Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 4 tháng 7, 2016

Lảm nhảm về chiều thứ tư của Không gian...

Nguyễn Sơn một bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ nổi tiếng của Hoa Kì gặp gã tại một quán cơm thuần Việt gần phố đi bộ, Sài Gòn, kể gã nghe về cuộc đời của ông Phong, một nhà tư sản giàu có hàng đầu của Sài Gòn trước năm 1975, chủ của nhiều toà nhà đồ sộ trên Đại lộ Nguyễn Huệ. Sau năm 1975, không biết chỉ vì đống tài sản quá lớn mà ông bị nghi là phản động để rồi bị bắt giam rồi bị nhốt trong hầm tối suốt nhiều năm hay không? Những ngày đầu bị nhốt một mình trong hầm tối không một chút ánh sáng nào ông đau đớn và buồn bực không chịu nổi, ông quyết định sẽ tự tử.
Nhưng rồi khi chuẩn bị giã biệt cuộc đời ông ngồi nhớ lại những người thân yêu của mình mà mình sẽ vĩnh viễn chia tay.
Tự dưng những thước phim về mối tình của ông với vợ như được quay chậm lại nhưng thú vị nhất là nó tự động sàng lọc những gì không vui mà chỉ hiển hiện những gì hạnh phúc dâng trào. Từng chi tiết một, từng ánh mắt, lời thủ thỉ...Ông bàng hoàng nhận ra một sự thật rằng, khi trong đầu ông quay chậm lại những thước phim của tình yêu ấy ông cảm thấy như chính mình đang sống với những khoảnh khắc đã qua ấy và ông không còn bị cái tức giận, cái tù túng, cái đêm đen hành hạ nữa.
Ông nói với bác sĩ Sơn khi ông qua được Mỹ sau cả chục năm tù ngục rằng, chính những thước phim quay chậm lại về các cuộc tình của ông đã giúp ông có được nguồn năng lượng nào đó chuyển bóng tối thành ánh sáng để sống sót sau từng ấy năm đày ải.
Gã nghĩ, ông Phong vô tình đã nhập thiền , và môn phái thiền này có tên là “Nhập vào quá khứ tình yêu tươi đẹp”.
Qúa khứ không mất đi nếu nó tươi đẹp. Và đó lại thêm là một bí ẩn nữa của Thời gian ngoài cái bí ẩn Tĩnh lặng mà gã từng đề cập phần trên.
Einstein trước khi mất đã buồn bã than rằng:Ta sẽ chết không yên lòng nếu không biết được phép mầu nhiệm Chúa đã tạo ra Vũ trụ thế nào.
Điều đó có nghĩa người nắm bắt được toàn bộ khoa học của nhân loại vẫn lớ ngớ không biết được vũ trụ đã được tạo ra thế nào, nhưng bằng cảm nhận thiên tài , người gần với thế giới người trời nhất không hề tin rằng vũ trụ được tạo ra bởi một vụ nổ Big Bang nào đó. Ông đã dự cảm rằng con người sẽ đến lúc nào đó có thể đuổi theo kịp quá khứ nếu có được tốc độ vượt tốc độ ánh sáng 300.000 km/s. Vậy thì tốc độ hơn tốc độ ánh sáng sẽ là bao nhiêu để con người cưỡi lên trên phi thuyền có tốc độ ấy đuổi kịp quá khứ đang trôi phía mù tít thiên hà?
Chỉ khi quay lại quá khứ, trở về điểm xuất phát với những dấu tích của nó con người mới có thể biết chính xác nhất điều kì diệu, bí ẩn nhất của vũ trụ đó là vũ trụ được tạo ra thế nào.
Einstein bằng tất cả dự cảm thiên tài bùng cháy trước khi giã biệt cõi đời đã cảm thấy hơi thở của quá khứ thật sự nóng hổi phía sau và ông nhắn gửi cho đời sau cái câu hỏi cuối cùng nhưng vô cùng bí ẩn, vô cùng mênh mông là “làm cách nào đuổi kịp quá khứ?”.
Thấy chưa, gã đã bảo rồi, Thời gian luôn là bí ẩn lớn nhất mà Tạo hoá đánh đố giống người mà. Qúa khứ cứ tưởng là mất đi, hê, Einstein nói, đếch phải, quá khứ vẫn tồn tại trong không gian . Đây này, Einstein còn quả quyết: Thời gian cũng chính là một chiều của Không gian.
Bể cái đầu chưa?
Vậy ra Không gian không hề chỉ có ba chiều như bao lâu nay bao nhiêu người nghĩ mà còn chiều thứ tư nữa đó là...Thời gian.
Còn nữa, trước khi chết, nhà bác học vĩ đại nhất thế giới mà một mình ông có thể cân bằng với tất tần tật các nhà bác học thế giới cộng lại còn nói: Mơ ước của đời tôi là được thâm nhập vào chiều thứ tư ấy.
Chiều thứ tư mà ở thế kỉ 20 Einstein mơ vọng phải chăng chính là cái không gian thiền mà các đạo sĩ phương Đông đã thâm nhập từ vài ngàn năm trước để tạo ra năng lượng chưa biết đâu là giới hạn của nó?
Ối giời ơi, nếu gần gần đúng vậy thôi thì gã, một sinh linh nhỏ nhoi giữa trời đất này chỉ còn biết thở than kêu giời mà thôi.
Vậy là gã bắt đầu nhen nhóm niềm tin rằng con người có khả năng vô biên thậm chí đồng nhất với Tạo hoá nếu xử dụng hết công suất của bộ não với 15, 16 tỷ noron thần kinh khi dùng khí kích hoạt trong Không gian chiều thứ tư- Không gian thiền định.
Ai đó sẽ cho gã lảm nhảm. Ô hay thà lảm nha, lảm nhảm một điều mông lung nào đó mà bằng cái dự cảm dở hơi, biết đâu còn có một cái đích của Tuệ giác, còn hơn cả đời thin thít chỉ nhìn thấy bàn chân của mình chổng ngửa cùng bàn chân của một cô nàng nào đó lật úp là cùng.
Mọi ý nghĩ, tư duy, sáng tạo cả đời của Einstein luôn gắn với bài toán Năng lượng. Năng lượng. Năng lượng. Năng lượng. Đến cuối đời ông vẫn day đi day lại bài ca Năng lượng ấy có nghĩa là ông không muốn dừng lại ở công thức vĩ đại: E=mc2.
Phương Tây xưa nay luôn ấn định rằng Năng lượng là cái gì chính xác đong đếm được và được tạo ra bởi những va đập, tương tác của vật chất chứ tuyệt nhiên không có gì huyền bí cả.
Phương Đông từ xa xưa đã cho rằng chủ thể của Năng lượng và sự vô biên của nó chính là Khí một vật chất không dễ nắm bắt.
Chúng ta đã được thấy rõ những phong ba, bão tố, nghiêng trời lệch đất đều do sự chuyển dịch của Khí và bắt nguồn từ Khí như thế nào.
Vậy thì Năng lượng được tạo nên bởi cỗ máy Khí tàng hình có thể sinh ra một con tàu có tốc độ vượt tốc độ ánh sáng phải chăng chỉ có được khi chính con người-một tiểu vũ trụ đồng nhất Khí trời, Khí đất, Khí người rồi vận... Khí như Tạo hoá vận Khí: Vô cực sinh Thái cực. Thái cực chính là Khí. Thái cực sinh sinh Lưỡng nghi và cứ thế hình thành Vũ trụ theo Kinh dịch của Bách Việt từ 5000 năm trước.
Thôi, vu vơ quá rồi, lộn xộn quá rồi.
Gã, chỉ là một kẻ tầm thường nên chính mình bắt đầu cảm thấy sợ hãi trước cái mớ vu vơ, lộn xộn ấy.
Những gì gã có thể làm được cho mình đó chỉ là nạp khí trong lành vào cơ thể mình để thêm năng lượng mà vui sống, mà bớt bệnh tật, mà thấy có vẻ thông thái hơn trong tư duy sáng tạo, mà cái cảm xúc có vẻ đầy đặn hơn.
Thế thôi.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGƯỜI YÊU NƯỚC ĐÃ CHẾT… HAY LÒNG YÊU NƯỚC BỊ BÀO MÒN ???


