Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 2 tháng 5, 2017

HÃY BẮT TAY NGHIÊN CỨU ĐỂ DỰNG LẠI BỨC TRANH LỊCH SỬ


 
Nơi rửa mặt và rửa chân lý tưởng (hình chụp trong Lễ Diễu binh, mừng chiến thắng 
ngày 5 tháng 5 năm 1975).
.
30/4: KHÔNG THỂ CHỈ BUỒN HAY VUI, CHÚNG TA PHẢI
BẮT TAY DỰNG LẠI BỨC TRANH LỊCH SỬ
Đó phải là một bức tranh lịch sử vượt ra ngoài mọi định kiến chính trị, văn hoá, vùng miền, tôn giáo, sắc tộc. Ở đó chỉ có những giá trị khoa học tồn tại, với những dữ liệu thực tế và tinh thần phản biện lành mạnh.
Chiến tranh Việt Nam là thứ chúng ta không muốn lặp lại trong tương lai. Chỉ có học thật kỹ và thật nghiêm túc về nó thì may ra chúng ta mới tránh cho các thế hệ mai sau, và biết đâu, tránh cho chính chúng ta một cuộc chiến tranh nữa.

Việt Nam Cộng hoà cũng là một hiện tượng lịch sử cần phải nghiên cứu cẩn thận. Sau cuộc tổng tuyển cử năm 1946 thì Việt Nam Cộng hoà là thể nghiệm dân chủ thứ hai, và là thể nghiệm dân chủ dài nhất mà chúng ta có trong suốt mấy ngàn năm lịch sử. Phải học từ thể nghiệm dân chủ đó để xây dựng nền dân chủ trong tương lai.
Có nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố, và hầu hết đều do các học giả nước ngoài tiến hành. Điều tôi khá ngạc nhiên là chúng ta không có một tổ chức độc lập nào làm cái việc thu thập dữ liệu, tài liệu và bảo tồn các chứng cứ lịch sử về thời kỳ này.
Lấy ví dụ về sách báo xuất bản dưới thời Việt Nam Cộng hoà. Hiện nay có ba nguồn: các thư viện do nhà nước quản lý (vốn rất khó tiếp cận với công chúng), các thư viện nước ngoài (khó không kém với người trong nước), và những người sưu tập sách ở Việt Nam.
Cả ba nguồn này đều khó tiếp cận với phần lớn mọi người. Sách cũ hiện được bán với giá hàng triệu đồng một cuốn, nằm rải rác trong tay nhiều người sưu tập. Muốn nghiên cứu những tài liệu này cũng không dễ.
Tôi thấy khó hiểu không phải vì nhà nước hiện nay không làm việc đó, nhà nước đương nhiên không làm, mặc dù đáng lẽ họ phải làm. Tôi thấy khó hiểu vì ngay cả những người cổ xuý cho Việt Nam Cộng hoà cũng không làm việc đó, chính xác là có làm nhưng chưa thành hệ thống và chưa có nỗ lực lớn nào, hoặc có mà tôi chưa từng nghe thấy.
Gần đây, nhóm Luật Khoa tìm được rất nhiều tài liệu về giai đoạn này từ tàng thư của Thư viện Quốc hội Mỹ, các tạp chí khoa học nước ngoài và tổ chức Ân xá Quốc tế, có thể giúp cung cấp những góc nhìn mới. Tuy vậy, lực bất tòng tâm, năng lực của chúng tôi không đủ để xử lý được nhiều dữ liệu một lúc.
Tôi muốn kết nối với những ai có lòng muốn làm hai việc: (i) thu thập, bảo tồn và hệ thống hoá sách báo, tài liệu thành một cơ sở dữ liệu chung; và (ii) nghiên cứu về miền Nam giai đoạn 1954-1975, nhất là các khía cạnh thể chế, pháp luật và văn hoá chính trị.
Chỉ khi nào hiểu được rõ ràng về lịch sử chúng ta mới có thể nói đến hoà hợp hoà giải, gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Bằng không, những mối thù hằn sẽ luôn còn đó mà cả hai bên đều mơ hồ về lịch sử của chính mình. Buồn hay vui, ủng hộ hay phản đối cũng cần dữ liệu lịch sử.
Vậy thì không có cách nào khác là phải kết nối và làm việc với nhau, cả người trong nước lẫn nước ngoài. Đã đến lúc cần một nỗ lực tập thể. Tôi sẽ rất vui nếu được là một phần của một nỗ lực như vậy.
Xin chia sẻ thông điệp này tới những người có chung mối quan tâm. Cảm ơn bạn đã dành thời gian đọc bài này.
Trịnh Hữu Long

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lợn nội ế ẩm, Việt Nam vẫn nhập gần 7.800 tấn thịt lợn ngoại


Giá thịt lợn hơi trong nước giảm mạnh khiến nhiều hộ chăn nuôi lợn chịu lỗ. Tuy nhiên, theo thống kê từ Tổng cục Hải quan, từ đầu năm đến giữa tháng 3.2017, Việt Nam vẫn nhập gần 7.800 tấn thịt lợn các loại, tăng cả về lượng và giá so với cùng kỳ.

Thịt các loại nhập khẩu về Việt Nam trong năm 2016
và từ ngày 01/01 đến ngày 15/3/2017 (Nguồn: TCHQ)
Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Hải quan, từ ngày 1.1.2017 đến ngày 15.3.2017, cả nước nhập khẩu gần 7,8 nghìn tấn thịt lợn các loại, trị giá hơn 9,4 triệu USD, tương ứng tăng 15,8% về lượng và 21,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2016.

Trong đó, thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh nhập về gần 2,4 nghìn tấn, trị giá 4,5 triệu USD; phụ phẩm sau giết mổ của lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh được nhập về nhiều nhất với 5,4 nghìn tấn, trị giá 4,8 triệu USD.

Ngoài ra, thịt và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ, muối, ngâm nước muối, làm khô hoặc hun khói; bột mịn và bột thô ăn được làm từ thịt hoặc phụ phẩm dạng thịt sau giết mổ gần 10 tấn, trị giá 115 nghìn USD.

Cũng theo thống kê của hải quan, năm 2016, lượng thịt lợn các loại được nhập khẩu về Việt Nam đạt 39,4 nghìn tấn, trị giá 44 triệu USD.

Trong đó, thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh là hơn 12 nghìn tấn, trị giá gần 19 triệu USD; phụ phẩm sau giết mổ của lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh là hơn 27 nghìn tấn, trị giá gần 25 triệu USD.

Bên cạnh đó, thịt và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ, muối, ngâm nước muối, làm khô hoặc hun khói; bột mịn và bột thô ăn được laàm từ thịt hoặc phụ phẩm dạng thịt sau giết mổ là 81 tấn, trị giá 516 nghìn USD.

Số liệu từ Hải quan cũng cho thấy, tính từ đầu năm đến ngày 15/3/2017, cả nước nhập khẩu gần 41 nghìn tấn thịt các loại. Trong đó lớn nhất là thịt gà với 20,6 nghìn tấn, chiếm tỷ trọng hơn một nửa tổng lượng thịt các loại nhập khẩu về Việt Nam, trị giá gần 19 triệu USD, đứng thứ 2 là thịt trâu bò các loại với 11,8 nghìn tấn, chiếm tỷ trọng 29%, trị giá 35 triệu USD.

Từ đầu năm đến ngày 15/3/2017 thịt các loại nhập khẩu về Việt Nam có xuất xứ từ: thị Hoa Kỳ với 14,7 nghìn tấn, trị giá 20,5 triệu USD, trong đó lượng thịt gà là 12,3 nghìn tấn chiếm 83,7% lượng thịt nhập từ Hoa Kỳ, thịt trâu, bò là 2 nghìn tấn chiếm 16,6%.

Ấn Độ đứng thứ 2 với 7,1 nghìn tấn, trị giá 15,2 triệu USD, trong đó chủ yếu là thịt trâu bò. Tiếp theo là Úc với 2,2 nghìn tấn, trị giá 8,5 triệu USD, trong đó 1,7 nghìn tấn là thịt trâu bò.

Theo Hải Yến (Infonet)
http://danviet.vn/nha-nong/lon-noi-e-am-viet-nam-van-nhap-gan-7800-tan-thit-lon-ngoai-761671.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dư luận mạng viết về đề nghị kỷ luật ông Đinh La Thăng


Dư luận người Việt trong và ngoài nước đang chú ý nhiều đến sự kiện đương kim Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, ủy viên Bộ chính trị bị Ủy ban kiểm tra Trung ương công khai kiến nghị kỷ luật. Đề nghị kỷ luật ông Đinh La Thăng công bố hôm 27/4, trước lúc Hội nghị Trung ương 5 của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra đầu tháng Năm.

