Fb Lăng khắc Trọng (Canhsat4sao) bị chặn 3 ngày kể từ lúc 11h trưa ngày 4/5/2017 với lý do : Chúng tôi thông báo cho bạn rằng...Bạn đã vi phạm nội quy...và quản trị fb cũng đăng luôn cả stt được cho là vi phạm. Nội dung stt là toàn văn phát biểu của ông Cảnh trưởng ban tuyên giáo huyện Hoài đức nói với nhân dân xã Đồng tâm hôm trước khi được thả ra sau 1 tuần giam giữ.
Thực chất bài phát biểu này là công khai giữa thiên hạ dân Đồng tâm được báo chí đăng tải.Chứ tôi không sản xuất được.
Hiện tại vẫn cho tôi mở xem và đọc nhưng các phần đăng stt,comment,tin nhắn đã bị khóa
Thật khó hiểu với cách làm việc của Facebook Việt nam. Xin thông báo với bạn theo dõi fb Lăng Khắc Trọng được biết. Vậy kính báo để bạn bè biết. Xin cảm ơn ! Xem Facebook Lăng Khắc Trọng
Hai chữ “Giang Hồ” gần đây được nhắc tới trên cộng đồng mạng, đó là đề tài thời sự nóng hổi... Bài viết dưới đây chỉ nói về giới giang hồ của “Sài Gòn xưa”, trong một cuốn sách đã được xuất bản tại Hoa Kỳ: “Hồi ức Sài Gòn”. Qua bài viết này, người đọc có thể nhìn “giang hồ” qua hai lăng kính Xưa và Nay.
***
Giang hồ, theo một số học giả, có chiết tự từ tên con sông Tam Giang và hồ nước Ngũ Hồ bên Tàu. Đây là những địa danh có nhiều người đến ngao du, ngoạn cảnh. Thế nhưng, khi nói đến dân giang hồ người ta liên tưởng ngay đến những tay anh chị ‘lục lâm thảo khấu’, ‘đầu trộm đuôi cướp’, ‘đâm thuê chém mướn’ hay nói theo từ vựng của thời nay là ‘xã hội đen’.
Thế giới ngầm thường chứa đựng nhiều huyền thoại vì người ta thường thêm thắt những chi tiết không có thực để tô điểm về cuộc đời của các ‘anh hùng hảo hán’. Trong bài viết này, tác giả giới thiệu 3 loại giang hồ điển hình của Sài Gòn xưa: giang hồ trí thức, giang hồ lục lâm và giang hồ anh chị.
Giang hồ trí thức: Sơn Vương Trương Văn Thoại
Nhân vật ‘giang hồ - trí thức’ nổi tiếng ở miền Nam, thập niên 30, là Sơn Vương Trương Văn Thoại với thành tích 34 năm ngồi tù, trong đó có 32 năm khổ sai ở Côn Đảo. Ngoài việc nổi tiếng là một tên cướp ‘trọng nghĩa’ và ‘hào hoa’, Sơn Vương còn là một nhà văn được nhiều người đọc hâm mộ.
Ở vào tuổi thanh niên, Trương Văn Thoại vùi đầu vào sách, từ loại kiếm hiệp Tàu và tiểu thuyết Tây viết về những tên cướp nghĩa hiệp, từ Robin Hood của A. Dumas đến Carmen của Merimée. Đặc biệt, Trương Văn Thoại cực kỳ say mê nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn Phú Đức: Bách-xi-ma lái ... ‘khúc dồi’ phóng như bay đuổi theo Hoàng Ngọc Ẩn đang cưỡi trên ... Điếu Xì Gà.
Cuối năm 1925, mới hơn 16 tuổi, Trương Văn Thoại đã quyết chí bỏ làng theo tiếng gọi… giang hồ. Anh thanh niên giàu nghĩa khí đã bỏ ra hơn 6 năm trời lăn lộn khắp vùng núi Thị Vải, núi ông Trịnh, núi Mây Tào ở Long Hải, Bà Rịa, để theo một đại lão sư, mai danh ẩn tích nhằm học võ và học đạo.
Năm 1931, Thoại hạ sơn về Sài Gòn, sống lăn lóc cùng giới thợ thuyền. Những năm đầu thập kỷ 30, lề đường De la Some (Hàm Nghi) được coi là nơi tập trung của đủ hạng người. Từ các thầy bói, kính đen che mắt, đến các văn nhân, chủ báo cũng có mặt tại đây. Trong số những người làm báo, Trương Văn Thoại làm quen với Nguyễn An Ninh, chủ bút tờ La Cloche Fêlée (Tiếng Chuông Rè). Cảm phục ý chí và sự nghiệp của Nguyễn An Ninh, Trương Văn Thoại đã dần dần bước vào nghiệp cầm bút, trở thành một cộng sự đắc lực của tờ La Cloche Fêlée.
Theo Hán tự, chữ "Thoại" được ghép bởi 3 chữ Sơn, Vương và Nhi. Bút danh Sơn Vương được Thoại khai sinh từ đó. Chẳng bao lâu, tên tuổi Sơn Vương đã khá nổi danh trong nghề cầm bút. Những bài báo của ông thổi vào công luận một dư âm lạ, đầy màu sắc bình dân và nỗi cảm thông sâu sắc đối với tầng lớp bần cùng.
