Nguyễn Quang Dy
Những gì diễn ra tại Côn Minh (Kunming, 14/6) đã biến Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN-China thành một sự kiện bất bình thường với một “thông cáo vịt què” (lame duck communique), dù là vịt Bắc Kinh hay vịt ASEAN. Nếu không muốn gọi hội nghị này là thất bại thì cũng không thể coi là thắng lợi. Dù Trung Quốc có ngăn cản được một tuyên bố chung ASEAN (như tại Phnom Penh năm 2012) thì cũng không thể ngăn cản được xu hướng “thoát Trung” trong cộng đồng ASEAN vốn bị phân hóa. Hãy thử giải mã những uẩn khúc tại Côn Minh để làm sáng tỏ bức tranh ASEAN-China, trong thời điểm nhạy cảm hiện nay.
Bối cảnh trước hội nghị Côn Minh
Hội nghị Côn Minh diễn ra vào lúc Tòa án Trọng tài Quốc tế (PCA) sắp ra phán quyết (dự kiến 7/7/2016) theo đơn kiện của Philippines. Có nhiều khả năng Philippines sẽ thắng kiện, làm Trung Quốc rất lo ngại, tìm mọi cách đối phó. Bên cạnh việc lăm le xây lắp hạ tầng quân sự tại Scaborough Shoal thành một cứ điểm mạnh, Trung Quốc ráo riết vận động các nước ủng hộ. Tuy Trung Quốc ngạo mạn tuyên bố không thừa nhận phán quyết của PCA, nhưng thực ra họ rất lo ngại bị cộng đồng quốc tế cô lập tại Biển Đông. Theo CSIS, Trung Quốc tuyên bố có 60 nước ủng hộ lập trường của họ, nhưng thực tế chỉ có 8 nước (Afghanistan, Gambia, Kenya, Niger, Sudan, Togo, Vanuatu, Lesotho), và năm nước đã thẳng thừng bác bỏ, làm Trung Quốc mất mặt (Poland, Slovenia, Bosnia, Herzegovania, Cambodia, Fiji).
Chuyến thăm Việt Nam (và Nhật) của Tổng thống Obama là một sự kiện quan trọng. Tuyên bố Mỹ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí đánh dấu một bước ngoặt, hoàn tất quá trình bình thường hóa, đồng thời thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược Mỹ-Việt. Điều này chắc chắn làm Trung Quốc đau đầu. Sau đó, Thủ tướng Việt Nam được mời dự họp mở rộng Thượng đỉnh G7 tại Nhật (26-27/5). Đây là dịp để G7 tăng cường “đoàn kết quốc tế về Biển Đông”, và Việt-Nhật tăng cường hợp tác quốc phòng và kinh tế, bao gồm sáng kiến “kết nối Mekong với Nhật Bản”. Tiếp theo Tuyên Bố chung của Hội nghị Ngoại trưởng G7 về an ninh Biển Đông (4/2016) các nhà lãnh đạo G7 đã ra “Tuyên bố chung Ise-Shima” (27/5) về an ninh Biển Đông và Biển Hoa Đông, nhằm đảm bảo tự do hàng hải và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế, để kiềm chế sự trỗi dậy hung hăng của Trung Quốc.
Tại Đối thoại An ninh Khu vực “Shangi-La 15” (Singapore, 3-5/6/2016) Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ash Carter (và TNS John McCain) đã đến dự và chỉ trích mạnh mẽ hành động quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc. Mỹ kêu gọi Trung Quốc tôn trọng phán quyết của Tòa án Trọng tài Quốc tế (PCA) và cảnh báo nếu Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa Scaborough Shoal thì có nguy cơ sẽ bị cô lập như “xây Vạn lý Trường thành tự cô lập mình”. Tiếp theo, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatami cũng chỉ trích Trung Quốc và tuyên bố Nhật sẽ giúp các nước Đông Nam Á tăng cường năng lực an ninh tại Biển Đông.
Đáng chú ý là tại Shangri-La 15, NATO cũng tuyên bố sẽ có bước đi cần thiết trước động thái mới của Trung Quốc ở biển Đông. Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Jean-Yves Le Drian kêu gọi lực lượng hải quân châu Âu có sự hiện diện “thường xuyên và rõ ràng” tại khu vực, để duy trì luật biển và tự do hàng hải. Le Drian nói “nếu luật biển không được tôn trọng tại các vùng biển gần Trung Quốc, thì sau này nó sẽ bị đe dọa ở Bắc Cực, ở Địa Trung Hải, hay ở nơi khác”. Sau Shangri-La 15, Bộ trưởng Quôc phòng Pháp đã đến thăm Việt Nam như để khẳng định lập trường mới của họ. Thái độ cứng rắn hơn của Mỹ, Nhật, Ấn Độ và NATO là đối trọng làm chuyển hóa lập trường ASEAN bớt phụ thuộc vào Trung Quốc. Tuy Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đã ra đời, nhưng ASEAN vẫn còn bị phân hóa.
Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ đã tiến hành tập trận quy mô lớn tại tây thái bình Dương (10-18/6/2016). Đây là cuộc tập trận thường niên (Malabar) giữa Mỹ với Ấn Độ và Nhật Bản (“Tam cường”), nhằm thiết lập trật tự an ninh hàng hải mới tại Đông Á để đối phó với các hành động quân sự hóa của Trung Quốc tại Biển Đông và Biển Hoa Đông. Trong tương lai, nếu Úc tham gia thì quy mô tập trận sẽ mở rộng thành “Tứ cường”. Ngoài ra, Mỹ đang tăng cường lực lượng hải quân và không quân cho khu vực này, điều một phần Hạm độ 3 tới Biển Đông và một phi đội 4 máy bay tác chiến điện tử E/A 18G Growler tới căn cứ Clark (Philippines), sau khi triển khai các loại máy bay hiện đại nhất tới khu vực này như Global Hawk và F-35, cùng với 5 máy bay A-10C Thunderbolt, và 3 trực thăng HH-60G Pave Hawk.
Sự cố hi hữu tại hội nghị Côn Minh
Các nước ASEAN chưa thật sự tin tưởng lắm vào chiến lược “xoay trục” (hay tái cân bằng) của chính quyền Obama cũng như chưa biết chính quyền mới (Hillary Clinton hay Donald Trump) sẽ “xoay trục” thế nào. Nhưng họ không có nhiều lựa chọn trước thái độ ứng xử ngày càng hung hãn và trịch thượng của Trung Quốc tại Biển Đông. Sau hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN tại Sunnylands (15-16/2/2016), hội nghị ngoại trưởng ASEAN-China tại Côn Minh (14/6/2016) là một cố gắng của Trung Quốc để thao túng các nước ASEAN, trước những diễn biến trái chiều trong khu vực đang làm Trung Quốc ngày càng cô lập.
Theo Carl Thayer (“The Truth Behind ASEAN’s Retracted Kunming Statement”, Carl Thayer, the Diplomat, June 19, 2016) sự cố ngoại giao hi hữu xảy ra tại hội nghị Côn Minh là hệ quả của lối ứng xử thô lỗ (heavy-handed) của Trung Quốc và cách điều phối và ra quyết sách vụng về của ASEAN (bureaucratic snafu). Sự cố này như một con vịt què, làm bộc lộ rạn nứt ngày càng sâu sắc giữa ASEAN và Trung Quốc, cũng như sự đồng thuận lỏng lẻo của ASEAN dễ bị Trung Quốc thao túng. Hãy thử lý giải những gì đã xảy ra.
Văn bản tài liệu hội nghị khẳng định, “các nước thành viên ASEAN nhất trí với nội dung của Thông cáo Báo chí do các ngoại trưởng ASEAN soạn.” Báo Straits Times cũng khẳng định mười ngoại trưởng ASEAN đã đồng thuận là Thông cáo Báo chí sẽ được ngoại trưởng của Singapore thay mặt ASEAN công bố tại cuộc họp báo chung ASEAN-China vào cuối hội nghị. Nhưng vào phút chót, phía Trung Quốc lại đưa ra bản thỏa thuận 10 điểm (10-point consensus) nhưng ASEAN không thể chấp nhận.
Các Ngoại trưởng ASEAN đã quyết định Ngoại trưởng Singapore sẽ không dự họp báo chung vì công khai bất đồng với Ngoại trưởng Trung Quốc trước công chúng là khiếm nhã. Các Ngoại trưởng ASEAN cũng quyết định ASEAN sẽ ra thông cáo báo chí riêng. Nhưng Trung Quốc lại vận động Lào và Campuchia ngăn cản việc này. Theo báo Straits Times, cuộc họp báo chung đó không thành là do “bất đồng không thể hóa giải giữa ASEAN và Trung Quốc về vấn đề Biển Đông”. Trung Quốc đã gây áp lực rất lớn với phía Lào (là nước chủ tịch luân phiên) buộc phải yêu cầu “chỉnh sửa khẩn cấp” một số nội dung Trung Quốc “không hài lòng”. Camphuchia cũng từ chối ký vào bản Thông cáo Chung, giống như tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh (năm 2012), không ra được tuyên bố chung vì Trung Quốc gây áp lực với Campuchia (là nước chủ tịch ASEAN) không nhất trí với tuyên bố đó.