Ông Đinh La Thăng bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương quy trách nhiệm người đứng đầu về các vi phạm của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN)

Ông Đinh La Thăng bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương quy trách nhiệm người đứng đầu về các vi phạm của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) trong giai đoạn 2009 - 2011, là nơi ông từng là Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tập đoàn.

BBC ghi nhận một số tiếng nói trên mạng xã hội tiếng Việt và cả báo chí nhà nước tại Việt Nam bình luận sự việc này.

Vụ Đinh La Thăng: 'Giây phút quan trọng cho VN'
Nhận định về vụ 'xem xét kỷ luật' ông Đinh La Thăng

Lặp lại năm 2012?

Nhiều người so sánh đề nghị kỷ luật ông Đinh La Thăng với đề nghị xem xét kỷ luật Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại một hội nghị trung ương năm 2012.
Khi đó, Hội nghị Trung ương 6 ra kết luận "không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị".

Nay nhà báo Tâm Chánh, nguyên Tổng biên tập báo Sài Gòn Tiếp thị, viết trên Facebook cá nhân, cho rằng ông Đinh La Thăng không có sức mạnh như nguyên Thủ tướng:

"Vì đơn giản ông Thăng không có bề dày nắm quyền lực như ông Nguyễn Tấn Dũng để có thể chi phối chọn lựa của các ủy viên TƯ."

Hoặc nếu ông Thăng không bị kỷ luật, cây bút Tâm Chánh nêu giả thiết Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ có thể "huy động sự tham gia của người dân vào cuộc đấu tranh sinh tử này".

"Yếu huyệt trong thế trận này chính là ai nhanh chóng nắm giữ ngọn cờ công khai và chuyển nó thành khí thế của dân."
Nhân dân chỉ tin khi đồng thời với xử lý kỷ luật ông Thăng là những giải pháp đồng bộ công khai, minh bạch - Nguyễn An Dân viết trên Facebook

"Ông Trọng sẽ thắng nếu biết khai thác sức mạnh này, biến dư luận thành công luận, nhưng ở thời ông Trọng tác động chính yếu này của truyền thông không còn trong tay nền báo chí cách mạng vốn bị tẩn nhừ tử, chỉ có một mực "cách mạng" mà không còn sự chính trực báo chí nữa."

Còn nếu ông Thăng nhận mức kỷ luật khá nặng là "cảnh cáo", cây bút Tâm Chánh nêu ra kịch bản:

"Sự leo thang mong muốn trừng phạt này sẽ làm lộ ra không it tật bệnh ở mức trầm kha của một hệ thống chinh trị sau nhiều năm kiến tạo pháp quyền vẫn chỉ có thể dùng đến uy quyền để cai trị chính bộ máy của mình."

Giải pháp 'đồng bộ'

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sắp khai mạc Hội nghị Trung ương 5

Đại hội Đảng 12 diễn ra tháng Giêng 2016

Trong khi đó, cây bút Nguyễn An Dân cũng dùng Facebook để đòi hỏi:

"Nhân dân chỉ tin khi đồng thời với xử lý kỷ luật ông Thăng là những giải pháp đồng bộ công khai, minh bạch với nhân dân và đảng viên cơ sở trong xử lý toàn diện."

"Xa hơn là việc chọn lựa bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo cần phải công khai, minh bạch những thành tích đã đạt được, có chương trình hành động để đạt được các mục tiêu, yêu cầu của cương vị đó, thuyết phục được các đảng viên và quần chúng nhân dân."

Ông này cho rằng: " Vấn đề cuối cùng vẫn là hiến pháp phải đứng trên đảng pháp, là pháp trị, là tư pháp độc lập."

Chốt lại, ông Nguyễn An Dân kêu gọi cải tổ chính trị:

"Chính trị càng cải cách nhanh chừng nào thì tham nhũng sẽ giảm dần đi chừng ấy, đó mới là cách chống tham nhũng hiệu quả và lâu dài, vì lợi ích nhân dân, chứ không phải giữ nguyên hệ thống nhưng đem dê ra tế thần khi cần thiết."

Chấn động hay rất bình thường?


Sau khi Ủy ban Kiểm tra Trung ương công khai đề xuất hình thức kỷ luật với ông Đinh La Thăng, truyền thông nhà nước tại Việt Nam cũng phỏng vấn một số người thường trả lời báo chí.

Cựu đại biểu Quốc hội, Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết cho rằng:

"Từ nay, nên theo nếp sống văn minh như thế: Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và kỷ luật của tổ chức."

Một cựu Ủy viên Trung ương Đảng, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nói:

"Người có công thì biểu dương, người có tội thì không bỏ qua."

Nói chấn động, vì đồng chí Đinh La Thăng từng được ca ngợi là năng động - LS Phan Xuân Xiểm

"Tôi ghi nhận tinh thần nghiêm túc ấy. Còn xem xét kết luận ấy như thế nào, xử lý ra sao thì do Trung ương quyết định."

Còn trên trang Giáo Dục, luật sư Phan Xuân Xiểm, nguyên Hàm Vụ trưởng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương cho biết:

"Nội dung kết luận kỳ họp thứ 14 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương quả thực là vụ việc theo tôi là chấn động.

Nói chấn động, vì đồng chí Đinh La Thăng từng được ca ngợi là năng động, có những táo bạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong công tác...

Ông Đinh La Thăng từng được nêu như một "hiện tượng" của chính trị Việt Nam vài năm qua

Trước đây, dư luận chỉ biết cái đồng chí Đinh La Thăng làm được nhưng nay Đảng đã chỉ ra những trách nhiệm của đồng chí về những hậu quả mà đồng chí đã làm tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và chịu xem xét xử lý theo điều lệ Đảng".

Nhưng ông Phan Xuân Xiểm cũng nói thêm:

"Đồng chí Đinh La Thăng giữ chức vị cao trong Đảng bị đề nghị xem xét kỷ luật thì tôi cho là điều bình thường."

Cũng về sự "bình thường", trang Viet-Studies ở Hoa Kỳ nhắc lại một bài trên VietnamNet hồi tháng 11/2011 trích lời ông Vũ Mão, cựu quan chức cao cấp ở Việt Nam khi đó khen Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng:

"Tôi hoan nghênh và ủng hộ những việc làm thể hiện tư duy, phong cách mạnh mẽ của của Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng...

Hiện nay, dư luận đồng tình với Bộ trưởng Thăng rất nhiều, những ý kiến qua lại cũng không ít, tôi cho đó là chuyện bình thường."

BBC sẽ tiếp tục theo dõi các diễn biến trước và trong kỳ hội nghị trung ương 5 khóa XII của Đảng Cộng sản cầm quyền tại Việt Nam sắp diễn ra.

http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-39780534

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Sự trỗi dậy của Mã Lai trong khoa học



Mỗi lần tôi trích dẫn những con số về công bố quốc tế trong vùng Đông Nam Á là mỗi lần tôi ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì sự biến chuyển thay ngôi đổi chỗ rất nhanh xảy ra trong vùng. Trước đây, tôi chỉ ra rằng Singapore đứng đầu bảng trong vùng về công bố quốc tế, nhưng hôm nay, một bạn mới gửi cho tôi một biểu đồ cho thấy Mã Lai bây giờ đã vượt qua Singapore về số lượng bài báo khoa học, và trở thành nước có năng suất khoa học cao nhất trong vùng ĐNA. Đó là một sự tăng trưởng ngoạn mục, và sự tăng trưởng đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.



Trước đây (chỉ khoảng 3 năm trước), tôi có trình bày thống kê cho thấy số bài báo khoa học ngành toán của Thái Lan và Mã Lai đã vượt qua Việt Nam khá xa. Lúc đó, rất ít người chịu nhìn nhận xu hướng này. Có người thậm chí quen thói tự cao rằng người Việt thông minh, vẫn xem thường rằng năng lực về nghiên cứu khoa học của Mã Lai và Thái Lan chẳng có gì đáng kể so với Việt Nam!