 
Giới thiệu bài viết của một người làm nghệ thuật không hề quan tâm đến chính trị, trong tình hình căng thẳng giữa biển Đông.
Họa sỹ thiết kế thời trang Lê Thanh Phương: Ghi chú này chỉ là những suy nghĩ cá nhân của tôi, cách nghĩ cũa một họa sĩ nghĩ về lòng yêu nước và chiến tranh, mong ban bè và mọi người không suy diễn ra ý khác ngoài những tâm tư thể hiện trên câu chữ. Tôi xin cảm ơn!
*
Gia đình tôi là gia đình cách mạng chứ không phải là “gia đình có truyền thống cách mạng” như ngôn ngữ đại chúng hay sử dụng. Vì sao mà tôi nói thế?! Vì ông ngoại, dì tư, cậu năm, cậu bảy đã hy sanh vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước (cụm từ này tôi lấy nguyên văn từ 04 tấm bằng công LIỆT SĨ của bốn người thân). Chưa hết, mẹ là thương binh, anh là thạc sĩ y khoa – trung tá quân đội NDVN đang tại ngũ. Nói chung tất cả đều tham gia cách mạng và có công với nước nhà. Ai cũng dính vào chữ SĨ. Chết rồi thì làm LIỆT SĨ. Còn sống thì làm BÁC SĨ (cậu tám còn sống nên sau khi cách mạng đã cướp được chính quyền từ tay của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, bán nước, hại dân đã xếp vũ khí tiếp tục chuyện học hành để tốt nghiệp y khoa và thành bác sĩ), sau hai đứa con của cậu là Đỗ Quang Trung & Đỗ Thúy Vân cũng đỗ y khoa và thành bác sĩ. Các bạn đừng nôn nóng vì sao tôi khoe khoang về gia đình tôi nhiều SĨ đến như vậy? Vì tôi cũng là SĨ nhưng không phải là LIỆT SĨ, BÁC SĨ, mà là HỌA SĨ…
Khi tôi lớn lên, đất nước không còn chiến tranh nữa. Tuy nhiên tôi vẫn luôn nghĩ, nếu chiến tranh chưa chấm dứt, chắc chắn tôi cũng tiếp bước cha anh để được nhận tấm bằng LIỆT SĨ vẻ vang rồi!
Sau chiến tranh nhà tôi chết gần hết, nên đất đai dư ra so với nhân khẩu còn sống, vì thế đã hiến cho nhà nước. Bởi đó là thời hợp tác xã, đất là của chung, nhà nào nhiều đất không bị  đấu tố vì tội địa chủ cường hào ác bá, thì cũng bị lấy để chia đều cho dân. Vì sứ mệnh cao cả của cách mạng là phân phối lại tài sản của kẻ giàu chia cho người nghèo, ai ai cũng đến trường, nhà nhà cơm no áo ấm.
Nhưng nhà tôi lúc ấy chỉ còn lại trẻ con và đàn bà thì không hề no, không hề ấm, bởi trai tráng có sức khỏe đã đi theo tiếng gọi của non sông, hy sanh hết rồi còn đâu?!? Đất đai hiến hết, đơn giản vì lý do: gia đình cách mạng phải làm gương. Nên những năm tháng bắt đầu hòa bình, đói và nghèo thường trực trong gia đình tôi. Đến tuổi trưởng thành, tôi chỉ cao 1m69, nếu được sinh trong thời này, hẳn rằng tôi sẽ là anh họa sĩ cao 1m79 rồi.
Khi tôi chọn trường đai học mỹ thuật để thi, ai cũng hỏi sao không học bác sĩ như truyền thống gia đình? Thiệt tình mà nói, tôi học dốt toán vô cùng, nhưng lại ghiền đọc sách và mê văn chương, thêm nữa lại có chút hoa tay, không thi mỹ thuật thì tôi không biết thi trường nào nữa. Mặt khác, hai thứ tôi sợ nhất  trên đời là chiến tranh và máu – nguồn gốc của chính trị và điều trị (bác sĩ), nên tôi không muốn liên quan đến chúng, vì vậy chỉ còn một con đường trở thành họa sĩ mà thôi!
Tôi hay tranh luận với gia đình về đề tài chiến tranh và lên án nó. Tôi căm ghét nó vì đã cướp mất bao nhiêu người thân của tôi, cả những người không thân vô cùng lương thiện nữa. Chiến tranh làm bao nhiêu gia đình tan nát, ly tán, con mất cha, vợ mất chồng, thế nên tôi ghê sợ chiến tranh là điều hợp lý, không hề muốn nó tiếp tục xảy ra để tàn phá cuộc sống của con người.
Nhưng gia đình tôi gọi tôi là đồ thứ VIỆT GIAN, lòng yêu nước của mày để đâu rồi? Không lẽ nhà mày đang sống, đất mày đang ở, người ngoài vào cướp, mày cho bọn nó lấy sao? Mày sợ chiến tranh đến nỗi chấp nhận làm tay sai hay nô lệ cho bọn nó sao? Mày đúng là đồ hèn yếu!
Sâu thẳm tôi hiểu: Gia đình mình nói hoàn toàn có lý. Vì cái lý ấy mà biết bao người đã không tiếc thân, đổ máu xương, anh em chém giết thương tàn, đất nước tan hoang, đến hơn mấy mươi năm thanh bình rồi mà quốc gia vẫn chưa giàu nổi. Mà nghịch lý ở chỗ một phần dân Việt Nam thì cực giàu, mua xe hơi đắt gấp 3 lần giá thế giới, đến nỗi các ông nhà nước còn đề xuất người giàu phải trả 66 tỷ đồng để được quyền mua chiếc xe 6 tỷ, khắc nghiệt vậy mà những chiếc xe hơi hơn triệu đô la vẫn chạy đầy đường???
Trước 1975, Sài Gòn là Hòn Ngọc Viễn Đông, Thái Lan, Singapore còn có phần thua kém. Mấy mươi năm trôi nhẹ nhàng, giờ nhìn lại Việt Nam  đã thua xa về mọi mặt. Cứ tiếp diễn tình trạng này, 50 đến 80 năm sau chưa chắc đã kịp nước người BÂY GIỜ. Tôi tự hỏi không lẽ cả đất nước Thái Lan, Singapore, Trung Quốc (TQ để Hong Kong, Macau cho Anh và Bồ Đào Nha) không có người nào yêu nước hay sao mà lại để đất nước rơi vào tay bọn đế quốc ngoại xâm ???
Bây giờ trở lại chuyện nước nhà, tôi luôn tự hỏi thủa xưa, thời Bà Trưng, Bà Triệu, phận nữ nhi may vá thêu thùa, liễu yếu đào tơ mà các BÀ đã cỡi voi đạp cá kình chống giặc ngoại xâm. Đến thời Pháp, Mỹ xâm lược cũng biết bao nhiêu người vì nước mà hy sanh để giành lấy hòa bình, và giờ này đất nước Việt Nam ta bị người anh em Trung Cộng cướp đảo cướp đất, cướp biển… ngư dân ta bị bắn giết, sao chúng ta lại lặng yên ???  Chả lẽ bao nhiêu người yêu nước đã chết hết từ thời chống Mỹ cứu nước rồi sao? Hay lòng yêu nước và tinh thần dân tộc của người VIỆT NAM CHÚNG TA  đã bị MÒN trong những năm tháng hỗn mang của chủ nghĩa xã hội và mở cửa hội nhập???
Tôi thật sự không hiểu! Gia đình tôi ơi! Bạn bè tôi ơi! Hãy giải thích cho tôi ???!!!!
Lê Thanh Phương
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2016