Có thể xem Sơn Vương như một người tiên phong có công trong việc cách tân nền tiểu thuyết Việt Nam thời đó. Ông chuyên viết ‘tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình’ nhưng tác phẩm của Sơn Vương đã có sự thay đổi lớn lao về mặt hình thức. Nhân vật ‘tướng cướp nghĩa hiệp’ cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo của Sơn Vương đã đoạn tuyệt hẳn với hình tượng ‘thanh gươm lưng ngựa’ thời trước. Thay vào đó là các trang công tử lái xe hơi như bay, bắn súng lục bằng cả hai tay và ném tạc đạn như đồ chơi. Đáng kể nhất là 3 tác phẩm của Sơn Vương: Luật rừng xanh, Chén cơm lạt và Tướng cướp hào hoa.
Trong hơn hai năm (1931-1933), Sơn Vương đã đơn thương độc mã, gây ra hàng chục vụ cướp kinh thiên động địa nhắm vào các phú hộ khắp các vùng từ Đồng Nai đến Sài Gòn, Long An nhưng tung tích vẫn không hề bị lộ. Người ta chỉ thầm ngưỡng mộ một Sơn Vương - nhà văn - cao gầy dong dỏng nói năng nhỏ nhẹ, thường ngồi trọn buổi sáng bên lề đường với một bộ xá xẩu bằng lụa Tân Châu để bán sách của chính mình.
Con mồi lớn nhất của Sơn Vương là René Gaillard, Giám đốc hãng cao su Mimot. Sau một thời gian theo dõi, Sơn Vương biết rõ hàng tháng Gaillard cùng một tài xế và một vệ sĩ trên chiếc Peugeot đến Ngân hàng Đông Dương để lĩnh tiền về phát lương cho công nhân. Số tiền mỗi kỳ lên đến 50.000 đồng. Sơn Vương quyết định sẽ chặn xe cướp vali tiền với một… khẩu súng giả!
Vụ cướp táo tợn được đồn khắp Sài Gòn chỉ một ngày sau. Dân nghèo được một phen hả dạ, bởi kẻ bị trừng trị là một ‘Tây thực dân’ khét tiếng tàn ác. Giới lục lâm Sài Gòn - Lục tỉnh cũng thầm khen tác giả của vụ cướp - dù chẳng biết là ai - bạo gan và chơi rất bảnh, khiến tên chủ Tây vừa mất tiền vừa mất mặt.
Giới giang hồ Nam kỳ nói chung có màu sắc nghĩa hiệp, là một đặc tính của người dân ‘đàng trong’, trọng danh dự và nhân nghĩa. Với Sơn Vương, chuyến ‘đi hát’ đó (một từ lóng chỉ chuyện cướp bóc của giới giang hồ) lại là tai hoạ và cũng là vụ cướp cuối cùng trong cuộc đời ngang dọc.
Kẻ bị cướp - René Gaillard - vốn cũng xuất thân từ một tên cướp khét tiếng của đảo Corse. Tuy đã giã từ nghề thảo khấu nhưng trong huyết quản Gaillard, dòng máu đảo Corse vẫn còn ngùn ngụt. Bị Sơn Vương cướp tiền, Gaillard tuyên bố: Thưởng 5.000 đồng bạc Đông Dương - một phần mười số tiền bị cướp - cho bất cứ ai tìm ra tung tích thủ phạm.
Bazin - tên mật thám khét tiếng tàn ác sau này - đang là một cò tập sự ở bót Catinat. Y xua hết mã tà, lính kín dưới quyền ra sức điều tra, lùng sục, quyết giật cho được món tiền 5.000 đồng mà Gaillard đã rêu rao. Vốn là cáo già, Bazin rất quan tâm đến những chi tiết vụ cướp. Y nhanh chóng nhận ra rằng, loại xe hơi Clément Bayard chặn đường cướp tiền của Gaillard cả Sài Gòn chỉ có không hơn 10 chiếc (xe hơi hiệu Clément Bayard được sản xuất từ Pháp từ năm 1903 đến 1922).
Bazin liên tục gọi tài xế và chủ nhân của những chiếc xe hơi loại này lên làm ‘ăng kết’. Bị tra hỏi quá nhiều lần, Năm Đường (chủ nhân chiếc xe đã cho Sơn Vương mượn để ‘đi hát’) biết chắc sẽ bị bại lộ nên vội ra đầu thú, nộp lại 10.000 đồng được chia sau vụ cướp đồng thời khai ra tên Sơn Vương. Một tháng sau, Sơn Vương bị toà tiểu hình kết án năm năm khổ sai và bị đày ra Côn Đảo.
Tháng 7/1936, một số tù nhân ở Côn Đảo được phóng thích. Sơn Vương cũng được xét trả về đất liền, tiếp tục thụ hình tại Hà Tiên. Trong tù, Sơn Vương đã hô hào tù nhân đập phá khám khiến chủ tỉnh Hà Tiên đã quyết định đày Sơn Vương ra đảo Phú Quốc.
