Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2016

NGUYỄN KHẮC PHỤC nhẹ nhàng rời khỏi chốn Hỗn Độn


Sáng nay 20-5-2016, nhà văn Nguyễn Khắc Phục đã trút hơi thở cuối cùng, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh ung thư phổi. Ngòi bút của Nguyễn Khắc Phục tung tẩy trên nhiều lĩnh vực văn chương, sân khấu, điện ảnh, truyền hình đều để lại dấu ấn đậm nét. Những ngày trên giường bệnh, Nguyễn Khắc Phục cũng kịp hoàn thành tiểu thuyết “Hỗn độn” dày gần 1000 trang. Nhà văn Nguyễn Khắc Phục đã chuẩn bị cho chuyến đi xa của mình với di nguyện: tất cả những gì ông đã viết ra thì chứa hết vào "NKP GỬI LẠI", để lại cho con cháu, gia đình, bạn bè và bạn đọc. Nếu in hết chắc cũng đến 20 tập, mỗi tập khoảng 500 trang.

NGUYỄN KHẮC PHỤC VÀ “N.K.P” GỬI LẠI

DƯƠNG ĐỨC QUẢNG

Ba lần mặc váy hoa lên bàn mổ
Hôm ấy, nhà báo Lê Đức Hùng từ Đà Nẵng ra Hà Nội điện mời tôi cùng ăn sáng để bàn việc in tập thơ của Phan Duy Nhân do anh và một số anh em thân hữu ở Đà Nẵng chủ trương. Tôi và Hùng quen biết nhau từ năm 1974, khi tôi là phóng viên của Thông Tấn xã Giải phóng Quảng Đà, còn Hùng đang học trung học ở trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng, tham gia phong trào đấu tranh chống Mỹ - Thiệu bị lộ phải ra căn cứ cùng một số bạn bè khác.
Chúng tôi gặp nhau tại xã Xuyên Trà thuộc huyện Duy Xuyên trong lần tôi và Nguyễn Khắc Phục, một nhà văn trẻ từ Hội Văn nghệ Giải phóng Khu V xuống Quảng Đà cùng về công tác tại Ban Mặt trận thành phố đang đóng tại đây. Hùng rất vui vì được gặp hai nhà văn, nhà báo mà Hùng biết tên qua bài thơ "Thành phố rôc-két, thành phố tâm hồn du kích" của Nguyễn Khắc Phục và "Gửi dòng sông thân yêu" của tôi. Hai bài thơ này Hùng chép từ Tạp chí Văn nghệ Giải phóng Trung Trung Bộ vào sổ tay của mình.
Lần gặp nhau ấy có cả Phan Duy Nhân, một "thủ lĩnh" phong trào đấu tranh chống Mỹ-Thiệu của Phật giáo và học sinh sinh viên Đà Nẵng, là Ủy viên Thường vụ của Ban lãnh đạo "Lực lượng Nhân dân Tranh thủ Cách mạng" trong cuộc đấu tranh nổi dậy làm chủ thành phố Đà Nẵng 76 ngày đêm năm 1966, một cựu tù nhân Côn Đảo mới được chính quyền Sài Gòn trao trả sau Hiệp định Paris năm 1973 về Việt Nam. Ra Hà Nội lần này Hùng muốn mời tôi và Nguyễn Khắc Phục viết bài về Phan Duy Nhân và thơ của Phan Duy Nhân để in vào tập thơ sắp xuất bản. Đó như một món quà chứa đựng tình cảm của bạn bè thân hữu tặng anh Phan Duy Nhân, tức Nguyễn Chính, nguyên Quyền Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ, hiện đang nằm một chỗ sau ba lần mổ tim và một lần xuất huyết não. Lê Đức Hùng hỏi tôi:
- Lâu nay anh có hay gặp anh Phục không? Bữa trước em mời anh Phục viết bài cho tập thơ của anh Phan Duy Nhân, anh Phục nhận lời, nhưng hôm qua gọi điện anh ấy nói đang nằm trong Viện 103, mệt lắm, chắc khó viết được.
Tôi hơi bất ngờ về tin Phục nằm viện, nhưng nghĩ chắc bệnh cũng không đến nỗi nguy kịch như mấy lần Phục vào viện trước đây. Tiện có Hùng ra Hà Nội, tôi và vợ tôi, một nữ phóng viên chiến trường Khu V năm xưa mà Nguyễn Khắc Phục rất quý mến, cùng vào thăm Phục.
Nhớ lại những lần Phục nằm viện, tôi không quên được câu nói của Phục mỗi khi có ai hỏi thăm về sức khỏe của mình: "Ba lần mặc váy hoa lên bàn mổ!". Ba lần ấy là hai lần Phục phải vào bệnh viện mổ mật và một lần mổ cắt một phần dạ dày. Lần nào gặp tôi, Phục cũng cười phớ lớ, nói: "May quá, chưa toi!". Tính Phục vẫn thế, bao giờ cũng coi mọi chuyện nhẹ như lông hồng, kể cả cái chết cận kề trong chiến tranh. Lần này cũng vậy, Phục vẫn thanh thản như không.
Chiếc xe đưa chúng tôi vào cổng Viện Quân y 103, hỏi thăm khu Phục nằm, tôi giật mình khi biết khu đó dành riêng điều trị các bệnh nhân bị ung thư! Phục nằm điều trị ở Phòng tự nguyện Khu K.71, đang được truyền hóa chất, đầu cắt cua khác hẳn những lần cắt trọc hoặc để tóc dài phủ cả hai tai, nhưng khuôn mặt còn khá hồng hào. Nhìn thấy chúng tôi vào thăm, vẫn nụ cười tươi, Phục nói ngay với Lê Đức Hùng:
- Anh định viết bài "Phan Duy Nhân, một nhà thơ tài hoa" gửi cho em nhưng bây giờ chắc không viết nổi. Cách đây mấy ngày anh thấy khó thở và tức ngực nên vào đây khám. Chiếu chụp rồi xét nghiệm các kiểu, bác sỹ kết luận anh bị ung thư phổi, dạng tế bào nhỏ, không mổ được!
Rồi Phục lại cười vui, hỏi chuyện vợ chồng tôi và hỏi thăm các cháu. Phục nhìn Trang Thanh, vợ mình, rồi quay sang nói với vợ tôi:
- Anh nói với Thanh, anh mãn nguyện với những gì anh đang có...
Phục bảo Thanh mở clip quay cảnh cháu Gạo, cậu con trai ba tuổi của Phục-Thanh vừa hát vừa nhảy theo điệu nhạc cho chúng tôi xem, mặt rạng ngời hạnh phúc.