Hé lộ thông tin về "điệp vụ bí mật" của Putin tại Đông Đức


Đức Huy 
Hé lộ thông tin về "điệp vụ bí mật" của Putin tại Đông Đức

Trang Business Insider dẫn một trích đoạn trong cuốn sách "Ông Putin: Điệp vụ trong điện Kremlin", trong đó kể lại những gì Putin đã làm tại Dresden khi còn là điệp viên KGB.

Trong những năm tháng làm điệp viên Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB), Tổng thống Nga Vladimir Putin từng có một khoảng thời gian hoạt động tại Dresden, thành phố lớn thứ ba Đông Đức bấy giờ với dân số khoảng 500.000.
Các tài liệu sau này nhận định, điệp vụ của Putin tại đây không thật sự đem lại hiệu quả và cũng không có gì đáng nói.
Hiện nay vẫn chưa có một văn bản chính thức nào miêu tả lại cụ thể những gì KGB đã làm tại Dresden. Bản thân ông Putin cũng không tiết lộ thông tin cá nhân gì về điệp vụ này, thậm chí việc ông làm việc cho nhánh nào của KGB đến giờ vẫn là thông tin tuyệt mật.
Một giả thuyết cho rằng Tổng thống Nga khi đó đã tham gia vào một nhiệm vụ có tên "Luch" (tia sáng), nhằm mục đích đánh cắp bí mật công nghệ. Một giả thuyết khác khẳng định Putin đúng là có tham gia nhiệm vụ này, nhưng không nhằm mục đích đánh cắp gì cả.
Thay vào đó, theo giả thuyết này, Luch là một nhiệm vụ bí mật KGB đặt ra nhằm "ve vãn" các quan chức cấp cao trong nội bộ Đảng Cộng sản Đông Đức cũng như Cơ quan Tình báo Nội vụ Stasi.
Mục đích sau cùng của nhiệm vụ này là tranh thủ sự ủng hộ của các quan chức nói trên đối với tầng lớp lãnh đạo theo hướng cải cách (perestroika) ở Liên Xô bấy giờ, trước sự phản kháng đến từ lãnh đạo Đông Đức Erich Honecker, một nhân vật bảo thủ.
Trong khi đó, một giả thuyết thứ ba cho rằng nhiệm vụ của KGB tại Dresden là tìm kiếm và mua chuộc những người Tây Đức khi đó đang ở Dresden học tập hoặc kinh doanh.
Một số giả thuyết khác lại khẳng định KGB khi đó tập trung mua chuộc những người dân Đông Đức có họ hàng ở phía Tây bức tường Berlin. Tác giả các giả thuyết này cho rằng chính ông Putin đã nhiều lần bí mật trà trộn vào Tây Đức để làm nhiệm vụ.
Tuy nhiên, theo hai chuyên gia Fiona Hill và Clifford Gaddy thuộc Viện Nghiên cứu Brookings, đồng tác giả cuốn sách "Ông Putin: Điệp vụ trong điện Kremlin", thì câu trả lời hợp lý nhất cho nhiệm vụ thực sự của Putin tại Dresden là "tất cả các giả thuyết trên gộp lại".
Bìa cuốn sách về Putin của hai nhà nghiên cứu Viện Brookings
Bìa cuốn sách về Putin của hai nhà nghiên cứu Viện Brookings
Theo họ, ông Putin đã tham gia vào hầu hết các hoạt động nói trên, vì "khả năng ông đứng ngoài cuộc là gần như không thể xảy ra".
"KGB khi đó luôn tìm cách đánh cắp bí mật công nghệ ở bất kì đâu, và Dresden cũng không phải là ngoại lệ. Ông Putin làm điệp viên ở đó nên chắc chắn đã tham gia" - hai chuyên gia này viết trong sách.
Bà Hill và ông Gaddy cũng cho rằng việc mua chuộc những người Tây Đức hoặc người có họ hàng ở Tây Đức cũng là một phần nhiệm vụ mà KGB giao phó cho tất cả các điệp viên hoạt động tại Dresden.
Họ nói thêm, không có chuyện Dresden chỉ là một vùng đất yên bình không dính líu tới chính trị như nhiều người lầm tưởng. Khi đó, Đông Đức đang khủng hoảng nghiêm trọng, và Dresden là một trong những điểm nóng phản đối chính phủ Honecker.
Về phía Putin, tuy ông không tham gia nhiều vào chính sự Liên Xô trong những năm 80 của thế kỉ trước, ông nắm rất rõ các sự kiện chính trị nóng ở Dresden. Tại đây, Putin bám sát tình hình và tận mắt chứng kiến các hoạt động của phe đối lập chính phủ Đông Đức.
Ngoài ra, vì cấp bậc khi đó còn thấp, ông Putin nhiều khả năng đã được giao nhiệm vụ theo dõi và nắm bắt tình hình phe đối lập, từ mô-típ cho đến điểm mạnh yếu của họ, trong khi các thành viên gạo cội của KGB tập trung vào tình hình bất ổn trong nội bộ Liên Xô bấy giờ.
theo Đại LộĐức Huy | 