Từ Phú Quốc trở về, chỉ một năm sau, Sơn Vương lại bị tống vào tù. Lần này ông bị bắt vì một lý do… lãng xẹc. Tại ghi-sê bán vé của một rạp chiếu bóng ở Chợ Lớn, Sơn Vương bị một gã hung hăng đạp giày đau điếng. Ông đẩy hắn ra, tên này lập tức nhảy vào đánh Sơn Vương. Cáu tiết, ông xô mạnh, tên gây sự bật ngửa ra sau, ngã chỏng gọng. Rất không may, kẻ gây sự lại là ... sếp mật thám của bót Polo trong Chợ Lớn.
Ra toà, Sơn Vương bị kết tội du đãng, bị đưa đi giam giữ tại trại Pursat (Cao Miên). Sơn Vương trốn trại và tìm đường qua Thái Lan nhưng không lâu sau, ông lại bị bắt khi tìm cách về lại Sài Gòn. Lần này ông bị kết án 10 năm tù vì tội vượt ngục, bị tống vào phòng 17, bót Catinat. Đầu năm 1942, ông bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
Trong thời gian ở Côn Đảo, Sơn Vương giết một ‘ăng ten’ trong số tù nhân. Với tội mới, Sơn Vương lại phải nhận thêm một án chung thân khổ sai nữa. Theo quy định, án chung thân hồi đó được tính là 32 năm. Tổng cộng, đời Sơn Vương đã 4 lần nhận án gồm 1 lần 5 năm, 1 lần 10 năm và 2 án chung thân khổ sai (32 năm). Tính ra ông phải nhận mức án những 79 năm tù ...
Năm 1984, Sơn Vương trở lại quê nhà ở Gò Công và mất tại đó vào năm 1987, chấm dứt một cuộc đời ‘trí thức giang hồ’.
Giang hồ thảo khấu: Bình Xuyên
Đến thập niên 50, nổi bật trong giới giang hồ có lực lượng Bình Xuyên, nguyên thủy là tên của ấp Bình Xuyên thuộc làng Chánh Hưng, Nhà Bè. Sau năm 1945, danh xưng Bình Xuyên được dùng để chỉ Lực lượng Bình Xuyên với nòng cốt là dân giang hồ miền Nam, hoạt động ở vùng ven Sài Gòn trong suốt 10 năm, từ 1945 đến 1955.
Từ năm 1948, Bình Xuyên là một lực lượng quân sự bổ sung nằm trong khối Liên hiệp Pháp dưới danh xưng công an xung phong, địa bàn hoạt động ở xung quanh Sài Gòn. Với sự đồng thuận của Pháp, Bình Xuyên kiểm soát nhiều sòng bài, nhà thổ, cùng những thương cuộc lớn nhỏ khắp vùng Sài Gòn - Chợ Lớn trong đó phải kể đến Casino Grande Monde (Đại Thế Giới), Casino Cloche d'Or (Kim Chung), Bách hóa Noveautes Catinat.
Lê Văn Viễn (tức Bảy Viễn) là người chỉ huy Bình Xuyên, hợp tác với Bảo Đại để thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam. Thành phần này là lực lượng Bình Xuyên được biết đến nhiều nhất vào thập niên 1950. Sau Hiệp định Genève (1954), Bình Xuyên đúng ra phải nhập vào Quân đội Quốc gia Việt Nam nhưng lại không tòng phục.
Lê Văn Viễn sinh năm 1904 tại xã Phong Đước, quận Cần Giuộc, Chợ Lớn, thuộc gia đình điền chủ. Bảy Viễn học hết trường làng đến lớp ba thì bỏ nhà đi lưu lạc giang hồ. Trong thời gian khoảng 10 năm, Bảy Viễn học võ ở nhiều nơi. Sau đó Bảy Viễn xưng anh chị tại trường đua Phú Thọ, tập hợp được một số du đãng em út. Vùng hoạt động của nhóm Bảy Viễn bấy giờ là Chợ Thiếc, An Bình, Cù lao Chánh Hưng và xóm Phạm Thế Hiển từ cầu Hiệp Ân đổ xuống cầu Chữ Y.
Với tiền đánh cướp ở các chợ vùng ngoại ô như Cần Giuộc, Nhà Bè, Giồng Ông Tố, Bảy Viễn sắm xe lô-ca-xông cho thuê, đôi khi còn dùng các xe này để đi ăn cướp. Bảy Viễn cũng chịu ảnh hưởng nặng loại tiểu thuyết ‘ăn cướp, bắn súng, lái xe đua’ như Bách-si-ma, Hoàng Ngọc Ẩn của nhà văn Phú Đức nổi tiếng thời bấy giờ. Ăn mặc đúng thời trang, Bảy Viễn lái xe tới những tiệm vàng ở các chợ quận, mua cả bụm vàng rồi để lại một băng đạn trước khi lên xe vọt mất.