Nhưng trong thực tế, ngày nay, hai nước đó đã vượt qua Việt Nam cả về lượng và phẩm (tính theo citation và tập san) và tác động (tính theo chỉ số H).
Trong nhiều phân tích trước đây, tôi có chỉ ra rằng ở vùng Đông Nam Á, và dựa vào số bài báo khoa học, thì thứ tự từ cao đến thấp là: Singapore, Thái Lan, Mã Lai, và Việt Nam (không tính Nam Dương và Phi Luật Tân). Nhưng mấy năm sau, thứ tự này là: Singapore, Mã Lai, Thái Lan, và Việt Nam. Thái Lan họ uất ức lắm khi thấy Mã Lai vượt qua họ. Nhưng nay thì Mã Lai đã đứng đầu bảng.

Biểu đồ dưới đây cho thấy mãi đến 2009, Mã Lai vẫn còn thấp hơn Singapore về công bố quốc tế. Nhưng chỉ 2 năm sau, từ 2011 trở đi, thì Mã Lai đã vượt khá xa Singapore. Số liệu của Scopus năm 2013 cho thấy Mã Lai công bố được 23190 bài báo khoa học, cao hơn Singapore gần 36% (số của Singapore năm 2013 là 17052 bài). Còn công bố quốc tế của VN thì không đáng kể khi so với Mã Lai hay Thái Lan.

Trong các đại học hàng đầu của Mã Lai như University of Malaya (UM) thì số công bố quốc tế cũng đã hơn cả nước VN cộng lại. Trường này cũng đã lọt vào hàng top 500 trên thế giới. Chưa đầy 20 năm mà UM đã có những bước nhảy vọt ngoạn mục. Tôi được biết trường này thu dụng rất nhiều chuyên gia và giáo sư từ nước ngoài, và tổ chức thành research groups như bên phương Tây, nên có thể đó là lí do tại sao họ có thành tựu nghiên cứu khoa học tiến bộ nhanh như thế.

Năm ngoái tôi có dịp ghé qua Mã Lai 4 ngày, và thấy rất ngạc nhiên về tiến bộ của họ. Xuống phi trường đã thấy quá khác so với Tân Sơn Nhất, khác về qui mô, sự tấp nập, mức độ hiện đại, sự phục vụ nhanh nhẹn, v.v. Từ phi trường về trung tâm thành phố càng làm tôi ngạc nhiên vì những xa lộ thẳng tấp và nhà cửa dân xa xa có vẻ trù phú. Vào đến trung tâm hội nghị tôi thấy nó chẳng khác gì những convention centers bên Mĩ cả. Cũng rộng mênh mông, cũng phong cách điều hành chuyên nghiệp, wifi khắp nơi, nhân viên phục vụ vui vẻ (có người nói tiếng Việt nữa). Tôi có cảm giác Mã Lai không còn là "developing country" nữa, mà đã là hay sắp thành một "developed country". Chỉ chưa đầy 30 năm mà Mã Lai đã thay đổi một cách quá tuyệt.

Điều này cho thấy một lần nữa, các nước dĩ nhiên không đứng yên một chỗ, họ đang tiến nhanh và tiến vững. Trong khi đó thì ở VN, vẫn còn những người đang ngủ và hoài niệm về quá khứ, vẫn còn những người loay hoay tranh cãi về những vấn đề không đáng tranh cãi trong hoạt động khoa học (chẳng hạn như "có nên công bố quốc tế hay không" hay "tập san ISI có ý nghĩa gì"). Có người thì bác bỏ đó chỉ là lượng, chứ về chất thì VN vẫn hơn. Nhưng trong thực tế cả lượng và chất, VN đều kém hơn (có ngành còn kém xa so với) Thái Lan và Mã Lai. Dùng tiêu chí gì, VN vẫn kém hơn 2 nước đó. Tiêu hao năng lượng cho những câu hỏi ngớ ngẩn như thế làm cho chúng ta càng ngày càng tụt hậu so với các nước trong vùng. Nên tránh cái tư duy tự xem mình là thông minh và tài giỏi nhất vùng hay nhất thế giới. Chỉ có cách mỗi người tự thay đổi mới chính mình và làm tích cực hơn thì mới có cơ may đưa VN tiến xa hơn.

Biểu đồ: Số lượng bài báo khoa học của 4 nước Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, và Singapore được công bố trên các tập san khoa học trong danh mục Scopus trong thời gian từ 1996 đến 2013. Trục tung là số bài báo. Trục hoành là năm.




Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tư liệu thuyền nhân:

Trần Mộng Tú: Nước mắt, nước biển và thuyền nhân Việt

Những ngày này có nhiều bài viết mang tính hồi ức của những "boat people". Một trong những bài đó là của tác giả Trần Mộng Tú (chị ấy không phải là "thuyền nhân") nhân một chuyến về thăm lại những trại tị nạn mà tôi nhắc trong bài hồi ức của tôi. Bài viết gợi lại rất nhiều sự kiện mà tôi quên kể trong bài của tôi. Vì bài hơi dài, nên tôi chỉ trích những đoạn quan trọng. Tôi phải cảnh báo trước là có nhiều đoạn rất cảm xúc. NVT 



====== 

http://www.diendantheky.net/2017/04/tran-mong-tu-nuoc-mat-nuoc-bien-va.html

Chiều hôm ngày 30 tháng 3, chúng tôi, 56 người, gặp nhau ở một phi trường nhỏ trong một tỉnh nhỏ, có tên là Hatyai, của nước Thái Lan. Trong 56 người, chỉ có 4 người: vợ chồng tôi, Trùng Dương, anh Michael ở Texas làm cho Đài Truyền hình Saigon-Houston không phải thuyền nhân. Số đông thuyền nhân tham gia là các anh chị đến từ Úc châu và rất nhiều người đã từng đi Songkla và Bidong hai, ba lần. Anh chị Dương Phục và Vũ Thanh Thủy cũng là thuyền nhân nhưng đây là chuyến đi đầu tiên của anh chị đến đảo Kra. Cô Ngọc Ân, phóng viên của Đài Little Saigon-Radio, Kim Hoàng và Chấn Hồng của Đài VietFace TV từ Úc cũng có mặt trong chuyến đi này.

Chúng tôi may mắn có ba linh mục, cha Nguyễn Hùng đến từ Đài Loan, cha Phạm Hồng từ Úc và Phạm Tâm (cũng còn là bác sĩ y khoa) đến từ Houston, hòa thượng Thích Huyền Việt đến từ Houston, thầy Tây Tạng Geshe Gawa đến từ Úc.

Trong nhóm còn một bác sĩ trẻ nữa là Kenneth Nguyễn đến từ California.

Trại tỵ nạn Songkla

Chuyến hành hương đầu tiên của chúng tôi, bắt đầu trở lại thăm nền trại tỵ nạn Songkla. Từ thành phố ra tới địa điểm đó khoảng một tiếng lái xe.

Xe đi ra ngoại ô qua những vùng trồng mía, xoài và rất nhiều cánh rừng trồng cây cọ (Palm) dùng cho việc thủ công nghệ. Nhà cửa giống hệt những vùng quê Việt Nam thời chưa đổi mới. Cũng nhà tôn, nhà lá, thỉnh thoảng chen vào một ngôi nhà ngói, bên cạnh bụi chuối, cây hoa sứ. Cũng những con chó trước cửa sủa bâng quơ, những con gà trống nghiêng đầu ngơ ngác, thằng bé ở trần vừa chạy vừa ngã. Chiếc xe như mang chúng tôi trở về quê xưa ngày cũ.

Chiếc xe ca chở hơn 50 người đậu lại, biển xanh trước mặt, nắng gắt trên đầu. Mắt mở to, mọi người xôn xao chỉ tay về phía bên phải.

Cứ đi vào đây, hướng này đúng rồi. Sẽ thấy cái giếng.

Cái giếng mấy năm trước tôi trở lại còn thấy, bây giờ đã bị biển xâm thực rồi. Biển đã mang thêm cát vào, đã chôn mất miệng giếng, nhưng còn cây đa. Chính nơi này là trại tạm cư cho thuyền nhân chờ được định cư ở đệ tam quốc gia. (mặc dù cây đó trông giống một cây thùy dương hơn là cây đa. Có thể họ muốn gọi như thế để có một chút hơi hướm quê nhà).

Vùng bờ biển, nền lều trại dựng ngày trước đã được dọn sạch không còn vết tích, một con đường trải nhựa, chạy song song với biển đã như có sẵn tự bao giờ. Chúng tôi tới gốc cây đa đó, vẫn thấy dấu thờ cúng chưa cũ lắm, có bát cơm đổ nghiêng ngả, hạt cơm vừa khô, có nhang đèn vứt lăn lóc, những bức tượng đổ vỡ, những đồ thờ cúng kiểu Thái cái gẫy, cái bể.