Hé lộ thông tin về "điệp vụ bí mật" của Putin tại Đông Đức

Trang Business Insider dẫn một trích đoạn trong cuốn sách "Ông Putin: Điệp vụ trong điện Kremlin", trong đó kể lại những gì Putin đã làm tại Dresden khi còn là điệp viên KGB.

Trong những năm tháng làm điệp viên Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB), Tổng thống Nga Vladimir Putin từng có một khoảng thời gian hoạt động tại Dresden, thành phố lớn thứ ba Đông Đức bấy giờ với dân số khoảng 500.000.
Các tài liệu sau này nhận định, điệp vụ của Putin tại đây không thật sự đem lại hiệu quả và cũng không có gì đáng nói.
Hiện nay vẫn chưa có một văn bản chính thức nào miêu tả lại cụ thể những gì KGB đã làm tại Dresden. Bản thân ông Putin cũng không tiết lộ thông tin cá nhân gì về điệp vụ này, thậm chí việc ông làm việc cho nhánh nào của KGB đến giờ vẫn là thông tin tuyệt mật.
Một giả thuyết cho rằng Tổng thống Nga khi đó đã tham gia vào một nhiệm vụ có tên "Luch" (tia sáng), nhằm mục đích đánh cắp bí mật công nghệ. Một giả thuyết khác khẳng định Putin đúng là có tham gia nhiệm vụ này, nhưng không nhằm mục đích đánh cắp gì cả.
Thay vào đó, theo giả thuyết này, Luch là một nhiệm vụ bí mật KGB đặt ra nhằm "ve vãn" các quan chức cấp cao trong nội bộ Đảng Cộng sản Đông Đức cũng như Cơ quan Tình báo Nội vụ Stasi.
Mục đích sau cùng của nhiệm vụ này là tranh thủ sự ủng hộ của các quan chức nói trên đối với tầng lớp lãnh đạo theo hướng cải cách (perestroika) ở Liên Xô bấy giờ, trước sự phản kháng đến từ lãnh đạo Đông Đức Erich Honecker, một nhân vật bảo thủ.
Trong khi đó, một giả thuyết thứ ba cho rằng nhiệm vụ của KGB tại Dresden là tìm kiếm và mua chuộc những người Tây Đức khi đó đang ở Dresden học tập hoặc kinh doanh.
Một số giả thuyết khác lại khẳng định KGB khi đó tập trung mua chuộc những người dân Đông Đức có họ hàng ở phía Tây bức tường Berlin. Tác giả các giả thuyết này cho rằng chính ông Putin đã nhiều lần bí mật trà trộn vào Tây Đức để làm nhiệm vụ.
Tuy nhiên, theo hai chuyên gia Fiona Hill và Clifford Gaddy thuộc Viện Nghiên cứu Brookings, đồng tác giả cuốn sách "Ông Putin: Điệp vụ trong điện Kremlin", thì câu trả lời hợp lý nhất cho nhiệm vụ thực sự của Putin tại Dresden là "tất cả các giả thuyết trên gộp lại".
Bìa cuốn sách về Putin của hai nhà nghiên cứu Viện Brookings
Bìa cuốn sách về Putin của hai nhà nghiên cứu Viện Brookings
Theo họ, ông Putin đã tham gia vào hầu hết các hoạt động nói trên, vì "khả năng ông đứng ngoài cuộc là gần như không thể xảy ra".
"KGB khi đó luôn tìm cách đánh cắp bí mật công nghệ ở bất kì đâu, và Dresden cũng không phải là ngoại lệ. Ông Putin làm điệp viên ở đó nên chắc chắn đã tham gia" - hai chuyên gia này viết trong sách.
Bà Hill và ông Gaddy cũng cho rằng việc mua chuộc những người Tây Đức hoặc người có họ hàng ở Tây Đức cũng là một phần nhiệm vụ mà KGB giao phó cho tất cả các điệp viên hoạt động tại Dresden.
Họ nói thêm, không có chuyện Dresden chỉ là một vùng đất yên bình không dính líu tới chính trị như nhiều người lầm tưởng. Khi đó, Đông Đức đang khủng hoảng nghiêm trọng, và Dresden là một trong những điểm nóng phản đối chính phủ Honecker.
Về phía Putin, tuy ông không tham gia nhiều vào chính sự Liên Xô trong những năm 80 của thế kỉ trước, ông nắm rất rõ các sự kiện chính trị nóng ở Dresden. Tại đây, Putin bám sát tình hình và tận mắt chứng kiến các hoạt động của phe đối lập chính phủ Đông Đức.
Ngoài ra, vì cấp bậc khi đó còn thấp, ông Putin nhiều khả năng đã được giao nhiệm vụ theo dõi và nắm bắt tình hình phe đối lập, từ mô-típ cho đến điểm mạnh yếu của họ, trong khi các thành viên gạo cội của KGB tập trung vào tình hình bất ổn trong nội bộ Liên Xô bấy giờ.
theo Đại Lộ
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nguyễn Huy Thiệp, bởi những trải nghiệm riêng khác


 Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp



MAI ANH TUẤN

NVTPHCM- Bài viết phân tích các sự kiện tiểu sử nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và, bằng cách đó, nhìn lại những cách ứng xử với cuộc đời và văn chương của ông mà nhìn kĩ, nó như là sự kết hợp giữa tinh thần “trẻ Nho già Trang” của các văn sĩ trung đại với tinh thần phản biện, phê phán của thế hệ nhà văn Đổi mới.