Tháng 7/1954 Thủ tướng Ngô Đình Diệm chấp chính, thành lập chính phủ trung ương và nộp danh sách nội các. Lê Văn Viễn đòi được tham chính và đưa ra yêu sách lập chính phủ mới. Lực lượng Bình Xuyên cùng với quân đội Cao Đài và Hòa Hảo còn lập Mặt trận Thống nhất Toàn lực Quốc gia và gửi tối hậu thư buộc chính phủ phải có danh sách mới trước ngày 26/3/1955.
Ngô Đình Diệm không chịu nhượng bộ nên Bình Xuyên mở cuộc tấn công Bộ tổng tham mưu rồi pháo kích vào Dinh Độc Lập. Sang tháng 4/1955, quân Bình Xuyên đánh thành Cộng Hòa. Quân đội Quốc gia phản công, phá được căn cứ chính của Bình Xuyên ở khu vực cầu Chữ Y, lực lượng Bình Xuyên phải triệt thoái khỏi Sài Gòn - Chợ Lớn và rút về Rừng Sát.
Bảy Viễn bị bắt với 17 tiền án ăn cướp có súng, bị kêu án 15 năm khổ sai, đày ra Côn Đảo. Mười lăm ngày sau, Bảy Viễn vượt ngục bằng bè và được thuyền đánh cá vớt. Một năm sau hắn lại bị bắt đưa ra Côn Đảo. Hai tháng sau hắn lại trốn về đất liền. Nhà tù Côn Đảo mở cuộc điều tra tìm hiểu vì sao Bảy Viễn trốn quá dễ dàng như vậy. Nguyên do là Bảy Viễn có tay em ngoài đảo sẵn sàng giúp ‘đại ca’ đóng bè làm buồm, tiếp tế cơm khô, nước ngọt. Một số thầy chú cũng ngán Bảy Viễn nên cố tình nhắm mắt làm ngơ.
Tháng 9/1955 Ngô Đình Diệm phái đại tá Dương Văn Minh (Big Minh) mở Chiến dịch Hoàng Diệu truy nã Bình Xuyên ở Rừng Sát. Quân Bình Xuyên bị hoàn toàn tiêu diệt. Lê Văn Viễn đào tẩu sang Campuchia rồi lưu vong sang Pháp, chấm dứt thực lực của Bình Xuyên.
Giang hồ anh chị: Đại Cathay
Đến thập niên 60, nổi bật nhất trong giới giang hồ có Đại Cathay. Người ta nói nhiều về một Đại Cathay, với mái tóc bồng bềnh, quần Jean, giày cao cổ ‘đờ-mi-bốt’, trên môi không rời điều thuốc và chiếc hộp quyẹt Zippo... Những gì mà Đại Cathay đã tạo dựng chỗ đứng của mình trong giới giang hồ thật khác biệt và đã trở thành… huyền thoại. Đối với Đại Cathay, sự liều lĩnh không được đánh giá cao bằng lối sống ‘giang hồ tình nghĩa’.
Đại sinh năm 1940, con của Lê Văn Cự, vốn cũng là một tay giang hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Khi còn nhỏ Đại sống với cha mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội (nay là đường Đoàn Văn Bơ, Quận 4). Cả cha lẫn mẹ đều nghèo, làm nghể chẻ củi thuê cho một vựa củi nằm bên kia Cầu Mống, cạnh Chợ Cũ, Quận 1.
Đại thường xuyên trốn học và chơi với đám trẻ con bụi đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói, dù khuôn mặt rất ngầu, tính phóng khoáng, lại rất ‘lì đòn’. Những đức tính được ‘thừa kế’ từ cha đã giúp Đại nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh mến mộ. Mới 10 tuổi, ‘thủ lĩnh’ Đại đã thường xuyên luồn lách vào các chợ ăn trộm dưa, chuối về chia cho chúng bạn.
Đại bỏ học, sang vườn hoa Cầu Mống đánh giày, bán báo. Khu vực làm ăn của Đại là xung quanh ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) – Nguyễn Công Trứ gần rạp xi-nê Cathay. Không ngày nào trước cửa rạp hát không xảy ra những vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi đời. Lì lợm và liều lĩnh, Đại lăn xả vào đối thủ, liên tục tấn công, dù kẻ đó có cao hơn, to hơn.
Trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng, dù tay chân mặt mũi đầy thương tích. Nghiễm nhiên, hắn trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực trong khu vực. Cũng vì thế, gã đã ráp thêm ‘tên địa bàn hoạt động’ vào sau tên cúng cơm để trở thành Đại Cathay, một đại ca hùng cứ trên đường Nguyễn Công Trứ. Đó là năm 1954, lúc Đại mới 14 tuổi.
Trở thành ‘anh chị’, Đại được quyền sống mà không mó tay vào bất cứ việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn em ‘đi làm’ mang tiền về nộp. Được cái, hắn rất hào phóng. Đại Cathay chia hết tiền cho đàn em, chỉ giữ lại cho mình 1 khoản nhỏ, đủ cà phê, thuốc lá cho ngày kế tiếp. Vì vậy, đàn em rất khoái và chịu nghe lời "anh Đại". Ở đây ta thấy giới giang hồ miền Nam rất trọng ‘đạo nghĩa’ và ‘công bằng’ dù trình độ văn hóa của họ rất thấp.
