôi và nước, trở nên cứng queo đến khó cởi vẫn bị lột phắt. Trên nệm, phơi ra cặp đùi trần đang độ thanh xuân, thon thả, mịn màng, mơn mởn nõn nường. Gã đổ người xuống.
Cô gái biết rõ con rắn đã trườn trên da thịt mình, từng centimet. Cô tiếp tục cố oằn lên, nghiêng mình, rãy, chéo đùi. ‘‘Đồ đĩ! Giạng chân ra!” Giọng khàn đanh, lạnh lùng cất lên và tiếp đó, một cái tạt tai giáng sượt phía trái mái tóc. Chiếc cặp nhựa màu nâu văng ra đập vào tường gỗ nghe khô khốc. Mớ tóc cắt ngang lưng, dầy, đen tuyền xõa tung, đổ xòa trên tấm ga trắng muốt. Gã dướn lên, thúc mạnh...” ( Quyên-chương 1, những dòng đầu cuốn sách)
Tôi không rõ, những giải thưởng của Hội nhà văn VN được chia đều cho những vùng miền hay do sự thẩm định yếu kém của hội đồng chấm giải. Hoặc vì những lý do khó nói sau tấm màn nhung, mà những năm gần đây, ta thấy những tác phẩm ẵm giải đều yếu kém về nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật. Tiểu thuyết Quyên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ là một trong những số đó.
Qủa thực, Quyên là cuốn tiểu thuyết có giọng văn khá đơn điệu, bởi cả cuốn sách khá dài, nhưng rất ít ngôn ngữ đối thoại ngắn gọn sinh động của nhân vật. Dẫu biết rằng cuốn sách này, được ra đời từ những truyện ngắn trước đó của ông, với những suy tưởng, độc thoại nội tâm, nhưng đưa ghép vào tiểu thuyết vẫn giữ lời kể của tác giả và từ ký ức của nhân vật. Sự rề rà đó làm cho người đọc có cảm giác mệt mỏi. Cũng từ lý do đó, khi đọc Quyên, chúng ta bắt gặp sự trùng lặp trong hành động, suy nghĩ của nhân vật, cũng như câu văn, đoạn văn thừa và tối nghĩa. Đoạn văn thừa câu, tối nghĩa dưới đây, chứng minh điều đó:
“Năm sắp hết. Sát Noel Quyên có tin vui. Cô nhận được giấy định cư chính thức. Tin ấy làm Kumar bất ngờ, tuy rằng trước đó nửa tháng, mẹ của Kumar gọi điện báo tin rằng, bà đã lo xong thủ tục, giấy tờ sang thăm một người họ hàng ở Anh và sẽ từ Anh sang Đức thăm con trai vào tháng sau” (Quyên -chương 11)
Tôi xin phép nhà văn Nguyễn Văn Thọ thử chữa lại đoạn văn trên. Câu đầu hoàn toàn thừa, có thể loại bỏ, bởi Noel ai cũng biết vào những ngày cuối năm. Từ Sát, ta có thể thay bằng tính từ Gần. Thay từ tuy rằng, bằng từ cùng với, bỏ đi một số từ thừa và đưa sự bất ngờ xuống dưới... Cả đoạn văn độc lập rất tối nghĩa này, có thể rõ ràng, sáng và sạch đẹp hơn chăng?:
“Gần Noel Quyên có tin vui. Cô nhận được giấy cư trú chính thức. Cùng với điện báo từ nửa tháng trước mẹ của Kumar đã lo xong thủ tục, giấy tờ sang thăm họ hàng ở Anh và sang Đức thăm con trai vào cuối tháng, tin này đã làm cho Kumar bất ngờ”.
Và nếu nói, một cuốn sách hay, tự đi bằng hai chân của mình, thì bác Thọ phải cõng Quyên đến thày thuốc Thỉnh, Thiều, để điều trị đôi chân què quặt của nó là vậy.
*Xa lánh cộng đồng, một sự bệnh hoạn trong tâm hồn Quyên
Có thể nói, tình dục đã xuyên suốt tiểu thuyết Quyên. Không biết, là người trải nghiệm hay có trí tưởng tượng một cách tuyệt vời, mà nhà văn Nguyễn Văn Thọ tả những pha tình dục rất thật và trần trụi đến như vậy. Thực ra, nói một cách văn hoa tình dục hay Sex là hương vị của tình yêu, nét đẹp văn hóa. Khi đưa vừa đủ vào tác phẩm văn học, nghệ thuật, nó như một thứ gia vị vậy. Nhưng gần đây, văn học cũng như điện ảnh, một số tác giả đã lạm dụng Sex để câu khách, câu người đọc, làm nó trở nên nhớp nháp, biến dạng.
