Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2016

Làng xuất ngoại và những trái đắng chưa kể



Nhiều hộ giàu lên nhờ nguồn ngoại tệ do xuất khẩu lao động mang lại. Tuy nhiên, đằng sau ánh hào quang là những “trái đắng” mà chỉ có những người trong cuộc mới tận tường.
Giàu lên nhờ nguồn ngoại tệ do xuất khẩu lao động (XKLĐ) mang lại, nhiều người dân tại xã Cẩm Điền (huyện Cẩm Giàng, Hải Dương) đang hiện thực hóa giấc mơ đổi đời. Nhiều biệt thự, xe hơi đã hiện diện tại đây, nhưng phía sau ánh hào quang xuất ngoại và những đồng ngoại tệ là cả những “trái đắng” khó nuốt.
Biệt thự, xe hơi nhờ… xuất ngoại
Con đường dẫn vào thôn Hoằng Xá, xã Cẩm Điền được trải nhựa sạch đẹp. Hai bên đường làng là những ngôi nhà ba, bốn tầng khang trang, hiện đại mang vóc dáng phố thị – một diện mạo mới, khác xa trong tưởng tượng về một làng quê thuần nông, ít nghề phụ.
Dẫn chúng tôi đi một vòng quanh làng Mao, ông Nguyễn Phong Hải – một người dân trong thôn – đã điểm mặt cho chúng tôi thấy những điểm lạ chưa từng có tại nhiều làng quê thuần nông khác.
1
Gọi là làng, thôn nhưng những ngôi nhà được xây dựng cầu kỳ, kiểu cách chẳng kém cạnh các biệt thự đắt tiền trên phố đã chứng minh một điều rằng, cuộc sống của người dân nơi đây rất sung túc. Một ngôi nhà hai tầng đang gấp rút xây dựng được ông Hải giới thiệu là nhà của cậu con trai cả.
“Vợ nó đi Đài Loan được 2 năm, tết vừa rồi về thăm nhà đã gom góp đủ để xây cái nhà hai tầng”, ông Hải kể. Chỉ tay về phía ngôi biệt thư có kiến trúc kiểu lâu đài, ông Hải cho biết, những ngôi nhà ở đây được các gia chủ đầu tư xây dựng khá kỳ công, tốn kém.
Như để minh chứng cho độ chịu chơi hiếm có của người dân ở làng quê đặc biệt này, ông trưởng thôn Nguyễn Xuân Thi đứng gần đó cho hay, nhiều hộ gia đình thậm chí còn sử dụng vật liệu nhập ngoại để làm nhà. Trong khi so với vật liệu trong nước, giá thành của các vật liệu này có thể đắt gấp đôi, thậm chí gấp 3.
Cũng theo ông Thi, chi phí xây dựng mỗi ngôi nhà tại đây trung bình là trên 1 tỉ đồng. Chỉ riêng thôn Hoằng Xá nhỏ nhoi đã có tới hàng trăm ngôi nhà, biệt thự có giá thành như vậy. “Tất cả chỉ xuất hiện từ chục năm trở lại đây, khi người dân trong làng đua nhau đi XKLĐ, chứ chỗ này trước chỉ toàn nhà cấp 4 cũ kĩ thôi”, ông Thi cho biết.
Chưa hết choáng ngợp trước sự giàu sang nơi thôn quê này, chúng tôi được vị Chủ tịch UBND xã Cẩm Điền Lê Huy Kiên cung cấp một bản báo cáo khá hoàng tráng về số lượng lao động tham gia XKLĐ của địa phương. Theo đó, Cẩm Điền được coi là xã có nền kinh tế phi nông nghiệp phát triển tốp đầu của huyện Cẩm Giàng. Nguồn thu quan trọng đưa lại thành tích của xã chính là nguồn ngoại tệ từ XKLĐ.
2
Những năm gần đây, khoảng 40% số lao động trong độ tuổi ở địa phương lựa chọn đi làm việc ở nước ngoài như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… đơn cử như ở thôn Hoằng Xá, hầu như tất cả các gia đình ở đây (khoảng 1.000 hộ), gia đình nào cũng có người đi XKLĐ. Nhà nào ít thì có 1 người, còn lại bình quân là 2.
Cá biệt, một số hộ có tới 4, thậm chí 10 người đi XKLĐ. “Đi họp, chúng tôi vẫn được địa phương bạn ví là thôn thu ngoại tệ. Tất cả đều nhờ XKLĐ mang lại”, ông Kiên cho biết.
Có tiền xây biệt thự, nhiều gia đình chịu chơi còn nảy sinh nhu cầu sắm xe hơi. Từ một làng quê vốn phổ biến là xe đạp, lác đác xe máy cách đây vài năm, đến nay, không quá khó để bắt gặp những chiếc xe hơi đậu lề đường, trong ngõ. “Ở đây chỉ thiếu xe sang thôi, chứ xe trên dưới 1 tỉ đồng không phải là của hiếm tại làng “xuất ngoại” này nữa rồi”, vị trưởng thôn hóm hỉnh.
Những góc khuất cay đắng
Giàu lên nhờ xuất ngoại, nhưng ít ai biết rằng, phía sau những chuyến XKLĐ đó là cả trăm nỗi niềm cơ cực của kẻ ở, người đi. Thời gian biền biệt, không gian cách trở, xa xôi khiến nhiều người thậm chí không có cơ hội được nhìn người thân lúc cuối đời… Cho tới giờ, chị Nguyễn Thị Tuyền (thôn Hoằng Xá) vẫn không nguôi sự day dứt, ân hận khi không được nhìn mặt mẹ đẻ lần cuối.
Lấy chồng năm 20 tuổi, gia cảnh khó khăn, nên sau khi sinh cháu đầu lòng, chị Tuyền bàn với gia đình gom góp tiền đi XKLĐ, mong kiếm được ít vốn về làm ăn. Ai ngờ, do đăng ký theo “dây” không đảm bảo, nên cuối cùng, tiền mất, bản thân vẫn mang cảnh XKLĐ “chui” tại Nga. Cuộc sống nơi xứ người cơ cực, chị phải chốn chui, chốn lủi do không có giấy tờ hợp pháp.
Thậm chí, công ty nơi chị làm việc, khi biết chị thuộc diện lao động “chui”, cũng tìm cách ép giá, chỉ trả bằng 1/2 tiền công so với lao động hợp pháp. “Nhiều lần nghĩ cực, mình định bỏ về, nhưng cả chục triệu đồng đi vay chưa thể trả, cuối cùng đành gắng gượng”, chị Tuyền tâm sự.
Đau đớn, xót xa nhất hơn cả là ngày hay tin mẹ mất, chị chỉ biết khóc thầm mà không thể về nhìn mặt mẹ lần cuối. Mới đây, chị trở về nước, đứa con nhỏ giờ đã lên 3 tuổi, mộ người mẹ quá cố đã xanh cỏ, chị Tuyền chỉ còn biết khóc ròng và khôn nguôi trách giận bản thân.
Điều đáng nói, theo chị Tuyền, không chỉ có chị mà ngay tại làng, hàng chục gia đình tham gia XKLĐ cũng rơi vào hoàn cảnh trớ trêu, khi gia đình xảy ra biến cố, họ chỉ biết mong ngóng về quê nhà mà tủi hận. Chưa kể, đã sang xứ người là hầu như không năm nào, người lao động được đón tết bên gia đình.
3
Tuy nhiên, đó chưa phải là những nghiệt ngã tận cùng với những cảnh đời từng tham gia XKLĐ. Một vụ án đau lòng khác đã xảy ra tại xã Cẩm Điền này, khi nguyên nhân phần nào liên quan đến những tháng ngày biền biệt nơi xứ người – chồng sát hại vợ.
Chị Lương Thị Thêm đã mãi mãi ra đi để lại nỗi đau tột cùng cho cha mẹ và một đứa con thơ, trong khi người chồng vướng vòng lao lý. Phía sau vụ án gây chấn động này, có một điểm cần nói đến đó là những mâu thuẫn thường xuyên xảy ra kể từ khi chị Thêm đi XKLĐ xa nhà.
Theo lời kể của ông Lương Đức Xa (bố đẻ nạn nhân), Dương và chị Thêm nên duyên vợ chồng từ năm 2007. Năm 2008, hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ được nhân lên khi chị Thêm sinh cho Dương một cháu trai kháu khỉnh. Gánh nặng cơm áo gạo tiền đè nặng lên đôi vai của vợ chồng Dương khi phải chăm lo cho bố mẹ chồng năm nay đã ngoài 70 tuổi, thường xuyên đau ốm.
Khi đứa con đầu lòng đã cứng cáp, Thêm bàn với chồng xin đi Đài Loan XKLĐ để kiếm vốn về làm ăn. Lúc đầu, Dương không đồng ý, tuy nhiên sau một thời gian suy nghĩ, Dương đã chấp thuận để chị Thêm đi, còn mình vào công ty xay xát làm công nhân bốc vác kiếm tiền nuôi con và bố mẹ già.
Ngày vợ về nước, Dương đã thuê tận xe rồi đưa con trai ra tận sân bay đón vợ. “Gia đình nó còn làm mấy mâm cỗ để mời họ hàng, bà con đến chung vui nữa, nhưng giờ thì…”, ông Xa khẽ lau dòng nước mắt, ngước nhìn di ảnh người con gái tội nghiệp.
Niềm vui chẳng tày gang, vợ về được ít ngày, Dương quay ra cáu gắt, thường xuyên xin tiền vợ để trả nợ. Nhiều hàng xóm cho biết, không chỉ là chuyện tiền nong, Dương còn nảy sinh nghi ngờ vợ đã thay lòng đổi dạ nơi xứ người. Cũng từ đây, gia đình thường nảy sinh tranh cãi, thậm chí là xô xát. Mâu thuẫn càng lên đến đỉnh điểm khi Dương biết chị Thêm có ý định đi XKLĐ lần nữa và cuối cùng là dẫn đến vụ án mạng thương tâm vừa qua.
Cũng theo vị trưởng thôn, trong số những cái nhất ở làng, có cái nhất không ai mong muốn, ngoài sự giàu có, sung túc, đó là làng có nhiều trường hợp vợ chồng bỏ nhau, nhất là sau khi đi XKLĐ về. “Hiện ở làng đang có một thực tế, nhiều chị, em sau khi đi XKLĐ về nước thì sinh ra chán chồng, chê chồng nên đâm đơn ly dị”, ông Thi cho biết.
Theo Bình Minh/Lao động
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tư liệu về hai ông Khải:

Hồi ký Lê Phú Khải – Bản đầy đủ (kỳ 48)

by anle20
Tôi đi đòi nợ Nguyễn Khải
Ngày 15-3-2008 Nguyễn Khải qua đời. Các báo quốc doanh nhất loạt đưa tin đại tá nhà văn quân đội Nguyễn Khải qua đời. Điện thoại bàn nhà tôi réo liên hồi. Người ta muốn tôi viết bài về Nguyễn Khải. Sự nghiệp văn chương của ông thì cái giải thưởng Hồ Chí Minh đã nói đầy đủ. Người ta muốn có những kỷ niệm, những câu chuyện về cuộc đời, về nghiệp văn của ông để báo bán chạy hơn. Tôi từ chối. Thấy tôi từ chối đến mấy lần, bà xã nhà tôi bảo: “Thôi thì người ta nhờ, ông viết cho người ta. Ông cũng quen Nguyễn Khải mà.”
Tôi biết viết gì cho báo chí quốc doanh về Nguyễn Khải, nhà văn mà tôi đã từng nghe tiếng thở dài não nề của ông qua năm tháng?
Nguyễn Khải bảo tôi: “Nhà văn Việt Nam bị ba đứa nó khinh, thứ nhất là thằng lãnh đạo nó khinh, thứ hai là độc giả nó khinh, thứ ba là đêm nằm vắt tay lên trán… mình lại tự khinh mình!”
“Mình lại tự khinh mình” thì đau quá!!! Vì thế, tôi không lấy gì làm lạ, không ngạc nhiên tí nào khi đọc bài bút ký chính trị Đi tìm cái tôi đã mất của ông sau ngày ông từ trần ít lâu. Một con người mang tâm trạng suốt đời như thế mà vẫn phải sống, vẫn phải viết để tồn tại thì nhất định sẽ phải để lại một cái gì trước khi ra đi, để cáo lỗi với hậu thế. Nguyễn Khải chính là nỗi đau đớn trên hành tinh này của một người cầm bút và nhất định ông phải đi tìm “cái tôi” đã mất ở thế giới bên kia. Theo tôi, bài bút ký chính trị đó là bản án nghiêm khắc nhất, sâu sắc nhất cho tội ác của chế độ toàn trị đối với giới cầm bút ở nước ta thời cộng sản. Phương Tây đi trước Phương Đông về thể chế văn minh, đã đặt tên cho giới nhà văn là “personnel littéraire” trong đó danh “personnel” (giới) không ngẫu nhiên mà trùng với tính từ “personnel” (mang tính cá nhân). Cái “pẹc” (pésonnel) mà Chế Lan Viên hay dùng để ca ngợi cái cá nhân, cái tôi của nhà văn làm nên sự khác biệt, làm nên cái riêng, phong cách của một cây bút, đã bị chế độ toàn trị biến thành bầy đàn thì còn gì là văn chương chữ nghĩa. Vậy mà cả đời phải cầm bút trong một thể chế bầy đàn như thế, Nguyễn Khải đau là phải. Không đau mới lạ.
Nguyễn Khải khi còn ở đường Nguyễn Kiệm, tôi đến chơi, thấy nhà cao cửa rộng, phòng khách sang trọng, tôi khen rối rít. Ông tâm sự, thằng con trai đang làm ngành hàng không, lương mười mấy triệu một tháng, nó bỏ, ông lo lắm. Nó nói hết giờ chỉ ngồi tán gẫu phí sức lực của nó, nên nó ra kinh doanh và giàu có. Căn nhà to tát này là của nó.
Ở cái nhà như cái lâu đài thế mà ông chỉ nói chuyện buồn. Buồn lắm. Ông kể: “Thằng con tôi hay đi mua sách về đọc. Mẹ nó mắng: Sách của bố mày đầy ra đấy, sao không đọc mà phải đi mua. Nó nói: Sách của bố viết không đọc được! Mẹ nó mắng: Không biết thế thì lấy cứt mà ăn à (!)” Tôi nghe đến đấy thấy… choáng quá! Tôi không ngờ Nguyễn Khải có thể nói ra điều đó với tôi và ông bạn tôi là giáo viên văn, dạy chính những bài văn của ông trong sách giáo khoa. Cái thứ văn “nếu không viết thế thì lấy cứt mà ăn…”! Chính anh bạn này đã đưa tôi đến chơi với Nguyễn Khải ở ngôi nhà sang trọng này. Dằng vặt, đau khổ đến tận cùng nên nhà văn mới thốt ra những lời như thế.
Dịp kỷ niệm năm mươi năm báo Văn Nghệ của hội nhà văn, sau khi tổ chức ở Hà Nội, còn được tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh, tại dinh Thống Nhất. Là cộng tác viên của báo, tôi cũng được mời. Tôi gặp Nguyễn Khải và nói với ông rằng, tôi có đọc trên báo Văn Nghệ một bài mô tả một ông nhà văn nổi tiếng chuyên đi về Thái Bình, viết về Thái Bình rồi đặt câu hỏi: Vậy mà sự chuyện bạo loạn ở Thái Bình xảy ra rung chuyển dư luận trong ngoài nước, không biết trước đó ông nhà văn nổi tiếng kia đã nghe được cái gì, thấy được cái gì mà chẳng thấy ông báo trước được gì… Tôi bảo Nguyễn Khải: “Rõ ràng là người ta chỉ trích anh đấy!” Nguyễn Khải nghe tôi nói rồi chỉ cười bỏ đi. Anh bạn biên tập viên báo Văn Nghệ trong ban tổ chức buổi lễ đứng ngay cạnh tôi, khi Nguyễn Khải đi rồi, anh bảo tôi:”Bài đó chính Nguyễn Khải viết, ông ấy đến tòa soạn năn nỉ bọn tôi đăng. Ông ấy nói: Thôi thì mình chửi mình trước đi, người ta thương, sau này không chửi nữa.”
Ít lâu sau Nguyễn Khải là dọn về ngôi nhà bảy tầng lầu ở đường Tôn Đản Quận 4. Nhà đó cũng của con trai ông mới xây. Đây là một trong những nhà tư nhân có cầu thang máy sớm nhất ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngôi nhà này là văn phòng công ty của con ông. Anh ta để bố ở trên tầng 7, có sân thượng rộng, thoáng mát. Khi tôi đến, anh chàng bảo vệ công ty mặc đồng phục như cảnh sát, nhìn tôi từ đầu đến chân rồi hất hàm hỏi: “Kiếm ai?” Tôi nói: “Kiếm ông Nguyễn Khải, bố của ông chủ anh.” Y hỏi: “Kiếm có việc gì?” Tôi nói: “Anh báo với ông Nguyễn Khải là, tôi là Lê Phú Khải kiếm ông Nguyễn Khải để đòi nợ!” Tay bảo vệ vội vào phòng thường trực gọi điện.
Khi lên đến lầu 7 rồi, tôi bảo Nguyễn Khải: “Tôi đến để đòi nợ bài ông hứa viết cho tạp chí Nghề Báo đây!” Nguyễn Khải chưa cho tôi về ngay, giữ ở lại ăn trưa và rồi nằm xuống sàn nói chuyện như mọi lần. Đó là cách tiếp khách quen thuộc của ông. Hai người (nếu là ba người cũng thế) nằm xuống sàn, đấu đầu vào nhau thành một hàng thẳng mà nói chuyện. Theo Nguyễn Khải thì nằm như thế nói chuyện được lâu, đỡ mỏi lưng.
Hôm đó Nguyễn Khải nói với tôi: “May quá ông ạ! Bữa trước ông Nguyên Ngọc đến đây, nếu bảo vệ nó đưa ông ấy lên phòng khách ở lầu 3 thì tôi xấu hổ không biết chui vào đâu!” Tôi hỏi: “Vì sao?” Nguyễn Khải trả lời: “Vì ở lầu 3 tôi có treo cái bằng giải thưởng Hồ Chí Minh. Ông Nguyên Ngọc mà không được giải thưởng Hồ Chí Minh mà tôi lại được thì xấu hổ quá!” Ngẫm nghĩ một lúc ông nói: “Nguyên Ngọc quyết liệt lắm, tôi không thể có cái quyết liệt ấy. Tôi hèn lắm!”
Nguyễn Khải là thế. Một nhà văn tên tuổi như ông mà nhận mình hèn thì ông không hèn chút nào. Ít nhất ông cũng là một con người chân thật, có liêm sỉ. Bút ký Đi tìm cái tôi đã mất của ông là một áng văn bất hủ. Một “hiện thực muốn có” bên cạnh một “hiện thực không muốn có” là nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa xuất hiện ở Việt Nam thời cộng sản. Người ta hay nói đến một chủ nghĩa hiện thực không bờ bến …phải chăng …
Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đến viếng ông. Khi người ta bảo không còn chỗ trong nghĩa trang thành phố để an táng ông, ông Kiệt nói: “Lấy suất của tôi cho Nguyễn Khải (!)
Viết thêm:
Liệu tôi có thể viết cho các báo quốc doanh những câu chuyện kể trên hay không? Vì thế, khi đọc những bài “khóc” Nguyễn Khải trên báo, tôi thấy nó nhạt nhẽo, vô duyên và dối trá. Từ một bài của nhà báo Vu Gia là tôi thấy đọc được.
(Còn tiếp)