Nằm ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót cảnh sát quận Nhì, thường được gọi là bót Dân Sinh, nổi tiếng dữ dằn. Rất nhiều lần, sau khi dẫn đàn em đi chinh phạt các khu vực khác hoặc đánh dằn mặt người của các băng nhóm đến giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị xách tai lôi về bót. Cuối cùng, cảnh sát tống Đại Cathay vào trại tế bần ở Thủ Đức. Sau nhiều lần vào trại rồi trốn ra khỏi tế bần, Đại Cathay càng liều lĩnh hơn, kinh nghiệm hơn, và càng lao đầu vào những trận thư hùng.
Năm 1955, Đại Cathay chuyển sang sinh sống ở khu vực hãng phân Khánh Hội, cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos. Đám giang hồ khu vực này ‘nghênh đón’ Đại Cathay khá nồng nhiệt bằng những trận hỗn chiến. Một lần nữa, sự lì đòn của Đại lại giành phần thắng. Toàn bộ khu vực Khánh Hội, quanh cầu Ông Lãnh, gồm toàn dân giang hồ ở bến tàu, vựa cá, vựa rau cải đều quy phục dưới trướng của Đại Cathay.
Đầu những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong trào hippie bắt đầu thâm nhập Sài Gòn. Đại Cathay tuy ít học nhưng cũng không hề kém cạnh các bậc trí giả trong khoản ăn chơi. Đám nghệ sĩ, trí thức cũng nể Đại Cathay vì tính chịu chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm của gã.
Nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu được lại không phải từ tiền thuế ‘bảo kê’. Chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn là kẻ tình nguyện đóng góp đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả Đại làm hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác. Cả anh em tỉ phú Hoàng Kim Qui (vua kẽm gai), Xí Ngàn ‘mặt rỗ’ (vua thuốc Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người Hoa là những người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy thế của các ‘vua’, Đại Cathay cũng làm quen và "chơi chịu" với khá đông nhân vật quyền thế và tên tuổi khác.
Sài Gòn thập niên 60 nổi tiếng có ‘tứ đại giang hồ’ gồm Đại Cathay, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế. Cả miền Nam đều biết tiếng ‘tứ nhân bang’, nhất là sau khi cuốn tiểu thuyết Điệu ru nước mắt của nhà văn Duyên Anh ra đời. Sau một trận hỗn chiến giữa ‘tứ đại giang hồ’, Đại Cathay lên đứng đầu nhóm và một trận chiến kinh hồn với băng đảng người Hoa của Tín Mã Nàm đã đưa Đại Cathay lên ngôi ‘bang chủ’ trong một đế chế mà khắp Sài Gòn – Chợ Lớn chẳng có một băng nhóm nào dám đối đầu.
Cả một bộ máy quân sự khổng lồ của miền Nam dưới thời Nguyễn Cao Kỳ hình như cũng phải ‘xuống nước’. Tướng ‘Sáu Lèo’ Nguyễn Ngọc Loan (khi đó nắm quyền chỉ huy lực lượng cảnh sát) ngỏ ý mời Đại Cathay về làm đại úy cảnh sát để ‘dĩ độc trị độc’. Đại Cathay thẳng thừng từ chối:
“Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh liệt”.
Đại và cả đám đàn em bị tống ra Trung tâm hướng nghiệp tại đảo Phú Quốc, hay còn gọi là ‘Trại Cửu Sừng’. Đây là nơi lưu đày những tên lưu manh ngoại hạng dày thành tích bất hảo nhưng không có chứng cớ để bắt quả tang, do chính Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập nhằm “bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”.
Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại Cathay, là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đối diện với vũ trường Olympic. Nhân ở lại Sài Gòn, biết chắc rằng loại ‘tù không án’ như chồng mình e khó có ngày về. Cô cùng anh trai vung tiền ra tìm cách cứu Đại Cathay.
Khi biết cô Nhân đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục… Tướng Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám tép riu, còn riêng Đại Cathay được cố tình cho đào thoát vào núi Tượng.
Sau đó, tướng Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại. Trần Tử Thanh sau này đã từng khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay mình đã nổ súng hạ gục Đại Cathay.
Trên đây chỉ là lời đồn đại, ‘đoán non đoán già’ về ngày tàn của Đại Cathay. Huyền thoại về cuộc đời và cái chết của Đại Cathay vẫn có nhiều chi tiết chưa được làm rõ về một tên ‘giang hồ ngoại hạng’.
***
Chuyện của giới giang hồ miền Nam là một kho tàng vô tận, chuyện thật cũng có, người đời thêu dệt thành huyền thoại cũng không ít. Chẳng hạn như cuộc đời các tướng cướp Bạch Hải Đường, Điền Khắc Kim, những tay anh chị như Tín Mã Nàm và gần đây nhất là ông trùm Năm Cam…
Thế giới của họ là ‘thế giới ngầm’ mà người thường không thể dễ dàng tiếp cận và đó cũng là lý do khiến người đời ‘thêm mắm thêm muối’ để trở thành huyền thoại. Tuy nhiên, vẫn có một sự thật và muôn đời vẫn là sự thật:
Chàng mặt trời xem chừng mệt mỏi sau cả tuần nóng thiêu nhức nhối bực bội nhìn về trần gian này bao chuyện buồn gai mắt đau tai
Những trò không ra người lớn, không ra trẻ con của những nhà nói dóc đại tài thằng cu bỉ ổi nói lời tinh vi, tinh tướng không chút đàng hoàng khi hắn muốn ra oai!