Sinh ở nông thôn

Sinh năm 1950 tại Thái Nguyên nhưng tuổi thơ Nguyễn Huy Thiệp còn gắn liền với nhiều làng quê khác nhau ở miền Bắc, trong thời điểm cuộc chiến chống Pháp chưa kết thúc. “Tôi sinh ra chỉ vài ngày - Nguyễn Huy Thiệp kể trên báo Le Monde, là mẹ tôi phải bỏ tôi vào một cái gùi, và địu trên lưng bà, để trốn chạy bom đạn của người Pháp”1. Nhưng kí ức cuộc chiến hoàn toàn mờ nhạt so với kí ức nông thôn.Tỉnh lị Vĩnh Phúc, đặc biệt là vùng Kim Anh nằm cạnh sông Cà Lồ để lại dấu ấn sâu đậm trong những tiếp xúc đầu đời của Nguyễn Huy Thiệp với thế giới bên ngoài. Bến Cốc, tên bến sông nơi gia đình ông tạm trú, chỉ chưa đến 30 nóc nhà nhưng lại có nhiều người theo đạo Thiên chúa. Cậu bé Thiệp ở với mẹ và ông bà ngoại, không có nhiều bạn bè cùng lứa, cảm giác “cô đơn”, thứ cảm giác đã được diễn tả rất tinh tế trong Tâm hồn mẹ (1982), lúc đó cứ trải theo những bờ tường đá ong, những cánh đồng đầy dế. “Nỗi cô đơn ở trẻ nhỏ là chỗ đất tốt cho những tâm hồn mơ mộng”2. Ông ngoại là người mở mắt mở lòng cho nhà văn tương lai bằng những bài thơ Đường, phong dao tục ngữ và những nét Hán tự không quá bài bản. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp còn được học với cha xứ, vị này mỗi tháng một lần về nhà thờ ở bến Cốc, “chiều xuống, tiếng chuông nhà thờ ở giữa bến Cốc lan trên mặt sông mang mang vô tận” (Chảy đi sông ơi)3. Giữa thập niên 1950 ấy, ta biết rằng, chính phủ kháng chiến, đã tiến hành cải cách ruộng đất và gây ra không ít bất ổn, xáo trộn ở nông thôn. Tuy vậy, đúng như Greg Lockhart nhận định: “cảm quan Thiên chúa giáo ở một số truyện của Nguyễn Huy Thiệp, như Chảy đi sông ơi, Giọt máu, Con gái thủy thần lại nổi bật”4. Dường như những vùng thôn quê biến động không làm ảnh hưởng đến cậu bé Thiệp thường đến nhà thờ, tìm đọc Kinh Thánh cho đến trước khi lên mười. Dĩ nhiên, ảnh hưởng Ki-tô giáo như một nguồn tư tưởng phương Tây thì phải thấm hơn về sau, còn lúc đó, trong cái viết đầu tay, Nguyễn Huy Thiệp lại làm thơ. Thơ phú, trong con mắt gia đình ông, đồng nghĩa với làm loạn và sẽ được ông nhắc lại nhiều lần như một ám ảnh: “danh hiệu nhà thơ là thứ danh hiệu lỡm người bạc phúc. Thơ chỉ là thứ du dương bất lực” (Giọt máu). Ông ngoại, hẳn vì kinh nghiệm không mấy ngọt ngào của một nhà nho thất thế, đã hết sức ngăn cấm đứa cháu đang theo đuổi làm thơ - “thứ tài năng tầm thường nhất” (Mưa). Nguyễn Huy Thiệp nghe theo, liền viết những mẩu truyện nhỏ, học theo lối ngữ pháp đơn giản, với những câu văn ngắn như cách nói thường ngày. Đấy hẳn là mầm mống để lối hành văn theo phong cách tối giản (minimalism) trở thành điểm độc đáo trong nghệ thuật văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp.

Trải nghiệm nông thôn làng xã Bắc bộ, đương nhiên không phải của riêng Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng như sẽ thấy, ông không tái hiện nông thôn trong mối liên quan với các sự kiện mang tính chính trị - xã hội, như về phong trào hợp tác xã, về cải cách ruộng đất vốn vẫn được các nhà văn Đổi mới nhắc lại. Những mô tả nông thôn, nông dân của Nguyễn Huy Thiệp gần gũi với các mô tả dân tộc chí, với mối bận tâm về các tính chất, đặc trưng truyền thống của làng xã. Trên thực tế, mặc dù nông thôn Bắc bộ đã biến đổi rất nhiều kể từ sau 1945, nhưng Nguyễn Huy Thiệp sẽ vẫn kể về nó như là không gian lưu giữ các sinh hoạt và thiết chế đã từng vững chắc, từ gia đình, quan hệ họ hàng, thân tộc,... đến các tập tục, tín ngưỡng và tâm linh cộng đồng. Các tác động của bối cảnh Đổi mới đến làng quê, đặc biệt là sự có mặt của kinh tế thị trường dẫn đến sự gia tăng thiếu kiểm soát của các nghi thức cưới xin, ma chay, cỗ bàn…, cũng sẽ được ông đề cập với giọng điệu vừa ưu tư vừa đùa giễu. Từ cuối thập niên 1980, Nguyễn Huy Thiệp dành mối bận tâm lớn về nông thôn và tuy ít nhận được những phản ứng từ độc giả so với loạt truyện giả lịch sử, nhưng nó thực sự quan trọng trong mảng văn xuôi viết về nông thôn đương thời. Con gái thủy thần (vào các năm 1988, 1989, 1998),Những bài học nông thôn (1988), Thương nhớ đồng quê (1992), Chăn trâu cắt cỏ (1996),Chú Hoạt tôi (2001), Cánh buồm nâu thuở ấy (2004)..., lần lượt làm rõ hơn quan điểm của Nguyễn Huy Thiệp: “mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ở nông thôn.” Vượt xa vị trí đề từ cho một truyện ngắn, quan điểm này gợi nhắc sự cần thiết phải nhìn lại gốc gác, căn cước mỗi cá nhân, trong đó có người dân châu thổ Bắc bộ. Nếu coi vùng địa lí này là cái nôi của văn minh Việt Nam, nếu thừa nhận “tính độc đáo của châu thổ Bắc kỳ trên bán đảo Đông Dương là rất rõ”5 với tất cả các biểu hiện đặc thù về môi trường vật chất lẫn các phương tiện sống, thì việc trở lại dò thấu nó, sau nhiều gián cách và hời hợt nhất định, là một nhu cầu tất yếu. Khi đó, nhà văn hoàn toàn có cơ hội để nhận thức lại “con người làng xã”, nhân vật trung tâm chưa bao giờ cạn nghĩa, bởi đây là “con người phổ quát của xã hội Việt, là cái phần phổ quát trong mỗi người Việt”6. Cần thấy rằng, cuối thập niên 1980 cũng là giai đoạn hồi sinh mạnh mẽ của những nghiên cứu dân tộc học, nhân học làng xã Bắc bộ. Sẽ có nhiều hữu ích và lí thú nếu đọc những truyện kể nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp, không những từ đối sánh với các tác phẩm cùng đề tài, mà còn từ vốn nhân học làng xã Bắc bộ bởi mức độ tương đồng về tính “hiện thực” giữa chúng hoàn toàn có thể được đối chứng trên văn bản. Đương nhiên, ta không hề quên rằng Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn và quyền hư cấu, bịa đặt trên trang viết ở ông rất lớn. Tuy vậy, ngay cả khi có độ vênh trong cách đọc này thì dấu ấn của cái nhìn dân tộc chí Nguyễn Huy Thiệp trong quan sát, tái hiện đời sống làng quê vẫn là một sự tiếp nối lối viết, từ Ngô Tất Tố với Việc làng (1940), Trọng Lang với Làm dân (1940) và Thi vị đồng ruộng (1944), đến Sơn Nam với Hương rừng Cà Mau (1962), Bình Nguyên Lộc với Cuống rún chưa lìa (1969)…