Đọc tất cả những bài đã đăng ở tại trang: Lời Ai Điếu


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Quên Đàm Vĩnh Hưng đi!


Quốc Nam
MTG - Dân mạng chia hai phe: bên đánh giá Đàm Vĩnh Hưng không nên "đấu tố" mẹ mình, bên này đang bị ném đá bởi fan cuồng của “Mr Đàm”. Bên này cho rằng Hưng đúng, Hưng thích, Hưng có quyền. Và cái bên "Hưng có quyền" thì đông vô đối, tôi không chọn bên này.

Tôi chọn cách phản đối những bậc phụ huynh lao vào cờ bạc, vay nợ quá nhiều khiến các khoản nợ thành gánh nặng cho con cái. Nó cũng không đúng với đạo lý làm cha làm mẹ phải là tấm gương để nuôi dạy con cái cho đến khi nhắm mắt xuôi tay.

Tôi cũng chọn cách phản đối Đàm Vĩnh Hưng đưa mẹ mình lên mạng xã hội với những lời lẽ rất nặng nề mà truyền thông nói đó là "sự thật người mẹ cờ bạc của Đàm Vĩnh Hưng". Những người mà mẹ của ca sĩ này mượn tiền là fan hâm mộ của anh, người quen của anh. Hưng có nhiều cách lựa chọn để khuyên giải những người quen biết không cho mẹ mình mượn tiền theo cờ bạc. Khuyên mãi không được cũng phải khuyên, đó là đạo lý tình thâm mẹ con Hưng phải có.

Hưng là ca sĩ có nhiều fan hâm mộ, trong vô số bài đã biểu diễn, Hưng từng hát trước hàng ngàn tù nhân của một trại giam bài Mẹ của nhạc sĩ Phú Quang với ca từ như thế này: "Mẹ là người đầu tiên/ Người đàn bà mãi mãi/ Không bao giờ phản bội/ Ngay cả khi con ngu dại một đời/ Còn mãi với con lời ru ngày xưa ấy/ Còn mãi với con vòng tay mẹ âu yếm/  Mẹ là người đầu tiên/ Người đàn bà mãi mãi/ Không bao giò phản bội/ Ngay cả khi con ngu dại một đời/  Bây giờ mỏi cánh phiêu du/ Con tìm về chốn cũ/ Bây giờ mẹ đã khuất xa chỉ còn gặp trong giấc mơ/ Để từng chiều lại nghe/ Lòng cồn cào thương nhớ/ Con gọi thầm mẹ ơi, mẹ ơi!".

Hưng từng khoe nhà biệt thự, tượng đúc dát vàng, xài hàng hiệu vô đối thiên hạ trong giới ca sĩ thương mại thì 20 tỷ, với một sức kiếm tiền như Mr Đàm, có phải bán nhà thì cũng nên bán để trả nợ nần cho người đàn bà 9 tháng 10 ngày mang nặng đẻ đau giọng hát của nó nhiều fan hâm mộ này.

Trong lịch sử Trung Hoa, thời Xuân Thu, vua nước Trịnh là Trịnh Trang Công khi mới ra đời bị sinh ngược nên người mẹ đã muốn giết đi. Sau người mẹ này còn lập mưu sát hại Trang Công để cho con thứ thay lên làm vua nhưng không thành. Trịnh Trang Công giận mẹ nên giam mẹ tại ấp Dĩnh và thề rằng chỉ gặp lại mẹ khi nào xuống suối vàng. Sau cùng được Dĩnh Khảo Thúc khuyên về đạo làm con nên đào hầm đến chỗ có nước chảy (coi như là suối vàng) để lạy xin lỗi mẹ. Dù người mẹ định 2 lần giết Trịnh Trang Công nhưng sau cùng ông vẫn phụng hiếu mẹ nên để gương tốt sau này.

