Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 1 tháng 9, 2016

Tiết lộ bất ngờ trong bài phát biểu của TBT Lê Duẩn về Trung Quốc



Chúng ta sẽ hiểu thêm nhiều bí mật trong bài phát biểu của Tổng bí thư Lê Duẩn về Trung Quốc năm 1979. Đây cũng là lý do để chúng ta xác định rõ Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp và là kẻ thù duy nhất của nhân dân Việt Nam.


Bí thư Lê Duẩn vui tết với quân dân Quảng Bình, Vĩnh linh năm 1973
 
Nói chung, sau khi chúng ta đánh bại Mỹ, không đế quốc nào dám đánh chúng ta nữa. Chỉ có những người nghĩ rằng họ vẫn có thể đánh chúng ta và dám đánh chúng ta là những kẻ phản động Trung Quốc. Nhưng người dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn thế. Tôi không biết những kẻ phản động Trung Quốc này sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao lâu nữa. Tuy nhiên, miễn là họ tồn tại, thì họ sẽ tấn công chúng ta như họ vừa thực hiện (nghĩa là đầu năm 1979).

Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc, thì các tỉnh [Bắc Trung Bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành cơ sở cho toàn bộ đất nước. Các tỉnh này tốt nhất, là các căn cứ mạnh nhất, tốt nhất và hiệu quả nhất. Vì nếu vùng đồng bằng [Bắc Bộ] tiếp tục là vùng liên tục căng thẳng, thì tình hình sẽ rất phức tạp. Vấn đề không đơn giản chút nào. Nếu không phải là người Việt Nam, thì sẽ không có người nào đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, cả thế giới còn lại đều sợ Mỹ …

Mặc dù Trung Quốc đã giúp Triều Tiên chỉ với mục đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ. Sau khi cuộc chiến kết thúc [ở Triều Tiên] và khi áp lực lên Việt Nam, ông ta (chỗ này hình như nói đến Chu Ân Lai khi đoạn văn sau đó cho thấy vậy) nói rằng, nếu Việt Nam tiếp tục chiến đấu, thì sẽ phải tự lo liệu. Ông ta sẽ không giúp thêm nữa và gây áp lực với chúng ta để ngừng chiến đấu.

Khi chúng ta ký Hiệp Định Geneva, rõ ràng là Chu Ân Lai đã chia đất nước ta làm hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Nam – Bắc như thế, một lần nữa ông ta gây sức ép lên chúng ta, không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam. Họ ngăn cấm chúng ta đứng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa do Mỹ hậu thuẫn]. [Nhưng] họ, [người Trung Quốc,] không thể làm gì để ngăn cản chúng ta.
Đồng chí Lê Duẩn – Bí thư TW Đảng thăm trung đoàn pháo phòng không 252 bảo vệ Hải Phòng trong những ngày Đế quốc Mỹ dùng B-52 đánh phá thành phố Cảng cuối năm 1972.
Khi chúng ta ở miền Nam và chuẩn bị chiến tranh du kích ngay sau khi ký Hiệp định Geneva, Mao Trạch Đông đã nói với Đại hội Đảng của chúng ta rằng, ngay lập tức, chúng ta phải buộc Lào chuyển hai tỉnh đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu không, người Mỹ sẽ tiêu diệt hai tỉnh này, một tình huống rất nguy hiểm [theo cái nhìn của Trung Quốc]! Ngay lập tức, Việt Nam đã phải làm việc với người Mỹ [liên quan đến vấn đề này]. Mao đã bức hiếp chúng ta bằng cách này và chúng ta đã phải làm điều đó.

Sau đó, khi hai tỉnh này đã được chuyển cho Viêng Chăn, những tên phản động [Lào] ngay lập tức bắt giữ Souphanouvong (Chủ tịch Lào từ năm 1975-1986). Lào có hai tiểu đoàn bị bao vây lúc đó. Hơn nữa, họ vẫn chưa sẵn sàng chiến đấu. Sau đó, một tiểu đoàn đã có thể thoát khỏi sự [bao vây]. Lúc đó, tôi đưa ra quan điểm của tôi là, Lào phải được phép tiến hành chiến tranh du kích. Tôi mời Trung Quốc đến và thảo luận về vấn đề này với chúng ta. Tôi nói với họ: “Các đồng chí, nếu các đồng chí tiếp tục gây áp lực với Lào bằng cách này, thì lực lượng của họ sẽ hoàn toàn tan rã. Bây giờ họ phải được phép tiến hành chiến tranh du kích“.

Trương Văn Thiên (Zhang Wentian), người trước đó là Tổng Thư ký [Đảng Cộng sản Trung Quốc] và sử dụng bút danh Lạc Phú, trả lời tôi: “Vâng, các đồng chí, điều các đồng chí nói đúng. Hãy để chúng tôi cho phép tiểu đoàn đó của Lào đảm nhiệm chiến tranh du kích“.

Ngay lập tức, tôi hỏi Trương Văn Thiên: “Các đồng chí, nếu các đồng chí cho phép Lào gánh vác chiến tranh du kích, thì không có gì phải sợ việc phát động chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam. Điều gì làm cho các đồng chí sợ đến nỗi các đồng chí ngăn cản hành động như thế?”

Ông ta [Trương Văn Thiên] đã nói: “Không có gì phải sợ!”

Trương Văn Thiên đã nói thế. Tuy nhiên, Ho Wei, Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam lúc đó, đã ngồi ở đó và nghe điều đã nói. Ngay lập tức, ông ta điện cho Trung Quốc (báo cáo điều Lê Duẩn và Trương Văn Thiên đã nói). Ngay lập tức, Mao trả lời: “Việt Nam không thể phát động chiến tranh du kích ở miền Nam. Việt Nam phải nằm chờ trong một thời gian dài!” Chúng ta rất nghèo. Làm sao chúng ta có thể đánh Mỹ nếu không có Trung Quốc làm căn cứ hậu tập? Nên chúng ta phải nghe theo họ, đúng không?
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Trường Chinh tại Đại hội lần thứ III của Đảng, tháng 9 - 1960 
Tuy nhiên, chúng ta đã không đồng ý. Chúng ta đã bí mật tiếp tục phát triển lực lượng. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém khắp miền Nam Việt Nam, chúng ta đã ban hành lệnh thành lập lực lượng quần chúng để chống lại lệnh đã được lập và nắm quyền [từ chính phủ Diệm]. Chúng ta đã không chú ý [đến Trung Quốc].

Khi cuộc nổi dậy giành chính quyền bắt đầu, chúng tôi đi Trung Quốc để gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình đã nói với tôi: “Đồng chí, bây giờ sai lầm của đồng chí đã xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống“. Đó là áp lực mà họ đã áp đặt lên chúng ta.

Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! tôi sẽ làm điều đó. Tôi sẽ chỉ chiến đấu ở mức một trung đội trở xuống“.

Sau khi chúng ta chiến đấu và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta có thể chiến đấu hiệu quả, đột nhiên Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, vì Mỹ đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội [Trung Quốc] đến giúp chúng ta xây dựng đường xá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực Đông Nam Á. Không có lý do nào khác.

Chúng tôi biết rõ ý đồ này, nhưng phải cho phép họ (sự xâm nhập của quân đội Trung Quốc). Thôi thì cũng được. Nhưng họ quyết định đưa quân vào. Tôi yêu cầu họ chỉ gửi người, nhưng quân lính của họ đã đến cùng với súng đạn. Tôi cũng phải chịu điều này.

Sau đó, ông ta (Mao Trạch Đông) bắt chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông ta đến xây một con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ (thuật ngữ tiếng Việt chỉ miền Nam Việt Nam). Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ gây áp lực với tôi cho quân của họ vào nhưng tôi đã không chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép nhưng tôi vẫn không chịu.

Tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có âm mưu cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào.

- Sau khi Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền Nam Việt Nam, chúng ta đã phát động cuộc tổng tấn công vào năm 1968 để buộc họ giảm leo thang. Để đánh bại Hoa Kỳ, một điều cần phải biết là làm thế nào để họ từ từ giảm leo thang. Đó là chiến lược của chúng ta. Chúng ta chiến đấu chống một kẻ thù lớn, kẻ thù với dân số 200 triệu người và thống trị thế giới. Nếu chúng ta không thể làm cho họ giảm leo thang từng bước, thì chúng ta sẽ thất bại và không thể tiêu diệt kẻ thù. Chúng ta phải đấu tranh để làm nhụt ý chí họ để buộc họ phải đi đến bàn đàm phán với chúng ta mà không cho phép họ đưa thêm quân.

Đến lúc họ muốn thương lượng với chúng ta, Ho Wei đã viết một bức thư cho chúng tôi, nói rằng: “Các ông không thể ngồi xuống đàm phán với Hoa Kỳ. Các ông phải đưa quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam để đánh với họ“. Ông ta gây áp lực với chúng tôi cách này, làm cho chúng tôi bối rối vô cùng. Đây không phải là vấn đề hoàn toàn đơn giản. Rất là mệt mỏi mỗi khi tình huống như thế phát sinh [với Trung Quốc].