Các Ngoại trưởng ASEAN đành quyết định mỗi nước có thể ra thông cáo riêng theo cách của mình, nhưng lúng túng không biết nên công bố bản gốc Thông cáo Chung ASEAN như thế nào. Chính vì vậy Malaysia đã bức xúc (frustrated) về sức ép quá đáng của Trung Quốc đối với ASEAN và chuyển bản Thông cáo Chung cho AFP, nhưng sau ba tiếng phải thu hồi lại theo lệnh của Ban Thư ký ASEAN (để “chỉnh sửa khẩn cấp”). Theo báo Straits Times, một quan chức ngoại giao ASEAN nói rằng việc “Malaysia công bố bản Thông cáo Chung là biểu hiện quá bức xúc (extreme frustration) của năm nước thành viên ban đầu cộng với Việt Nam, trước thái độ thô lỗ và ngạo mạn (crude and arrogant) của phía Trung Quốc”.
Tuy Côn Minh là một thất bại của ASEAN do thiếu đồng thuận, nhưng theo báo Diplomat, “Trung Quốc chứ không phải ASEAN mới thực sự thất bại tại hội nghị Côn Minh”. ASEAN đã bày tỏ quan điểm cứng rắn, trái với mong muốn của Trung Quốc. Chiến thuật “chia để trị” của Bắc Kinh đã khiến nhiều nước ASEAN phản ứng mạnh hơn. Thông cáo Chung của ASEAN đã làm hỏng ý đồ của Bắc Kinh muốn xếp tranh chấp biển Đông vào diện giải quyết song phương với từng nước có tranh chấp (Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei). Theo AFP, thái độ cứng rắn của ASEAN như một “cái tát ngoại giao” vào mặt Trung Quốc.
Nhưng ASEAN có dám đứng lên cùng phản đối hành động phiêu lưu của Trung Quốc tại Biển Đông hay không? Tuy hầu hết các nước ASEAN phản ứng Trung Quốc mạnh hơn trước, nhưng chỉ có ASEAN và Trung Quốc thôi thì không thể hóa giải được vấn đề này. Việc Thông cáo Chung được đưa ra rồi rút lại chứng tỏ cả Trung Quốc và ASEAN phải chịu trách nhiệm, đặc biệt Lào và Campuchia là hai nước bị Trung Quốc thao túng, gây bất đồng tại hội nghị Côn Minh. Theo Tổng thư ký ASEAN Lê Lương Minh, “Tất cả đã đồng ý phát hành bản Thông cáo Chung, trừ Campuchia. Đã có thỏa thuận nếu không có đồng thuận của cả khối thì từng nước ASEAN riêng rẽ có thể sử dụng nội dung thông cáo này để thông báo cho báo chí”. Sau đó, các nước Việt Nam, Philippines, Singapore, Indonesia, đã ra tuyên bố riêng.
Thực ra, nội dung Thông cáo Chung mà Malaysia đưa cho hãng AFP phản ánh gần như nguyên văn những tuyên bố gần đây của các ngoại trưởng ASEAN (mà Campuchia đã đồng ý). Vì vậy, vấn đề là Trung Quốc muốn lợi dụng cơ hội này để phân hóa và thao túng các nước ASEAN. Với vai trò chủ tịch ASEAN, phía Lào không ra tuyên bố, mà cũng không trả lời báo chí. Đáng chú ý là chủ tịch nước Trần Đại Quang đã thăm Lào chính thức và hội đàm với lãnh đạo mới của Lào cùng ngày diễn ra hội nghị ngoại trưởng tại Côn Minh.
Thông cáo Chung của ASEAN có đoạn nhấn mạnh các ngoại trưởng (trích) “bày tỏ sự lo ngại sâu sắc trước những diễn biến gần đây đã làm xói mòn lòng tin, làm gia tăng sự căng thẳng và có khả năng phá hoại hòa bình, an ninh và ổn định tại Biển Đông… Chúng tôi cũng không thể bỏ qua những gì đang diễn ra tại Biển Đông vì đó là một vấn đề quan trọng trong quan hệ và hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc…” (hết trích).
Nhưng tiếp theo, điều còn quan trọng hơn như là một thử thách lớn đối với các nước ASEAN là phải cố gắng đạt được đồng thuận về một Tuyên bố Chung của ASEAN sau khi Tòa án Trọng tài Quốc tế về luật biển ra phán quyết (dự kiến 7/7/2016).
Thử lý giải một vài nghịch lý
Đoàn kết ASEAN là một huyền thoại (myth). Người ta hay ví đoàn kết ASEAN như một bó đũa, nếu bị tách ra từng chiếc thì có thể bị bẻ gẫy. Vì vậy, Trung Quốc tìm mọi cách “chia để trị”. ASEAN vẫn tự hào và duy trì nguyên tắc “không can thiệp” (non-interference), nhưng nếu bị Trung Quốc bắt nạt, thì làm sao có thể ứng cứu cho nhau trong một hệ thống an ninh tâp thể? Người ta hay nói ASEAN “đồng thuận” trong “đa dạng”. Nghe thì rất hay, nhưng nếu “đồng thuận” không thực chất, trong khi “đa dạng” quá nhiều như “đồng sàng dị mộng” thì ASEAN không thể mạnh. Cộng đồng ASEAN phải đổi mới thể chế.
COC là một ảo tưởng (illusion). Mấy thập kỷ nay, ASEAN đàm phán (không thành công) với Trung Quốc về bộ “Quy tắc Ứng xử” (Code of Conduct) tại Biển Đông. Điều đó dễ hiểu vì Trung Quốc đang trỗi dậy, muốn thay đổi nguyên trạng tại khu vực, thì tại sao họ lại chịu bị trói bởi luật lệ của kẻ khác. Chừng nào Trung Quốc còn theo đuổi chủ nghĩa bành trướng bá quyền để chiếm đoạt Biển Đông, thì họ chỉ đàm phán như một trò chơi để đánh cờ chứ không phải thỏa thuận thực sự. Dù có thỏa thuận, thì họ cũng xé bỏ nếu cần, vì ASEAN không đủ mạnh để áp đặt được họ. Đối với Trung Quốc, luật lệ thuộc về kẻ mạnh. Chỉ có đủ mạnh thì ASEAN mới có thể buộc họ phải theo luật chơi chung. Muốn vậy, ASEAN phải mở rộng khuôn khổ đối tác chiến lược ra ngoài Đông Nam Á (với Nhật, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ) và trở thành đồng minh chiến lược với Mỹ. Trước đuổi Mỹ đi thì bây giờ phải gọi Mỹ lại.
“Ba không một có” là trò chơi chữ (semantic game). Việt Nam có một nguyên tắc phản ánh mong muốn độc lập và trung lập nghe rất hay là “Ba không” (không liên minh quân sự với nước khác, không để nước khác đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ, không dựa vào nước này để chống nước kia). Muốn duy trì nguyên tắc đó thì quốc gia đó phải đủ mạnh như Thụy Sỹ, môi trường quốc tế và khu vực phải đủ ổn định. Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam suy yếu và tụt hậu, khi môi trường quốc tế và khu vực đầy bất ổn, với nguy cơ “Bắc thuộc” và “Hán hóa” ngày càng lớn, thì cố giữ nguyên tắc “ba không” là đồng nghĩa với tự sát.
Lúc này phải dùng “quẻ biến”. Nhưng biến thế nào? Nếu biến bằng khẩu hiệu “Ba không Một có” thì chỉ là trò chơi chữ. “Một có” được hiểu là “những cái gì có thể làm được và làm có mức độ”. Bản chất của “Ba không” là sợ Trung Quốc và phụ thuộc vào Trung Quốc. “Thoát Trung” thực chất là thoát khỏi nỗi sợ “thiên triều” và lệ thuộc vào cái bẫy ý thức hệ. Chừng nào không thoát khỏi cái bẫy này, thì “Một có” hay “Hai có” chỉ là ảo tưởng để tự lừa mình, chẳng khác gì “xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”.
Vì vậy, có vũ khí hiện đại chưa chắc đã mạnh. Phải biết dùng hay dám dùng. Tại sao gần đây tai nạn máy bay quân sự xảy ra liên tiếp? Do chất lượng khí tài hay là do “lỗi hệ thống” hay là do “nguyên nhân lạ” nào khác? Ngày 16/4/2015, hai chiếc Su-22 rơi tại vùng biển Ninh Thuận, không rõ nguyên nhân, làm 2 phi công thiệt mạng (không kịp nhảy dù). Ngày 14/6/2016, một chiếc Su-30MK2 rơi tại vùng biển gần đảo Hòn Mê (Hà Tĩnh), một phi công thoát chết, một tử nạn (sau khi nhảy dù xuống biển). Ngày 16/6/2016, chiếc máy bay cứu hộ CASA-212 bị rơi tại vùng biển gần đảo Bạch Long Vĩ (Hải phòng), trong khi đi tìm kiếm phi công Su-30MK2 vừa bị nạn. Trên máy bay CASA-212 có 9 quân nhân tử nạn.