Với Mr Đàm, hãy quên đi, ca sĩ hay là gì đi nữa cũng có cội nguồn. Và bây giờ không phải là lúc chia phe trên mạng để miệt thị nhau hoặc bênh ca sĩ này làm vậy là đúng. Giọt nước mắt lăn dài bây giờ là cho hàng vạn đồng bào miền Trung từ Quảng Nam vào đến Bình Định lũ to trở lại, nước càn quét khiến nhiều người co ro trong giá rét lạnh căm.

Quan tâm bây giờ của tôi là 14 thủy điện xả lũ ở Nam Trung Bộ khiến hoa màu, vườn cây kiểng chuẩn bị mùa Tết đang bị úng ngập, mất trắng. Quan tâm của tôi bây giờ là hàng tỷ giống má, phân tao của người dân đang bị lũ cướp mất.

Đáng ra bây giờ lũ đã không còn, vậy mà mưa không lớn nhưng lũ vẫn lên nhanh, vận hành của các thủy điện và các hồ đập xả tràn đã làm cho hàng vạn người điêu đứng. Đáng ra bây giờ là mùa vụ lo làm để buôn bán ngày Tết sắp đến, nhưng phận người dân lại phải co rúm trước con nước dữ chực chờ cướp những gì dân còn có thể có sau những gì mót lại từ trận lũ trước.

Hãy quên đi màn Mr Đàm khóc và kể khổ về người mẹ mang nặng đẻ đau. Đạo lý đó không có trong mỗi cái like hay cái share bảo vệ Đàm Vĩnh Hưng đâu, bởi mỗi cái like hay share là mỗi con người đều có trái tim đã được ăn búng cơm từ thuở nhỏ mà trưởng thành từ dưỡng dục của mẹ cha.

Tôi chọn quên Mr Đàm. 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc tịch thu một tàu lặn tự hành của Mỹ tại Biển Đông




Tàu nghiên cứu hải dương USNS Bowditch của Mỹ.

(Belga 16/12/2016) Trung Quốc đã tịch thu một tàu lặn thăm dò tự hành của Hải quân Mỹ tại Biển Đông. Lầu Năm Góc hôm thứ Sáu 16/12 khẳng định như trên. Sự kiện này có nguy cơ làm căng thẳng thêm tình hình tại vùng biển tranh chấp.

Phát ngôn viên Lầu Năm Góc, thuyền trưởng Jeff Davis cho biết : « Chiếc tàu lặn tự hành đã bị Trung Quốc tịch thu » ở cách 50 hải lý ngoài khơi Philippines. Tàu thăm dò này được sử dụng để đo đạc độ mặn và nhiệt độ nước biển, vốn là những thông tin thiết yếu, đặc biệt đối với đội tàu ngầm của Mỹ.

Sự cố hiếm hoi trên xảy ra vào lúc ê-kíp dân sự của tàu nghiên cứu hải dương USNS Bowditch đang thu hồi hai chiếc tàu lặn từ dưới biển. Một tàu Trung Quốc loại Dalang III (Đại Lãng) chuyên về hỗ trợ và cứu hộ tàu ngầm, đang ở cách đó khoảng 500 mét, đã lấy đi một chiếc tàu lặn. Thủy thủ đoàn chiếc USNS Bowditch thu về được chiếc thứ hai. Các thủy thủ Mỹ yêu cầu phía Trung Quốc trả lại chiếc tàu lặn tự hành, nhưng họ lạnh lùng đáp lại : « Quay lại hoạt động bình thường ».

Đại diện Lầu Năm Góc khẳng định : « Chiếc tàu lặn là của chúng tôi, trên tàu có ghi rõ ràng. Chúng tôi yêu cầu họ phải trả lại và mong rằng chuyện này sẽ không tái diễn ». Phát ngôn viên Lầu Năm Góc Peter Cook lại càng cứng rắn hơn, lên án Bắc Kinh đã hành động bất hợp pháp. « Chúng tôi kêu gọi Trung Quốc trả lại chiếc tàu lặn tự hành ngay lập tức, và thực hiện đầy đủ mọi nghĩa vụ mà luật pháp quốc tế đòi hỏi ».

Thuyền trưởng Davis cho biết chiếc tàu lặn trị giá 150.000 đô la, và các bộ phận của tàu có thể mua được trên thị trường. Ngược lại những dữ liệu thu thập được về độ mặn và nhiệt độ nước biển rất quý giá, đó là các yếu tố quyết định cho việc truyền âm thanh trong môi trường biển. Những hiểu biết cụ thể ấy rất cần thiết để sử dụng các thiết bị thăm dò, hoặc đối với các tàu ngầm nhằm che lấp tiếng động lúc di chuyển.

Sự cố mới này sẽ làm căng thẳng thêm tình hình tại Biển Đông, mà các nước Trung Quốc, Philippines, Việt Nam…đang tranh chấp. Trung Quốc đã đào đắp một loạt đảo nhân tạo để tăng sức mạnh quân sự cho các yêu sách chủ quyền, và Hoa Kỳ thường xuyên tuần tra xung quanh các đảo này, nhằm bảo vệ tự do hàng hải tại vùng biển chiến lược.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Quang Trung và Tần Thủy Hoàng


Quay trở lại với Tạ Chí Đại Trường một lần nữa, tôi thấy có thể điều chỉnh một chút cái nhìn đối với nhân vật Quang Trung, nhân vật kỳ lạ và bí ẩn nhất của lịch sử Việt Nam, cũng là nhân vật có ý nghĩa rất đặc biệt, và duy nhất.

Ở kia, tôi đã so sánh Quang Trung với Hạng Vũ. Tôi thấy không có gì cần thay đổi ở đó: ở trong mối quan hệ với Gia Long, Quang Trung lặp lại nhiều điều của Hạng Vũ. Nhưng đồng thời, Quang Trung cũng có các ý nghĩa của một Tần Thủy Hoàng.

Ta bỏ qua mọi điều gì thuộc về định kiến, về sự tàn ác của người này, về tầm vóc lớn lao của người kia, mọi thứ, để thử chỉ nhìn vào một điểm duy nhất: ý nghĩa của một nhân vật trong một bức tranh chung.

Tần Thủy Hoàng kết thúc thời Xuân Thu-Chiến Quốc. Thật ra, thời Xuân Thu-Chiến Quốc trong lịch sử Trung Hoa nghĩa là gì? Ở một phương diện lớn, đó là những phép thử. Thử các cách tồn tại, thử cả các mẫu người. Ngũ Bá (Tề Hoàn Công, Tần Mục Công, etc.) là những phép thử cho các hình thức vua, quân vương. Tần Thủy Hoàng kết thúc tất tật, không phép thử nào được thực sự tồn tại nữa, vì đó là những phép thử không thành công. Các mẫu người được "tập dượt", và Khổng Tử đã chuẩn bị từ trước cho các thiết chế giáo dục và văn hóa sẽ tồn tại lâu dài.

Tần Thủy Hoàng, đó cũng có nghĩa lần đầu tiên Trung Quốc trở thành một thực thể (quốc gia và nhà nước). Trung Quốc là sự mở rộng theo các vòng tròn đồng tâm từ Hoa Hạ Trung Nguyên.

Quang Trung kết thúc thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, đồng thời cũng là giai đoạn thực thể Việt Nam được tạo lập (quá trình phóng chiếu từ Bắc xuống Nam).

Ý nghĩa đặc biệt lớn của Quang Trung nằm ở chỗ: kể từ Quang Trung, chưa bao giờ Trung Quốc thực sự đặt chân được vào Việt Nam nữa. Phải đến lúc đó, mọi câu chuyện của Việt Nam mới thực sự trở thành những câu chuyện riêng, giải trừ đi mối lo hàng nghìn năm về phía Bắc: cái nhìn không còn hướng về Bắc, mà quay xuống Nam.