Chúng tôi quyết định không thực hiện cách đó (nói đến lời khuyên của Hồ Wei không đàm phán với Hoa Kỳ). Chúng tôi phải ngồi xuống ở Paris. Chúng tôi phải làm cho họ (Mỹ) giảm leo thang để đánh bại họ. Trong thời gian đó, Trung Quốc đã thông báo [với Mỹ]: “Nếu các ông không tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các ông. Nhưng rất nhiều quân lính mà các ông muốn đưa vào Việt Nam, tùy các ông“. Trung Quốc nhất trí điều này và đã gây áp lực với chúng tôi bằng cách đó.

Họ (Trung Quốc) đã trao đổi nhiều với Mỹ và ép buộc chúng ta phục vụ như là một con bài để mặc cả theo cách này. Khi người Mỹ nhận ra rằng họ đã thua trận, ngay lập tức, họ sử dụng Trung Quốc để [tạo điều kiện] rút quân [ở miền Nam Việt Nam]. Nixon và Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo luận vấn đề này.

- Trước khi Nixon đi Trung Quốc, [mục đích chuyến đi của ông ta là] giải quyết vấn đề Việt Nam bằng cách đó, để phục vụ lợi ích của Mỹ và giảm bớt thất bại của Mỹ, cũng như cùng lúc cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc về phía Mỹ. Chu Ân Lai đã đến gặp tôi. Chu Ân Lai nói với tôi: “Lúc này, Nixon đến gặp tôi chủ yếu là thảo luận về vấn đề Việt Nam, do vậy tôi phải đến gặp đồng chí để thảo luận điều đó với đồng chí“.

Tôi trả lời: “Đồng chí, đồng chí có thể nói bất cứ điều gì đồng chí thích, nhưng tôi không nghe theo đồng chí. Đồng chí là người Trung Quốc, tôi là người Việt. Việt Nam là của tôi (đất nước của tôi), hoàn toàn không phải của các đồng chí. Các đồng chí không có quyền nói [về vấn đề Việt Nam] và các đồng chí không có quyền thảo luận [các vấn đề đó với Mỹ]. Hôm nay, các đồng chí, chính tôi sẽ nói với các đồng chí điều mà thậm chí tôi chưa hề nói với Bộ Chính trị, rằng đồng chí đã nêu ra vấn đề nghiêm trọng và vì thế tôi phải nói:

- Năm 1954, khi chúng tôi giành chiến thắng tại Điện Biên Phủ, tôi đã ở [tỉnh] Hậu Nghĩa. Bác Hồ đã điện nói với tôi rằng, tôi phải vào miền Nam để tập hợp [các lực lượng ở đó] và nói chuyện với đồng bào miền Nam [về vấn đề này]. Tôi đi bằng xe tải vào miền Nam. Trên đường đi, đồng bào ra chào đón tôi vì họ nghĩ rằng chúng tôi đã giành chiến thắng. Đau đớn vô cùng! Nhìn đồng bào miền Nam, tôi đã khóc. Vì sau đó, Hoa Kỳ sẽ đến và tàn sát [người dân] một cách khủng khiếp.

Khi vừa tới miền Nam, ngay lập tức, tôi đã điện cho Bác Hồ để xin ở lại [miền Nam] và không trở lại miền Bắc để tôi có thể đánh thêm mười năm nữa hoặc hơn. Đồng chí đã gây khó khăn cho tôi như thế này (muốn nói đến vai trò của Chu Ân Lai trong việc chia cắt Việt Nam tại Geneva năm 1954), đồng chí có biết không“?

Chu Ân Lai nói: “Tôi xin lỗi đồng chí. Tôi đã sai. Điều đó tôi sai” (muốn nói đến sự chia cắt Việt Nam tại Geneva). Sau khi Nixon rời khỏi Trung Quốc, một lần nữa, ông ta (Chu Ân Lai) đến Việt Nam để hỏi tôi về một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngay lập tức, tôi nói với Chu Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí rồi. Chẳng bao lâu nữa, họ (Hoa Kỳ) sẽ tấn công chúng tôi thậm chí còn mạnh hơn“.

Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai (Mỹ và Trung Quốc) đã thương lượng với nhau để đánh tôi mạnh hơn. Ông ta (Chu Ân Lai) đã không bác bỏ quan điểm này là vô căn cứ và chỉ nói rằng: “Tôi sẽ gửi thêm súng đạn cho các đồng chí“.

Sau đó ông ta (Chu Ân Lai) nói (về mối lo ngại âm mưu bí mật Trung – Mỹ): “Không có điều đó“. Tuy nhiên, hai bên đã thảo luận làm thế nào để đánh chúng ta mạnh hơn, gồm các cuộc tấn công bằng bom B-52 và phong tỏa cảng Hải Phòng. Rõ ràng là như thế.

– Nếu Liên Xô và Trung Quốc đã không mâu thuẫn với nhau, thì Hoa Kỳ không thể tấn công chúng ta quyết liệt như họ đã tấn công. Khi hai [cường quốc Trung Quốc và Liên Xô] xung đột, người Mỹ đã không bị [phe đối lập là khối xã hội chủ nghĩa] cản trở. Mặc dù Việt Nam có thể thống nhất và đoàn kết với cả Trung Quốc lẫn Liên Xô, để đạt được điều này rất phức tạp, lúc đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm Trung Quốc cung cấp viện trợ 500.000 tấn thực phẩm, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa kể đến viện trợ đô la. Liên Xô cũng đã giúp bằng cách này. Nếu chúng ta không thể làm điều đó (đoàn kết và thống nhất với Trung Quốc và Liên Xô), mọi thứ sẽ rất nguy hiểm.

Mỗi năm tôi đã phải đi Trung Quốc hai lần để nói chuyện với họ (lãnh đạo Trung Quốc) về [các sự kiện] ở miền Nam Việt Nam. Về phía Liên Xô, tôi không phải nói gì cả (về tình hình ở miền Nam Việt Nam). Tôi chỉ nói một cách chung chung. Khi giao thiệp với Trung Quốc, tôi đã phải nói rằng cả hai [nước] đang đánh Mỹ. Tôi đã đi một mình. Tôi phải có mặt về vấn đề này. Tôi đã đến đó và nói chuyện với họ nhiều lần bằng cách này, mục đích chính là để xây dựng quan hệ gần gũi hơn giữa hai bên (nghĩa là Trung Quốc và Việt Nam). Chính xác là vào thời điểm đó Trung Quốc gây áp lực với chúng ta để xa lánh Liên Xô, cấm chúng ta không được đi với Liên Xô.

Họ đã làm rất căng. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh đã đến và nói với tôi: “Đồng chí, tôi sẽ giúp đồng chí vài tỷ [có lẽ là nhân dân tệ] mỗi năm. Đồng chí không thể nhận bất cứ thứ gì từ Liên Xô“.

Tôi không đồng ý điều này. Tôi nói: “Không, chúng ta phải đoàn kết và thống nhất với toàn bộ phe [xã hội chủ nghĩa]“.

Năm 1963, khi Khrushchev phạm sai lầm, ngay lập tức [Trung Quốc] ban hành một tuyên bố 25 điểm và mời đảng chúng ta đến cho ý kiến . Anh Trường Chinh và tôi đã đi cùng với một số anh em khác. Trong cuộc thảo luận, họ (Trung Quốc) lắng nghe chúng tôi đến, hình như là điểm thứ 10, nhưng khi đến điểm “không từ bỏ phe xã hội chủ nghĩa”, họ đã không nghe… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi chịu trách nhiệm về tài liệu của chính tôi, tôi muốn nghe ý kiến của các đồng chí, nhưng tôi không chấp nhận quan điểm này của các đồng chí“.

Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á“. Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân nghèo, trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”
Các thế hệ lãnh đạo của Trung quốc luôn có dã tâm xâm lược Việt Nam và Đông Nam Á

Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến đánh Việt Nam!

Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.

Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?

Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.

Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?

Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!

Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!

Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?

Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.

Mao hỏi: Có bao nhiêu người?

Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!

Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!

Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó không?“

Tôi đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói: “Có, có!” Ông ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.

Trong quá khứ (nói đến vấn đề có thể xuất phát từ mối đe dọa của Trung Quốc trong thời gian này), chúng ta đã chuẩn bị rất nhiều, không phải là chúng ta không chuẩn bị. Nếu chúng ta không chuẩn bị, tình hình gần đây sẽ rất nguy hiểm. Không phải là vấn đề đơn giản.

Mười năm trước, tôi đã triệu tập các anh em trong quân đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ mâu thuẫn với nhau. Đối với Trung Quốc, họ đã bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình hình căng thẳng này, các đồng chí phải nghiên cứu vấn đề này ngay lập tức. Tôi sợ rằng quân đội không hiểu ý tôi, nên tôi nói với họ rằng, không có cách nào khác để hiểu vấn đề này. Nhưng họ vẫn thấy khó hiểu. Hoàn toàn không dễ. Nhưng tôi không thể nói bằng cách nào khác. Và tôi đã không cho phép những kẻ khác túm lấy tôi.

Khi tôi đến Liên Xô, Liên Xô cũng làm khó tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã triệu tập một cuộc họp gồm 80 đảng [cộng sản] để hỗ trợ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [buổi hợp này] không chỉ đơn giản chỉ nhằm giúp Việt Nam, mà còn có mục đích lên án Trung Quốc. Nên Việt Nam đã không đi.