Bờ bãi tan hoang, thuyền úp trên bãi cát những nông, ngư phủ thở dài khi các nhà thơ đứng khoanh tay các họa sĩ không thể vẽ gì lên màu cát xám..
Tất cả chúng ta như thể mệt nhoài.. chàng mặt trời chia sẻ.. cho mây về sáng nay..
Việt Nam có đầy đủ các bộ, ngành như Kế hoạch-đầu tư, Công Thương, NN-PTNT... nhưng mấy năm nay chuyên làm việc giải cứu : giải cứu hạt tiêu, giải cứu lúa ( mua tạm trữ),giải cứu chuối, giải cứu dưa hấu...và gần đây nhất là giải cứu lợn. Đảng huy động toàn bộ hệ thống tham gia giải cứu lợn, chính phủ họp khẩn cấp việc giải cứu lợn, đoàn TNCS, Hội Phụ nữ, CÁC SIÊU THỊ BÁN LẺ, CÁC tỔNG CÔNG TY... đầu vào cuộc giải cứu lợn!
Về công nghiệp thì Chính phủ đang tập trung giải cứu, xử lý 12 dự án thua lỗ mỗi dự án hàng nghìn tỉ đồng: bao gồm Nhà máy sản xuất xơ sợi Đình Vũ, dự án Nhà máy bột giấy Phương Nam, dự án Nhà máy gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2, Nhà máy nhiên liệu sinh học Bio-Ethanol Dung Quất, Đạm Hà Bắc, Đạm DAP Lào Cai, DAP Hải Phòng, Ethanol Bình Phước, Ethanol Phú Thọ, Nhà máy đóng tàu Dung Quất, dự án liên doanh giữa đối tác mỏ Quý Sa và Nhà máy gang thép Lào Cai.
Tại sao năm nào cũng phải giải cứu như vậy? Vì không có quy hoạch cụ thể, chỉ đạo thực hiện quy hoạch cụ thể,nên mạnh ai nấy làm, vô chính phủ, quanh năm lo chữa cháy... Về công nghiệp phải giải cứu vì "lợi ích nhóm", "tham những" chỉ huy toàn bộ nền kinh tế, chúng duy trì các TCT Nhà nước, đổ vốn vào đó để chia nhau.
XIN ĐỀ XUẤT ; PHẢI CÓ MỘT CUỘC "GIẢI CỨU NHÀ NƯỚC" MỚI CỨU ĐƯỢC NỀN KINH TẾ NƯỚC NHÀ THOÁT KHỎI CẢNH " TOÀN ĐẢNG TOÀN DÂN GIẢI CỨU LỢN" NHƯ HIỆN NAY!
Theo tin AFP hôm nay 03/05/2017, Trung Quốc đã ban hành quy định mới siết chặt thêm thông tin trên mạng, trong bối cảnh Đại hội Đảng sẽ diễn ra vào cuối năm nay.
Internet lâu nay vẫn bị Bắc Kinh kiểm soát chặt chẽ. Chính quyền cho chặn các mạng xã hội nước ngoài như Facebook và Twitter, kiểm duyệt tất cả các nội dung bị cho là nhạy cảm chính trị. Nhưng quy định mới do cơ quan kiểm soát không gian mạng Trung Quốc (ACC) ban hành, sẽ được áp dụng từ ngày 1/6, lại còn khắc nghiệt hơn.
Các trang mạng, ứng dụng điện thoại, diễn đàn thảo luận, blog, tiểu blog, truyền thông xã hội, dịch vụ tin nhắn, video phát trực tiếp và tất cả các tổ chức thông tin, từ nay phải xin phép trước khi phổ biến các nội dung liên quan đến chính phủ, quân đội, kinh tế, ngoại giao, các vấn đề xã hội.
Các nhà cung cấp phải « hướng dẫn đúng đắn dư luận xã hội », « phục vụ đường lối xã hội chủ nghĩa », trong khi vẫn « duy trì lợi ích của quốc gia dân tộc ». Tân Hoa Xã loan báo như trên, vào lúc chỉ còn vài tháng nữa là đến Đại hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc, sẽ giao phó cho chủ tịch Tập Cận Bình nắm quyền thêm một nhiệm kỳ nữa.
Các định chế không có tài trợ từ Nhà nước không được quyền thực hiện các phóng sự độc lập. Nhân viên những công ty dịch vụ trên mạng phải theo một khóa học và được Nhà nước đánh giá, công nhận chính thức ; còn các lãnh đạo cấp cao phải được chính quyền thông qua.