Tiếp nhận văn học cổ điển

Năm 1960, Nguyễn Huy Thiệp quay về Hà Nội, vào lúc cuộc chiến tranh chống Mỹ hiện hình rõ rệt ở miền Bắc. Mười năm tiếp theo, đặc biệt là quãng thời gian vào học Đại học Sư phạm, Nguyễn Huy Thiệp có dịp tiến sâu hơn vào tri thức sách vở, khi ông lần lượt tìm đọc các trước tác của các triết gia Trung Hoa cổ đại, Sử kí Tư Mã Thiên, và, như hầu hết các sinh viên miền Bắc lúc đó, ông đọc các tiểu thuyết Nga thế kỉ XIX được dịch sang tiếng Việt. Sự định hình không gian hiểu biết của Nguyễn Huy Thiệp, ngay từ đầu, đã bị đặt trong những đường biên văn cảnh mà bản thân ông không ý thức rằng đó là giới hạn. Nhìn vào những gì ông trích dẫn, đưa vào tác phẩm cụ thể cũng như các tiểu luận được đăng từ cuối 1980 thì diện tham bác chủ yếu là các tác gia lớn của văn học trung đại Việt Nam và các nhà văn-triết gia châu Âu thế kỉ XVIII, XIX. Nói chuyện với độc giả ở Paris, ông thành thực: “Thế hệ của chúng tôi chỉ tiếp xúc nhiều với văn học cổ điển. Chứ văn học hiện đại rất hạn chế”7. Peter Zinoman đã coi thực tế này như một trở lực, ngăn Nguyễn Huy Thiệp đến với các xu hướng văn chương phương Tây tiền phong8. Tình thế bị hạn định đó dẫn ông đến lợi thế của một độc giả say mê kiểu tự sự truyền thống trong văn học cổ Việt Nam, Trung Hoa. Lối viết “lạnh băng” của sử kí Tư Mã Thiên hay tâm thế một người học lịch sử, rõ ràng, đã đẩy ông vào thói quen chi tiết hóa cả ngày tháng, địa danh và hành trạng nhân vật lịch sử trong các truyện giả lịch sử gây sóng gió của mình. Ông cũng không ngần ngại đuổi theo mô hình các truyện kể danh nhân (nhân vật chí) như đã rất rõ nét trong loạt truyện về Tú Xương (Thương cho cả đời bạc, 1996), Nguyễn Bính (Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt, 1997), Đề Thám (Mưa Nhã Nam, 1992)… Trong khi, như Lại Nguyên Ân nhận định, “không gian văn học miền Bắc những năm 1950-70 có thể là điển hình cho không gian đơn ngữ, độc ngữ; toàn xã hội chỉ nói chỉ đọc tiếng Việt chữ Việt (họa báo Liên Xô, sách ngữ lục Trung Quốc cũng đến đây dưới dạng chữ Việt) và chỉ được biết mọi loại thông tin qua tiếng Việt chữ Việt”9 thì Nguyễn Huy Thiệp đã dựa vào chất nền văn học cổ điển nội địa để xoay chuyển những điểm bất lợi khi viết văn, nhất là vào thời điểm ông xuất hiện đã cận kề với giai đoạn tái hội nhập phương Tây, báo hiệu sự ưu thắng của những kĩ thuật viết mới lạ. Càng về sau, Nguyễn Huy Thiệp càng chứng tỏ mình ưa cải dạng các thể loại văn học cổ (tiểu thuyết võ hiệp, chèo, truyện thơ) nhằm gây chú ý ở những tìm tòi nghệ thuật tưởng là quen thuộc, thông thường nhất. Một số cách đọc Nguyễn Huy Thiệp từ lí thuyết hậu hiện đại đã không thật để tâm đến sự tái sinh các phương thức tự sự truyền thống trong tác phẩm của ông. Hướng vào các thủ pháp được cho là hậu hiện đại, theo Peter Zinoman, “có thể khó hiểu hơn là tác phẩm bộc lộ”10.

Một thập niên “úp mặt vào núi”

Một sự kiện bước ngoặt là thay vì vào chiến trường, Nguyễn Huy Thiệp tuân theo phong trào “thanh niên 3 sẵn sàng” để, trong gần mười năm (1970-1980), dạy học ở Sơn La. Một thập niên “úp mặt vào núi” đem đến cho ông hai trong số các cảm hứng chính yếu của mình: dạy học hay rộng hơn, giáo dục, và núi rừng, thiên nhiên. Những hồi quang phong phú từ nơi rừng thiêng nước độc, “khỉ ho cò gáy” cách thủ đô vài trăm cây số quyết định gần như tuyệt đối xu hướng tự thuật trong nhiều trang văn giàu hồi ức của Nguyễn Huy Thiệp. “Nhưng hơn thế nữa - báo Le Monde nhận định, nhờ rừng ông khám phá ra sức mạnh của thiên nhiên, điều này ánh men lên trong tất cả tác phẩm của ông”11. Thứ sức mạnh tự nhiên mà chàng trai “20 tuổi, vừa mới tốt nghiệp ra trường, tâm hồn còn rất ngây thơ” (Những người muôn năm cũ) chứng kiến sẽ được cụ thể hóa bằng những nhận xét mang dáng dấp “thiên nhiên tâm luận” trải khắp đời cầm bút của nhà văn: Từ 1986, với Muối của rừng; 1992 với Mưa Nhã Nam; 1994 với Hoa sen nở ngày 29 tháng 4; 2005 với Tuổi 20 yêu dấu… Có thể nói, Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát (1987), Những người thợ xẻ (1988), Truyện tình kể trong đêm mưa, Sống dễ lắm, Thổ cẩm đã góp phần làm thức dậy “đề tài rừng núi” dường như, theo Philippe Papin, vắng bóng trong văn hóa ở một xứ rừng bao phủ hơn phân nửa diện tích.  “Với Việt Nam – Papin nhìn nhận, những vùng cao là một thực tại mới mẻ, một ý niệm của thế kỉ XX mà họ vẫn chưa thấu rõ hết nội dung. Phải biết rằng cho tới ngày nay, các cô giáo bị thuyên chuyển lên cao nguyên vẫn hoang mang dường nào: đó là biệt xứ, là bứng gốc, là sự đột nhập tàn nhẫn của cái lạ thường”12. Sự đối đầu giữa núi rừng và thành thị, giữa thế giới tự nhiên và xã hội văn minh, nhìn chung, cũng sẽ trở thành trọng âm của nhà văn nhằm điều chỉnh những tiếng nói sai lệch, nhầm lẫn trong các diễn ngôn từng có về vùng cao, tộc người thiểu số và những gì vẫn được cho là hoang dã, lạc hậu.