Lời cuối
Hai tai nạn máy bay đáng tiếc liền nhau làm bộc lộ vài nghịch lý thông thường, cần các viện/trung tâm nghiên cứu chiến lược (hay chiến thuật) làm rõ:
Tại sao phi công Trần Quang Khải bị nạn trên biển suốt 84 giờ mới tìm thấy, đã chết trước đó 48 giờ, tức còn sống 36 giờ sau khi nhảy dù (do bị dù cuốn)? Tại sao phi công không bắn pháo sáng (flares) và xịt thuốc màu (fluorescent) ra nước biển để báo hiệu?
Tại sao cả hai trường hợp phi công bị nạn trên biển đều do ngư dân tìm thấy trước, chứ không phải do lực lượng tìm kiếm chuyên nghiệp được trang bị đầy đủ tìm thấy? Các lực lượng cứu hộ đã luyện tập và phối hợp hành động như thế nào?
Tại sao chiếc máy bay cứu hộ CASA-212 lại nhận được lệnh bay ra vùng biển gần đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng) để tìm kiếm phi công Su-30MK2 bị nạn, trong khi nó bị rơi tại vùng biển gần đảo Hòn Mê (Hà Tĩnh), cách nhau hơn 200 km?
Tại sao chiếc máy bay cứu hộ CASA-212 lại bị rơi và tại sao nó bị vỡ thành nhiều mảnh? Phi công Nguyễn Thành Trung cho rằng máy bay bị “va đập mạnh”, vậy nó bị va đập mạnh bởi cái gì mà vỡ thành nhiều mảnh như vậy?
Tại sao thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh phải cầu viện Trung Quốc hỗ trợ tìm kiếm (trong khi họ muốn độc chiếm Biển Đông)? Nếu vì “nhân đạo”, thì tại sao không chấp nhận lời đề nghị giúp đỡ của phía Mỹ (là đối tác “hợp tác toàn diện”)?
NQD. 21/6/2016
|
Thứ Tư, 22 tháng 6, 2016
Thông cáo Vịt què và Nghịch lý ASEAN
Việt Nam cần phải tiếp tục đấu tranh khôn khéo để Trung Quốc chấm dứt các hoạt động vi phạm luật pháp quốc tế, chủ quyền lãnh thổ của chúng ta.
Thực tế chứng minh, Mỹ đã giúp nước nào thì nước đó đều trở nên phú cường hơn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Tây Âu...và bản thân TQcũng cần Mỹ.
Sau hai ngày nhóm họp tại Đức, hôm 8/6 nhóm 7 nước có nền công nghiệp phát triển nhất thế giới (G7) đã ra tuyên bố chung. Trong đó, G7 nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc giải quyết hòa bình các tranh chấp cũng như việc sử dụng hợp pháp, tự do và không cản trở đối với các đại dương trên thế giới. Kiên quyết phản đối sử dụng dọa nạt, cưỡng ép hoặc vũ lực, đơn phương áp đặt biện pháp nhằm tìm cách đảo ngược nguyên trạng cũng như tôn tạo đất đai trên quy mô lớn.
Các nước G7 khẳng định duy trì một hệ thống đặt nền tảng trên các quy định trong lĩnh vực hàng hải phải dựa trên các nguyên tắc luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc vềLuật Biển năm 1982.
Mặc dù không chỉ đích danh nước nào nhưng ngay sau đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên tiếng phản bác và cho rằng, đề nghị của các nước G7 là xa rời thực tế và luật pháp quốc tế.
Trong khi Mỹ, các nước G7 và ASEAN bày tỏ sự quan ngại sâu sắc về hành động bất hợp pháp của Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (chủ quyền của Việt Nam – PV), thì vấn đề này tiếp tục trở thành tâm điểm trên các tờ báo lớn trên thế giới.
Để có thông tin đa chiều, phục vụ cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, biển đảo của Tổ Quốc, PV báo Người Đưa Tin đã có cuộc trao đổi với nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, nguyên Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc.
Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, nguyên Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc
Ông có thể nhận xét khái quát tình hình quan hệ Việt Nam – Trung Quốc nói chung trong giai đoạn từ năm 2014 đến nay, đặc biệt là từ khi Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan dầu Hải Dương Thạch Du 981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông (từ 1/5-15/7/2014) và nay là hoạt động xây dựng đảo nhân tạo bất hợp pháp tại quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam? Theo ông, trong mối quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh có thay đổi, biến động nào đáng chú ý?
Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy: Với hơn 50 năm làm việc và nghiên cứu về Trung Quốc, tôi xin điểm qua về mối quan hệ giữa Việt – Trung luôn gắn theo những thăng trầm lịch sử.
Trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ của dân tộc ta, Trung Quốc là một nước anh em đã giúp đỡ ta. Tuy nhiên, đến năm 1974, thì chính Trung Quốc lại có hành động cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tiếp đó là các cuộc chiến tranh Biên giới 1979 cho tới Hải chiến Trường Sa năm 1988.
Hay gần đây nhất, khi Việt Nam đang mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác với các quốc gia thì chính Trung Quốc lại có những hành động phi lý khi khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông bằng yêu sách “đường 9 đoạn” mà họ tự vẽ ra.
Sau khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam vào tháng 5/2014, mối quan hệ của ta với Trung Quốc đã có những chuyển biến khác. Chính vì vậy mối quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng có nhiều biến động.
Điều đặc biệt là, chính nhiều nước lớn trên thế giới cũng bất ngờ khi Việt Nam đã khôn khéo khi cương quyết trong việc đấu tranh để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình cũng như có những đối sách phù hợp nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của sự căng thẳng hiện nay.Theo dõi các thông tin chính thống thường được phát đi từ Bộ ngoại giao Trung Quốc hay trong các bài phát biểu, tuyên bố của các quan chức nước này, có thể nhận thấy là mỗi khi Bắc Kinh bị một nước, một nhóm nước hay một tổ chức quốc tế nào lên án vì những hành vi xâm phạm chủ quyền, ráo tiết xây đảo, hình thành cơ sở, căn cứ quân sự bất hợp pháp trên Biển Đông là y như rằng Trung Quốc sẽ đưa ra lý luận ngang ngược là “đó là chủ quyền của Trung Quốc” (tất nhiên Trung Quốc không có chủ quyền hợp pháp), thậm chí, có những lần Trung Quốc còn ngang nhiên tố cáo cho rằng việc xây dựng của mình ở Trường Sa (thuộc chủ quyền của VN) cũng giống như một số nước khác trong khu vực. Cụ thể, Trung Quốc lý luận rằng Việt Nam, Philippines cũng tiến hành xây dựng ở Trường Sa sao nước khác không lên án. Ông có thể nói rõ hơn để dư luận thấy rõ bản chất của Trung Quốc? Theo ông, hoạt động xây dựng của Việt Nam ở Trường Sa ở mức độ nào, có ảnh hưởng gì đến hoà bình, trật tự khu vực hay có đe doạ an ninh cho nước nào đó như Trung Quốc đã làm hay không?
Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy: Không phải bây giờ mà từ năm 2005, tôi đã có ý kiến về việc Trung Quốc chính là một anh bạn cần phải đề phòng. Chính vì vậy, Việt Nam cần hợp tác sâu sắc hơn với Mỹ, Nhật thì mới có thể có cơ hội đưa kinh tế đất nước đi lên được, tránh được sự lệ thuộc vào Trung Quốc.
Để đánh giá đa diện, chúng ta phải nhìn vào bản chất sâu xa của Trung Quốc chứ đừng chạy theo các sự kiện mà họ tạo ra. Bởi, bản chất họ đã là cố hữu rồi thì những hành động gây hấn ngang ngược có tính chất nguy hiểm, leo thang trên Biển Đông dường như sẽ không có điểm dừng.
Việc Trung Quốc từ hơn một năm nay đã có những hành động cải tạo các đảo đá ngầm ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam thành các đảo nhân tạo với diện tích lớn hơn gấp nhiều lần hiện đã và đang bị dư luận khu vực và quốc tế lên án mạnh mẽ.
Họ đang muốn biến tham vọng bá chủ Biển Đông bằng yêu sách “đường 9 đoạn” vô lý để thống trị toàn bộ gần 90% diện tích vùng biển này. Trung Quốc đã xâm phạm trắng trợn đối với chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đi ngược lại hoàn toàn những quy định của Luật pháp Quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật Biển năm 1982.
Trung Quốc đã và đang mong muốn thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông và từ đó, có thể mở rộng, gây ảnh hưởng tới nhiều khu vực khác trên thế giới. Đồng thời, Trung Quốc đã đẩy mâu thuẫn và tranh chấp trên Biển Đông lên một giai đoạn mới, phức tạp và khó lường hơn.