Cũng giống ở trường hợp Tần Thủy Hoàng, triều đại Quang Trung kết thúc ngay ở đời con.

-----------

Tôi đã viết xong bài về Sử ký. Những lúc tôi viết thành "nhiều kỳ" như thế này, cũng như khi viết về Tạ Chí Đại Trường, là những lúc tôi muốn điều chỉnh cách nhìn.

Đồng thời, đây cũng là những gì tôi dùng để vinh danh Roland Barthes (xem thêm ở kia).

Maldoror I, 9 đã đầy đủ.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ba điều quan trọng nhất trong cuộc đời


Con người ta mệt mỏi cũng bởi sân si, càng tham ái, sân si nhiều càng mỏi mệt… vì thế, trong cuộc đời, nhất định phải học được 3 điều này! Có một tỷ phú sống trong căn biệt thư xa hoa. Nhưng một ngày kia mắc bệnh hiểm nghèo, ông chợt nhận ra rằng tất cả những gì là danh vọng, tiền tài và vật chất, thực ra đều hư vô như mây khói.
Vì lo sợ sẽ không sống được bao lâu nữa, ông bèn tìm đến một vị danh y để xin lời khuyên. Sau khi bắt mạch, danh y nói với ông rằng: “Bệnh của ông ngoài cách này ra thì không thuốc nào có thể chữa khỏi. Tôi sẽ kê cho ông ba đơn thuốc, ông cứ theo đó mà làm, hết đơn thứ nhất thì chuyển sang đơn tiếp theo.”

Vị tỷ phú về nhà, trong lòng phấp phỏng hy vọng. Ông lấy đơn thuốc đầu tiên ra và đọc: “Hãy đến một bãi biển và nằm đó khoảng 30 phút, làm liên tục như vậy 21 ngày.” Mặc dù thấy khó hiểu, nhưng ông vẫn quyết định ra bờ biển. Ông lang thang một vòng rồi ngả lưng nằm trên bãi cát. Bất chợt một cảm giác nhẹ nhàng và khoan khoái vô cùng bao trọn thân thể ông. Vì trước đây công việc bận rộn nên ông không có cơ hội nghỉ ngơi. Nay ông có thể tĩnh tâm lại để lắng nghe tiếng gió thổi vi vu, tiếng sóng biển rì rào hòa lẫn với tiếng kêu thánh thót của đàn hải âu gọi bầy… Trái tim ông bỗng thổn thức, chưa bao giờ ông có được cảm giác thoải mái như bây giờ.

Ngày thứ 22, ông mở đơn thuốc thứ hai, trong đó viết: “Hãy tìm 5 con cá hoặc tôm rồi thả chúng xuống biển, liên tục như vậy trong 21 ngày.” Trong lòng ông đầy rẫy những băn khoăn, nhưng vẫn cặm cụi đi mua tôm cá rồi thả chúng ra biển. Ngắm nhìn từng con vật bé nhỏ được trở về với biển khơi, trong lòng ông không nén nổi nỗi xúc động.

Ngày thứ 43, ông đọc đơn thuốc thứ ba: “Tìm một cành cây và viết những điều khiến ông cảm thấy không hài lòng lên bãi cát.” Nhưng khi ông vừa viết xong, thủy triều lại cuốn tất cả xuống biển. Ông lại viết, sóng lại cuốn đi, lại viết, lại cuốn đi, rồi lại viết, và lại cuốn đi… ông bật khóc nức nở vì chợt hiểu ra tất cả. Khi về nhà ông cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng, tinh thần chưa bao giờ thoải mái và tự tại đến thế, thậm chí ông cũng không còn sợ cái chết nữa.

Thì ra con người ta chỉ cần học được 3 điều trên thì sẽ vui vẻ hạnh phúc:

Thứ nhất: Nghỉ ngơi
Thứ hai: Cho đi
Thứ ba: Buông xuống


Là người nhất định phải biết NGHỈ NGƠI

Phật giáo cho rằng, trong xã hội này có hai loại người. Một là quá tham lam, mong muốn và theo đuổi sự thành công, mong muốn kiếm tiền, ham muốn sao cho mình không ngừng vươn xa hơn nữa. Còn loại người thứ hai sống không có mục đích, không có chí tiến thủ.

Nhưng chúng ta cần nhận thức rõ rằng, có người mới được ít đã thấy đủ; có người biết đủ và cảm thấy vui vẻ, đây là hai dạng người không giống nhau. Người được ít mà thấy đủ chính là người chỉ cần được chút ít đã xem là đủ; người biết đủ cảm thấy vui vẻ chính là người có nhiều cũng cảm thấy đủ, có ít cũng cảm thấy đủ, có được nhiều thì càng tốt, có được ít cũng không sao, họ không để mình cảm thấy đau khổ, không làm tổn hại đến người khác, đó chính là biết đủ sẽ cảm thấy vui vẻ – tri túc.

Nếu một người lao đầu vào kiếm tiền, không chừa thủ đoạn nào để theo đuổi thành công và tài phúc mà không biết dừng nghỉ sẽ có ngày cảm thấy vô cùng mỏi mệt. Theo đuổi những chân trời viễn mộng khiến ta rất đau khổ, rất căng thẳng, bởi vì khi đã giành được nó ta lại sợ sẽ mất đi, sau khi mất đi thì lại muốn giành được nó, cũng gần giống như việc đánh bạc, mong muốn tất cả những đồng tiền ở túi kẻ khác là tiền của mình, bị thua lại mong thắng, thắng được rồi lại muốn thắng nữa, không bao giờ biết thỏa mãn.

Người thông minh là người biết nên làm và nên nghỉ ngơi hợp lý. Có như thế mới cân bằng cuộc sống và an nhiên, tự tại.

Đồng thời, con người sống cũng phải biết CHO ĐI

Trong cuộc sống này, những gì ta cho đi bằng tình người mới thật sự đúng nghĩa là cho mà không phải là sự trao đổi hay mua bán dưới nhiều hình thức. Tuy nhiên, nếu ta biết cho đi những giá trị vật chất để giúp đỡ hoặc chia sẻ khó khăn cho người khác thì đây chính là cách giúp ta có thể nhận lại được niềm vui và hạnh phúc bởi trong ta không có sự toan tính. Khi cho đi mà chúng ta không kèm theo bất cứ một điều kiện hay sự mong cầu nào thì chính ngay khi ấy chúng ta đã nuôi dưỡng được lòng từ bi vô hạn. Khi ta cho mà không có sự tính toán thì sự cho ấy mới là cao thượng nên ta sẽ nhận được sự an lạc, hạnh phúc.


Còn một điều nữa, đó là phải học cách BUÔNG XUỐNG

Nếu như con người biết buông xả trong đời sống hiện tại. Buông đi những lợi danh, buông đi những hận thù chấp nhặt. Đồng thời xả đi những mưu cầu tính toán cho bản thân, xả đi những “tham – sân – si” trong cuộc sống thường nhật thì sẽ tự tìm thấy cho mình niềm an vui và thanh thản trong tâm hồn.

Bởi khi biết buông xả thì tâm ta mới trong sáng để vượt qua những cám dỗ của tham, sân, si, của mạn nghi ác kiến để rồi nhìn thấy niềm vui xung quanh ta.

Có buông xả được thì lòng ta mới rộng mở, ai nói gì không vừa ý cũng bỏ qua mà không chấp. Nếu ai có làm điều gì xúc phạm cũng dễ dàng tha thứ, mà nếu có giận có buồn thì chỉ một vài phút hoặc một vài giờ, cùng lắm qua một đêm rồi quên hết đi cho đời mình được an vui.