Tác giả và miếu thờ ở Songkhla.

Ba linh mục và nhà sư kêu gọi mọi người tụ họp lại cùng thay nhau đọc kinh, tụng niệm.

Nhang được thắp lên, nước mắt thi nhau ràn rụa. Tên Chúa, tên Phật được thốt trên môi mọi người, để cầu cho người chết, kẻ lưu vong. Sau phần tụng niệm, cha Hồng bắt đầu giọng cho mọi người hát theo.

Giữa buổi trưa nắng chang chang, không một ngọn gió, tiếng hát của hơn năm mươi người hát vang vang như muốn át tiếng sóng biển đang đập vào bờ:

Tự Do ơi Tự Do, tôi trả bằng nước mắt
Tự Do hỡi Tự Do, anh trao bằng máu xương
Tự Do ơi Tự Do, em trả bằng thân xác
Vì hai chữ Tự Do, ta mang đời lưu vong
(Nam Lộc)

Mọi người xúm lại chụp hình. Các anh, chị làm phát thanh, truyền hình bắt đầu công việc của mình. Có người đi tách ra riêng một chỗ thì thầm với biển, với dĩ vãng, với kỷ niệm.

Bao nhiêu người đã được định cư ở nơi êm ấm? Bao nhiêu xác đã trôi giạt vào bãi bờ này?

Nước mắt, nước biển, trôi đi hai hàng oan nghiệt
Tóc bạc, tóc xanh, chìm sâu một khối tủi hờn.

Tôi cúi xuống vốc lên một nắm cát, nhặt một chiếc vỏ ốc đã vỡ, quay lưng lại với biển, chân thấp chân cao, vừa đi vừa lau nước mắt.

Nơi đây cũng đã dánh dấu bao cuộc tình tỵ nạn. Gặp nhau như rong rêu giạt vào bờ, bám lấy nhau rồi lại phải buông nhau ra vì mỗi người phải đi định cư ở hai nơi khác nhau, hay người đi người vẫn ở lại ngóng trông. Tương lai là một trang giấy trắng chờ tay ai vẽ xuống.

Chúng tôi rời bãi này để tới một bờ khác.

Tha Sala và 11 cô gái Việt

Trưởng nhóm, anh Hùng Lê cất tiếng:
Bây giờ Hùng đưa các cô chú đến thăm đền thờ Mười Một Cô.

Đó là chuyện 11 cô gái Việt, không một mảnh áo quần, bị trói cổ vào nhau, thả nổi trên biển. Xác các cô trôi tới bãi Tha Sala này, được người địa phương thương tình vớt vào chôn cất. Ai nghe cũng phải xót thương, rùng mình, uất hận.

Những nàng thiếu nữ như hoa đỏ
Một sớm theo nhau bước xuống thuyền
Hoa bỗng rơi ra từng cánh mỏng
Thả vào lòng biển máu oan khiên

Tha Sala không chỉ vớt Mười Một Cô, Tha Sala còn vớt thêm bao nhiêu cái xác trôi đơn lẻ, trôi hai ba, trôi năm bẩy, giạt vào bờ.

Người đàn bà Thái khoảng 60 tuổi, gia đình hiện sống trên bãi đã lập một miếu thờ cho những vong linh này. Mỗi ngày bà mang ra miếu một bát cơm trắng, một chén nước lạnh và mấy cây nhang.

Đây là câu chuyện của bà: khi gia đình bà tới ở trên bãi này thì vẫn còn rất hoang vu. Họ đào đất dựng nhà, chạm phải nguyên một chiếc thuyền chôn sâu trong cát. Họ tin là thuyền của người vượt biển bị đắm, sóng đánh vào và cát phủ lên. Bà cũng theo người lớn tuổi hơn ra biển mỗi lần có xác giạt vào. Khi đó tuổi của bà, khoảng tuổi các cô con gái Việt này. Gia đình bà dựng một ngôi đền nhỏ thờ vong linh của thuyền nhân và 11 cô gái. Chiếc thuyền cứ thế để nguyên trước cửa đền. Theo năm tháng, biển xâm thực và bão tố, ngôi đền chỉ còn lại cái nền vỡ và cái thuyền chỉ còn lại một mảnh ván dài, nhưng bà vẫn cơm trắng, nước lạnh và thắp nhang mỗi ngày.

Người Việt bị người Thái giết, thì cũng chính người Thái thờ cúng những oan hồn người Việt. Có phải đó là sự đền bù của đất trời không?

Sau Tha Sala, chúng tôi được đưa tới một địa điểm gần bờ biển phía lên đảo Koh Kra.

Nơi dừng chân là chùa Wat Samphreak, trong chùa còn có một ngôi trường tiểu học. Tối hôm đó chúng tôi được ngủ lại trong chùa. Chúng tôi trải chiếu của nhà chùa, nằm bình an trong chánh điện, dưới chân những tượng Phật. Tôi trăn trở vì nóng, vì muỗi hay vì câu chuyện thương tâm của mười một cô gái bất hạnh. Nghe nói tuổi của các cô khoảng từ 19 tới 23. Ôi cái tuổi tinh khôi, mơ mộng và tràn đầy ước vọng!

Biển gọi em hay em gọi biển
Sóng đang reo sao bỗng khóc gọi hồn.

Nước mắt tôi ứa ra, trái tim tôi thổn thức. Tôi thương các em, thương cha mẹ các em, thương cho dân tộc tôi quá đỗi! Chúa ở đâu? Phật ở đâu?

Lên thuyền ra đảo Koh Kra

Bốn giờ sáng ngày mồng 1 tháng 4, từ bãi của làng chài lưới Hua Sai, thuộc Nakhar Si Thammarat, cách đảo Koh Kra 80 cây số, chúng tôi lên thuyền ra biển đi tới đó.

Tại bãi biển.

Trên bãi biển tiếng gọi nhau khe khẽ, tiếng chân trên cát, ánh đèn pin lóe lên, dắt tay nhau, chúng tôi leo lên những chiếc thuyền tam bản của dân đánh cá Thái Lan, thuyền không mui, chạy bằng máy đuôi tôm.

Sao đi sớm thế?

Giờ này biển êm, không có sóng
Chạy bao lâu thì tới?

Khoảng hơn 3 tiếng

Ngồi sát vào nhau, tám người một thuyền. Bắt đầu tách bờ tiến về đảo Koh Kra.

Có tiếng nói khẽ cất lên:

Hồi đi vượt biên, chúng em đi bằng thuyền nhỏ như thế này, gọi là taxi, đưa ra ngoài có thuyền lớn hơn đón.

Nhưng hồi đó phải ngậm miệng, không được nói, và rất sợ bị bắt lại, cộng thêm nỗi sợ bão biển, sợ hải tặc và chúng em chẳng ai có áo phao mặc như thế này.

Tôi ngồi co rúm người lại, thuyền đang chạy, nước biển bắn tung tóe lên mặt, những hạt muối mặn trên môi. Trời vẫn tối chưa nhìn tỏ mặt nhau. Biển mênh mông, biển tối om, tôi bắt đầu hiểu mang máng thế nào là nỗi sợ của người vượt biển. Nếu thuyền lật bây giờ, cũng khó lòng mà tìm cứu được nhau trong bóng tối. Đây thực ra mới là vịnh chưa ra tới biển.

Trời dần sáng. Lên tới bãi san hô của đảo Koh Kra thì sáng hẳn. Bờ biển này không có cát, chỉ toàn những mảnh san hô, nên không thể đi chân trần được. Năm 1979 đã có tới hơn 2000 thuyền nhân bị hải tặc nhốt giam ở đây. Vợ chồng chị Vũ Thanh Thủy và anh Dương Phục cùng nhóm gần 200 người đã trốn hải tặc 21 ngày đêm ở đây. Những con thú mang hình người đã hành hạ thuyền nhân Việt ở mức độ dã man ngoài sự tưởng tượng của một đầu óc bình thường.

Hàng ngàn người đã bị hải tặc giam cầm trên đảo này, con số người chết ở đây không ai biết rõ là bao nhiêu? Bao nhiêu phụ nữ đã bị hãm hiếp, bao nhiêu người chồng, người yêu, cha mẹ, anh trai, bất lực và bất hạnh trước thảm nạn dưới tay hải tặc. Chỉ có Trời mới biết con số chính xác này.