Hoàng Hương | 23/04/2016 “Vịnh Minamata ở Nhật bị công nghiệp xả nước thải có chứa thủy ngân, thủy ngân xâm nhập vào sinh vật thủy sinh rồi vào cá tạo thành hợp chất thủy ngân hữu cơ. Người ăn cá từ vịnh này bị ngộ độc thần kinh với những hậu quả vô cùng thảm khốc. Sau hơn 50 năm, Nhật Bản vẫn có nhiều trẻ em sinh ra với dị tật do thủy ngân và hàng ngàn người hiện nay vẫn bị nhiễm độc thần kinh làm tiêu tốn rất nhiều triệu đô la của nhà nước. Đấy là cái giá phải trả cho sự buông lỏng kiểm soát môi trường trong phát triển".
Bức ảnh chụp mẹ đang tắm cho con gái mắc bệnh
Minamata
(Ảnh của nhà báo nổi tiếng William Eugene Smith).
Đúng vào thời kỳ phát triển kỳ diệu của Nhật Bản, nước này phải đối diện với nỗi kinh hoàng mang tên thảm họa Minamata do 1 vụ nhiễm độc chất thải chứa thủy ngân trên diện rộng. Vụ cá chết hàng loạt ở ven biển miền Trung, Việt Nam: Nỗi lo thảm họa lặp lại
Về vụ cá chết hàng loại ở ven biển miền Trung, Việt Nam, tuy rằng cơ quan chức năng chưa đưa ra kết luận về nguyên nhân, nhưng có thể khẳng định đây là một nguy cơ rất lớn về môi trường.
Song song với việc điều tra nguyên nhân, nhiều người đặt ra mối lo ngại cho sức khỏe của người dân ở những vùng bị nhiễm độc. Nếu nguồn nước biển và thủy sản đã bị nhiễm độc, thì sức khỏe của người dân sẽ có những ảnh hưởng lâu dài.
Trên một diễn đàn, GS Nguyễn Huy Nga, nguyên Cục trưởng Cục YTDP và Cục Quản lý Môi trường Y tế, Bộ Y tế đã liên tưởng sự kiện này với thảm họa vịnh Minamata ở Nhật.
Ông Nga đặt ra giả thiết: “Nếu lặp lại sự kiện Vịnh Minamata thì là thảm họa. Vịnh Minamata ở Nhật bị công nghiệp xả nước thải có chứa thủy ngân, thủy ngân xâm nhập vào sinh vật thủy sinh rồi vào cá tạo thành hợp chất thủy ngân hữu cơ.
Người ăn cá từ vịnh này bị ngộ độc thần kinh với những hậu quả vô cùng thảm khốc.
Sau hơn 50 năm, Nhật Bản vẫn có nhiều trẻ em sinh ra với dị tật do thủy ngân và hàng ngàn người hiện nay vẫn bị nhiễm độc thần kinh làm tiêu tốn rất nhiều triệu đô la của nhà nước.
Đấy là cái giá phải trả cho sự buông lỏng kiểm soát môi trường trong phát triển".
Chúng tôi xin giới thiệu câu chuyện về thảm họa Minamata diễn ra cuối những năm 50 thế kỷ XX tại Nhật Bản để người đọc thêm một lần nữa nhìn rõ những hậu quả thảm khốc khi con người coi nhẹ việc bảo vệ môi trường.
Chân dung một nạn nhân của thảm họa Minamata
Khi nghe tin người dân ở Vịnh Minamata, Nhật Bản giờ đây có thể ăn cá được nuôi ở chính địa phương này, Kazumitsu Hannaga đã gầm gừ và không ngừng rên rỉ. Những ngón tay xương xẩu cào cấu trong không trung để bày tỏ sự phản đối.
Nhưng không ai hiểu chính xác ông Hannaga đang cố gắng nói điều gì. Ông bị câm. Ông bị dị tật bẩm sinh do ngộ độc bào thai, bởi mẹ ông khi mang thai đã ăn cá nhiễm thủy ngân.
Bị mẹ bỏ rơi khi còn nhỏ, ông Hannaga ở với người bố bị liệt cũng do ăn cá nhiễm chất độc này.
Bức ảnh chụp bác sĩ Hiroyuki Moriyama và ông Kazumitsu Hannaga, một bệnh nhân Minatama ở bệnh viện địa phương vào năm 1991.
42 năm qua, ông sống trong bệnh viện là chủ yếu. Cổ không cứng nên đầu thường bị nghiêng bên này bên nọ, đôi chân bị teo lại nên ông chỉ biết di chuyển bằng xe lăn.
Niềm đam mê duy nhất của ông Hannaga là chụp ảnh. Vì thế, mỗi lần muốn ghi lại một khoảnh khắc đẹp, ông đều phải gồng mình, lấy hết sức để giữ chiếc máy ảnh không bị rung.
Ông Hannaga được chẩn đoán là mắc bệnh Minamata, một căn bệnh khủng khiếp đã gây ra nỗi kinh hoàng cho cả nước Nhật Bản trong những năm cuối thập kỉ 60 đầu 70 của thế kỷ trước, đúng vào thời kì phát triển kinh tế "kì diệu" của nước này.