Viết đến đây, chợt tôi nhớ lại một câu chuyện đã lâu, nhưng nó lại gần với đề tài sex, siếc này: Những hồ, bãi tắm tự nhiên ở Đức, hình như nơi nào cũng dành một khu cho những ai muốn tắm, phơi nắng trần truồng. Ngày mới sang, chúng tôi thấy mới nên khoái, rủ nhau ra hồ (FKK). Đến nơi chẳng thằng nào đủ dũng khí cởi quần áo, trần như nhộng giống những người xung quanh. Mặc nguyên quần áo thấy kỳ, nên chúng tôi giả vờ đến Imbiss mua bia, lai rai. Tắm chán, đói, các cô mười sáu, mười bảy, mảnh mai, thon thả đến các bà sồn sồn, tồng ngồng lên mua đồ ăn. Chà chà... trắng, vàng, hồng, rực cả một góc trời, nhìn như một bầy thiên nga đang hạ thế. Ấy vậy, chỉ một vài lần chúng tôi chán, không còn hứng thú ra bãi tắm nữa. Mùa hè năm 1988 có đoàn công tác của Bộ Nông Nghiệp, do thứ trưởng Nguyễn Thiện Luân và GS-TS Nguyễn Ngọc Kính dẫn đầu sang công tác, công teo gì đó, nhờ chúng tôi đưa đi. Có bác hăng lên, mang theo cả ống nhòm, đứng núp từ bụi cây xa “mục sở thị”. Đúng một lần như vậy, rồi không thấy bác nào nhắc, nhờ đưa đi bãi tắm tiên nữa. Từ đó, tôi rút ra một điều, những cảnh trần trụi, kịch đường tầu như vậy đã làm giảm mất sự tò mò, khám phá lâu dài. Hơn nữa, nó không thích hợp với nếp suy nghĩ, tâm hồn, văn hóa sinh hoạt của người Việt và những nước Á Châu, chịu ảnh hưởng lâu đời của Phật giáo, nho học.
Như vậy có thể thấy, do quá lạm dụng tình dục, nên Quyên luôn luôn được miêu tả trong những hoạt động sinh lý, hoặc nghĩ về tình dục, có rất ít những tình huống văn hóa để nhân vật này biểu lộ Việt tính của mình. Tuy nhiên, hai lần tác giả đưa ra tình huống văn hóa, thì Quyên đã làm người đọc thất vọng. Đó là hành động tụt quần trả ơn Phi bằng tình dục và đặc biệt hơn khi Quyên và Kumar đã thành một gia đình 8 năm. Khi mẹ Kumar từ Anh sang, Kumar đã bàn bạc, đưa Quyên tạm lánh vài ba ngày, để anh thuyết phục mẹ. Nhưng Quyên cương quyết từ chối, bộc lộ tính ích kỷ, nếu không muốn nói là phũ phàng, rồi dẫn con bỏ đi tìm Hùng. Việc để Quyên đột ngột đưa hài cốt Hùng về Việt Nam theo tôi là kiêng cưỡng, dẫn dắt, xử lý rất non tay của tác giả.
Do chưa thực trải nghiệm, nên nhà văn Nguyễn Văn Thọ viết về tị nạn và công việc liên quan đến công tác xã hội chưa được thuyết phục. Có thể nói, tất cả các trại tị nạn trên nước Đức ngoài những nhân viên xã hội, phiên dịch ra còn có khá nhiều các hội đoàn, hoặc cá nhân thiện nguyện giúp đỡ các đồng hương mới đến.
Điều này, tôi là người tị nạn đã trải nghiệm qua thực tế, từ trại Spandau Tây Berlin đến trại Ingelheim những ngày cuối năm 1989. Sau này, qua lại các trại người Việt tị nạn ở Halberstadt và Halle, tôi thấy, chỗ nào người tị nạn cũng nhận được sự giúp đỡ như vậy, bất kể người đó là ai và từ đâu đến.
Ta có thể thấy, người Việt thường tìm về, sống co cụm vào từng khu và tình người cùng hoàn cảnh xa quê hoàn toàn khác, xa lạ với những gì trên trang văn. Dẫu biết rằng, không đem cái thật của ngoài đời soi rọi vào tiểu thuyết. Nhưng bối cảnh hay hành động nhân vật trong tình huống cụ thể dứt khoát phải như thật.
Trong bối cảnh như vậy, nhưng tác giả đã cường điệu hóa, đẩy Quyên vào hoàn cảnh như tuyệt vọng, ngay trước cả những đồng hương của mình và luôn luôn có những suy nghĩ và hành động tách rời, lìa xa họ: “Cô phải đi thôi. Cô không nên nấn ná ở đây. Có thể tới Sở Ngoại kiều, trình bày thật hoàn cảnh của cô, để chuyển trại. Cách xa đây hai ba trăm cây, nghe nói có một trại nữa, heo hút trong một cánh rừng, ít người Việt Nam. Càng ít người Việt càng tốt. Cô nghĩ như thế rồi nhắm mắt đếm. Lát sau Quyên chìm trong giấc ngủ.“ (Quyên-chương 7)
Có thể nói, Nguyễn Văn Thọ đã miêu tả thành công không chỉ một nhân vật Quyên với những hoạt động tình dục và độc thoại nội tâm, dù trong bất kể hoàn cảnh nào. Nhưng ông đã thất bại về xây dựng nhân cách cũng như văn hóa ứng xử của Quyên.
Trên đây là những suy nghĩ chủ quan của cá nhân tôi về văn thơ, cũng như con người nhà văn Nguyễn Văn Thọ. Không biết đúng sai thế nào, nhưng gấp (cuốn) Quyên lại, dường như chỉ còn đọng trong tôi, một nhà Sex học, tình dục học tài ba Nguyễn Văn Thọ.
Leipzig ngày 10-7-2015
Đỗ Trường