Không những thế, việc Trung Quốc biến các đảo này thành các căn cứ quân sự, bằng chứng là hình ảnh chụp qua vệ tinh cho thấy, họ đã xây dựng đường băng dài đến hàng trăm mét để các máy bay quân sự có thể cất, hạ cánh dễ dàng.
Xây dựng các cảng neo đậu của tàu chiến, hải cảnh, hải giám, ngư dân vào tiếp dầu... ngoài gây nguy hiểm cho Việt Nam, nó còn đe dọa trực tiếp đến an toàn, an ninh hàng hải, hàng không của thế giới.
Hình ảnh được cho là bản quy hoạch trái phép của Trung Quốc thực hiện ở bãi đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam
Hoạt động xây dựng của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa thời gian vừa qua là hoàn toàn trong phạm vi cho phép của UNCLOS 1982 quy định, không gây ảnh hưởng gì tới tự do và an ninh hàng hải.
Sau khi kết thúc Đối thoại Shangri-la 2015 tại Singapore, Bộ trưởng quốc phòng Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter đã tới thăm và làm việc tại Việt Nam trong 2 ngày. Trong chuyến thăm này, ông Ashton Carter và Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã cùng ký kết Tuyên bố Tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ. Cá nhân ông có đánh giá gì về chuyến thăm Hà Nội của người đứng đầu Lầu Năm Góc?
Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy: Trải qua các giai đoạn cải cách và đổi mới, bình thường hóa quan hệ với Mỹ rồi gia nhập ASEAN năm 1995 cũng như việc tích cực gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong khu vực Đông Nam Á.
Việt Nam và Mỹ đang có những hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực Quốc phòng - An ninh đang có những bước phát triển mới, nhất là trong bối cảnh hai nước kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ.
Mỹ đã có những hành động cứng rắn nhằm ngăn chặn việc làm ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông. Điển hình là việc hôm 20/5, Mỹ điều máy bay do thám tới quanh khu vực 12 hải lý quanh đảo mà Trung Quốc đang cải tạo ở Biển Đông. Điều này cho thấy, Mỹ đang có những bước đi quyết đoán hơn trong việc chế ngự sự ngạo mạn của Trung Quốc tại khu vực này.
Thực tế chứng minh, Mỹ đã giúp nước nào thì nước đó đều trở nên phú cường hơn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Tây Âu… Bản thân Trung Quốc cũng xác định Mỹ là một quốc gia không hề “dễ chơi” một chút nào nhưng ngay cả Trung Quốc cũng cần Mỹ.
Do vậy tôi đánh giá, việc người đứng đầu Lầu Năm Góc thăm Việt Nam là một tín hiệu đáng mừng cho mối quan hệ hợp tác của hai nước trong bối cảnh hiện nay.
Việt Nam của chúng ta là một nước nhỏ so với các siêu cường, nhưng, dù nhỏ chúng ta cũng phải quyết tâm giữ vững chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, có chính kiến của riêng mình miễn là điều đó phù hợp với quyền lợi chính đáng của ta, phù hợp với luật pháp quốc tế và được dư luận ủng hộ. Trung tuần tháng 5 năm ngoái, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người đứng đầu Chính phủ Việt Nam đã từng nhấn mạnh: "Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó". Có phân tích cho rằng trong quan hệ với các nước lớn, chúng ta cần chủ động hơn nhằm tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác của các siêu cường. Ông nghĩ sao về ý kiến này?
Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy: Nhiều học giả cho rằng Việt Nam cần phải tăng cường hợp tác với Mỹ để đối phó với Trung Quốc, tuy nhiên cũng cần nhìn nhận ở những khía cạnh khác.
Việt Nam có cả biên giới trên đất liền và trên biển với Trung Quốc nên công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền đương nhiên sẽ có những đặc thù riêng biệt so với Nhật Bản, Philippines và một số nước khác.
Việt Nam cần tiếp tục tận dụng và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế trên các diễn đàn đa phương như ASEAN, APEC, ASEM, Liên Hiệp Quốc, G7… để cùng lên án những hành động sai trái của Trung Quốc và giảm thiểu những căng thẳng leo thang trên Biển Đông.
Hòa bình hữu nghị sẽ là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế nhưng cũng cần nhấn mạnh tới yếu tố độc lập về chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải. Với mục tiêu đối ngoại nhằm duy trì môi trường hòa bình, độc lập để phát triển, Việt Nam sẽ có những chính sách phù hợp và khôn khéo trong quan hệ với cả hai nước lớn như Mỹ và Trung Quốc.
Một bài học mà tôi thấy chúng ta cần phải chú trọng là bài học về thông tin. Chúng ta cần phải mạnh dạn đưa ra những thông tin, bằng chứng về hành động ngang ngược, sai trái của Trung Quốc để nhân dân, cộng động quốc tế thấy rõ và ủng hộ Việt Nam.
Điều quan trọng hơn cả mà cá nhân tôi thấy là Việt Nam cần phải tiếp tục đấu tranh khôn khéo để Trung Quốc chấm dứt các hoạt động vi phạm luật pháp quốc tế, chủ quyền lãnh thổ của chúng ta.
Xin cảm ơn ý kiến chia sẻ của ông!
Cao Tuân – Đình Tuệ
SÂN BAY NỘI BÀI BỊ UY HIẾP AN TOÀN BAY
Máy bay bị chiếu tia laze khi cất hạ cánh rất nguy hiểm
Sân bay Nội Bài bị chiếu laze uy hiếp an toàn bay
03:54 PM - 22/06/2016
Ủy ban An ninh hàng không dân dụng Quốc gia vừa đề nghị Ban chỉ đạo phòng, chống khủng bố thành phố Hà Nội, Công an tỉnh Vĩnh Phúc triển khai các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi sử dụng đèn chiếu laze vào tàu bay, uy hiếp an toàn hoạt động bay tại Nội Bài.
Theo báo cáo, thời gian qua khu vực lân cận Cảng hàng không quốc tế Nội Bài liên tiếp xảy ra hiện tượng sử dụng đèn chiếu tia laze vào tàu bay, uy hiếp nghiêm trọng hoạt động an toàn bay hàng không.
Ủy ban An ninh hàng không dân dụng Quốc gia vừa đề nghị Ban chỉ đạo phòng, chống khủng bố thành phố Hà Nội, Công an tỉnh Vĩnh Phúc triển khai các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi sử dụng đèn chiếu laze vào tàu bay, uy hiếp an toàn hoạt động bay tại Nội Bài.
Theo báo cáo, thời gian qua khu vực lân cận Cảng hàng không quốc tế Nội Bài liên tiếp xảy ra hiện tượng sử dụng đèn chiếu tia laze vào tàu bay, uy hiếp nghiêm trọng hoạt động an toàn bay hàng không.
Cụ thể, hồi 19 giờ 40 phút ngày 2.6, khi đang thực hiện nhiệm vụ bay huấn luyện một số chuyến bay quân sự, Trung đoàn 921 phát hiện có hiện tượng sử dụng đèn chiếu tia laze tại khu vực xã Mai Đình, phía Tây Nam Cảng hàng không quốc tế Nội Bài. Ngay sau đó, Cảng hàng không đã phối hợp các đơn vị liên quan kiểm tra khu vực này, nhưng không phát hiện đối tượng sử dụng.
Theo Quy hoạch GTVT Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn 2050, Hà Nội sẽ có thêm một sân bay quốc tế ngoài sân bay Nội Bài. Tuy nhiên, ngành hàng không lại nghiêng về phương án mở rộng sân bay Nội Bài hiện hữu. Vào 22 giờ 4 phút ngày 11.6, tổ bay VN7168, chặng bay Đà Nẵng - Hà Nội đang thực hiện hành trình từ Đông sang Tây để tiếp cận hạ cánh phát hiện có đèn chiếu tia laze hướng 280 độ về phía Tây, cách Cảng hàng không quốc tế Nội Bài khoảng 40 km. Một chuyến bay khác mang số hiệu VN 1554 từ Cam Ranh -Hà Nội lúc 21 giờ 50 phút ngày 12.6 khi đang tiếp cận hạ cánh phát hiện tại vị trí khoảng 5 - 6 km, cách đầu đường cất hạ cánh 11R (từ phía bên phải trục đường cất hạ cánh 11R khoảng 300 m, lúc tàu bay đang ở độ cao khoảng 365,76 m) có hiện tượng đèn laze màu xanh chiếu lên buồng lái.
Mới đây nhất, lúc 20 giờ 39 phút ngày 14.6, tổ bay VJ174, chặng bay thành phố Hồ Chí Minh - Hà Nội phát hiện có đèn laze màu xanh chiếu vào tàu bay vị trí hướng 265 độ, cách Đài chỉ huy Nội Bài khoảng 27 km về phía Tây.
Theo Ủy ban An ninh hàng không dân dụng, việc chiếu tia laze vào tàu bay khi đang cất hoặc hạ cánh trên tuy chưa gây hậu quả nghiêm trọng nhưng có thể gây tổn thương mắt phi công, làm mất phương hướng, mất quyền kiểm soát tạm thời tàu bay, uy hiếp nghiêm trọng an toàn hàng không dân dụng, vi phạm các quy định của quốc tế và Việt Nam về bảo đảm an ninh, an toàn hàng không dân dụng.