Bức ảnh đặc tả ánh mắt của người mẹ khi tắm cho cô con gái Tomoko Uemura, 16 tuổi, bị nhiễm độc thuỷ ngân ở Minamata từ lúc còn là bào thai. Đây là một trong những tác phẩm đầu tiên của thể loại ảnh báo chí về ô nhiễm môi trường.
Mối họa mang tên bệnh Minamata
Minamata là tên một thành phố xinh đẹp thuộc tỉnh Kumamoto, phía nam Nhật Bản nhưng nó cũng là tên một căn bệnh xuất phát từ thành phố này.
Ngày 21-4-1956, một bé gái 5 tuổi được đưa vào bệnh viện địa phương với những triệu chứng kỳ lạ như khó đi, khó nói và co giật. 2 ngày sau, em của cô bé này cũng bị các triệu chứng tương tự.
Đến đầu tháng 5-1956, giám đốc bệnh viện báo cáo với giới chức y tế địa phương rằng đã phát hiện một căn bệnh chưa từng được biết đến. Ngay lập tức, chính quyền thành phố Minamata đã thành lập một ủy ban điều tra căn bệnh lạ này.
Đến tháng 11.1956, các nhà khoa học Trường Đại học Kumamoto phát hiện căn bệnh này là một loại nhiễm độc kim loại nặng được truyền qua các loại hải sản như cá và sò,
Đó là bệnh do nhiễm độc thủy ngân gây hủy hoại hệ thống thần kinh, chủ yếu là thần kinh trung ương.
Hình ảnh bộ não của người bị mắc bệnh Minamata.
Lúc đó, dù bị nằm trong diện tình nghi liên quan đến vụ này, Công ty hóa chất Chisso, chuyên sản xuất chất acetaldehyde từ năm 1932 phủ nhận mọi trách nhiệm về vụ việc và tiếp tục xả chất thải ra Vịnh.
Người dân địa phương vẫn tiếp tục đánh bắt và chế biến các món ăn từ những loại hải sản nhiễm độc đó trong thực đơn hằng ngày.
Năm 1965, một vụ nhiễm độc trên diện rộng ở tỉnh Nigata, trên đảo Honshu, cách Kumamoto khoảng 1.000 km cũng xảy ra tương tự như ở Minamata và thủ phạm tình nghi cũng là chất thải chứa thủy ngân của một công ty khai khoáng trên địa bàn.
Đến năm 1968, các chuyên gia mới xác định được bệnh Minamata do metyl thủy ngân gây ra. Hợp chất độc hại này do Công ty Chisso ở Minamata và Công ty Showa Denko ở Niigata tạo ra trong quá trình sản xuất acetaldehyde.
Nhà máy của hai công ty này đã xả chất thải không qua xử lý ra sông. Thông qua chuỗi thức ăn, độc chất được tích tụ trong cá và sò và truyền sang cư dân địa phương.
Năm 2001, có khoảng 1.700 trong số 2.200 người bị chết vì bị ảnh hưởng bởi độc chất từ nhà máy hóa chất ở miền Nam Nhật Bản, là do bị ngộ độc vì ăn cá ở địa phương.
Hậu quả kinh hoàng của bệnh Minamata
Bệnh Minamata để lại nhiều hậu quả kinh hoàng tùy theo mức độ nhiễm độc.
Những người bệnh nặng thường rú lên vì đau đớn, thường xuyên co giật và bị liệt. Một số bệnh nhân bị mù, điếc hoặc mất trí và nhiều người bị nhẹ hơn thì tay chân run, mất cảm giác, mất thăng bằng.
Phụ nữ nhiễm metyl thủy ngân khi mang thai sẽ có nguy cơ sinh con liệt não, bị điếc, bị mù hoặc đầu quá nhỏ, lớn lên thì tâm trí phát triển chậm.
Bà mẹ này khi mang thai đã ăn cá nhiễm thủy ngân.
Giờ đây, Vịnh Minamata đã trong sạch trở lại. Sau bao nhiêu cuộc chiến pháp lý, cuối cùng, công ty Chisso cũng đã bỏ hàng chục tỉ yên để bồi thường và chính phủ Nhật Bản cũng có nhiều động thái hỗ trợ bệnh nhân Minamata.
Tuy nhiên, sau hơn 50 năm, căn bệnh khủng khiếp này vẫn còn hành hạ biết bao nhiêu người.
Công ty Chisso đã từng góp phần phát triển thành phố Minamata và tạo công ăn việc làm cho dân địa phương nhưng hậu quả mà công ty này gây ra không gì bù đắp được.
Bài học đau xót của Thảm họa Minamata vẫn còn đó, như là minh chứng tiêu biểu nhất của việc phát triển kinh tế đưa tới những tác hại xấu về môi trường cho con người.
Shinobu Sakamoto, sinh ra đã bị tổn thương não, hiện cũng đang được chăm sóc và điều trị ở bệnh viện Minamata. Chị gái của bà, lúc 4 tuổi, cũng chết do ngộ độc thủy ngân khi ăn cá.
"Chừng nào chúng tôi còn sống, căn bệnh Minamata sẽ không bao giờ kết thúc”, Shinobu Sakamoto khẳng định.