Liên Xô nói: “Bây giờ các đồng chí bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế [hay] là cái gì? Tại sao các đồng chí làm điều này?” Tôi nói: “Tôi hoàn toàn không bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế. Tôi không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên, để là người quốc tế, trước tiên phải đánh bại Mỹ. Và nếu một nước muốn đánh bại Mỹ, thì phải có sự thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đến hội nghị này, thì Trung Quốc sẽ gây nhiều khó khăn lớn với chúng tôi. Các đồng chí, hãy hiểu cho tôi“.

Tại Trung Quốc cũng có nhiều ý kiến và tranh luận khác nhau. Chu Ân Lai đồng ý việc hình thành một mặt trận với Liên Xô để chống Mỹ. Một lần, khi tôi đi Liên Xô để dự lễ kỷ niệm quốc gia, tôi có đọc một bức điện Trung Quốc gửi sang Liên Xô, nói rằng: “Bất cứ khi nào có ai đó tấn công Liên Xô, thì Trung Quốc sẽ đứng bên cạnh các bạn“. Đó là vì đã có một hiệp ước hữu nghị giữa Liên Xô và Trung Quốc từ thời trước đó (tháng 2 năm 1950).

Ngồi cạnh Chu Ân Lai, tôi hỏi ông ta: “Trong bức điện gửi đến Liên Xô gần đây, đồng chí đồng ý thành lập một mặt trận với Liên Xô, nhưng tại sao các đồng chí không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu Ân Lai nói: “Chúng tôi có thể thành lập mặt trận chống Mỹ. Tôi chia sẻ quan điểm đó. Các đồng chí, tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [Việt Nam]“. Bành Chân cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Quan điểm này cực kỳ chính xác!” Nhưng khi vấn đề được thảo luận tại Thượng Hải, Mao nói là không thể và hủy bỏ nó. Các đồng chí thấy nó phức tạp như thế nào.

Mặc dù Chu Ân Lai giữ vững một số quan điểm này, ông ta dù sao cũng đồng ý xây dựng một mặt trận và [ông ta] đã giúp Việt Nam rất nhiều. Cám ơn ông ta rằng tôi có thể hiểu [nhiều về những gì đang diễn ra ở Trung Quốc]. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm. Có lần, ông ta nói với tôi: “Tôi đang làm hết sức mình để tồn tại ở đây, sử dụng Li Chiang tích lũy và hỗ trợ cho các đồng chí“. Thì ra vậy (tức là Chu Ân Lai đã sử dụng Li Chiang, để giúp người Việt Nam). Có nghĩa là, không có Chu Ân Lai, điều này sẽ hoàn toàn không thể xảy ra. Tôi đang mắc nợ ông ta.

Tuy nhiên, không đúng để nói rằng các lãnh đạo khác của Trung Quốc hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Chu Ân Lai. Họ khác nhau nhiều thứ. Phải nói rằng, người kiên quyết nhất là người có tinh thần Đại Hán và là người muốn chiếm Đông Nam Á, đó chính là Mao Trạch Đông. Tất cả các chính sách [của Trung Quốc] đều nằm trong tay ông ta.

Điều tương tự cũng áp dụng đối với các nhà lãnh đạo hiện tại của Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng ta không biết tương lai sẽ ra sao, [sự thật của vấn đề là] họ đã tấn công chúng ta. Trong quá khứ, Đặng Tiểu Bình đã làm hai điều mà hiện đang bị đảo lộn. Đó là, khi chúng ta giành chiến thắng ở miền Nam Việt Nam, nhiều [lãnh đạo] Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên, dù sao Đặng Tiểu Bình cũng chúc mừng chúng ta. Vì lý do này, ngay lập tức ông ta đã bị những người khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.

Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối, tôi dẫn đầu phái đoàn, và tôi đã gặp phái đoàn Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình đứng đầu. Khi nói về vấn đề lãnh thổ, gồm cả việc thảo luận về một số hòn đảo, tôi nói: “Hai đất nước chúng ta ở gần nhau, Có một số vùng lãnh thổ của chúng ta vẫn chưa được xác định rõ ràng. Hai bên nên thành lập các cơ quan để xem xét vấn đề này. Các đồng chí, làm ơn đồng ý với tôi [về vấn đề này]”. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) đồng ý, nhưng sau khi làm như vậy, ngay lập tức ông ta bị nhóm lãnh đạo khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.

Nhưng bây giờ ông ta (Đặng Tiểu Bình) điên rồi. Bởi vì ông ta muốn cho mọi người thấy rằng ông ta không phải là người theo chủ nghĩa xét lại, cho nên ông ta đã tấn công Việt Nam mạnh hơn. Ông ta để cho họ tiếp tục tấn công Việt Nam.

Sau khi đánh bại Mỹ, chúng ta giữ lại hơn một triệu quân, các đồng chí lãnh đạo Liên Xô hỏi chúng tôi: “Các đồng chí định đánh với ai mà giữ lại một đội quân thường trực lớn như vậy?” Tôi nói: “Sau này, các đồng chí sẽ hiểu“. Lý do duy nhất chúng ta giữ quân đội thường trực như thế là vì mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam. Nếu không có [một mối đe dọa như thế], thì điều này (quân đội thường trực lớn) sẽ không cần. Gần đây, bị tấn công trên hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rằng] rất nguy hiểm nếu chúng ta đã không được duy trì một đội quân lớn.

(B) (Ý nghĩa của chữ “B” này trong văn bản gốc không rõ ràng) – Sau Đệ nhị Thế chiến, tất cả mọi người tin rằng tên sen đầm quốc tế là đế quốc Mỹ. Họ có thể tiếp quản và bắt nạt cả thế giới. Tất cả các nước, gồm các nước lớn đều sợ Mỹ. Chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ.

Tôi hiểu vấn đề này vì công việc đã dạy tôi. Người đầu tiên sợ [Mỹ] là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, đó là, Việt Nam và Lào, rằng: “Ngay lập tức, các ông phải chuyển giao hai tỉnh của Lào đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu các ông không làm như vậy, thì Mỹ sẽ sử dụng điều đó làm lý do tấn công. Đó là mối nguy lớn”. Về phía Việt Nam, chúng tôi đã nói: “Chúng ta phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng miền Nam Việt Nam“. Ông ta (Mao) nói: “Các ông không thể làm điều đó. Miền Nam Việt Nam phải nằm đợi trong một thời gian dài, đợi một đời, 5-10 đời hoặc thậm chí 20 đời kể từ bây giờ. Các ông không thể đánh Mỹ. Đánh Mỹ là nguy hiểm“. Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến mức độ đó…

Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiếp tục chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ thì miền Nam Việt Nam sẽ không được giải phóng. Một đất nước chưa được giải phóng sẽ vẫn là một đất nước lệ thuộc. Không ai có được độc lập nếu chỉ có một nửa đất nước được tự do. Không có được độc lập cho đến năm 1975, đất nước chúng ta cuối cùng có được độc lập hoàn toàn. Có độc lập, tự do sẽ đến. Tự do phải là tự do cho cả nước Việt Nam …

Engels đã nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó, Liên Xô, Trung Quốc và chính chúng ta cũng đã nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước rất khác về nội dung [chiến tranh nhân dân]. Không đúng là chỉ vì các bạn có hàng triệu người, thì các bạn có thể làm bất cứ điều gì các bạn muốn. Trung Quốc cũng nói đến chiến tranh nhân dân, tuy nhiên, [họ cho rằng] “khi kẻ thù tiến lên, thì chúng ta phải rút lui“. Nói cách khác, phòng thủ là chính, và chiến tranh được chia thành ba giai đoạn, vùng nông thôn được sử dụng để bao vây thành thị, trong khi [các lực lượng chính] chỉ ở lại trong rừng núi… Người Trung Quốc ở thế phòng thủ và rất yếu [trong Đệ nhị Thế chiến]. Ngay cả với 400 triệu người đọ sức với quân đội Nhật Bản có 300.000 – 400.000 quân, Trung Quốc vẫn không thể đánh bại họ.

Tôi phải lặp lại điều này như thế, vì trước khi Trung Quốc gửi cố vấn cho chúng ta, một số anh em Việt Nam chúng ta không hiểu. Họ nghĩ rằng [Trung Quốc] rất có khả năng. Nhưng họ không có kỹ năng và do đó chúng ta đã không làm theo [những lời khuyên của Trung Quốc].

Năm 1952, tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc vì tôi bị bệnh và cần điều trị. Đây là lần đầu tiên tôi đi nước ngoài. Tôi đặt câu hỏi cho họ (Trung Quốc) và thấy nhiều điều rất lạ. Có những khu vực [đã bị] quân Nhật chiếm đóng, mỗi khu có dân số khoảng 50 triệu người, nhưng không có lấy một chiến binh du kích…

Khi tôi từ Trung Quốc trở về, tôi đã gặp Bác [Hồ]. Bác hỏi tôi:

- Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài, phải không?

Vâng, đây là lần đầu tiên tôi đi ra nước ngoài.

- Chú đã thấy gì?

Tôi thấy hai điều: Việt Nam rất dũng cảm và họ (Trung Quốc) không dũng cảm chút nào.

Tôi hiểu điều này kể từ ngày đó. Chúng ta (Việt Nam) hoàn toàn khác với họ. Lòng can đảm vốn có trong con người Việt Nam và do đó chúng ta chưa bao giờ có một chiến lược phòng thủ (ý nói ở thế thủ). Mọi người dân chiến đấu.