Ủy ban này cũng đề nghị Ban chỉ đạo phòng chống khủng bố thành phố Hà Nội yêu cầu công an địa phương khẩn trương tổ chức nắm tình hình, rà soát các điểm cao trên địa bàn nơi các đối tượng có thể lợi dụng để chiếu đèn tia laze vào khu vực sân bay, tàu bay khi tàu bay cất/hạ cánh. Cảng hàng không quốc tế Nội Bài phối hợp với các địa phương có biện pháp tuyên truyền, ngăn chặn hành vi sử dụng đèn chiếu tia laze.
Mai Hà
Biển Đông đang rất nóng!
TIN CỰC NÓNG: 10 CHIẾN HẠM MỸ RẦM RẬP VÂY TQ Ở BIỂN ĐÔNG
Ảnh minh họa.
10 chiến hạm Mỹ rầm rập "vây" Trung Quốc
ở Biển Đông
VnMedia
14:55, Thứ Tư, 22/06/2016 (GMT+7)
Hải quân Mỹ vừa đưa hai nhóm tàu sân bay chiến đấu đến Biển Đông để tiến hành tập trận. Đây là lần đầu tiên diễn ra một cuộc tập trận có sự tham gia của hai tàu chiến được ví là vũ khí bá chủ đại dương ở trong khu vực này trong vòng 2 năm trở lại đây. Động thái của Mỹ được tung ra ngay trước thềm một phán quyết của toà án trọng tài quốc tế liên quan đến vấn đề Biển Đông.
Hai nhóm tàu sân bay tấn công (CSG) bao gồm hai siêu tàu sân bay hạt nhân, hai tuần dương hạm mang tên lửa dẫn đường cùng 6 tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường đang “dàn trận” ở Biển Đông. Theo thông thường, hai nhòm tàu sân bay tấn công còn phải bao gồm hai tàu ngầm tấn công hạt nhân nhưng Hải quân Mỹ chưa xác nhận sự có mặt của tàu ngầm hạt nhân.
Cùng với lực lượng hùng hậu gồm 10 tàu chiến, nhóm hai tàu sân bay tấn công còn sở hữu lực lượng tấn công cực mạnh trên bầu trời gồm 140 máy bay, trong đó có 80 chiếc F/A-18 Hornets, cùng khoảng 70 bệ phóng tên lửa.
Tàu sân bay USS John C. Stennis đóng tại Washington là lực lượng chủ lực trong Nhóm Tàu sân bay Tấn công 3. Nhóm này gồm tuần dương hạm USS Mobile Bay mang tên lửa tối tân Aegis và 3 tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS William P. Lawrence, USS Chung-Hoon và USS Stockdale. Nhóm Tàu sân bay Tấn công 3 còn có biệt danh là "Hạm đội Xanh vĩ đại” do các tàu đều áp dụng những biện pháp tiết kiệm năng lược và nhiên liệu sinh học thay thế.
Tàu sân bay USS Ronald Reagan đóng tại Yokosuka, Nhật Bản và là một phần của Nhóm Tàu sân bay Tấn công 5. Các tàu khác bao gồm tuần dương hạm USS Chancellorsville mang tên lửa Aegis và các tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS Curtis Wilbur, USS McCampbell và USS Benfold.
Cuộc tập trận của hai nhóm tàu sân bay nói trên diễn ra vào thời điểm này không phải là một sự tình cờ hay ngẫu nhiên. Mỹ muốn phát đi một thông điệp đối với Trung Quốc ngay trước thềm sự kiện đang rất được chờ đợi - đó là việc Toà án Trọng tài Thường trực ở The Hague sẽ đưa ra phán quyết về vụ kiện của Philippines. Theo đó, toà án này được cho là sẽ bác bỏ đòi hỏi chủ quyền tham lam và phi lý của Trung Quốc dựa vào đường 9 đoạn hay còn gọi là đường lưỡi bò. Một số chuyên gia cho rằng, Trung Quốc có thể tung ra một số động thái quân sự nếu toà án ra phán quyết bất lợi cho họ. Sự hiện diện của hai nhóm tàu sân bay của Mỹ ở Biển Đông có thể sẽ ngăn không cho Bắc Kinh thực hiện bất kỳ hành động quân sự nào.
Kiệt Linh (tổng hợp)
Ảnh chụp màn hình bài báo lúc 18h43.
Còn anh, chỉ làm bổn phận của một người cầm bút...
CHUYỆN VỀ MỘT CÔ GÁI VIỆT NAM
Bài viết của Phù Đổng
Tôi vẫn thường lân la đến các trụ sở Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh, chỉ để xem lịch xét xử trong tuần, trong tháng. Mục đích của tôi là tìm một vài để tài để viết cho một tờ báo tỉnh lẻ.
Một lần, tôi trông thấy một thanh niên. Nhìn sơ qua là biết anh đã bị viêm màng não từ thuở nhỏ. Cặp mắt anh vô hồn, miệng mấp máy những câu vô nghĩa và tay chân cứ động đậy vô thức. Anh ngồi trên chiếc xe lăn, do một người đàn bà có đôi mắt ti hí đẩy đi. Hỏi người thư ký phiên tòa mới biết. Anh là người Đài Loan, đến Tòa để tham dự phiên xét xử vụ ly hôn giữa anh và vợ, một cô gái Việt Nam.
Tôi thắc mắc:
- Luật pháp Việt Nam đâu cho phép người tâm thần kết hôn. Hơn nữa, đây là một vụ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, phải do Chủ tịch UBND tỉnh ký giấy kết hôn mới hợp pháp. Vậy mà tại sao... Bà thư ký phiên tòa lườm tôi một cái sắc lẻm để ngắt ngang câu hỏi, rồi buông ra một câu nói rất lạnh lùng.
- Chuyện đó là do cấp trên quyết, ông là nhà báo nên giữ mồm giữ miệng.
Tôi chợt nhớ tới câu nói của ông Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách Ban Tuyên Giáo: "Không phải sự thật nào cũng viết báo". Nên tôi biết phải làm gì để không làm cho "bầu trời chính trị ở Việt Nam không trở nên xám xịt". Nhưng tôi vẫn tò mò vì sao họ phải ly hôn, nên bước vào phòng xử án để dự khán.
Cô vợ tên là Mai (tôi đã đổi tên thật của cô ta, để tôn trọng vong hồn của một người đã khuất). Số phận Mai giống như nàng Kiều của thời đại năm 2000. Nhà nghèo, Mai phải đi lấy một người chồng nước ngoài, để cho gia đình được đổi đời. Cho dù biết rất rõ, người chồng tương lai đang sống như một người điên dại và hoàn toàn bất lực về sinh lý. Vai trò của Mai ở xứ người không khác gì một bảo mẫu chăm sóc người bệnh tâm thần. Tôi nhìn Mai đang đứng gần người chồng cứ lắc lư cái đầu, hai bàn tay cà kheo của anh ta hết giơ tên trời, rồi lại chỉ xuống đất. Hai con ngươi trong đôi mắt vô thần mắt hết lác (lé) ra ngoài, sau đó chụm vào gần nhau một cách tài tình đến mức người bình thường không thể nào bắt chước được.
Trong khi đó, Mai - một cô gái có thân hình nhỏ nhắn, một gương mặt trái xoan, nước da bánh mật. Đó là vẻ đẹp "hương đồng gió nội" của các cô gái vùng sông nước Miền Tây Nam bộ. Hồi nhỏ, tôi vẫn thường hay nghe mẹ tôi hát ru cho em tôi ngủ: Ầu ơ... má ơi đừng gả con xa. Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?! Còn đối với cụ Nguyễn Du trong câu chuyện Đoạn Trường Tân Thanh, ngay từ những câu dạo đầu cũng phải thốt lên: Lạ gì bỉ sắc tư phong Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Nét đẹp của Mai không qua nổi cặp mắt tinh đời của cha chồng. Ông biết rằng đứa con tật nguyền của mình không thể nào thực hiện chức năng của người chồng. Vì thế, ông lén lút vào phòng con dâu để không hoài của. Còn Mai phải âm thầm chịu đựng để cứu cái gia đình túng thiếu ở quê nhà xa tít.
Một hôm, người mẹ chồng của Mai bất ngờ vào phòng con trai và tận mắt chứng kiến cái cảnh cha chồng nàng dâu trên giường trong tư thế không một mảnh vải che thân. Bà đã nổi điên. Phiên tòa xử vụ ly hôn lần đó là theo kế hoạch của bà mẹ chồng. Một là để cắt đứt mối quan hệ loạn luân của cha chồng nàng dâu, hai là đuổi cổ con đĩ về Việt Nam mà không phải phân chia tài sản.