Những cô gái nạn nhân này chịu nhiều khổ hạnh khác nhau. Có người bị bắt đi luôn không biết còn sống hay đã chết. Nếu sống, họ có còn muốn tìm về gặp lại những người thân yêu nữa hay không? Hay họ tự coi như cuộc đời cũ đã chấm hết, đã xóa tên họ. Họ đã chấp nhận sống hai đời trong một kiếp.

Có người khi được cứu đã mang thai nhưng họ can đảm không bỏ đi giọt máu oan khiên đó, nó là một phần xương thịt họ. Họ mang con đến một nơi khuất lấp, xa lánh cộng đồng Việt, không gặp những người thân và tự nuôi con. Họ là những người mẹ vượt lên trên tất cả mọi thử thách mà định mệnh đã đặt vào họ.

Có cô gái chọn nhảy xuống biển chết thay vì bị hải tặc hiếp, nhưng số phận không cho cô chết, cô sống kẹt trong một khe đá, cô đói, khát, lạnh và bị cá tôm rúc rỉa hai chân cô trong 21 ngày. Khi cứu được cô ra, người ta nhìn thấy hai ống xương chân không da thịt.

Tôi đau đớn tự hỏi: Nước mắt nào khóc rửa được những vết thương này.

Nghe bước chân mình trên đá nhọn
nghe trăm gai sắc nhói trong tim
nghe sóng biển đập vào lồng ngực
nghe em gào khóc nỗi oan khiên.

Còn bao nhiêu câu chuyện nữa chưa được kể ra. Những người sống sót không ai muốn nhắc lại ký ức đau thương ấy. Họ im lặng, lãng quên đi hay thậm chí đã mất trí nhớ sau những tai nạn khốc liệt cho cả tâm hồn và thể xác ấy.

Tác giả Dương Phục và Vũ Thanh Thủy đã ghi lại trong hồi ký cả ngàn trang “Tình yêu, Ngục tù và Vượt biển” của anh chị một phần nào những thảm cảnh trên đảo Koh Kra, những thảm cảnh mà Việt Nam và Thái Lan ngày nay đều cố tình phủ nhận và lẩn tránh. Tinh thần trách nhiệm và liêm sỉ của một quốc gia là chiếc hộp đen cả hai nước đều né tránh không muốn mở ra, nhìn lại.

Mỗi người bắt tay vào mỗi việc. Căng lều tập thể, căng lều cá nhân. Người lo dựng tượng Phật, tượng Đức Mẹ, Thánh Giá. Chúa thì phải lắp từng mảnh vào với nhau. (Những tượng này và vật liệu cần thiết đã được anh trưởng nhóm và một vài anh mang tới trước mấy hôm). Người lo mắc võng cá nhân, người lo treo những chiếc đèn lồng từ thân cây này sang thân cây kia. Sửa soạn sẵn cho một đêm hoa đăng trên đảo.

Chúng tôi xếp ra từ trong hộp những tấm mộ bia có khắc ghi tên tuổi thuyền nhân và những tấm khắc lời tưởng niệm (được anh trưởng nhóm đặt mang từ Việt Nam sang), sửa soạn gắn những bia này chung quanh một bức tường tượng trưng cho khu nghĩa trang.

Buổi trưa nắng qua nhanh. Mỗi người được ăn trưa một tô mì gói, trước khi gạch, xi măng được chuyền tay nhau vác lên đồi tôn giáo. Một số người xuống tắm biển, có người leo lên thuyền trở về đất liền mua thêm vật dụng.

Công việc dựng tượng mới làm được một phần.

Buổi chiều, mọi người còn đang tất bật thì có hai chiếc thuyền tuần duyên từ đâu rẽ sóng tới, bốn năm người lính Thái có vũ trang nhảy vào bờ. Cô bé Nhung thông ngôn thiện nguyện (sống ở Thái) được gọi ra để trả lời những câu hỏi. Lính Thái bắt chúng tôi chia ra làm hai hàng, bên nam, bên nữ. Chúng tôi vội cho người đi mời mấy vị sư Thái (hiện tu hành trên đảo) xuống, cắt nghĩa rõ ràng là chúng tôi đến dựng tượng và thăm mộ thân nhân. Đất Thái là đất Phật, đi đến mỗi góc đường đều có am, miếu, thờ cúng, nên người dân Thái rất nể trọng các vị sư. Họ bắt chúng tôi cầm thông hành của mỗi người lên ngang mặt để họ chụp hình trước khi họ xuống thuyền. Sau khi nói chuyện với các nhà sư xong họ mới chịu xuống thuyền, rời bãi.

Khi họ đi rồi, một nỗi hoang mang dậy lên trong lòng những cựu thuyền nhân: Họ nói, không ai có thể biết được hải tặc có thông đồng với lính tuần duyên hay không? Nhưng chúng ta nhờ có các sư và hiện mang thông hành ngoại quốc nên tương đối an toàn.

Buổi chiều, cơn mưa to ập xuống, dù lều được dựng dưới những tán lá cây, nước mưa vẫn làm ướt đầm chúng tôi. Khổ nhất là công việc dựng tượng và gắn bia cho người đã chết không tiến hành được, cả những tấm ghi dòng tưởng niệm, cũng phải xếp vào thùng. Nhang đèn, gạch, xi măng, phải che chắn lại. Đêm “Hoa đăng tưởng niệm” như dự tính đã không thành.

Buổi tối vẫn còn mưa. Trong tình cảnh, dưới lưng là những mảnh san hô lớn, nhỏ, mấp mô, rồi nước chảy vào thành từng vũng, quần áo, dày dép ướt sũng. Nhưng các anh em cũng kéo nhau ra lều tập thể hát dưới những giọt mưa.

Tiếng hát hòa đồng với tiếng mưa. Trong ánh lửa nến nhỏ nhoi xoi không tỏ mặt người, họ hát cho nhau nghe, cho hồn ma bóng quế cùng nghe.

Có hay không! Những hồn ma bóng quế đang rủ nhau cùng về ngồi trong lều với những người đồng hương của mình?

Đêm vẫn rào rào đổ mưa xuống, nhóm 8 người chúng tôi, nằm giữa một tấm bạt to, gấp đôi lại, nửa trải dưới đất, nửa căng trên đầu, buộc hai góc bạt vào hai thân cây. Frank nằm sát ngoài cùng phía bên phải lều, rồi Tú, Trâm, Nguyệt, Trùng Dương, Thủy, Phục và ngoài cùng là Cha Tâm bìa bên trái. Tội nghiệp Cha Tâm và Frank là hai người nằm ngoài bìa lều, ướt như chuột từ đầu tóc, quần áo, đến giày dép.

Chắc chắn những nhóm khác, trong những chiếc lều nhỏ kiểu cắm trại, cũng ướt không kém gì chúng tôi. Nhưng may, sáng ra trời tạnh, phải dậy thu dọn và ra lều tập thể ngay để làm lễ liên tôn cho các vong linh trên đảo.

Lễ cầu siêu trên đảo Koh Kra.

Các vị chủ tế cùng mọi người cùng quay lưng ra biển, mặt hướng về phía trong đảo, nơi có những nấm mồ của hơn 100 thuyền nhân được biết và thêm bao nhiêu mồ không được biết đích xác, được chôn vùi từ những ngày tháng đó của mấy ngàn thuyền nhân bị hải tặc lùa vào đây.

Chương trình hành lễ được cha Tâm đề nghị, bắt đầu làm lễ với các sư Thái đang ở đảo được mời tới cử hành đầu tiên bằng tiếng Phạn, sau đó đến hòa thượng Thích Huyền Việt và phần cuối là cha Hùng, cha Tâm cha Hương chia nhau dâng lời nguyện.

Vừa xong hai phần về Phật giáo, tiếng các cha bên Công giáo chưa cất lên thì có tiếng hốt hoảng gọi vào lều.

Xin chấm dứt và sửa soạn ra về ngay, vì có tin báo bão sẽ tới lúc 3 giờ.

Mọi người hấp tấp đứng dậy chạy ra khỏi lều để thu dọn hành lý, riêng các cha, hòa thượng và những người Công giáo vẫn ở lại.

Cha Hùng vừa cất tiếng lên đã nghẹn ngào:
Giữa biển khơi lồng lộng gió bốn phương

Chúng tôi những người sống sót trong cuộc chiến tranh huynh đệ đau thương, cùng nhau về đây chiêu hồn lưu xứ.

Xin những đấng tối cao mở lòng đón nhận, vớt lên giữa bọt sóng lênh đênh những oan hồn, uổng tử.