Gần đây, họ (Trung Quốc) đã mang hàng trăm ngàn quân vào xâm chiếm nước ta. Hầu hết, chúng ta đã sử dụng lực lượng dân quân và quân đội trong vùng để tấn công họ. Chúng ta không ở thế thủ và do đó họ phải lùi bước. Họ không thể quét sạch dù một trung đội Việt Nam, trong khi chúng ta đã xóa sổ vài trung đoàn và hàng chục tiểu đoàn của họ. Có được như vậy là vì chiến lược tấn công của chúng ta.

Đế quốc Mỹ đã đánh với chúng ta trong một cuộc chiến kéo dài. Họ rất mạnh, nhưng họ đã thua. Nhưng có một yếu tố đặc biệt, đó là những mâu thuẫn gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì điều này,] họ đã tấn công chúng ta mạnh như thế này.

… Việt Nam đã chiến đấu chống Mỹ, và đã chiến đấu rất quyết liệt, nhưng chúng ta biết rằng Hoa Kỳ là một nước rất lớn, khả năng tích lũy hơn 10 triệu quân và đưa tất cả các loại vũ khí được xem là mạnh của họ vào để đánh chúng ta. Vì vậy, chúng ta đã phải chiến đấu trong một thời gian dài để làm cho cho họ giảm leo thang. Chúng ta là những người có thể làm được điều đó, Trung Quốc thì không thể. Khi quân đội Mỹ tấn công Quong Tre (Quảng Trị?), ngay lập tức Bộ Chính trị ra lệnh đưa quân đội vào chiến đấu. Chúng ta không sợ.

Sau đó tôi đi Trung Quốc gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Điều đó (cuộc tấn công vào Quảng Trị) có lẽ là chưa từng có, có một không hai. Chỉ có một [cơ hội] trên đời này, không có cơ hội thứ hai. Không ai dám làm những điều các đồng chí đã làm“.

… Chu Ân Lai là người đứng đầu Bộ Tham mưu. Ông ta dám nói, ông ta thẳng thắn hơn. Ông ta nói với tôi: “Nếu tôi biết trước cái cách mà các đồng chí sử dụng, chúng tôi không cần Vạn lý Trường chinh“.

Vạn lý Trường chinh là gì? Vào đầu cuộc hành quân có 300.000 quân, đến cuối Vạn lý Trường chinh chỉ còn 30.000 quân. 270.000 người đã chết. Thực sự ngu ngốc khi thực hiện cách này. Nói như vậy để các đồng chí biết chúng ta đang đi trước họ như thế nào. Trong tương lai không xa, nếu chúng ta chiến đấu chống lại Trung Quốc, chúng ta chắc chắn sẽ giành chiến thắng … Tuy nhiên, sự thật là nếu một nước khác [không phải Việt Nam] chiến đấu chống lại Trung Quốc, không rõ họ có giành được chiến thắng như thế này không (như Việt Nam).

… Nếu Trung Quốc và Liên Xô thống nhất với nhau, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta hay không. Nếu hai nước thống nhất và liên kết với nhau để giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta cái cách mà họ đã đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ do dự như thời Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô, tất cả đã giúp Lào và ngay lập tức Mỹ ký một hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân Mỹ sang Lào, họ để cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.

Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] xung đột với nhau, Mỹ được [Trung Quốc] thông báo là họ có thể tiến tới và tấn công Việt Nam mà không sợ. Đừng sợ [sự trả đũa của Trung Quốc]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông đã nói với Mỹ: “Nếu các ông không tấn công tôi, thì tôi sẽ không tấn công các ông. Các ông có thể đưa nhiều quân vào miền Nam Việt Nam mà các ông muốn. Tùy các ông“.

… Hiện tại, chúng ta có biên giới với một nước rất mạnh, một nước với ý đồ bành trướng mà nếu muốn được thực hiện, phải bắt đầu với một cuộc xâm lược Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải chung vai gánh vác, vai trò lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta chưa bao giờ trốn tránh trách nhiệm lịch sử. Trước đây, Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ của mình, và lần này Việt Nam xác định không cho phép họ bành trướng. Việt Nam giữ độc lập riêng mình và làm như vậy cũng là để bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam kiên quyết không để Trung Quốc thực hiện âm mưu bành trướng. Trận đánh gần đây [với Trung Quốc] chỉ là vòng một. Hiện họ vẫn còn chuẩn bị nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bất kể họ chuẩn bị đến mức độ nào, Việt Nam cũng sẽ thắng …

Tiến hành chiến tranh không phải là đi bộ thong thả trong rừng. Gửi một triệu quân vào cuộc chiến chống lại một nước ở bên ngoài liên quan đến vô số khó khăn. Gần đây họ đưa 500.000 – 600.000 binh lính để đánh chúng ta, nhưng họ đã không có thiết bị vận tải đầy đủ để cung cấp lương thực cho quân đội của họ. Trung Quốc hiện đang chuẩn bị 3,5 triệu quân, nhưng họ phải để lại một nửa số quân đó ở biên giới [Trung-Xô] để ngăn chặn Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ đưa 1 hoặc 2 triệu quân vào để đánh chúng ta, chúng ta sẽ không sợ bất cứ điều gì. Chúng ta chỉ có 600.000 quân tham gia, và trong tương lai gần, nếu chúng ta phải đánh với 2 triệu quân, sẽ không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ.

Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta biết cách đánh. Nếu họ đưa 1 triệu quân, họ sẽ chỉ giành được một chỗ đứng ở miền Bắc. Đi xuống vùng trung du, vùng đồng bằng và Hà Nội và thậm chí xuống dưới sẽ khó khăn hơn nữa.

Các đồng chí, như các đồng chí biết, bọn Hitler tấn công quyết liệt theo cách này, nhưng khi họ (Đức Quốc xã) đến Leningrad, họ không thể vào được. Với thành phố, người dân và các công trình phòng thủ, không thể nào thực hiện các cuộc tấn công hiệu quả chống lại mỗi người và mọi người. Thậm chí đánh trong hai, ba hoặc bốn năm, họ vẫn không thể vào. Mỗi làng ở đó (ở miền Bắc) thì giống như thế. Đường lối của chúng ta là: mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và họ sẽ không thể nào vào được cả.

Tuy nhiên, không bao giờ đủ khi chỉ đánh kẻ thù ở tiền tuyến. Phải có một đội quân hậu tập trực tiếp mạnh mẽ. Sau trận đánh gần đây kết thúc, chúng tôi đánh giá rằng, trong tương lai không xa, chúng ta phải đưa thêm vài triệu người đến mặt trận phía Bắc. Nhưng kẻ thù đến từ phía bắc, hậu phương trực tiếp cho cả nước phải là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh … Hậu phương trực tiếp bảo vệ thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Chúng ta có thể đánh chúng bằng nhiều cách … Chúng ta có thể sử dụng 2-3 quân đoàn để giánh một cú mạnh vào chúng, sẽ làm cho chúng lảo đảo, trong khi chúng ta tiếp tục giữ đất của chúng ta. Để đạt được mục đích này, mỗi người lính phải là một người lính thực và mỗi đội phải là một đội hình thực sự.

- Bây giờ đã đánh xong một trận rồi, chúng ta không nên chủ quan. Chủ quan và đánh giá thấp kẻ thù là sai lầm, nhưng thiếu tự tin cũng sai. Chúng ta không chủ quan, chúng ta không đánh giá thấp kẻ thù. Nhưng chúng ta cũng tự tin và vững tin vào chiến thắng của chúng ta. Chúng ta cần phải có cả hai điều này.

- Bây giờ Trung Quốc có âm mưu đánh [chúng ta] để mở rộng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay họ không thể đánh và dọn dẹp một cách dễ dàng. Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam có vài ngày mà cả thế giới đã hét lên: “Không được đụng đến Việt Nam“! Thời đại hiện nay không giống như thời xưa. Trong những ngày này, không chỉ có chúng ta và họ (muốn nói Trung Quốc). Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài người vẫn chưa hoàn toàn đi vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc mọi người đều muốn độc lập và tự do. [Ngay cả] trên các đảo nhỏ, người dân cũng muốn độc lập, tự do.

Cả nhân loại hiện nay như thế. Điều đó là rất khác với thời xưa. Thời đó, người dân chưa nhận thức rõ những điều này. Do đó, câu của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một ý tưởng của thời đại hiện nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm độc lập, tự do … Việt Nam là một quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do.

- Khi phải chiến đấu chống Mỹ, anh em chúng ta trong Bộ Chính trị đã thảo luận với nhau về vấn đề này, cân nhắc liệu chúng ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã bày tỏ quyết tâm: để chiến đấu chống Mỹ, chúng ta không sợ Mỹ. Tất cả đều đồng tâm. Khi tất cả đã đồng ý đánh Mỹ, không sợ Mỹ, chúng ta cũng không sợ Liên Xô. Tất cả đều đồng ý. Chúng ta cũng không sợ Trung Quốc. Tất cả đều đồng ý. Nếu chúng ta không sợ ba điều này, chúng ta có thể đánh Mỹ. Đó là cách chúng tôi đã thực hiện trong Bộ Chính trị hồi đó.