Không có mặt và ít bị tác động trực tiếp từ bom đạn chiến trường khiến Nguyễn Huy Thiệp đứng ngoài một trong những cuộc viết dai dẳng nhất - viết về cuộc chiến và người lính, của những nhà văn cùng thế hệ. Chẳng những rời xa đề tài từng đem lại vinh dự lẫn khổ tâm cho bao người này, Nguyễn Huy Thiệp còn dứt khoát kết thúc một mẫu hình nhân vật - người lính, mà văn học giai đoạn Đổi mới vẫn chưa hết say mê. Tướng về hưu (1987) là tác phẩm duy nhất nhắc đến người lính nhưng đó là một kiểu người lính hưu tàn, thất bại và chết bất đắc kì tử trong thời bình. Ẩn dụ về cuộc chiến có chăng chỉ hiện lên trong những mô tả thực tại xã hội nghèo đói, bệnh tật, mất an toàn sinh kế và suy thoái đạo đức. Chấn thương chiến tranh nếu trở nên trầm trọng với những nhà văn từng mặc áo lính, từng là bộ đội thì nó, day dứt không kém, ngấm sâu ở cái nhìn về chủ nghĩa anh hùng, về giá trị chiến thắng, vinh quang, về mô hình quyền bính lí tưởng của Nguyễn Huy Thiệp. Cần nhấn mạnh điểm riêng này để có thêm cơ sở cho sự hình dung về con đường đi tới kiểu nhà văn tự ý thức trong giai đoạn các điều kiện của xã hội dân sự bắt đầu ló dạng.

Trở lại tự nhiên

Sau mười năm “hãy đi xa hơn nữa” nơi núi rừng, Nguyễn Huy Thiệp quay lại Hà Nội, làm một “nhân viên quèn” ở nhiều cơ quan khác nhau, khi ở nhà xuất bản Giáo dục, khi tại Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ. Một cách thầm lặng, ông đọc N.G. Chernyshevsky (Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật đối với hiện thực), A.G Tseitlin (Lao động nhà văn), G. Plekhanov (Bàn về nghệ thuật) và nghiên cứu tâm lí độc giả, đúng hơn là “nghiên cứu tâm lí dân tộc trong cả một khoảng thời gian dài”. Trên cơ sở đó, ông bắt đầu hướng tới “dọn ra món ăn tinh thần cho cả thời đại”13. Tháng năm năm 1986, Nguyễn Huy Thiệp cho đăng ba truyện ngắn đầu tiên trên báo Văn nghệ: Muối của rừng, Nàng Sinh và Cô Mỵ. Đến tháng chín có thêm Vết trượt. Nhưng tất cả mọi sự chú ý, dư luận và là nguyên cớ của”hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp” phải đến khi Tướng về hưu xuất hiện cũng trên Văn nghệ vào tháng sáu năm 1987 - thời điểm có “một chiều kích chính trị quan trọng” như G. Lockhart cảm nhận14. Từ đây đến 1992, năm Nguyễn Huy Thiệp tuyên bố “rửa tay gác kiếm”, không viết văn nữa, là giai đoạn “cập thời vũ” nhất nhưng cũng “tâm tuyệt, khí tuyệt…” nhất của ông. Mọi tán dương lẫn bài xích cũng theo đó mà phủ ập xuống. Tháng 3/1992, ông tự nguyện xin thôi việc ở cơ quan nhà nước, chuyển sang kinh doanh nhà hàng. Cao trào Đổi mới văn học cũng dần lắng lại. Nhưng tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp bắt đầu được chuyển ngữ và xuất hiện ở nhiều không gian đọc khác nhau, ở Pháp, Mỹ, Ý, Thụy Điển… Đáng nói hơn, đây cũng là lúc ông công bố những tiểu luận văn chương chứa đựng phần lớn kinh nghiệm, quan điểm sáng tạo của cá nhân mà mức độ nói thẳng, nói thật, nhìn ngược vấn đề trong đó đã gây nhiều phản ứng trái chiều. Trên Con đường văn học (1992), ông ngậm ngùi và kiêu hãnh nhận ra “xác chết của các nhà văn đã chất thành núi trên thế gian này. Người ta vẫn bới tìm ở đấy những mẩu vụn của con người, về con người”15. Ông quay về triết lí nhẹ nhàng với cảm quan Phật giáo trong Hoa sen nở ngày 29 tháng 4 (1994), bao dung Thương cho cả đời bạc (1996), đề cao Bài học tiếng Việt (1999) và sau cùng, khi đã vỡ lẽ “lẽ thường, lẽ vô thường”, “sự mất mát, sự vô nghĩa, lẫn ý thức về thời gian biến dịch” (Con gái thủy thần, 1998), ông khẳng định Sống dễ lắm và Cười lên đi (2000). Tiếng cười ý vị, quả thật, đã làm ông khỏe khoắn và tinh quái lần nữa trong những câu chuyện thoạt tiên tưởng chỉ để “mua vui”, Chuyện ông Móng (2001), Những tiếng lòng líu la líu lo, Chuyện bà Móng (2004)… Cũng đã có lúc, ông Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn (2004) để rồi hứng chịu hàng loạt phản bác dữ dội.

Có thể nói, sau cao trào Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp lựa chọn thái độ “trở lại tự nhiên”. Bởi theo ông, “một xã hội dân chủ, tự do cũng sẽ là một xã hội tôn trọng tự nhiên, gần gũi với tự nhiên, vừa đồng hóa, vừa dị hóa, tiêu hóa nữa”16. Thái độ đó chi phối cách viết và thể loại của ông. Nhưng hơn hết, tư tưởng Nam tông theo giáo lí đốn ngộ, lẽ biến dịch của Lão Trang và sự tinh giản của tích trò dân gian Việt mới thực sự phóng chiếu sâu đậm trong trang viết của ông giai đoạn này. Không mấy nhà văn cùng thế hệ có những biểu hiện như thế. Một lần nữa, ông vẫn riêng khác trong những cách ứng xử với cuộc đời và văn chương của ông mà nhìn kĩ, nó như là sự kết hợp giữa tinh thần “trẻ Nho già Trang” của các văn sĩ trung đại với tinh thần phản biện, phê phán của thế hệ nhà văn Đổi mới.