Xin hãy mang hồn vào giấc ngủ ấm yên

Vòng tay Đức Mẹ, vòng tay Phật Bà xin hãy là những tấm khăn mềm thấm khô ngàn máu lệ.

Chúng tôi cúi đầu gửi lời kinh tiếng kệ.
Tiếng chuông tiếng mõ gọi hồn về.

Giọng Cha trầm trầm, bi thương, nghẹn ngào, cha đọc hết bốn trang bài “Văn tế muộn màng”.

Rồi các cha thay nhau đọc tên từng người trên những mộ bia mới làm. Sóng cứ nhô cao, bão cứ tới, mọi người vẫn bình tâm với những dòng kinh nguyện.

Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời
(Kinh Hòa Bình-Thánh Francis)

Chiếc lều cuối cùng được kéo xuống, gấp lại, gấp cả những giọt nước mưa còn đọng đêm qua. Tôi lấy tay quẹt trên giọt nước, nếm thấy mặn như những giọt lệ.

Những chiếc thuyền tam bản, không mui, rẽ sóng trở lại đất liền. Trời không nắng, âm u, nước biển bắn tung từng đợt lên mặt mũi, quần áo. Trưởng nhóm Hùng khóc rưng rức nhìn hòn đảo Koh Kra chìm dần vào những đám mây đen đang từ từ kéo tới. Anh khóc vì nhiệm vụ chưa hoàn tất. Chúng tôi phải mỗi người nói một câu an ủi anh, nhưng thật sự trong lòng chúng tôi cũng đang thổn thức. Mây đen kéo mỗi lúc một dầy sau lưng chúng tôi, hòn đảo như chìm từ từ xuống biển, tiếng kêu của những vong linh không vọng được lên trên tiếng sóng. Hòn đảo như biến mất, giữa kẻ chết và người sống một đường vạch dài và đen chia đôi.

Bidong và những ngôi mộ tập thể ở Mã Lai

Xe ca đi từ Thái Lan sang Mã Lai, mất 8 tiếng, qua những chặng đường biên giới, phải làm thủ tục nhập cảnh. Chúng tôi tới Mã Lai thì đã trời chiều.

Phụ nữ ở đây đa số mặc quốc phục nhiều màu sắc, khăn chùm đầu của họ rất đẹp, đủ màu, đủ kiểu quấn khác nhau chung quanh khuôn mặt. Bạn tha hồ ngắm mắt môi và nguyên khuôn mặt thân thiện, hay cười của họ. Hiếm hoi lắm mới thấy một vài bà đứng tuổi quấn mình kín mít trong tấm vải đen chỉ để lộ hai con mắt đủ nhìn bước chân mình. Đàn ông cũng thân thiện không kém, ông tài xế taxi hay nói về đời sống gia đình cho bạn nghe, về việc họ vẫn cầu nguyện năm lần một ngày, mỗi lần bảy phút.

Mã Lai là nước đã nhận gần 300 ngàn người tỵ nạn Việt Nam trong hai thập niên 1975-1995. Những thuyền nhân đi trong nhóm kể lại: nạn hải tặc Mã ít hơn hải tặc Thái rất nhiều. Lính Mã ban đêm có vào trại kiếm những cô vừa mắt mang về làm vợ, không ai can thiệp được. Nhưng lính Mã không hiếp phụ nữ và giết người ngay trước mặt mình.

Mã Lai cũng là nơi có nhiều xác thuyền nhân tạt vào bờ nhất nên cũng là nơi duy nhất có nhiều mộ tập thể. Những người bạn thuyền nhân trong nhóm nói có khi thuyền gần vào tới bờ vẫn bị lật như thường, người đến trước trên bờ có thể nhìn thấy người chết chìm trước mặt mà không làm gì cứu được. Về sau được người địa phương cho biết là khúc biển gần vào đến bãi, dọc biển đó có nhiều vũng xoáy, có khi thuyền vào trúng chỗ xoáy mà không biết, gặp biển êm thì thoát, khi biển lúc đó động thì chỗ xoáy hút thuyền vào, thuyền lật, không cách nào cứu được. Đó là trường hợp của rất nhiều chiếc thuyền đã nhìn thấy bờ mà không vào được bến.

Viếng ngôi mộ tập thể đầu tiên Ở Kelanta.

Mã cũng là quốc gia duy nhất có nhiều mộ tập thể của thuyền nhân, có đầy đủ lý lịch, vì họ chết gần bờ.

Ngôi mộ tập thể số 1 chúng tôi tới ở Balai Bachock thuộc tỉnh Terengganu, mộ đó có 46 người, trong đó có 3 em nhỏ.

Lần đầu tiên trong đời người, đứng trước một ngôi mộ tập thể. Ngôi mộ chơ vơ trên đồng đất nước người với những cái tên Việt Nam, tôi không cầm nổi lòng mình, nghe nôn nao, quặn đau trong ruột, nước mắt ràn rụa. Từ bao lâu nay chỉ nghe tiếng “thuyền nhân” chỉ nhìn “hình thuyền nhân”, cái thương cảm đó có đấy, nhưng chỉ thoáng ngậm ngùi như vết xước ngoài da. Phải tới đó, trên một đất nước xa lạ nhìn thấy nấm mộ đó mới hiểu được tình người trong một nước nó sâu đậm đến đâu, mới hiểu rõ hai chữ “Đồng Bào” cùng một cội nguồn dân tộc với nhau. Mình bỗng chốc thấy thương dân, thương nước mình quá đỗi! Vì đâu, vì ai, vì nghiệp lực nào mà chết thảm, chết khổ, đến thế này! Cá nhân mình có lãnh một phần trách nhiệm nào trong đó không?

Nhang, nến, thắp lên, lời kinh hòa đồng, Phật, Chúa có nhìn xuống chúng sinh không?

Tôi nghĩ tới lời sư Huyền Việt nói với tôi: Nghiệp lực làm khổ nhau. Cái khổ phải xảy ra một lần trong cuộc đời và cái khổ vẫn tiếp tục xảy ra.

Ngôi mộ thứ hai tại Cherang Ruku, cách nơi này không xa còn to hơn nữa, còn nhiều người hơn nữa, nó cho ta cái cảm tưởng đây là một cái nghĩa trang nhỏ chứ không phải là một nấm mồ. Mộ chôn 123 người, sau nhận thêm 5 người nữa chôn ở nơi khác được đưa về. Tổng cộng là 128 người. Những ngôi mộ tập thể đã được chôn chung như thế nào? Đây là lời kể của bà vợ ông Alcoh Wong Yahao (sẽ nói đến vị ân nhân này sau):
“Chúng tôi xếp xác từng lớp, không phân biệt nam nữ, tuổi tác. Cứ một lớp xác người xếp lên một lớp khăn liệm, rồi lại tiếp một lớp xác người khác, trên cùng chúng tôi đặt một lớp ván ép, rồi xúc đất đổ lên. Thế là thành một ngôi mộ lớn.

Ngôi mộ thứ hai này và ngôi mộ thứ nhất với 46 người, cộng thêm 5 người mang tới sau, họ cùng đi với nhau trên chiếc tàu khởi hành từ Mỹ Tho, tên tàu là MT- 065, khỏi hành ngày 1 tháng 12, tới gần biển Mã Lai ngày 4 tháng 12 thì bị lật chìm. Tổng số người đi trên thuyền là 300 người.

Mộ tổng cộng 128 người.

Chúng tôi cúi đầu khấn nguyện Chúa, Phật, cầu xin các vong linh về chứng giám cho lòng thành của chúng tôi. Chúng tôi, những phụ nữ dựa vào vai nhau mà đẫm lệ.

Sau đó cha Tâm đề nghị mỗi người cầm nhang đi chung quanh ngôi mộ cắm xuống. Mỗi nén nhang có mang theo những giọt nước mắt.
Hỡi hồn bập bềnh trên biển
Về đây nghe lời kinh an
Trăm ngàn mảnh hồn ướt sũng
Muối nào trong lệ không tan.

Mắt nào không lệ chảy.

Đừng khóc vội, tôi xin kể một câu chuyện liên quan đến nấm mộ to như một nghĩa trang nhỏ này.

Trong mấy ngày hôm sau khi chúng tôi đi thăm những nghĩa trang có chôn rải rác thuyền nhân, tôi thấy xuất hiện trong đoàn một thanh niên rất trẻ, tôi hỏi chuyện làm quen, khi em giúp nắm tay tôi dắt bước qua những mô đất. Em tên là Alex Trần, 28 tuổi, em đi thăm mộ ông bà ngoại và các chú, bác, của mẹ em. Vì thời khóa biểu không trùng hợp với nhóm nên em đến chậm một đôi ngày, em phải đi thăm ông bà ngoại một mình.