Mặc dù Bộ Chính trị đã gặp và tổ chức các buổi thảo luận như thế và mọi người đồng lòng, sau này có một người đã nói với một đồng chí điều mà tôi đã nói. Đồng chí đó đặt câu hỏi cho Bộ Chính trị, hỏi lý do gì mà Anh Ba một lần nữa lại nói rằng, nếu chúng ta muốn đánh Mỹ, thì chúng ta không nên sợ Trung Quốc? Tại sao anh ấy phải nói như vậy nữa?

Lúc đó, anh Nguyễn Chí Thanh, người đã bị nghi là có cảm tình với Trung Quốc, đứng lên và nói: “Kính thưa Bộ Chính trị và kính thưa Bác Hồ, lời phát biểu của Anh Ba là đúng. Phải nói như thế (ý nói không cần phải sợ Trung Quốc), vì họ (Trung Quốc) gây rắc rối cho chúng ta nhiều điều. Họ chặn chúng ta ở chỗ này, rồi họ trói tay chúng ta ở chỗ kia. Họ không cho chúng ta đánh…“

Trong khi chúng ta đánh ở miền Nam Việt Nam, Đặng Tiểu Bình quy định rằng tôi chỉ có thể đánh ở mức trung đội trở xuống và không được đánh ở mức cao hơn. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) nói: “Ở miền Nam, do các ông phạm sai lầm về việc đã khởi động đánh trước, các ông chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống, không được đánh ở mức cao hơn“. Họ gây áp lực lên chúng ta như thế.

- Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta có lẽ phải. Chúng ta không sợ ngay cả anh trai của chúng ta. Chúng ta cũng không sợ bạn bè của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không sợ kẻ thù của chúng ta. Chúng ta đã đánh họ rồi. Chúng ta là con người, chúng ta không sợ bất cứ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết chúng ta độc lập.

Chúng ta phải có một quân đội mạnh mẽ, bởi vì đất nước chúng ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt … Không thể khác được. Nếu không, thì sẽ nguy hiểm vô cùng, nhưng đất nước chúng ta nghèo.

- Chúng ta có một quân đội mạnh, điều đó không có cách nào làm nhụt chí chúng ta. Có một số chính sách của Trung Quốc đối với chúng ta: xâm lược và chiếm đóng nước ta, tìm cách làm suy yếu chúng ta về kinh tế và làm cho điều kiện sống của chúng ta khó khăn. Vì những lý do này, để chống lại Trung Quốc, trước hết, chúng ta phải, không những chiến đấu, mà còn làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn. Để đạt được mục đích này, theo tôi, quân đội của chúng ta không nên là một lực lượng lãng phí nguồn lực của nhà nước, mà nên là một lực lượng sản xuất mạnh mẽ. Khi kẻ thù đến, họ (những người lính) cầm súng ngay lập tức. Khi không có kẻ thù, thì họ sẽ sản xuất đàng hoàng. Họ sẽ là biểu tượng tốt nhất và cao nhất trong sản xuất, sản xuất nhiều hơn bất cứ người nào khác. Dĩ nhiên, đó không phải là một câu chuyện mới …

- Hiện nay, trên vai quân đội của chúng ta đang gánh vác một nhiệm vụ lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của chúng ta, trong khi cùng lúc bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng của bè lũ phản động Trung Quốc không thể thực hiện được nữa, sẽ là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm điều này. Việt Nam có 50 triệu người rồi. Việt Nam có những người bạn Lào và Campuchia và có địa thế vững chắc. Việt Nam có phe [XHCN] và tất cả nhân loại đứng về phía ta. Rõ ràng là chúng ta có thể làm điều này.

… Các đồng chí có biết người nào trong đảng chúng ta, trong nhân dân của chúng ta, nghi chúng ta sẽ thua Trung Quốc? Dĩ nhiên là không có ai cả. Nhưng chúng ta phải duy trì các mối quan hệ bạn bè của chúng ta. Chúng ta không muốn hận thù dân tộc. Tôi lặp lại: tôi nói điều này bởi vì tôi chưa bao giờ cảm thấy căm thù Trung Quốc. Tôi không cảm thấy như thế. Đó là họ đánh chúng ta.

Hôm nay tôi cũng muốn các đồng chí biết rằng trong thế giới này, người đã bảo vệ Trung Quốc là chính tôi! Đó là sự thật. Tại sao vậy? Bởi vì trong hội nghị tháng 6 năm 1960 tại Bucharest, 60 đảng đứng lên chống lại Trung Quốc, nhưng chỉ có mình tôi là người bảo vệ Trung Quốc. Việt Nam chúng ta là thế. Tôi sẽ tiếp tục lặp lại điều này: Tuy họ cư xử tồi tệ, chúng ta biết rằng người của họ là bạn của chúng ta. Về phía chúng ta, chúng ta không cảm thấy xấu hổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, âm mưu của một số lãnh đạo (Trung Quốc) là một vấn đề khác. Chúng ta coi họ chỉ là một bè lũ. Chúng ta không nói tới đất nước họ. Chúng ta không nói người dân Trung Quốc xấu với chúng ta. Chúng ta nói bè lũ phản động Bắc Kinh. Tôi nói lại điều này một lần nữa một cách nghiêm túc như thế.

Vì vậy, chúng ta hãy kiểm soát tình hình chặt chẽ, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, và không bao giờ nới lỏng sự cảnh giác. Về mối quan hệ với Trung Quốc cũng vậy. Tôi tin rằng trong 50 năm, hoặc thậm chí trong 100 năm, chủ nghĩa xã hội có thể thành công, và lúc đó chúng ta sẽ không bị vấn đề này nữa. Nhưng sẽ mất một thời gian [dài] như thế. Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện.

Hiện nay, chắc chắn không ai còn nghi ngờ nữa. Nhưng cách đây năm năm, tôi dám chắc rằng [không có] đồng chí nào nghi ngờ Trung Quốc có thể đánh chúng ta. Nhưng có. Đó là vì các đồng chí [này] không có kiến thức về vấn đề này. Nhưng đó không phải là trường hợp của chúng tôi (Lê Duẩn và ban lãnh đạo). Chúng ta biết rằng Trung Quốc đã và đang tấn công chúng ta [cách đây] mười năm hoặc hơn. Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên [về cuộc tấn công của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1979].

Nguồn: Thư viện Quân đội Nhân dân, Hà Nội
Tài liệu do Christopher Goscha có được và dịch cho CWIHP

Ngọc Thu, dịch từ: Wilson Center

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đúng mực hơn là "đúng quy trình"!





MỘT QUYẾT ĐỊNH KHÔNG ĐÚNG QUY TRÌNH?
Đó là Sắc lệnh phong cấp cho Võ Nguyên Giáp. Xét về mặt chuyên môn, Võ Nguyên Giáp xuất thân giáo học, không qua bất cứ trường đào tạo quân sự nào. Về mặt... quy trình, ông không làm chiến sĩ hoặc chỉ huy các cấp ABCD,,, mà làm luôn chức Tổng Tư lệnh. Về quân hàm, ông không một phút đeo lon binh nhì hay úy tá theo phép nhà binh, mà oạch một phát lên Đại tướng!
Vậy mà sao ngày đó cả Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và nhân dân không ai phản đối, kêu ca?
Vậy mà sao ngày nay, việc bổ nhiệm luôn luôn "đúng quy trình" thì dân lại phẫn nộ, bức xúc?

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TRUNG QUỐC LO HỘI NGHỊ THƯỢNG ĐỈNH G20 ĐỔ VỠ


Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) và Thủ tướng Lý Khắc Cường. Ảnh: AFP

Trung Quốc lo hội nghị thượng đỉnh G20 đổ bể

VNE
Thứ năm, 1/9/2016 | 06:15 GMT+7

Bắc Kinh lo ngại phương Tây và các đồng minh sử dụng tranh chấp lãnh thổ và bảo hộ mậu dịch phá hỏng ý định chiến lược của mình tại hội nghị thượng đỉnh G20.

Mỹ - Trung sẽ bàn về Biển Đông bên lề G20 
Trung Quốc có thể bồi đắp bãi cạn Scarborough sau hội nghị G20

Mặc dù hy vọng củng cố vị thế cường quốc thế giới thông qua việc tổ chức hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20) tại Hàng Châu vào 4-5/9, Bắc kinh vẫn tỏ ra lo ngại phương Tây và các đồng minh sẽ tìm cách phủ nhận mọi nỗ lực và vai trò của mình trên trường quốc tế.

Vì thế, đảm bảo điều này không xảy ra sẽ là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và chỉ dấu để Bắc Kinh đánh giá mức độ thành công của hội nghị, theo Reuters.

Bình luận viên về Trung Quốc Ben Blanchard nhận định Bắc Kinh đang muốn sử dụng hội nghị để đề xuất một chiến lược lớn nhằm thúc đẩy tăng trưởng toàn cầu. Tuy nhiên, nhiều khả năng các cuộc đàm phán này sẽ bị phủ bóng bởi những tranh cãi trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ và bảo hộ mậu dịch.

"Trung Quốc đang cảm thấy dường như người Mỹ đang cố gắng bao vây họ", một phái viên cấp cao phương Tây mô tả các cuộc trao đổi với quan chức Trung Quốc trước G20.