Tham lam là một liều thuốc độc, và dục vọng là con dao hai lưỡi; có một cuộc sống ổn định rồi vẫn muốn theo đuổi sự thoải mái; có cuộc sống thoải mái rồi lại muốn hưởng thụ những vật chất xa hoa… 

Nếu dục vọng không có điểm dừng thì con người vĩnh viễn không bao giờ cảm thấy đủ, không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, và cũng không bao giờ tìm kiếm được niềm vui. 

Hãy trân trọng những gì bạn đang có, bạn sẽ thấy rằng bản thân mình là người giàu có nhất trên cõi đời này.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

CÂY TRÊN RỪNG


Truyện ngắn của Hồng Giang
Mới chập tối, làng xóm đã xôn xao.
Cứ như thể người ta đang hân hoan kết thúc một ngày cặm cụi vất vả.
Người lạ qua đây có khi tưởng trong làng có đám.
Ánh điện sáng lóa hắt lên rừng cây. Tiếng nhạc từ những loa đài công suất lớn át cả tiếng thác nước mọi khi đổ ào ào trên khe núi.
Xóm nhỏ có hơn chục nóc nhà mà có đến ba giàn Karaoke, thi nhau mỗi cái một giọng, làm thành thứ âm thanh không biết nên gọi nó là thứ gì?
Văn hóa đồng rừng mà, vui là chính, chất lượng đến đâu còn phải chờ nó lên từ từ. Có ai nhắc nhở chuyện này, bọn trẻ phân bua như vậy.
Dù sao nó cũng làm xóm bản tưng bừng, sôi động hẳn lên. Dù sao cũng còn hơn thời hắt hiu, đèn nhà ai rạng nhà ấy, gà vừa lên chuồng, nhiều nhà đã tắt đèn đi ngủ. Làng xóm như chỗ không người.
Con đường bê tông ngoằn ngèo băng qua suối, chạy mãi tới cuối xóm Khuôn Phầy này.
Giờ chắc không ai nhớ ngày trước chỗ này có cây cầu làm bằng cả cây gỗ to ghếch một đầu lên chỗ gốc cây sung ở phía bên kia suối. Mùa lũ về, chỗ cây cầu độc mộc căng thêm sọi dây song làm tay vịn. Mỗi khi qua đây người lớn dò từng bước, còn trẻ con phải “đi bằng bốn chân”. Tức là bò bằng cả hai chân, hai tay..
Mới đó mà cảnh vật đã thay đổi đến không ngờ, làm như sự nan giải, khó khăn đi lại như chưa hề xảy ra.
Năm này một ít, năm sau một ít, sự trắc trở được thu vén dần dần. Chỉ có nhứng người già thì còn nhớ lâu. Còn bọn trẻ chẳng để ý, và ít khi nghĩ đến. Chúng còn nhiều việc để phải làm.
“Chuyện đời xưa, nhắc mãi làm gì?”.
Nếu có người nhắc nhở về sự vô tâm những ngày đã qua, món trẻ sẽ nói: “Tuổi trẻ là phải hướng tới tương lai, nhìn về phía trước..”.
“Nhưng mà các cháu à, hướng về đâu thì hướng, quên đi ngày cũ, những bài học cuộc đời là không hay lắm đâu vớ!”Lão Đại vừa đi vừa ngẫm nghĩ, vừa tự nhủ thầm như thế.
Dù chẳng có ai đi cùng, có lúc lão lầm nhẩm nói luôn ra miệng, y như đang có người cùng đi, cùng nói chuyện với mình.
Lão hướng ra chỗ quán Cây đa, nơi ban chiều gặp hai người lạ. Không biết bây giờ họ có còn ở đấy không?
Hai con người có vẻ bí hiểm nhưng lại kích thích trí tò mò của lão. Có thể câu chuyện của họ là có thật. Cũng có thể là câu chuyện “tào lao bí đao” nơi bàn rượu, như bọn trẻ thường nói.
Nhưng chẳng nhẽ họ mất công mất buổi, đi cả ngày đường lên tận đây, để nói vớ nói vẩn cho vui hay sao?
Lão tin rằng trong câu chuyện của họ ít ra có một phần sự thật, còn mục đích chính của nó là gì, có nhẽ phải đợi.
Thời buổi có nhiều câu chuyện vu vơ, “nói vậy không phải vậy”, tin sớm quá có ngày phải hối tiếc chưa biết chừng!
Quán xá, lão Đại không hay đi. Không phải tự nhiên đã “quán” rồi, lại còn “xá” nữa. Các cụ ngày xưa có ý cả đấy.
Nó là nơi người thường, dân “chân chì” như lão không nên lai vãng. Chả có “lành dữ” gì ở đây, nhưng cũng lắm phức tạp, vừa tiêu tốn tiền, vừa có khi gây rắc rối nhiều chuyện. Rượu vào thì lời ra, mà có phải lời nào cũng “chuẩn, không cần chỉnh” cả đâu?
Nhưng hôm nay lão phá lệ, lão sẽ đến.
Lão sẽ hỏi hư thực chuyện chiều hôm trước, khi lão dắt trâu qua đây gặp hai người lạ kia ra, họ mờii bằng được lão vào, ép lão không thể chối từ, đành nâng lên đặt xuống vài ba bận..
Tại sao họ đặc biệt đối xử với lão thế nhỉ? Lão có phải ông này, bà nọ hay đại gia, đại riếc gì đâu?
**
Câu chuyện của hai người lạ nghe có vẻ hoang đường. Lão Đại tuy là dân cố thổ ở đây, nhưng đời lão gian nan nhiều, lên bổng xuống trầm không ít.
Đi nước ngoài lão chưa được đi bao giờ ( Vì không có nhiều tiền đã đành, thêm nữa việc cần thiết cũng không có ). Nhưng đất nước hình chữ S này lão cũng được đặt chân đến nhiều nơi, biết khá nhiều chuyện.
Chuyện này bảo làm sao lão tin được?
Lão biết chắc chắn khu rừng thuộc vòng cung Lô Gâm này làm quái gì có thứ gỗ quý đó. Đinh, lim, sến, táu, vảy ốc, lát lủng thời trước không thiếu. Dù rằng những cây gỗ quý ấy bây giờ chỉ còn rất ít, chỉ mang tính biểu trưng chứ không còn rừng đại ngàn như hàng chục năm về trước.
Riêng về cái cây Ngọc am này thì từ thời cổ chưa thấy ai nói nó có ở đất này. Cái tay thương lái này nói là có là ý làm sao? Rừng ở đây đâu phải là Hà Giang, là Tây Côn Lĩnh bạt ngàn núi đá, ở độ cao hàng ngàn mét để có thứ cây họ thông có ngọc, đặc biệt quý hiếm này?
Để cho lão Đại nổ hết tràng, lão thương lái mặc áo da sờn, đi giày đinh cao cổ mới nói:
- Có hay không thì ngổ cũng không pết lớ. Nhưng ông đồng ý cho bọn này đào đám nương của ông, ông tồng ế thì được cái tiền mà. Đào xong bọn này sẽ cho người san lại để ông tiếp tục trồng cây gì thì trồng mà!
- Các ông định trả bao nhiêu?
Gã đi cùng tay thương lái là người Việt, có khuôn mặt như mặt chú phỗng, đỏ gay xen vào:
- Tiền có đồng, cá có con. Cứ tính diện tích đất đào bao nhiêu rồi quy ra năm mươi triệu một sào là biết thôi. Tôi tính nhẩm cũng ra mà!
- Tính thế sao được, đất đào lên lộn thổ, đất màu không có thì làm cái gì được, các ông khôn hết phần người ta rồi.
Gã người cao lớn, trắng trẻo cười dễ dãi:
- Cũng tùy ông thôi, không ép nhau mà. Chuối kỳ này xuống giá, bán không có người mua, ông chả mất gì cũng được món tiền lớn chuẩn bị ăn tết, không muốn à?
- Hầy..Tiền thì ai chả tiếc, chả muốn. Nhưng không phải thứ gì bán được tiền đều đem bán cả đâu. Người Việt có câu: “Thứ nhất bán đất, thứ nhì mất con”, ông có nghe câu này chưa?
- Piết chớ, piết chớ, nhưng có mua hẳn của ông đâu mà ông lo?
- Cái này còn phải xem. Cho gửi vài đồng thêm vào tiền rượu, tôi phải về..
Gã mặt phỗng cười, hai tay hua hua trước mặt:
- Ấy chết, bọn tôi mời mà. Ông cứ về nghĩ kỹ đi rồi có gì ra đây gặp tôi. Ông còn giữ ý, chứ người khác người ta đã đồng ý cho tự lâu rồi. Đây này – Gã lấy ra mấy tờ giấy viết tay, đưa lão Đại xem. Lão gạt đi, lão không có hứng chuyện này. Giấy tờ mà làm gì? Không có con dấu, viết gì chẳng được. lão nghĩ thế và quành quảy ra về.
***
Đêm hôm đó lão trằn trọc khó ngủ quá. Câu chuyện của hai người lạ cứ trở đi trở lại trong đầu khiến lão không sao chợp được mắt.
Ngay cả việc hôm nay là ngày “thường xuyên” của mỗi tháng, “ôn nghèo kể khổ” lão cũng bảo vợ con lui vào hôm khác. Cuộc sống bây giờ tuy gấp năm gấp ba lần hồi nào, lão vẫn giữ lệ cũ. Mỗi tháng một lần cả nhà ăn cơm độn sắn lát, buổi tối thắp đèn dầu ( Dù điện lưới đã có cả chục năm nay ).
Không phải làm thế để “hành” vợ con, hay tự hành khổ mình, mà vì nhẽ khác.
Con người ta quen cái sướng thì mau, quen cái khổ, cái sầu rất khó. Dù đời sống có khấm khớ thế nào cũng đừng vội quên những ngày gian nan, đói rét. Những ngày thèm miếng cơm trắng còn hơn cả bây giờ thèm cá thèm thịt bây giờ.
Vợ con ban đầu phản ứng, mãi rồi cũng phải theo. Ông làm thế là vì lợi ích chung của gia đình chứ có bắt vọ con khổ cho cái ích kỷ của mình đâu?
Hôm nay ông lờ đi việc này, chắc bà ấy và các con vẫn nhớ. Nhưng thấy nét mặt ông đăm chiêu, không ai hỏi vì sao, lặng lẽ làm theo lệ cũ.
Năm gian nhà sàn tối om mặc dù không do cắt điện, hàng xóm vẫn đài nhạc ầm ĩ, đèn điện sáng choang.
Đúng là trong bóng đêm thâm trầm, im ắng người ta nghĩ được nhiều chuyện. Lão Đại thấy hai người kia nói có phần nào đấy là sự thật, không phải nói chơi. Nhưng sự thật đó là cái gì? Gỗ lạt như họ nói, hay là cách lân la dần dần của mấy người muốn mua đất của mình?
Ở tỉnh này chưa có việc người mua đất theo hợp đồng năm, bảy mươi năm để làm dự án. Nhưng nghe nói các nơi khác nhiều ít có rồi.
Đất của ông bà tổ tiên mà bán cho người ngoài năm bảy mươi năm, bằng cả đời người, không hiểu họ tính toán thế nào, có còn là người nữa không?
Đời người được mấy mươi mà dám bán cả quãng thời gian dài như vậy?
Rồi còn bãi biển nương dâu, chuyện đời đổi thay, biết đâu mả lường!
Bán cho người ta, người ta có toàn quyền sử dụng. Người ta quây rào gai, cấm ra vào, làm gì trong đó ai biết được?
Ai bán cho họ thì bán, chứ mình quyết là không. Thời nào thì thời, vẫn là tấc đất tấc vàng. Là máu thịt của nhà nông, cắt vào là đau, là để lại di chứng không lường hết được!
Nhà mình chưa đến nỗi nào. Mà dù có khó khăn, mình cũng không làm như thế. Chuối tây không bán được vì con buôn ép giá. Họ nói “cửa khẩu đang xiết lại, không có người mua”. Thì trồng thứ khác.
Bao nhiêu đời nay vẫn sống nhờ hoa màu đủ thứ, chứ căn cứ gì mỗi cây chuối?
Đám đất của ông trên lõng Bốc, chỗ hai người kia muốn ấy, ông sẽ trồng cam, trồng bưởi. Rộng vốn ra sau, này trồng rừng lim, rừng lát để vốn lại cho con cho cháu đời sau.
Nhưng có nhẽ không phải họ gạ mua đất vì chỗ ấy không tiện đường, lại khuất nẻo. Ngoài chuyện cấy trồng cây ra, chả có thể dự định làm cái gì khác được.
Chắc là họ muốn đền bù hoa màu bị ảnh hưởng để đào thứ gì đấy dưới lòng đất. Không phải mua đứt bán đoạn như mình vừa nghĩ.
Nhưng cho dù như vậy cũng không thể được. Đất đào bới túc mục lên, có khác nào vết thương trên da thịt. Đất màu bị lộn xuống dưới, hoặc trôi dạt đi, lúc ấy trồng cây làm sao mà lên được?
Chợt nhớ hồi thổ ma cụ Khuyên ông có được nghe một câu chuyện. Ông cụ thời trẻ cũng ghê gớm, cầm đầu hẳn một nhóm thanh niên kiểu như đầu gấu thời bây giờ. Nhóm người này được đám thương lái người Hoa thuê đi tìm chỗ chôn giấu gỗ Ngọc am, thứ gỗ mà hàng trăm năm trước ông cha họ sang Việt Nam, tàn sát cả cánh rừng núi Tây Côn Lĩnh. Một số gỗ họ đưa được về, số còn lại chưa kịp chuyển thì chôn dấu rải rác khắp nơi.
Cánh của cụ Khuyên dọc đường xuôi sông Lô, bớt lại được một ít, mang được cả chục cây về giấu ở đất Khuôn Phầy. Định bụng gặp khách thì bán lấy tiền chia nhau thì cách mạng tháng tám nổ ra.
Tiếp đến mấy cuộc chiến tranh..
Đấy là lần đầu tiên duy nhất và cũng là chuyến cuối cùng có chuyện gỗ chở ngược về rừng, đưa ngược lên dốc núi..
Ngày tháng mai qua, câu chuyện lùi dần vào dĩ vãng.
Đường đi lối lại thay đổi, chỗ ruộng lúa thành rừng, đèo cao mở ra đường đi. Thực là “bãi biển nương dâu”.. Địa điểm, nơi cất giấu mất hết giấu vết. Không biết trong đám thảo khấu cùng thời với cụ Cả Khuyên thời bấy giờ có ai ghi chép, đánh dấu, ghi chép vào thứ văn tự để lại ở đâu đó không?
Có nhẽ lão Mặt phỗng kia là một trong số hậu duệ của đám người theo cụ Khuyên chăng?
Một tấm bản đồ hay cuốn sổ ghi chép bằng chữ cổ đã cho lão biết bí mật này? Biết đâu chuyện này là có thật thì sao?
Lão cố nhắm mắt, đợi sáng ra lên khu lõng Bốc xem thế nào?
****
Đây vốn là thung lũng, đầu nguồn của khu rừng lát hàng trăm năm trước. Một vụ cháy rừng không rõ nguyên nhân đã để lộ ra vùng đất mầu mỡ.
Người Tày Khuôn Phầy chỉ quen cấy lúa nước mà ruộng lại nhiều. Chả ai nghĩ đến chuyện làm nương cao. Chỉ có người Kinh, người Dao ở xã bên cạnh là chuyên canh làm nương đỗ.