Tại sao mẹ không đi với con?

Mẹ sợ, mẹ không dám nhìn lại.

Em nói tiếng Việt rất giỏi, rất lễ phép, chứng tỏ em được lớn lên trong một gia đình tốt. Em kể:
Gia đình của mẹ con, tất cả 18 người đi trên chiếc tàu MT-065 này. Lúc đó mẹ con là một cô bé 12 tuổi, dì của con lên 10. Khi tàu lật, họ kẹt trong khoang, dì con 10 tuổi dùng đầu đập vào cửa kính thuyền, hai chị em chui được ra bên ngoài. Cả hai chị em cùng không biết bơi, ngất xỉu. Sóng đánh họ giạt vào bờ, được cứu sống. Cả gia đình chết 13 người, còn lại 5 người trong đó có mẹ con, dì con và ba người họ hàng.

Em thơ dại sao mà em may mắn
Cả một thuyền chết hết chỉ còn em

Sau đó hai chị em được một gia đình Mỹ bảo trợ, nuôi ăn học, cho tới lúc lập gia đình. May mắn gia đình đó ở Orange County, California ngay trung tâm của người Việt nên hai cô bé đó đã vẫn giữ và nói tiếng Việt. (khi làm mẹ, cô cũng cho con đi học tiếng Việt).

Hai chị em cô bé này quả thật trong bất hạnh có lồng may mắn. Hai cô được cha mẹ Mỹ cho đi học tiếng Việt và lớn lên với cộng đồng Việt.

Nhìn cậu thanh niên khôi ngô, đĩnh ngộ, lớn lên ở Mỹ, nói tiếng Việt rõ ràng, lễ phép trong một gia đình có hoàn cảnh như thế, tôi thấy mình không khóc được nữa. Tôi đứng sững nhìn cậu, nghe cậu kể lại câu chuyện nhiều lần (vì nhiều người hỏi). Tôi hình dung ra mẹ và dì của cậu như những viên ngọc lăn rơi xuống từ những mỏn đá cao và sắc mà không hề xây xát. Không có viên ngọc nào có thể đẹp hơn nữa.

Tôi nghĩ đến đôi ngày vừa qua, khi cậu một mình đứng trước ngôi mộ tập thể, cậu chạm tay mình lên trên tên ông bà ngoại, tôi biết chắc cậu đã khóc bằng đôi mắt của mẹ mình.

Một mộ bia tập thể của người Việt trên đất Mã Lai.

​Người chủ của những ngôi mộ thuyền nhân

Một khu nghĩa trang của người Hoa cũng ở Terengganu với những ngôi mộ xây theo hình vòng cung như cái bào thai của người mẹ (Người Hoa nói đó là tượng trưng cho ta trở về nơi ta đã từ đó ra đi). Trong nghĩa trang này có 4 khu A, B, C, D. Khu A có hơn 400 thuyền nhân được chôn ở đây. Khu B, C, D có hơn 200. Mộ chôn rải rác, khi thì một người, khi thì ba hay bốn người, tùy theo có bao nhiêu giạt vào bờ lúc đó. Có mộ thấy lên tới bảy người, mười người.

Hỏi anh Lưu Dân, một thuyền nhân ở Úc đã tổ chức tới đây nhiều lần, có gia đình nào về lại Mã Lai cải táng thân nhân đem đi không? Anh nói, có một người đã làm được. Nhưng người Mã ở thành phố này, không muốn cho người Việt đến cải táng mang đi. Họ nêu ra ba lý do:
Thứ nhất, đã chết ở Mã là người Mã.

Thứ hai, mộ ở đây lâu năm đã thành mộ bạn.

Thứ ba, nếu người Việt ai cũng cải táng thì đâu còn ai tới thành phố này (Terengganu là một thành phố cần du khách).

Cha Tâm mặc áo lễ, dâng bánh Thánh ngay trong nghĩa trang này. Tôi và Vũ Thanh Thủy, Ngọc Hân cùng cất tiếng hát: Chúa nhân từ xin lắng nghe linh hồn con tha thiết. Ăn năn kêu van, lạy Chúa xin dủ thương, ban xuống niềm tin ấp ủ cho tâm hồn.
Hình cha Tâm dâng lễ.

Nắng rát da, trời cao vời vợi, những hạt nước mắt rơi trong tiếng hát, rơi nhòe trên trang giấy hát.

Hòa thượng Huyền Việt đã rời Thái Lan sau khi ở Koh Kra về, nên anh Ngô Đức Hữu từ Úc đại diện Phật giáo mỗi lần tới các phần mộ, anh phụ trách khấn nguyện. Tiếng Việt miền Nam của anh nhẹ nhàng, ấm áp, bài kinh anh rút ra từ đạo Ông Bà, nghe thật cảm động, xin trích một đoạn:

Cầu Thượng đế từ bi hỉ xả. Cho linh hồn ổn thỏa nghe kinh. Cầu xin giảm bớt tội tình. Cho vong nhàn hạ nhẹ mình thảnh thơi. Cảnh ly biệt hỡi ôi thê thảm. Đức Thần Minh phất phưởng tràng phan. Cho hồn noi đó nhẹ nhàng. Trở về cứu vị an nhàn hưởng vui…

Sau lễ chúng tôi đi thắp nhang trên các ngôi mộ, không phân biệt Hoa, Việt, người địa phương hay thuyền nhân. Nghi thức hóa vàng mã tiếp theo rất phong phú, các anh chị trong nhóm mua ngay tại địa phương nên mua được rất nhiều (theo thống kê năm 2010 Mã Lai có 19.8 % theo đạo Phật).
Chúng tôi hóa vàng xong thì xuất hiện một người đàn bà Hoa, được những người trong nhóm
 giới thiệu đó là bà Alice Wong, vợ của ông Alcoh Wong một vị ân nhân chôn cất gần như là hầu hết những xác thuyền nhân trôi vào bờ bãi Mã Lai.

Chân dung ông Wong và Bia Công Đức.

Ông chính là người đã chôn cất những ngôi mộ tập thể, hơn thế nữa bao giờ có xác táp vào bờ là người ta đi gọi ông. Ông in ra cuốn sách The Vietnamese Boat People (VBP) along The East Coast Of Malaysia Peninsula để hướng dẫn những người đi tìm mộ thân nhân dọc theo bờ biển phía đông vùng biển Mã Lai. Vùng biển phía đông Mã Lai đối diện với mũi Cà Mau là nơi thuyền nhân tới đông nhất và cũng chết đắm nhiều nhất.

Chân dung ông Wong và Bia Công Đức.

Ông để hết thời gian của mình chỉ để lo cho những cái xác của thuyền nhân Việt Nam trôi giạt vào vùng bãi biển Mã Lai, gần nơi ông cư ngụ. Chiếc thuyền đầu tiên của người Việt tỵ nạn ông Wong được nhìn thấy vào ngày 23 tháng 11 năm 1978 đã vào gần tới bãi nhưng chưa được lên bờ. Ông nhìn thấy những khuôn mặt hốc hác, sợ hãi nhưng tràn đầy hy vọng. (về sau ông được Hội Hồng Nguyệt Red Cresent cho biết, chiếc thuyền đó đã bị lật trong khi được hướng dẫn vào bờ ngay trong cùng ngày. Cả thuyền 137 người bị chết đuối).

Ông và những người bạn của ông ngoài việc chôn cất, còn đi tìm những phần mộ của thuyền nhân rải rác trên đất Mã đem về gần nhau.

Những nấm mộ thuyền nhân tập thể được nhìn như “mồ vô chủ” thì trên một ý nghĩa nào đó, ông Wong chính là “chủ” những nấm mồ này.

Cho tới khi ông mất, năm 2006 trước đó một tuần ông vào nghĩa trang thăm mộ thuyền nhân ông đã hát bài “I will follow you forever”.

Nói theo nhà Phật, kiếp trước ông có nợ người Việt Nam hay chính ông là một người Việt Nam trong tiền kiếp?

Tấm lòng của ông Wong đối với thuyền nhân từ năm đầu tiên 1978, khi ông nhìn thấy chiếc thuyền tị nạn 137 người kéo vào vùng vịnh Kuala Terengganu, tới năm ông qua đời 2006 là 28 năm dài.