Trung Quốc gần đây thể hiện sự tức giận trước phán quyết của Tòa Trọng tài, bác bỏ yêu sách phi lý của nước này trên Biển Đông. Bắc Kinh cáo buộc chính Washington mới là nhân tố đứng đằng sau vụ kiện được khởi xưởng bởi Manila.

Bắc Kinh luôn khẳng định họ không muốn những vấn đề trên phủ bóng lên hội nghị thượng đỉnh G20, một sự kiện quốc tế quan trọng có sự tham gia của nhiều nguyên thủ và lãnh đạo trên thế giới.

Truyền thông nhà nước Trung Quốc tung hô rằng đây là cơ hội để Trung Quốc thể hiện vai trò lãnh đạo trong việc hình thành quy tắc quản trị toàn cầu và vượt lên với tốc độ tăng trưởng toàn cầu bền vững. Tờ Nhân dân nhật báo tuyên bố hội nghị G20 lần này sẽ là một trong những hội nghị hiệu quả nhất.

Tuy nhiên, một bài báo đăng trên tờ Study Times hồi giữa tháng 8 lại lo ngại các nước phương Tây đang cố gắng nhằm loại trừ một Trung Quốc đang "trỗi dậy" và bác bỏ vai trò của Bắc Kinh trên trường quốc tế bằng cách thiết lập các cơ chế như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Lo ngại đồng minh của Mỹ

Ngày 25/8, ủy viên Quốc vụ viện phụ trách ngoại giao của Trung Quốc, Dương Khiết Trì đã kêu gọi Nhật Bản nên "đóng vai trò xây dựng" tại hội nghị thượng đỉnh G20, trong bối cảnh Bắc Kinh lo ngại Tokyo có kế hoạch can dự vào cuộc tranh chấp ở Biển Đông.

Wang Youming, Giám đốc chương trình về các nước đang phát triển tại Học viện Quan hệ Quốc tế Trung Quốc cho biết trên Global Times rằng càng đến gần hội nghị thượng đỉnh G20, "Nhật Bản càng cố tình tìm cách gây rắc rối".

"Nhật Bản can dự vào các vấn đề Biển Đông và biển Hoa Đông bằng cách hỗ trợ Philippines, hay kêu gọi Trung Quốc tôn trọng phán quyết của 'cái gọi là' Tòa Trọng tài. Nhật Bản giở các thủ đoạn cũ và không thể không nghĩ rằng họ đang tìm cách làm mọi chuyện rối tung lên", Youming cáo buộc.

Về kinh tế, Trung Quốc cũng không hài lòng trước những nghi ngại của Anh và Australia về chiến lược đầu tư nước ngoài của Bắc Kinh, khi khẳng định thái độ của London và Canberra là biểu hiện của chủ nghĩa bảo hộ và sự hoang tưởng.

Australia mới đây đã ngăn cản thương vụ bán hệ thống cung cấp năng lượng lớn nhất nước này cho Trung Quốc với giá 7,7 tỷ USD, trong khi Anh đã trì hoãn một dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân do Trung Quốc đầu tư với số vốn lên đến 24 tỷ USD.

Joerg Wuttke, Chủ tịch phòng Thương mại của Liên minh châu Âu (EU) ở Trung Quốc cho biết ngày càng nhiều quan chức phương Tây lo ngại về hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài tại Trung Quốc. Họ công khai phản đối việc các doanh nghiệp này bị đối xử không công bằng và cho rằng Trung Quốc đang có thái độ bảo hộ cho các công ty của mình.

"Một điều chắc chắn là Trung Quốc rất mong muốn G20 diễn ra suôn sẻ. Điều này rất quan trọng, đó là niềm tự hào quốc gia. Nhưng đây sẽ là một thách thức rất lớn đối với Bắc Kinh", một nhà ngoại giao phương Tây nhận định.

Xem thêm: 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vì sao giảng đường Mỹ, Canada đóng cửa Viện Khổng Tử?