____________

1 [Báo] Le Monde (2005), “Nguyễn Huy Thiệp, những vết thương cháy bỏng”, Nguyễn Quốc Trụ dịch, Nguồn: http://www.tanvien.net/chuyen_ngu_2/vet_thuong.html
2 Nguyễn Huy Thiệp (2010), Giăng lưới bắt chim, NXB Thanh Niên, H., tr.13.
3 Lời kể trong truyện Chảy đi sông ơi. Những trích dẫn truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ở bài viết này, nếu không có chú thích gì khác, lấy từ: Nguyễn Huy Thiệp (2007), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Với minh họa của các họa sĩ), NXB Văn hóa Sài Gòn & Đông A. 
4 Greg Lockhart (1992), “Nguyen Huy Thiep and the Faces of Vietnamese Literature” in Nguyen Huy Thiep, The General Reties and Other Stories, Oxford University Press, p.1.
5 Pierre Gourou (2015), Người nông dân châu thổ Bắc kỳ, Nhiều người dịch, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, tr.12. 
6 Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin, H., tr73-74.
7 Nguyễn Huy Thiệp (2002), “Ở Việt Nam tháp rùa vẫn như cũ”, trò chuyện văn chương với Jean Lacouture tại Paris (Pháp), Kim Lefèvre chuyển ngữ. Bản điện tử do Thuận thực hiện. Nguồn: http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=1291&rb=0102
8 Peter Zinoman (1994),“Declassifying Nguyễn Huy Thiệp”, Positions:East Asia Cultures Critique  2: 2 (Fall), p.301.
9 Lại Nguyên Ân (2014), “Hình thành, định hình, trưởng thành, phân hóa (Mấy nét về lớp nhà thơ xuất hiện ở miền Bắc những năm 1960-1970)”, Nguồn:http://www.viet-studies.info/LaiNguyenAn_ThoMienBac.htm
10 Peter Zinoman (1994),“Declassifying Nguyễn Huy Thiệp”, Tlđd, p. 298.
11 [Báo] Le Monde (2005), “Nguyễn Huy Thiệp, những vết thương cháy bỏng”, Tlđd.
12 Philippe Papin (2011), Việt Nam hành trình một dân tộc, Nguyễn Khánh Long dịch, NXB Giấy vụn, TP Hồ Chí Minh, tr.33.
13 Giăng lưới bắt chim, Sđd, tr.31
14 Greg Lockhart (1992), Tlđd, tr.2.
15 Giăng lưới bắt chim, Sđd, tr.55
16 Giăng lưới bắt chim, Sđd, tr.291.

Theo TIA SÁNG



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Indonesia được sản xuất Su-35, Trung Quốc khó hoành hành Biển Đông?

Indonesia được sản xuất Su-35, Trung Quốc khó hoành hành Biển Đông?

Quốc gia này sẽ mua sẽ mua đợt đầu 8 chiến đấu cơ tối tân Su-35, nhằm thay thế F-5 của Mỹ và sản xuất hàng loạt theo điều kiện chuyển giao công nghệ của Nga.

Indonesia mua 8 chiếc chiến đấu cơ Su-35 của Nga
Ngày 9-6, Đại sứ Indonesia tại Nga Vahid Supriyadi tuyên bố trước truyền thông Nga rằng, lực lượng không quân nước này sẽ mua 8 chiếc máy bay chiến đấu thế hệ 4++ Su-35 của Nga, cùng với việc sản xuất nhiều chiếc khác theo điều khoản chuyển giao công nghệ,
Ông Vahid Supriyadi nhấn mạnh rằng, về cơ bản là hai bên đã hoàn tất quá trình đàm phán các điều khoản hợp đồng mua máy bay do Nga sản xuất, hiện đang bàn về giai đoạn quyết toán, đặc biệt là vấn đề phía Nga chuyển giao công nghệ sản xuất Su-35 cho Indonesia.
Ông cho bết, hiện vẫn chưa rõ cụ thể là nước này sẽ sản xuất bao nhiều chiếc Su-35 sau khi được chuyển giao công nghệ nhưng tại thời điểm này có thể khẳng định rằng, thông tin chắc chắn là phía Indonesia sẽ mua 8 chiếc Su-35 sản xuất tại Nga.
Theo ông, đây là giai đoạn đầu tiên của sự hợp tác trong lĩnh vực này, còn giai đoạn 2 là hợp tác chuyển giao công nghệ để nâng tầm ngành công nghiệp quốc phòng nước này mới là quan trọng. Luật pháp của Indonesia quy định, mỗi thiết bị quân sự được mua phải đi kèm với việc chuyển giao công nghệ.
Ông Jan Pieter Ate - Cục trưởng Cục Khoa học và Công nghệ, Bộ Quốc phòng Indonesia xác nhận rằng, bất kỳ hợp đồng mua vũ khí nước ngoài nào của Indonesia cũng phải kèm theo thỏa thuận chuyển giao công nghệ chế tạo, để phát triển công nghiệp hàng không nước nhà,
 Indonesia được sản xuất Su-35, Trung Quốc khó hoành hành Biển Đông?  - Ảnh 1.
Su-35 sẽ là nòng cốt cùng với Su-27SK và Su-30MK làm xương sống của không quân Indonesia
Việc Indonesia quyết định mua Su-35 có thể là do lãnh đạo 2 nước đã đạt được thỏa thuận tháo gỡ nút thắt khó khăn nhất của thương vụ là việc nước này yêu cầu Nga phải chuyển giao ít nhất 35% công nghệ, thì Jakarta mới quyết định mua chiến đấu cơ thế hệ 4++ này.
Ngoài ra, Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia Ryamizard Ryacudu khẳng định, nước này đã thông qua phương án mua các chiến đấu cơ Su-35, bởi phi công Indonesia đã có nhiều kinh nghiệm sử dụng máy bay Nga, do trong biên chế không quân nước này có vài chục chiếc Su-27 và Su-30.
Hơn nữa, xu hướng hiện nay là các loại vũ khí Nga, đặc biệt là chiến đấu cơ đang rất được ưa chuộng, sau khi nhóm máy bay chiến đấu thuộc không quân của nước này đã sử dụng chúng đạt hiệu quả rất cao, trong chiến dịch không kích chống tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo IS ở Syria.
Vị Đại sứ Indonesia tại Nga khẳng định rằng, qua các biểu hiện trong đàm phán, phía Nga không quan ngại Indonesia về vấn đề chuyển giao công nghệ. Do đó, hiện giờ chỉ còn lại vấn đề thủ tục quyết toán cuối cùng và ký hợp đồng chính thức" - nhà ngoại giao này cho biết.
Phần nhận xét hiển thị trên trang