* * *
Như thường lệ, tôi vẫn lân la đến các trụ sở Tòa án để săn tin. Được biết tại xã X, một xã giáp biên với Canpuchia sắp đưa ra xét xử một vụ án "Lây truyền HIV cho người khác" theo Điều 117 của Bộ Luật hình sự. Đến nơi, tôi tá hỏa vì người đứng trước vành móng ngựa lại là Mai.
Sau khi ly dị chồng, cô không dám về nhà vì sợ tai tiếng. Cô đành phải lên vùng biên giới để hành nghề bán bia ôm, kiêm luôn nghề bán dâm. Người mua dâm thường là những người bên kia biên giới. Nghề này đôi khi cũng túng thiếu, nên thỉnh thoảng Mai về tỉnh, vào bệnh viện để bán máu. Một ngày kia, sau khi xét nghiệm máu, người ta đã thông báo cho Mai biết: Cô đã bị nhiễm HIV.
Chán đời, cô sử dụng cái vốn trời cho của mình một cách hợt, buông thả: Một chầu nhậu cũng cho, một bát phở cũng cho, thậm chí cho không chỉ vì ông ấy có chức có quyền ở địa phương.
Tại phiên tòa, trong phần thẩm vấn, vị Hội thẩm nhân dân đặt ra một câu hỏi hết sức ngu ngốc: - Tại sao bị cáo biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn có tình lây nhiễm cho người khác, trong đó có cả đảng viên, cán bộ xã ấp?
Sau khi ly dị chồng, cô không dám về nhà vì sợ tai tiếng. Cô đành phải lên vùng biên giới để hành nghề bán bia ôm, kiêm luôn nghề bán dâm. Người mua dâm thường là những người bên kia biên giới. Nghề này đôi khi cũng túng thiếu, nên thỉnh thoảng Mai về tỉnh, vào bệnh viện để bán máu. Một ngày kia, sau khi xét nghiệm máu, người ta đã thông báo cho Mai biết: Cô đã bị nhiễm HIV.
Chán đời, cô sử dụng cái vốn trời cho của mình một cách hợt, buông thả: Một chầu nhậu cũng cho, một bát phở cũng cho, thậm chí cho không chỉ vì ông ấy có chức có quyền ở địa phương.
Tại phiên tòa, trong phần thẩm vấn, vị Hội thẩm nhân dân đặt ra một câu hỏi hết sức ngu ngốc: - Tại sao bị cáo biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn có tình lây nhiễm cho người khác, trong đó có cả đảng viên, cán bộ xã ấp?
Thế là Mai bị tuyên án 5 năm tù. Có lẽ cô cũng không buồn vì án này vẫn còn nhẹ so với án tử đang treo lơ lửng trên đầu cô bởi triệu chứng căn bệnh SIDA ngày càng rõ dần.
* * *
Mấy năm sau. Tôi về Bạc Liêu và được mấy anh bạn đồng nghiệp thết đãi ở Nhà hàng công tử Bạc Liêu. Một đám ma buồn ngang qua. Mấy ông bạn nhanh nhảu, chứng tỏ thạo tin. - Chết vì SIDA đó! Hồi trước gia đình, giòng họ bà này giàu lắm, địa chủ mà! Cháu ba đời của công tử Bạc Liêu. Sau giải phóng, ông già của bà này là trung úy lính Sài Gòn, phải đi học tập cải tạo, rồi chết trong rừng. Mấy chục mẫu ruộng bị nhà nước tịch thu trong đợt cải tạo nông nghiệp ở Miền Nam. Thành ra, đang giàu trở thành nghèo rớt mùng tơi. Nghe lời thiên hạ! Bả lấy một thằng khùng ở Đài Loan để có ba ngàn đô cứu cái gia cảnh đang lâm vô cảnh bần cùng.
Tôi chợt bán tín, bán nghi lao ra xem cái cảnh đưa đám ma. Di ảnh người chết rõ ràng là Mai. Tôi lặng người một lát. Sau đó tôi quay vô đám nhậu và uống nhiều đến mức mấy thằng bạn đồng nghiệp phải bái sư.
* * *
Tổng Biên tập mời tôi lên phòng ông và trả lại bản thảo. Mắt ông đo đỏ, ươn ướt: - Bài này không đăng được, anh hiểu rồi đó! Tôi vác bản thảo về nhà để lên bàn, rồi thắp một nén hương. Đợi cho nhang tàn, tôi đốt bản thảo và lầm thầm mấy câu: - Mai ơi! Đây chỉ là một chút lòng thành với em. Ở suối vàng, mong em thảnh thơi. Mai mốt có đầu thai, em nên chọn những gia đình có công với cách mạng để mà sinh ra. Còn anh, chỉ làm bổn phận của một người cầm bút.
Một thời gian sau, tôi trả Thẻ nhà báo, trả thẻ hội viên Hội nhà báo để cho lòng được thanh thản.
Chúng ta đã từng tin cậy và yêu mến người này:
Trung Quốc tán thưởng và cảm ơn ông Hun Sen, quyết không ăn được thì đạp đổ?
HỒNG THỦY
(GDVN) - Muốn được phần còn lại của thế giới tôn trọng, tiền bạc và nòng súng không thể thay thế được ý thức thượng tôn pháp luật và công lý.
Putin sắp thăm Trung Quốc, Đại sứ Nga lên tiếng về Biển ĐôngTrung Quốc dọa ASEAN: Sẽ rút khỏi UNCLOS 1982 nếu PCA hủy "lưỡi bò"Ông Hun Sen tuyên bố không ủng hộ phán quyết của PCA
China News ngày 21/6 đưa tin, hôm qua 21/6 người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh chủ trì họp báo thường kỳ. Bà Oánh ca ngợi phát biểu của Thủ tướng Campuchia Hun Sen về việc, ông sẽ không ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực vụ Philippines kiện Trung Quốc (áp dụng sai, giải thích sai, vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 - UNCLOS 1982) trên Biển Đông.
Bà Oánh được China News dẫn lời nói rằng:
"Phía Trung Quốc vô cùng cảm ơn và tán thưởng cao độ phát biểu của Thủ tướng Hun Sen tại lễ Tốt nghiệp Học viện Hành chính quốc gia Campuchia.
Về vụ kiện của Philippines, Trung Quốc đã sớm tuyên bố lập trường không chấp nhận, không tham dự. Vì vậy đừng ai hy vọng Trung Quốc sẽ chấp nhận kết quả của một phiên tòa (Bắc Kinh tuyên truyền là) phi pháp, không công bằng.
Bà Hoa Xuân Oánh, ảnh: AP. |
Trung Quốc không chấp nhận, không tham dự cái gọi là vụ kiện chính là vì bảo vệ sự tôn nghiêm và uy tín của luật pháp quốc tế.
Trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi hàng hải, Trung Quốc không chấp nhận bất kỳ phương án nào áp đặt, không chấp nhận giải quyết tranh chấp thông qua một bên thứ ba bằng việc khởi kiện đơn phương.
Trung Quốc sẽ tiếp tục kiên trì đàm phán giải quyết tranh chấp với các bên liên quan trực tiếp trên cơ sở tôn trọng sự thật lịch sử, căn cứ vào luật pháp quốc tế".
Xung quanh câu hỏi của phóng viên về việc The Wall Street Journal đưa tin, Trung Quốc rêu rao có 60 quốc gia vùng lãnh thổ ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông và chống lại phán quyết của PCA, bà Oánh có bình luận gì, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho hay:
"Trước đây chúng tôi đã được biết, hãng thông tấn cá biệt của phương Tây có lúc đổi trắng thành đen, bây giờ mới thấy họ còn liên kết các con số giản đơn, sau đó gia giảm để thành vấn đề.
Ngày càng có nhiều quốc gia hiểu rõ bản chất vấn đề Biển Đông và thực chất vụ kiện Biển Đông và đều bày tỏ ủng hộ lập trường của Trung Quốc. Có nước công khai ủng hộ bằng văn bản, có nước ngầm ủng hộ bằng tuyên bố miệng.
Có nước ủng hộ bằng cách đưa tin qua báo chí, có nước không đưa tin, nhưng quý vị đã nghe thấy, đã nhìn thấy cũng không dưới vài chục quốc gia rồi. Gần đây Cộng hòa Zambia, Cộng hòa Cameroon, Ethiopia và Malawi đã bày tỏ ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong nhiều diễn đàn khác nhau.
Trong Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Trung Quốc - Serbia mới ký gần đây cũng đề cập, Trung Quốc và Serbia nhất trí cho rằng:
Trong vấn đề Biển Đông cần giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và quyền lợi hàng hải một cách hòa bình thông qua đàm phán hiệp thương hữu nghị giữa các nước liên quan trực tiếp trên cơ sở các hiệp định song phương và Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC).
Có khả năng hãng thông tấn cá biệt này không chú ý đến nội dung trên, trừ phi họ cố bỏ qua điều này một cách có chủ ý. Không biết họ có tính toán kỹ không, có bao nhiêu nước công khai phản đối chính thức hay phản đối bằng văn bản lập trường của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông?"