Vì sao giảng đường Mỹ, Canada đóng cửa Viện Khổng Tử?
TTCT - Trong vòng một tuần qua, hai trường đại học có uy tín tại Mỹ - Đại học Chicago và Đại học Pennsylvania - đã lần lượt ra tuyên bố ngưng hợp tác và đóng cửa Viện Khổng Tử, cơ quan giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc. 
Khuôn viên Đại học Chicago, nơi tuần trước tuyên bố không tiếp tục gia hạn ký kết - đồng nghĩa với đóng cửa Viện Khổng Tử ở trường - Ảnh: NY Times
Cùng thời điểm này, tại Canada, Ban điều hành hệ thống trường học thành phố Toronto cũng đưa ra quyết định tương tự.
Các quyết định này được công bố ngay tại thời điểm Trung Quốc rầm rộ kỷ niệm 10 năm thành lập và mở rộng Viện Khổng Tử trên toàn cầu.
“Quyền lực mềm” hay “tuyên truyền cứng”?
Lễ kỷ niệm được xúc tiến hoành tráng tại Trung Quốc tuần qua. Đích thân Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tham dự lễ kỷ niệm của Hiệp hội Khổng Tử quốc tế tại Bắc Kinh. Sự có mặt của người đứng đầu nhà nước tại một sự kiện của một tổ chức phi lợi nhuận không phải là ngẫu nhiên - các hoạt động của Viện Khổng Tử được quản lý và kiểm soát bởi Ban Hán học, một cơ quan nhà nước do các thành viên của Bộ Chính trị trực tiếp điều hành. 
Hiện nay hơn 480 Viện Khổng Tử đã có mặt tại 123 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, hoạt động trong các trường đại học và cao đẳng (nếu tính cả các chương trình “song sinh” mang tên lớp học Khổng Tử, dạy tiếng Hoa cho lứa tuổi phổ thông bằng giáo trình do viện soạn thảo, con số các tổ chức đào tạo mang tên Khổng Tử lên đến hơn 1.100!). Dự kiến đến cuối năm 2015, số lượng Viện Khổng Tử trên toàn cầu sẽ đạt đến con số 500. Ban Hán học của Chính phủ Trung Quốc bày tỏ tham vọng sẽ đạt được cột mốc 1.000 viện vào năm 2020.
Viện Khổng Tử đầu tiên tại Mỹ được mở ở Đại học Maryland tại College Park ngay trong năm 2004. Các Viện Khổng Tử “mọc” lên nhanh chóng trong khuôn viên đại học vùng Bắc Mỹ vào đúng thời điểm suy thoái kinh tế bắt đầu ảnh hưởng đến ngân sách đào tạo đại học, cũng đồng thời điểm Trung Quốc bắt đầu vươn lên thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới.
Với một số trường đại học và cao đẳng trong vùng, sự có mặt của Viện Khổng Tử trở thành một cơ hội “cung cấp chương trình học giá rẻ” cho sinh viên của mình. Mặt khác, sự có mặt của Viện Khổng Tử cũng là “cần câu” hữu hiệu để thu hút sinh viên Trung Quốc đến học.
Trung Quốc được coi là thị trường trọng điểm của các cơ sở đào tạo giáo dục Mỹ và Canada do số lượng học sinh sinh viên đến từ nước này luôn chiếm tỉ lệ cao trong số du học sinh quốc tế. 
Nguồn tài chính mà Ban Hán học Trung Quốc rót vào các chương trình của Viện Khổng Tử cũng là động lực không nhỏ: riêng tại Mỹ, ngân sách hoạt động hằng năm do Ban Hán học tài trợ là 100.000-150.000 USD, chiếm 50% tổng ngân sách (đại học đối tác Mỹ đóng góp phần còn lại).
Những động cơ nói trên làm học đường Mỹ dễ dàng đón nhận Viện Khổng Tử vào khuôn viên của mình - hiện tại có khoảng 100 viện hoạt động tại các đại học và cao đẳng Mỹ, và 350 chương trình giảng dạy phổ thông do Viện Khổng Tử thiết kế. 
Tuy nhiên, con số không nói lên được toàn bộ câu chuyện. Ban đầu, Viện Khổng Tử được đón nhận như là “đại sứ học thuật” của Chính phủ Trung Quốc, hoạt động theo cùng khuôn mẫu vận hành của các tổ chức có cấu trúc tương tự như Hội đồng Anh, Viện Goethe (của Đức), hoặc Nhà văn hóa Pháp - được coi là đại diện “quyền lực mềm” của các chính phủ Anh, Đức và Pháp trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, khác biệt căn bản trong tôn chỉ mục đích của Viện Khổng Tử và các cơ quan văn hóa phương Tây dần lộ rõ. Cả ba cơ quan của Anh, Pháp và Đức đều không được đặt trong các trường đại học trên toàn cầu mà hoạt động độc lập, công khai tôn chỉ và định hướng tại các nước đối tác. 
Trong khi đó, chỉ không lâu sau khi các Viện Khổng Tử đi vào hoạt động, dư luận trong giới học thuật Mỹ đã ồn ào vì việc các viện này giảng dạy “đúng định hướng” của chính sách Bắc Kinh: từ chối công nhận vụ thảm sát tại Thiên An Môn năm 1989, cấm thảo luận về đề tài Tây Tạng...
Thậm chí ông Hạ Nghiệp Lương - nguyên giáo sư kinh tế học bị Đại học Bắc Kinh sa thải năm 2013 vì kêu gọi cải cách chính trị - từng lên tiếng cảnh báo về khả năng Trung Quốc cài cắm gián điệp qua các chương trình trao đổi đào tạo và khách mời đến Mỹ.
Tại Canada, từ năm 2007, một báo cáo giải mật của Cơ quan Tình báo an ninh Canada đã nhắc đến Viện Khổng Tử như một “nỗ lực (của Chính phủ Trung Quốc) trong việc tạo ra tâm lý thân thiện với Trung Quốc và mọi điều liên quan đến Trung Quốc”.
Vi phạm tự do học thuật
Bản thân chính quyền Bắc Kinh không che giấu tham vọng gây ảnh hưởng qua Viện Khổng Tử. Năm 2009, chính ông Lý Trường Xuân, nguyên cục trưởng Cục Tuyên truyền trung ương Trung Quốc, đã chính thức thừa nhận các Viện Khổng Tử là một phần quan trọng trong chiến lược tuyên truyền ngoài nước của Chính phủ Trung Quốc.
Tuy nhiên, Chính phủ Trung Quốc phủ nhận việc can thiệp và cấm đoán tự do học thuật tại các nước đối tác. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh ngày 30-9 cho biết các Viện Khổng Tử được thành lập tại các trường đại học Mỹ dựa trên lời mời từ phía Mỹ.
Bà Oánh cũng khẳng định: “Các viện này cung cấp ban giảng huấn, chương trình giảng dạy và các hỗ trợ khác theo yêu cầu tự nguyện từ phía đối tác Mỹ. Các trường (đại học Mỹ) không bị ép phải mở viện, và các viện cũng không thể tác động xấu đến tự do học thuật và tính chính trực hàn lâm được”.
Phản ứng của giới học thuật Bắc Mỹ cho thấy một thực tế khác với tuyên bố của Trung Quốc. Từ tháng 10-2013, giáo sư ngành nhân chủng học Marshall Sahlins thuộc Đại học Chicago đã công bố một điều tra về tình trạng hoạt động của các Viện Khổng Tử tại giảng đường Mỹ.
Sau đó, hơn 100 giảng viên của đại học này đã ký tên vào văn bản chính thức phản đối sự hiện diện của viện trong khuôn viên Đại học Chicago. Tuyên bố không tiếp tục gia hạn ký kết - đồng nghĩa với đóng cửa viện - mà Đại học Chicago đưa ra vào tuần qua là kết quả trực tiếp của phản ứng này. 
Giáo sư Eric Hayot thuộc khoa châu Á học, cựu giám đốc Viện Khổng Tử của Đại học Pennsylvania, cho biết trong thời điểm tại nhiệm, ông và các giáo sư cộng sự liên tục đề xuất các kế hoạch nghiên cứu về khoa học, chính trị, môi trường... của Trung Quốc nhằm tận dụng ngân sách của viện. Tuy nhiên, mọi đề xuất đều bị Ban Hán học bác bỏ vì lý do “nằm ngoài phạm vi hoạt động của viện”. 
Tại Canada, theo nhật báo The Globe and Mail, Ban điều hành hệ thống trường học thành phố Toronto - hệ thống trường phổ thông lớn nhất Canada - đầu tháng 10 bỏ phiếu với tỉ lệ 9-1 quyết định chấm dứt hoạt động những chương trình đào tạo của các Viện Khổng Tử trong hệ thống trường ở Toronto.
Nếu đề xuất này được toàn thể hội đồng trường thông qua, hệ thống trường phổ thông này sẽ là đơn vị thứ 3 sau Đại học McMaster và Đại học Sherbrooke của Canada chấm dứt hợp tác với Viện Khổng Tử. Trước đó từ tháng 12-2013, Hiệp hội Giảng viên đại học Canada cũng ra văn bản kêu gọi các trường đại học Canada hủy bỏ các hợp đồng hợp tác với Viện Khổng Tử.
Alice Huynh, giáo viên tại một trường phổ thông Toronto, cho biết bà đã thu thập được 14.000 chữ ký của phụ huynh và người dân trong cộng đồng phản đối sự hiện diện của Viện Khổng Tử trong các trường phổ thông Toronto.
Phát biểu tại buổi bỏ phiếu, bà nói: “Điều mà chúng tôi cực lực phản đối là việc (nhà trường) trao quyền dạy tiếng Hoa vào tay một tổ chức tự thừa nhận là có động cơ chính trị và muốn gây ảnh hưởng đến con em của chúng ta”. 
Trước buổi họp này, Ban điều hành hệ thống trường học thành phố Toronto cho biết đã nhận được cảnh báo từ giới chức Trung Quốc rằng việc đóng cửa các Viện Khổng Tử tại khối trường phổ thông Toronto sẽ làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ của ban điều hành với “thị trường học sinh nước ngoài lớn nhất của Toronto”.
Tháng 6-2014, tiểu ban về tự do học thuật của Hiệp hội Giáo sư đại học Mỹ đã công bố một báo cáo mang tiêu đề: Về việc hợp tác với các chính phủ nước ngoài: Trường hợp của Viện Khổng Tử.
Bản báo cáo nhấn mạnh: trong xu hướng toàn cầu hóa, các giảng đường nước Mỹ đã dần dần cởi mở hơn trong việc tiếp nhận đóng góp (về nội dung, nhân sự và tài chính) từ nước ngoài, từ chính phủ, viện, trung tâm, tổ chức... đến các công ty tư nhân.
Tuy nhiên, ranh giới của việc tiếp nhận đóng góp tích cực từ ngoài nước và chấp nhận bị mất quyền quản lý và kiểm soát về nội dung đóng góp luôn luôn rõ ràng. Viện Khổng Tử là một điển hình đã vượt qua ranh giới này. 
Điều bất ổn nhất trong các văn bản ký kết hợp tác giữa Viện Khổng Tử Trung Quốc và các trường đại học Mỹ là những điều khoản cho phép ban điều hành Viện Khổng Tử toàn quyền tuyển dụng và kiểm soát nhân sự giảng dạy của viện, lựa chọn chương trình giảng dạy và hạn chế các đề tài tranh luận trong giảng đường theo các quy chuẩn của Chính phủ Trung Quốc.
Bản báo cáo của Hiệp hội Giáo sư đại học Mỹ tuyên bố: “Việc cho phép một tổ chức khác kiểm soát các vấn đề học thuật đi ngược lại với nguyên tắc về tự do học thuật và quyền tự chủ của các đại học Mỹ”. 
Giáo sư ngành lịch sử Trung Hoa Matthew Sommer thuộc Đại học Stanford bày tỏ: “Tôi lo ngại về những hậu quả lâu dài (của việc Viện Khổng Tử hoạt động trong học đường Mỹ). Các chương trình này đang phát triển rầm rộ không chỉ ở Mỹ mà trên toàn thế giới và hiển nhiên có tác động lớn đến việc ngành Trung Hoa học sẽ được giảng dạy như thế nào. Đáng lo nhất không phải là hiện nay, mà là hậu quả sẽ phát lộ trong 15, 20 năm tới”.
Trả lời phỏng vấn tờ The Wall Street Journal, ông Henry Reichman, phó chủ tịch Hiệp hội Giáo sư đại học Mỹ, cho biết: “Tôi tin rằng Chicago và Pennsylvania không phải là hai đại học duy nhất nhận ra rằng hợp tác với một viện như kiểu Viện Khổng Tử là hoàn toàn không đáng!”.
CAM LY tổng hợp

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TRẦN KỲ TRUNG kể chuyện Hội nhà văn VN khoái thành lập chi hội


Mạng tiếng là Chi hội nhà văn Việt Nam mà không trụ sở, không phòng ban, không có tiền,không được tham vấn kết nạp hội viên mới.. Ban chấp hành chi hội nào giỏi xoay sở cố duy trì thi y tình trạng "sống" trong phòng "hồi sức cấp cứu". Còn ban chấp hành chi hội nào toàn mấy "cụ" nhà văn "sắp lên tiên", thì gần như tên " Chi hội nhà văn Việt Nam" vẫn "sống " đấy mà cứ tưởng đã vào đài "hóa thân hoàn vũ". Đến ngay như Chi hội nhà văn Việt Nam ở Đà Nẵng, sau một nhiệm kỳ (dài khoảng 8 năm), hoạt động chủ yếu là được ông phó chủ tịch chi hội bỏ tiền túi ra mua một chai rượu, một quyển sổ công tác tặng anh chị em hội viên nhân dịp tết đến cùng nụ cười không biết "cười hay mếu", thế là hết chuyện! Tổ chức đại hội lần II, bầu ra ban chấp hành mới, may ông Nguyễn Bá Thanh thương tình cho ít tiền làm được một chuyến du lịch, ra được một đầu sách. Ông Thanh chết, ban chấp hành chi hội cũng "chết " theo, Chi hội cũng "toi" theo!!!