Đảo Bidong và những khu mộ

Chúng tôi cũng tới đảo Bidong bằng thuyền. Thuyền này chạy bằng máy cao tốc và từ đất liền ra tới đảo khoảng 20 phút. Đi giữa trưa nắng gắt.

Từ năm 1975- 1991 đã có 250,000 thuyền nhân sống sót tạt thuyền vào sinh sống ở đây. Nhiều người chờ bảo lãnh có thể ở trên đảo từ hai tới bốn năm, nhiều người bị trả lại. Có người bệnh chết, có người tự tử. Họ được mang lên đỉnh đảo chôn cất.

Mộ chia ra từng khu A, B, C… Khu cho trẻ em riêng. Khu F được coi là đông nhất tới hơn 200 ngôi mộ. Chúng tôi kéo nhau lên đó. Bước thấp, bước cao, chống gậy, cầm dao, vừa leo vừa phạt cây rẽ lối. Cuối cùng cũng lên tới tấm bia có ghi 151 người (có bia mộ) Thật ra số mộ ở đây trên con số 200.
Đồi Tôn Giáo nơi trước đây có nhà thờ Công giáo, Tin Lành, Cao Đài và Chùa thì nay đã vừa bị phá, vừa xụp đổ theo thời gian, trông vô cùng hoang phế. Đau lòng hơn nữa những tượng Phật, tượng Đức Mẹ đều bị chém cụt đầu (vì một số người cuồng tín tin là mất đầu thì không còn linh thiêng nữa). Thánh giá Chúa thì chỉ còn dấu vết trên tường mà thôi.

Tôi và Thái hai chị em đi lang thang chung quanh đồi, Thái lo chụp hình, tôi lo… buồn. Tôi đứng trên cao nhìn mông lung bao quát bãi cát dưới chân đồi.

Nơi đây bao nhiêu người dân Việt của tôi giạt vào, giạt vào bằng thân xác còn thở được, còn hy vọng sẽ được chuyển tới một quốc gia nào đó để gây dựng lại cuộc đời cho con,cháu hay chính bản thân mình? Bao nhiêu người chỉ còn là những cái xác bập bềnh giạt vào bờ? Bao nhiêu cảnh chia ly của những mối tình vừa nhận được sau những đau thương mất mát? Bao cảnh đời uất hận bị gửi trả về nơi mình đã không sống được phải bỏ đi? Bao nhiêu người đã phải ở đây cả ba, bốn năm trong hy vọng, trong tuyệt vọng trước khi được rời nơi này?

Biển dưới kia đang ập vào từng đợc sóng, nước mắt của mấy mươi năm về trước còn giọt nào pha trong muối đại dương?

Biển phải làm gì để giữ mãi được những giọt lệ, những tiếng khóc, tiếng cười, hy vọng và tuyệt vọng của một dân tộc luôn luôn “Đi không yên ổn, ngồi không vững vàng” ngay trên chính đất nước mình.
Chúng tôi xuống đồi để sửa soạn quay về đất liền. Xuống đến chân đồi ngoái đầu nhìn lại, một cánh bướm đen thật lớn từ trên đồi bay xuống lượn vòng ngay sau lưng tôi. Một thoáng rùng mình, một thoáng rưng rưng, tôi dừng lại, nói thầm trong cuống họng mình. “Thôi nhé, tôi về, nhớ mãi hôm nay”. Giơ tay áo lên, quẹt ngang dòng nước mắt. Cánh bướm bay mất hút lên đồi.

Sau một đêm mắc võng, chùm chăn (cho khỏi muỗi) ngủ lăn lóc trên cầu tàu, chúng tôi trở về đất liền, tiếp tục cuộc hành trình tìm mộ thuyền nhân.

Rải rác mộ thuyền nhân dọc đường

Trên đường sang Kuala Lumpur, trong tỉnh Dungun có hai nghĩa trang. Hai nghĩa trang này có biển trước mặt nên khi xác thuyền nhân giạt vào được vớt lên chôn ngay tại đây. Khi họ vớt được 1 xác, khi được 2, 3, khi được 5, 7. Có khi cả trên 10 xác vào một lúc.

Nghĩa trang thứ nhất lối vào có đền thờ với hàng chữ Tao Yan Dian Temple, có 80 ngôi mộ thuyền nhân, trong đó 38 mộ có tên. Một ngôi mộ tập thể nằm dưới gốc một cây bàng lớn, chôn trên 100 người, được khắc chung một tấm bia. Bia được Văn Khố Thuyền Nhân xây ngày 23 tháng 3 năm 2007.

Những ngôi mộ trong khu thứ hai được đặt trong một nghĩa trang đặc biệt do nhà thờ Công giáo St.Thomas trông coi. Những thân xác thuyền nhân được bao quanh bởi ba ngôi thánh đường của: Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Hồi giáo. Còn được gọi là Migrants Cemetery.

Những linh hồn này thật được chúc phúc an ủi biết bao!

Nhang được thắp lên, lời kinh được cất lên, nước mắt lại chảy xuống, Chúa, Phật trên cao được mời xuống dự tiệc bi ai của nhân loại.

Viết tới đây. Tôi tưởng tượng ra, tôi là người dân Mã Lai sống dọc theo miền đông biển Mã Lai, mỗi sáng trở dậy nghe tiếng gọi nhau ơi ới bên ngoài cánh cửa: ra vớt xác thuyền nhân Việt đang giạt vào bờ. Không phải một xác, hai xác, mà vô số xác. Rồi cùng nhau tẩm liệm, chôn cất, có khi lập miếu thờ.

Tôi tưởng tượng ra trong những cái xác bất hạnh đó, một cái xác của chính mình.

Những cái xác của đồng bào mình (hay của chính mình) đã được những người không cùng chủng tộc xót thương, được ghi lại in thành sách (như sách của ông Wong) để sau chính những người Việt về tìm lại.

Chôn cất cả trăm, ngàn, nấm mộ không phải là chuyện giản dị. Việc xây cất làm sao chu đáo được. Theo thời gian, mưa nắng những ngôi mộ không tồn tại được.

May mắn thay Văn Khố Thuyền Nhân của người Việt (Do ông Trần Đông, từ Úc-Sáng lập 2004), đã tới Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương trùng tu lại hầu hết những nấm mộ này. (theo VKTN - Trong vùng Đông Nam Á có hơn 2000 nấm mộ vừa tập thể vừa cá nhân).

Tôi đọc tên tôi

Hội Hồng Nguyệt (Malaysian Red Cresent Societ - Hồng Thập Tự Mã Lai) đã lưu trữ hai trăm ngàn (200.000) hồ sơ của những người sống sót. Để hôm nay những thuyền nhân trong nhóm chúng tôi đến tìm lại. Mỗi khi tìm được tên của mình hay thân nhân mình, họ òa vỡ ra cùng một lúc tiếng cười và giọt lệ:
Tôi vừa đọc tên tôi trên tấm thẻ
Có phải tôi không trên lý lịch này
Ngày tháng đó tưởng vùi chôn đáy biển
Bỗng sóng đánh vào bờ sáng hôm nay

Khi chúng tôi tới viếng Hội, câu chào hỏi đầu tiên của ông Dato’ Sayed A. Rahman, Tổng Thư ký Hội Hồng Nguyệt là: “Chúng tôi không cần biết anh là người nước nào, chúng tôi chỉ biết giúp đỡ một con người”. Nghe mà ứa nước mắt.

Ông Misnan, nhân viên điều hành của Hội, nói được vài câu bằng tiếng Việt rất thân tình. Đặc biệt là ông hát cho chúng tôi nghe bằng tiếng Việt, bài hát “Bài tình ca cho em” của Vũ Thành An thật hay. Hay một cách bất ngờ!

Thế gian đầy quỷ dữ, nhưng Trời cũng ban phát xuống những thiên thần cứu trợ.

Sau 42 năm nhìn lại, chúng ta có rất nhiều những trang sử mới. Trên hết, mỗi một cái chết của thuyền nhân, của tù cải tạo, của người Quốc gia chết cho Tự Do là một trang sử mới được cộng vào.

Tất cả con dân Việt đều phải học sử Việt.

Ngày 20 tháng 4 năm 2017
T.M.T.

Viết trong cuộc hành trình về Trại tỵ nạn Songkhla, đảo Koh Kra và Trại tỵ nạn Bidong từ 30 tháng 3 tới 16 tháng 4-2017.
__________

(*) Những câu thơ trong bài của tác giả Trần Mộng Tú.

Phần nhận xét hiển thị trên trang