Trung Quốc dọa ASEAN: Sẽ rút khỏi UNCLOS 1982 nếu PCA hủy "lưỡi bò" |
Không muốn tranh cãi với bà Oánh, nhưng bà đã nói thì cũng nên nói cho rõ và cho hết. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã né tránh không giải thích tại sao lại ngụy tạo tuyên bố chung và áp đặt quan điểm của Trung Quốc lên Fiji, Ba Lan và Slovenia như The Wall Street Journal đề cập ngày 17/6.
Còn nước nào công khai phản đối chính thức lập trường của Trung Quốc chống lại PCA và phán quyết của Tòa, chống lại yêu cầu làm rõ căn cứ pháp lý của đường lưỡi bò có thể kể ra là 7 nước thành viên G-7 mà mạnh mẽ nhất là Mỹ, Nhật Bản và Anh. Liên minh châu Âu cũng kêu gọi Trung Quốc tuân thủ phán quyết của PCA và làm rõ yêu sách đường lưỡi bò.
Nếu chịu khó theo dõi báo chí hằng ngày, bà Oánh chắc chắn sẽ biết rõ điều này và tự tìm cho mình được câu trả lời. Bởi lẽ không ai hiểu rõ hơn Trung Quốc về việc nước nào đang phản đối Trung Quốc chống phán quyết của PCA, hành xử kiểu một mình một chiếu.
Ngụy biện cũng không tránh được PCA ra phán quyết
Người viết cho rằng, việc Thủ tướng Campuchia Hun Sen tuyên bố tẩy chay phán quyết của PCA trong vụ Philippines kiện Trung Quốc áp dụng sai, giải thích sai, vi phạm UNCLOS 1982 ở Biển Đông hay Serbia vừa ký Tuyên bố chung với Trung Quốc đòi hỏi các bên liên quan phải giải quyết tranh chấp "lãnh thổ và quyền lợi hàng hải" qua đàm phán trực tiếp bộc lộ mâu thuẫn gay gắt, câu trước lật câu sau trong lập trường của Trung Quốc.
Thứ nhất, Campuchia hay Serbia không phải một bên có yêu sách ở Biển Đông mà Trung Quốc đang nhảy vào tranh chấp, bao gồm tranh chấp chủ quyền / lãnh thổ, tranh chấp vận dụng và giải thích UNCLOS 1982, tranh chấp vi phạm UNCLOS 1982, tranh chấp vùng chồng lấn, tranh chấp về đảm bảo tự do hàng hải hàng không ở Biển Đông.
Như vậy thì những tiếng nói của Campuchia và Serbia chỉ thể hiện lập trường và nhận thức của họ xung quanh vấn đề Biển Đông và luật pháp quốc tế, chẳng có ảnh hưởng gì đến phán quyết của PCA.
Quan trọng hơn nữa là PCA đã thụ lý và ra phán quyết rõ ràng về THẨM QUYỀN của Tòa đối với 7/15 nội dung Philippines khởi kiện, liên quan đến việc áp dụng, giải thích và vi phạm UNCLOS ở Biển Đông ngày 29/10/2015. Mọi tiếng nói trái chiều đều không thay đổi được điều gì.
Thứ hai, cho đến giờ Trung Quốc vẫn cáo buộc Hoa Kỳ là nguyên nhân gây căng thẳng Biển Đông, thậm chí có tờ báo Trung Quốc dùng ngôn từ chợ búa để nói Hoa Kỳ đừng "chõ mũi" vào Biển Đông, phản đối quốc tế hóa Biển Đông thì bản thân Trung Quốc lại đang làm điều ngược lại:
Tìm mọi cách vận động, mua chuộc, lôi kéo dụ dỗ các nước mãi châu Phi, Trung Á, Mỹ - Latinh cùng Trung Quốc đòi hỏi, bắt ép các bên liên quan phải "giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng đàm phán song phương, trực tiếp.
Những việc làm này tự nó mâu thuẫn nhau và chỉ chứng tỏ một điều, thành viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc - Trung Quốc đã và đang bẻ cong luật pháp quốc tế theo hướng có lợi cho mình, tìm mọi cách bảo vệ yêu sách bành trướng, vô lý và phi pháp của họ ở Biển Đông, bất chấp uy tín và danh dự, bất chấp công luận và công lý.
Vậy mà bà Hoa Xuân Oánh đăng đàn hùng hồn tuyên bố: "Trung Quốc không chấp nhận, không tham dự cái gọi là vụ kiện chính là vì bảo vệ sự tôn nghiêm và uy tín của luật pháp quốc tế." Nghe mới thật khôi hài: Chà đạp lên luật pháp quốc tế để "bảo vệ sự tôn nghiêm và uy tín của luật pháp quốc tế"!
UNCLOS 1982 là thành quả nhân loại đạt được sau một quá trình dài mất bao nhiêu công sức, thời gian, trí tuệ, tiền bạc và cả đấu tranh để xây dựng nên nhằm đảm bảo duy trì hòa bình và ổn định, thực thi công lý và giữ công bằng trên các vùng biển và các đại dương.
Đừng trách Hun Sen, hãy tiếp tục ủng hộ PCA ra phán quyết hủy "lưỡi bò" |
Mấy ngày gần đây đã xuất hiện thông tin, Trung Quốc manh nha đe dọa ASEAN rằng, nếu PCA ra phán quyết hủy đường lưỡi bò thì họ sẽ rút khỏi UNCLOS 1982.
Nếu điều này là thật thì chứng tỏ, Bắc Kinh cứ nhân danh công lý và luật pháp quốc tế nhưng hành động của họ đang xem công lý và công pháp quốc tế chẳng khác gì mớ giấy lộn và quẳng vào sọt rác!
Nhiều bạn đọc của Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đặt câu hỏi, sao Trung Quốc không rút khỏi Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc luôn đi? Điều này thể hiện sự bất bình sâu sắc của nhiều người trước thái độ khôn lỏi của Trung Quốc trong hành xử: Không ăn được thì đạp đổ.
Cá nhân người viết tin rằng thái độ, cách ứng xử như vậy chắc chắn sẽ không được nhân loại văn minh chấp nhận và chỉ làm xấu thêm hình ảnh của Trung Quốc.
Những thông điệp bộc lộ thủ đoạn mới
Phát biểu của bà Hoa Xuân Oánh theo cá nhân người viết, còn bộc lộ 2 thủ đoạn mới, thông điệp mới của Trung Quốc về Biển Đông và phán quyết của PCA mà các bên liên quan cần tìm hiểu và có biện pháp phản ứng phù hợp.
Thông điệp thứ nhất, Trung Quốc lần đầu tiên công khai, chính thức đưa thêm "tranh chấp quyền lợi hàng hải" vào lập trường đòi "đàm phán song phương giữa các nước liên quan trực tiếp".
Trước phát biểu hôm qua của bà Oánh, Bắc Kinh vẫn đánh đồng tất cả các loại tranh chấp phức tạp ở Biển Đông vào một mớ và gọi chúng là "tranh chấp lãnh thổ / chủ quyền" để tìm cách né tránh phán quyết của PCA.
Thông điệp thứ hai, lấy DOC thay thế vai trò của UNCLOS 1982, nói một cách khác phải chăng là bà Oánh đang gián tiếp thừa nhận thông tin báo chí quốc tế vừa nêu về việc Bắc Kinh có ý đồ rút khỏi UNCLOS 1982 nếu "chẳng may" bị PCA hủy đường lưỡi bò?
Điều này thể hiện rõ trong Tuyên bố chung Trung Quốc - Serbia mà bà Oánh giới thiệu:
"Trung Quốc và Serbia nhất trí cho rằng, trong vấn đề Biển Đông cần giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và quyền lợi hàng hải một cách hòa bình thông qua đàm phán hiệp thương hữu nghị giữa các nước liên quan trực tiếp trên cơ sở các hiệp định song phương và Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC)."
Điều này chứng tỏ Bắc Kinh đang rất hung hăng trên Biển Đông, quyết không ăn được thì đạp đổ. Dù Trung Quốc có đơn phương rút khỏi UNCLOS 1982 thì cũng không tránh được nghĩa vụ pháp lý trong phán quyết của PCA.
Phán quyết của Tòa sẽ đánh thẳng vào uy tín, danh dự của một nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc vẫn rao giảng về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trỗi dậy hòa bình, cường quốc trách nhiệm, chia đôi Thái Bình Dương...
Không những tìm cách đạp đổ UNCLOS 1982, Trung Quốc còn hủy bỏ luôn cả hệ thống công pháp quốc tế đang là bộ khung duy trì và bảo vệ hòa bình, công lý, giải quyết các tranh chấp quốc tế nếu cứ xét theo lời văn mô tả trong Tuyên bố chung Trung Quốc - Serbia.
Không chống lại được việc này, hoặc thế giới sẽ hỗn loạn, hoặc sẽ phải chấp nhận trở thành chư hầu kiểu mới của Trung Quốc.