HỘI NHÀ VĂN VN KHOÁI LẬP CHI HỘI

TRẦN KỲ TRUNG

Hội nhà văn Việt Nam rất thích thành lập Chi hội nhà văn Việt Nam ở cơ sở như khu vực, hay thành phố lớn. Có thể nói, trong các Hội lớn, Hội nhà văn Việt Nam là một trong những Hội có nhiều Chi hội trực thuộc nhất! Nghe "oai" nhất ! Có người cho biết, đến bây giờ Hội nhà văn Việt Nam đã có hơn mười chi hội ở khắp cả nước. Nhưng có điều lạ, không thấy BCH Hội nhà văn Việt Nam gọi Chi hội nhà văn Việt Nam ở cơ sở là cơ quan cấp II, hay cấp ...gì gì đó ! Dẫu quyết định thành
 lập là có chữ ký của ông Chủ tịch, cũng quy định nhiệm kỳ, đại hội...,Sau đại hội lại cũng có chữ ký của ông chủ tịch công nhận Ban chấp hành chi hội. Ghê chưa! Rồi cũng đến vậy, mặc cho các chi hội hoạt động thế nào, BCH Hội nhà văn Việt Nam mà ở đây là ông Chủ tịch, không cần biết.

Mạng tiếng là Chi hội nhà văn Việt Nam mà không trụ sở, không phòng ban, không có tiền,không được tham vấn kết nạp hội viên mới.. Ban chấp hành chi hội nào giỏi xoay sở cố duy trì thi y tình trạng "sống" trong phòng "hồi sức cấp cứu". Còn BCH chi hội nào toàn mấy "cụ" nhà văn "sắp lên tiên", thì gần như tên " Chi hội nhà văn Việt Nam" ,"sống " đấy mà cứ tưởng đã vào đài "hóa thân hoàn vũ". Đến ngay như Chi hội nhà văn Việt Nam ở Đà Nẵng, sau một nhiệm kỳ (dài khoảng 8 năm), hoạt động chủ yếu là được ông phó chủ tịch chi hội bỏ tiền túi ra mua một chai rượu, một quyển sổ công tác tặng anh chị em hội viên nhân dịp tết đến cùng nụ cười không biết "cười hay mếu", thế là hết chuyện! Tổ chức đại hội lần II, bầu ra BCH mới, may ông Nguyễn Bá Thanh thương tình cho ít tiền làm được một chuyến du lịch, ra được một đầu sách. Ông Thanh chết, BCH chi hội cũng "chết " theo, Chi hội cũng "toi" theo!!!


Bây giờ mà có hỏi BCH Hội nhà văn Việt Nam ,rằng Chi hội nhà văn Việt Nam ở Đà Nẵng hiện có mấy hội viên? Ai là BCH? Hoạt động được những gì? Tác phẩm? Nếu không có điện thoại di động, rồi facebook.. . mấy ông BCH Hội nhà văn Việt Nam, kể cả sự "tuyệt vời ! tuyệt vời" của ông chủ tịch sẽ ấp úng, ngồi cả ngày "vắt óc "nghĩ không ra.

Thực ra chuyện thành lập Chi hội, trực thuộc BCH hội nhà văn Việt Nam là chuyện hay, hoạt động tốt còn hay hơn nữa. Nhưng nếu thành lập để khoe mẽ,dành cho mấy người háo danh thích chức quyền,, có cớ "vòi tiền", trục lợi.. .thì nên chấm dứt.
Không biết mấy ông trong BCH Hội nhà văn Việt Nam có nghĩ đến điều này không ?

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Có phải ông Trịnh Xuân Thanh đã bị bắt?


co phai ong trinh xuan thanh da bi bat? hinh anh 1
Ông Trịnh Xuân Thanh


Lương Kết
Dân Việt
Thứ Tư, ngày 31/08/2016 18:39 PM (GMT+7)

Đó là câu hỏi do báo giới đặt ra trong buổi họp báo thường kỳ Chính phủ chiều nay với Người phát ngôn của Chính phủ. Cụ thể, câu hỏi là: “Những ngày qua có thông tin ông Trịnh Xuân Thanh đã bị cơ quan điều tra áp dụng biện pháp tố tụng. Thông tin này tuy không chính thống nhưng đang gây nhiễu loạn dư luận. Vậy Bộ trưởng cho biết thực tế như thế nào?"


Tại buổi họp báo thường kỳ của Chính phủ chiều nay, 31.8, đúng như dự đoán, nhiều câu hỏi của báo giới đã tập trung vào chuyện ông Trịnh Xuân Thanh – nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang - đang ở đâu và những việc liên quan đến tình trạng PVC thua lỗ dưới thời ông này làm Chủ tịch. Người phát ngôn Chính phủ đã giải đáp phần nào những thắc mắc này.

Mở đầu phần hỏi đáp trong buổi họp báo thường kỳ Chính phủ tháng 8, báo chí đã đặt hai câu hỏi liên quan tới ông Trịnh Xuân Thanh. Đó là: Ngày 30.8 là thời hạn chót để Bộ Nội vụ báo cáo Thủ tướng Chính phủ về công tác thuyên chuyển, tiếp nhận, đề bạt, bổ nhiệm đối với ông Trịnh Xuân Thanh, nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang. Người phát ngôn Chính phủ có thể cho biết việc báo cáo thực hiện đến đâu?

Câu hỏi tiếp theo là “những ngày qua có thông tin ông Trịnh Xuân Thanh đã bị cơ quan điều tra áp dụng biện pháp của quy trình tố tụng. Thông tin này tuy không chính thống này nhưng đang gây nhiễu loạn dư luận. Vậy Bộ trưởng có thể cho biết thực tế như thế nào?

Về vụ việc này, người phát ngôn của Chính phủ  ông Mai Tiến Dũng, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ cho biết: Tại phiên họp báo của Chính phủ thường kỳ tháng 7.2016, người phát ngôn Chính phủ đã thông báo với cơ quan báo chí vụ việc của ông Trịnh Xuân Thanh đã được Tổng Bí thư chỉ đạo, yêu cầu các cơ quan chức năng điều tra làm rõ sai phạm xảy ra ở Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC) dưới  thời ông Thanh còn làm lãnh đạo cũng như làm rõ việc thuyên chuyển, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ đối với ông Trịnh Xuân Thanh.
 co phai ong trinh xuan thanh da bi bat? hinh anh 2
Buổi họp báo thường kỳ Chính phủ chiều 31.8

"Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo Bộ Công an, Thanh tra Chính phủ, Bộ Nội vụ theo chức năng và nhiệm vụ được giao chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành và các cơ quan liên quan điều tra làm rõ các vi phạm dẫn đến thua lỗ gần 3.300 tỷ đồng (giai đoạn 2011 -2013) tại PVC, thanh tra chấp hành chính sách pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh của PVC giai đoạn 2008 -2013, trọng tâm là việc đầu tư, thực hiện các dự án, kiểm tra, kết luận rõ đúng sai việc thực hiện quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về việc thuyên chuyển, tiếp nhận, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ đối với ông Trịnh Xuân Thanh. Hiện các bộ, cơ quan đang triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ", Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết.

Cũng theo Bộ trưởng Mai Tiến Dũng, việc thuyên chuyển, tiếp nhận, đề bạt, bổ nhiệm đối với ông Trịnh Xuân Thanh, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Nội vụ tiến hành kiểm tra, rà soát. Hiện Bộ Nội vụ đang tiến hành rà soát và chưa có báo cáo chính thức.

"Trong vụ việc này, các cơ quan pháp luật đã vào cuộc hết sức đồng bộ. Chỉ đạo của Tổng Bí thư là quyết tâm chính trị cao nhất. Sau đó, cả hệ thống cùng chuyển động với sự vào cuộc của cả cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đó là kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, chống lợi ích nhóm, ngay cả vấn đề lợi ích nhóm trong vấn đề đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, hay lợi ích nhóm trong việc sử dụng tài sản tiền của nhân dân" - Bộ trưởng Mai Tiến Dũng đánh giá.

Ông Trịnh Xuân Thanh (SN 1966) quê Đông Anh, Hà Nội, nguyên là Phó Chủ tịch UBDN tỉnh Hậu Giang.

Tại kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, ông Trịnh Xuân Thanh đã được giới thiệu ra ứng cử và trúng cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh Hậu Giang với số phiếu cao (cao thứ hai trong 6 người trúng cử). Tuy nhiên ngay sau đó ông Trịnh Xuân Thanh bị phát hiện đi xe tư nhưng dùng biển số xanh (biển kiểm soát dành cho xe công).

Sau khi có chỉ đạo của Tổng Bí thư, ngày 11.7.2016, Ủy ban Kiểm tra TƯ Đảng đã có kết luận bước đầu về sai phạm của ông Trịnh Xuân Thanh. Sau kết luận này ông Thanh đã bị Hội đồng bầu cử quốc gia bác tư cách đại biểu Quốc hội , tiếp đến ông Thanh xin không tái cử Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang.


Sau kết luận của Ủy ban Kiểm tra TƯ Đảng, Tổng Bí thư đã yêu cầu vụ việc cần tiếp tục được làm rõ. Trong 4 nội dung công việc được Tổng Bí thư yêu cầu làm rõ,  có nội dung đáng chú lý là: Ban Thường vụ Đảng ủy Công an TƯ chỉ đạo các cơ quan chức năng của ngành công an điều tra làm rõ vi phạm để xảy ra thua lỗ gần 3.300 tỉ đồng (giai đoạn 2011-2013) ở Tổng Công ty cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (thời ông Trịnh Xuân Thanh làm lãnh đạo)...


Phần nhận xét hiển thị trên trang