Rồi nhà nước giao đất giao rừng, người Khuôn Phầy nhận, nhưng vẫn cho dân xâm canh trồng đậu tương xen canh, trồng cây lâm nghiệp.
Chỉ thấy nương đậu tương xanh mát mắt mà cây rừng trồng chả thấy đâu. Người ta chỉ trồng đối phó lúc ban đầu, sau rồi lại nhổ bỏ để năm sau trồng đậu tiếp. Tình trạng này kéo dài cho đến khi địa phương làm cam kết với người dân trong bản mới chấm dứt.. Lão Đại nhận khu đất chừng mươi héc ta.
Cây lão vẫn trồng, nhưng xen canh trồng chuối. Theo lối “lấy ngắn nuôi dài”.Không ai ngờ cái “ngắn” lại ăn nhiều hơn, mau hơn cái “dài”. Vườn chuối của lão hơn hai ngàn gốc chỉ sau một năm mang về cho lão tiền tỉ. Cái xe Tô y ô ta để dưới gầm sàn cũng từ bán chuối mà có.
Đột nhiên chuối mất giá, lão ân hận vì khi có đã chẳng biết đắn đo. Sao lại “trứng để cả một giỏ”, cây trồng cả một thứ chứ? Lại thêm cái vội mua gấp cái xe bán tải. Mình có công việc gì đi đâu mà xe với chả pháo?
Cần đi thành phố hay đi đâu mất một hai “chai” là đi thoải mái. Lại có người lái, ngồi ngủ vô tư. Có uống rượu say cũng chẳng hề hấn gì. Tiền lãi gửi ngân hàng có khi chi cho tiền đi xe không hết. Bây giờ đắp chiếu nằm đó, muốn mở rộng làm ăn, vốn đọng cả đống. Mang tiếng là người từng trải, vậy mà già vẫn còn ngu! Lão tự trách mình!
Lão hy vọng câu chuyện của hai người lạ là có thật, lão sẽ sửa chữa sai lầm vừa mắc để vợ con khỏi cằn nhằn. Nếu như loại cây quý giấu ở nương của mình là có thật. Chắc cũng có được mớ kha khá. Bọn kia không chịu tốn tiền thì đừng có mà đụng vào đất của lão!
Lão Đại sững sờ nhìn đám chuối ngổn ngang, la liệt trên khu đất của mình. Cảnh tượng này xảy ra từ khi chuối rẻ, người ta phá đi trồng thứ khác. Nhưng lão Đại là người bền gan, lão đâu có nông nổi vội vàng thế? Vợ con có hó hé việc này nhưng lão cấm chỉ.
Người ta phá mặc người ta. Đi chợ, muốn học buôn thì “theo cái rẻ, đừng theo cái đắt”. Theo cái đắt nhất thời thế nào cũng gặp người ham đắt mà thứ mình buôn sẽ rẻ. Làm nhà nông cũng vậy. Chen nhau vào chỗ chật là mất ngáp có ngày.
Người ta phá, mình để, có khi lại được. Trồng cái cây ít nhất cũng chín tháng, một năm mới được thu. Chưa gì đã phá bỏ, có mà ăn rơm, ăn cám à, lão nghĩ bụng.
Hẳn vợ con lão không dám phá. Mấy ngày nay cả nhà có ai lên nương đâu? Vậy ai vào đây phá của lão?
Không cần nghĩ nhiều, lão nghĩ ra ngay. Có nhẽ bọn người lạ thương lượng với mình không xong, chúng lén làm trộm, đào bới, phá nương của mình đây! Chỉ tại mình chủ quan, thiếu cảnh giác mới nên nỗi vườn cây bị tan hoang như lúc này.
Lúc gần sáng có ánh đèn pin loang loáng, tiếng chó sủa râm ran gần khu vườn rừng. Lão cứ nghĩ đám thanh niên lật đèo sang Vân Sơn chơi nên không để ý. Chỉ ca cẩm : “Con cái nhà ai mà đi suốt đêm suốt hôm, giờ mới về!”. Hóa ra không phải.
Đích thị là có bàn tay của hai lão người lạ nhúng vào đây rồi. Có thể chúng thuê người đào bới làm nát gần hết khu vườn chuối của lão. Dấu tích còn sót lại là cái thuốn sắt dài hơn hai mét. Có nhẽ đây là vật chúng dùng để xăm tìm kiếm thứ gỗ tự đời xưa chôn dấu vùng này. Xung quanh có cả vết giày đinh khiến lão nghĩ ngay đến đôi giày đinh cao cổ của gã người lạ khi gặp ngoài quán Cây Đa. Thêm nhiều dấu chân người đi chân không cũng có, mang giày đi dép cũng có. Cũng phải khá đông người mới để lại dấu vết tan nát đến thế này, một đám đông ô hợp mới được thuê mướn, chắc đến từ nơi khác không phải người trong bản.
Lão Đại vừa buồn vừa bực, vừa tự trách mình thiếu chu đáo. Cũng bởi tại từ thủa làm người đến nay, ngoài sáu mươi tuổi lão chưa từng thấy có đâu trộm cắp kiểu này. Trộm mà không phải trộm, là lén lút, dấu vụng. Nhưng chắc không kết quả gì vì không có những hố to rộng để có thể moi lên được thứ gỗ người ta giấu kỹ năm nào.
Nhìn đám nương tan nát, lão không khỏi xót xa. Mồ hôi nước mắt chứ đâu phải chuyện thường? Lão sẽ làm gì, tính sao với nó bây giờ?
Chợt nhớ đến ý định đắp hồ chứa nước mà hôm có người bạn bên bản Vang gợi ý. Lão thấy rất có lý. Gì chứ nguồn nước ngọt bây giờ là vàng, là bạc chứ không phải chuyện chơi! Năm xưa, chưa có đường lên đây, lão đã cố công đắp một con đập bằng đất. Thế rồi lũ to phá hủy mất, vì bờ đập yếu không đủ sức giữ được nước. Bây giờ thì đơn giản rồi. Lão sẽ thuê người chở xi măng, cát sỏi lên đây, đổ hẳn tấm bê tông vững chãi. Khu lõng Bốc sẽ là cái hồ nước hẳn hoi chứ không nói chơi.
Có nước lão sẽ chủ động nguồn tưới tiêu cho đám ruộng phía gần nhà. Ai cần nữa, phải nói chuyện với lão!
Quanh vùng hồ lão sẽ thiết kế vườn rau quả. Ở đâu chứ đất này mầu mỡ sẵn, chúng sẽ lên phải biết.
Rau sạch sẽ từ đây mang về thành phố. Người tiêu dùng là người ta tinh lắm, ăn một bận là biết ngay. Rau của lão sẽ có giá. Lão sẽ làm hẳn một khu chuyên canh rau sạch. Phía trên kia, quanh hồ sẽ trồng mỡ, thứ cây mà người Hà Nội gọi là vàng tâm, báo chí hay nói đến ấy.
Nhìn những cây mỡ còn sót lại, không bị “giết” để làm nương giờ đã cao bằng ngôi nhà ba tầng, tán xanh mướt, gốc vừa người ôm.
Đúng là tham bát bỏ mâm, giá để cả rừng mỡ từ đó đến giờ có phải hay không? Tiền cả đấy..Nhưng mà đã muộn rồi!
Đằng nào nương chuối cũng đã bị phá, chuối lại đang rẻ, lão bỏ luôn, theo ý mới. Nếu vận động không ai làm chung, lão“một răng cũng bừa”.
Có được vườn rau sạch, con Tô y ô ta của lão sẽ có việc chứ không để đấy làm cảnh nữa.
Thôi thì Ngọc am là thứ “ngọc” gì lão không có duyên, không được thấy, cũng không cần biết. Nhưng biến rủi thành may, nó gợi ý cho lão điều tốt lành vừa nghĩ ra sớm nay.
Tuy là cái lợi không to, nhưng là cái chắc chắn, dài lâu mãi mãi..
Chắc gì Ngọc am đã có giá trị hơn?!
======================

Phần nhận xét hiển thị trên trang