Bất chấp thái độ bất hợp tác, quay lưng với luật pháp quốc tế hiện nay mà Trung Quốc đang thể hiện, cá nhân người viết cho rằng các nước có liên quan ở Biển Đông, cộng đồng khu vực và quốc tế cần lên tiếng mạnh mẽ bảo vệ hòa bình và ổn định, luật pháp quốc tế ở Biển Đông, đặc biệt là UNCLOS 1982 trên tất cả các diễn đàn quan trọng của khu vực hay quốc tế, song phương hay đa phương.
Đồng thời cần tiếp tục kiên trì vừa đấu tranh vừa giải thích với Trung Quốc, Kiên quyết không chấp nhận "đàm phán song phương" với các tranh chấp đa phương, kiên quyết không chấp nhận lấy DOC thay thế UNCLOS 1982 trong xử lý tranh chấp ứng dụng, giải thích và vi phạm UNCLOS 1982, kiên quyết đấu tranh bảo vệ vai trò của luật pháp quốc tế, cơ quan tài phán quốc tế.
Nếu Trung Quốc bất chấp tất cả, áp đặt ADIZ ở Biển Đông hay rút khỏi UNCLOS 1982 như một số nhà phân tích quốc tế nhận định hoặc như "thông điệp ngầm" trong phát biểu của bà Hoa Xuân Oánh hôm qua, theo cách hiểu của cá nhân người viết, nó chỉ khiến Trung Quốc tự cô lập mình với phần còn lại của nhân loại văn minh, một động thái tốn công vô ích.
Cái thời của chủ nghĩa "thiên tử - chư hầu", cái thời tự coi mình là trung tâm thiên hạ đã qua rất lâu rồi. Muốn được phần còn lại của thế giới tôn trọng, tiền bạc và nòng súng không thể thay thế được ý thức thượng tôn pháp luật và công lý, gương mẫu chấp hành và bảo vệ luật pháp quốc tế.
Hồng Thủy
Phần nhận xét hiển thị trên trang
THẾ KỶ THÁI BÌNH DƯƠNG CỦA HOA KỲ II: CHIẾN LƯỢC KHU VỰC NHƯ THẾ NÀO?
Bài viết gốc: America's Pacific Century
Bài đọc liên quan: Thế kỷ Thái Bình Dương của Hoa Kỳ I: Tổng quan
Chiến lược trong khu vực như thế nào? Để bắt đầu, nó đòi hỏi một cam kết lâu dài với những gì tôi đã gọi là ngoại giao "hướng về phía trước-triển khai". Điều đó có nghĩa là tiếp tục gửi đầy đủ các thông điệp về những giá trị ngoại giao của chúng ta - trong đó có các quan chức cao cấp nhất của chúng ta, các chuyên gia phát triển của chúng ta, các đội liên ngành của chúng ta, và các giá trị vĩnh hằng của chúng ta - đến tất cả các nước và các ngõ ngách của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chiến lược của chúng ta sẽ phải chiếm lĩnh và thích ứng với những thay đổi nhanh chóng và đầy kịch tính diễn ra khắp châu Á. Với tư duy này, công việc của chúng ta sẽ tiến hành cùng lúc sáu ý tưởng chính của hành động: tăng cường liên minh an ninh song phương; làm sâu sắc hơn mối quan hệ làm việc của chúng ta với các cường quốc mới nổi, bao gồm cả với Trung Quốc; tham gia với các tổ chức đa phương trong khu vực; mở rộng thương mại và đầu tư; một sự hiện diện quân sự trên diện rộng; và thúc đẩy dân chủ và nhân quyền.
Nhờ vị trí địa lý độc đáo của chúng ta, Hoa Kỳ là quyền lực của cả hai Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Chúng ta rất tự hào về quan hệ đối tác châu Âu của chúng ta và tất cả những gì họ trợ giúp. Thách thức của chúng ta hiện nay là xây dựng một sự nối kết của quan hệ đối tác và các tổ chức trên khắp Thái Bình Dương, đó là sự bền vững và sự phù hợp với lợi ích của Mỹ và các giá trị Mỹ như sự liên kết mà, chúng ta đã xây dựng xuyên Đại Tây Dương(khối NATO - cắt nghĩa của người dịch). Đó là chuẩn mực của những nỗ lực của chúng ta trong tất cả những khu vực này.
Liên minh hiệp ước của chúng ta với Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Philippines, và Thái Lan là điểm tựa cho lần lượt chiến lược của chúng ta đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Họ đã được bảo lãnh cho hòa bình và an ninh khu vực trong hơn nửa thế kỷ, hình thành môi trường cho sự đi lên kinh tế đáng kể của khu vực. Họ tận dụng sự hiện diện trong khu vực của chúng ta và tăng cường vai trò lãnh đạo trong khu vực của chúng ta tại một thời điểm thách thức an ninh đang phát triển.
Thành công như những đồng minh đã có được, chúng ta không thể chỉ đơn giản là để duy trì chúng - chúng ta cần phải cập nhật chúng cho một thế giới đang thay đổi. Trong nỗ lực này, chính quyền Obama được đi theo bởi ba nguyên tắc cốt lõi. Đầu tiên, chúng ta phải duy trì sự đồng thuận chính trị về các mục tiêu cốt lõi của các đồng minh của chúng ta. Thứ hai, chúng ta phải đảm bảo rằng các đồng minh của chúng ta là nhanh nhẹn và thích nghi để họ có thể giải quyết thành công những thách thức mới và nắm bắt cơ hội mới. Thứ ba, chúng ta phải đảm bảo rằng khả năng phòng thủ và truyền thông cơ sở hạ tầng của các đồng minh của chúng ta hoạt động và có khả năng ngăn chặn sự quá khích từ các quốc gia và cả các nhóm ngoài chính phủ.
Đồng minh với Nhật Bản, nền tảng của hòa bình và ổn định trong khu vực, thể hiện qua cách mà chính quyền Obama được đưa ra những nguyên tắc sống. Chúng ta chia sẻ một tầm nhìn chung về một trật tự khu vực ổn định với các quy tắc rõ ràng về hướng đi - từ tự do hàng hải mở cửa thị trường đến cạnh tranh công bằng. Chúng ta đã đồng ý một thỏa thuận mới, trong đó có sự đóng góp từ chính phủ Nhật Bản hơn 5 tỷ đô la, để đảm bảo sự tiếp tục hiện diện lâu dài của quân đội Mỹ tại Nhật Bản, đồng thời mở rộng tình báo, giám sát, và các hoạt động trinh sát chung nhằm ngăn chặn và phản ứng nhanh với khu vực thách thức an ninh, cũng như chia sẻ thông tin tội phạm an ninh mạng. Chúng ta đã ký kết một thỏa thuận không gian mở rằng sẽ tăng cường tiếp cận với các doanh nghiệp và các mối quan hệ người với người, đã phát động một cuộc đối thoại chiến lược về châu Á-Thái Bình Dương, và cùng nhay bắt tay làm việc khi hai nước có tài trợ lớn nhất tại Afghanistan.
Tương tự như vậy, đồng minh của chúng ta với Hàn Quốc đã trở nên mạnh mẽ và hoạt động nhiều hơn tích hợp, và chúng ta tiếp tục phát triển khả năng kết hợp của chúng ta để ngăn chặn và đối phó với hành động khiêu khích của Bắc Triều Tiên. Chúng ta đã nhất trí về một kế hoạch để đảm bảo chuyển tiếp thành công của hoạt động kiểm soát trong thời chiến và trao đổi thân tình thành công trong ngoại giao Hoa Kỳ Hàn Quốc trước thời hạn về Hiệp định thương mại Tự do. Và đồng minh của chúng ta đã có mặt khắp toàn cầu, thông qua công việc của chúng ta với G-20 và các Hội nghị thượng đỉnh an ninh hạt nhân và thông qua các nỗ lực chung của chúng ta ở Haiti và Afghanistan.
Bản đồ khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là chiến lược liên minh của Hoa Kỳ trong thế kỷ XXI
Chúng ta cũng đang mở rộng liên minh của chúng ta với Úc từ một quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương là một đối tác xuyên Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, và thực sự là một đối tác toàn cầu. Từ an ninh mạng đến Afghanistan đến Mùa Xuân Ả Rập đến tăng cường cấu trúc khu vực trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, thảo luận và cam kết của Australia là không thể thiếu. Và trong khu vực Đông Nam Á, chúng ta đang đổi mới và tăng cường các liên minh của chúng ta với Philippines và Thái Lan gia tăng, ví dụ, số lượng các chuyến thăm của tàu hải quân đến Philippines và làm việc để đảm bảo đào tạo thành công của các lực lượng chống khủng bố Philippines thông qua Liên quân lực lượng tác chiến đặc nhiệm Task Force - Joint Special Operations Task Force - của chúng ta ở Mindanao. Tại Thái Lan - đối tác hiệp ước lâu đời nhất của chúng ta trong khu vực châu Á - chúng tôi đang làm việc để thiết lập một trung tâm của các nỗ lực cứu trợ nhân đạo và thảm họa khu vực trong khu vực.
Đón đọc phần 3: Mở rộng đồng minh
Đón đọc phần 3: Mở rộng đồng minh
BLOG HH
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)