Lời tiên đoán bốn tháng thành mười năm
Biết tin Nguyễn Khắc Phục bị bệnh hiểm nghèo, tôi gọi điện báo cho bạn bè ở Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng biết tin. Họa sĩ Lê Đại Chúc thảng thốt khi biết tin dữ này. Bởi cách đây không lâu anh lên Hà Nội gọi điện hẹn tôi cùng ăn sáng, bữa ấy có cả vợ chồng Phục và cậu con trai kháu khỉnh cùng ăn, thấy Phục vẫn khỏe khoắn và nhanh nhẹn lắm! Anh hẹn với tôi sẽ lên Hà Nội thăm Phục ngay.
Hôm Lê Đại Chúc lên, tôi lại cùng anh vào thăm Nguyễn Khắc Phục. Lần này thấy sắc diện Phục sa sút hẳn so với lần trước. Phục nằm, vẫn đang được truyền hóa chất, Thanh phải đỡ Phục mới ngồi dậy được. Phục dựa vào tường nói chuyện với Chúc và tôi, giọng đã yếu hơn lần tôi vào thăm trước nhiều. Lê Đại Chúc và Nguyễn Khắc Phục là bạn cùng học ở Trường Hàng hải Hải Phòng từ hơn 50 năm trước.
Khi ấy Phục học khoa máy tàu thủy còn Chúc học tiếng Anh và thương vụ. Ra trường Chúc trở thành thủy thủ tàu viễn dương, còn Phục trở thành thủy thủ tàu vận tải trong nước. Sau này, vốn là con nhà nòi, có cha là thi sĩ Lê Đại Thanh nổi tiếng đất Cảng, lại mê vẽ từ nhỏ, được các bậc họa sĩ lừng danh Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm quý mến, kèm cặp, Lê Đại Chúc rẽ ngang, trở thành một họa sĩ nghiệp dư, rồi một họa sĩ chuyên nghiệp khá nổi tiếng của làng hội họa trong nước, có tranh được một số nhà sưu tập tranh trong nước và nước ngoài mua với giá cao.
Còn Phục, sau truyện ngắn đầu tiên "Hoa cúc biển"  in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1967 khá nổi tiếng mà tôi từng đọc và rất ấn tượng với cái tên Nguyễn Khắc Phục của tác giả, cũng đã rẽ ngang để rồi năm 1971 trở thành nhà văn trẻ vào chiến trường Khu V cùng đợt với tôi cũng vào chiến trường này.
Nói chuyện với Nguyễn Khắc Phục, Lê Đại Chúc nhắc lại một kỷ niệm cách đây hơn mười năm khi Phục và Chúc đều đang "đơn thương, độc mã" cùng ở một nhà trọ trong một con phố nhỏ thuộc phường Quan Hoa, Cầu Giấy. Lần ấy, một cô thầy bói mà hai người gọi vui là cô "Chín cộng Một", tức cô Mười, sau khi xem cho Phục đã nói như đinh đóng cột rằng Phục chỉ còn sống được bốn tháng nữa. Chắc là sau ba lần mổ, cảm thấy sức khỏe của mình quá bi đát nên có vẻ Phục tin lời tiên đoán của cô thày bói này, còn Lê Đại Chúc thì không. Chúc bảo với Phục: "Nhìn sắc diện của ông, tôi nói ông còn phải sống ít nhất thêm mười năm nữa!".
Chẳng biết có phải sau lời tiên đoán của cô "Chín cộng Một" ấy không mà Phục hối hả tập hợp các bản thảo của mình in ra một loạt tác phẩm để tặng bạn bè. Phục ôm cả một chồng sách dễ cũng đến gần chục ký, gồm mấy cuốn tiểu thuyết về Thăng Long, tuyển tập mấy chục vở kịch, mấy tập thơ và trường ca... đến tận nhà tặng vợ chồng tôi. Lần sau đến chơi thấy vợ tôi đang đọc sách của Phục tặng, Phục nửa đùa nửa thật nói: "Em có dở hơi không mà đọc sách của anh!".
Phục còn kể với tôi sau khi tuyển tập kịch của Phục được Nhà xuất bản Sân khấu xuất bản, Phục đến chính cửa hàng sách của Nhà xuất bản mua thêm một cuốn và hỏi cô bán hàng đã bán được bao nhiêu cuốn, cô ấy nói: "Mới bán được... hai cuốn, trong đó có một cuốn bán cho bác!". Kể lại với tôi chuyện này, Phục tếu táo: "Chắc thằng cha nào bị thần kinh mới mua và đọc cuốn sách dày cộp của tôi!".
Tính tếu táo ấy của Phục đã có lần tôi nhắc đến trong bài viết "Nguyễn Khắc Phục và sự "hú họa" của hắn" khi Phục "ăn theo" họa sĩ, nhà thơ Trần Nhương triển lãm tranh của mình. Phục bảo Phục vẽ được tranh chẳng qua là ăn may thôi, hú họa mà thành. Hôm cùng Phục ăn trưa ở quán vỉa hè phố Dã Tượng, Phục chỉ vào cái chân đang mang tất của mình để gọi đồ ăn, cháu phục vụ không hiểu hỏi lại, Phục cười tếu táo: "Là món bít-tết cháu ạ!". Nhớ Phục nhiều khi là nhớ ở những chi tiết tếu táo như thế.
Lần này vào thăm Phục, Lê Đại Chúc nhắc lại lời tiên đoán của mình, rồi nói với Phục:
- Ông thấy tôi đoán có đúng không? Thế là ông sống lãi thêm hơn mười năm rồi!
Phục cười, thật hiền lành:
- Nếu kể cả mấy lần chết hụt cùng ông Quảng ở Quảng Đà năm 1974 thì đã sống lãi hơn bốn mươi năm rồi còn gì!

 Nguyễn Khắc Phục và "N.K.P gửi lại"
Chia tay Phục để về lại Hải Phòng, Lê Đại Chúc nói phải gấp rút vẽ cho xong bức chân dung của Nguyễn Khắc Phục để tặng Phục và để đưa vào cuốn sách in chân dung các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, những người bạn quý mến do Lê Đại Chúc vẽ. Còn tôi cứ vẩn vơ nhìn Phục mà chạnh nhớ nhà thơ Phạm Tiến Duật, bạn chí cốt của Phục, đã "thường trú" ở cái nơi xa lắm từ 8 năm trước (tháng 12-2007). Bởi vì trong khi nói chuyện với tôi, Phục kể lại một giấc chiêm bao gần đây nhất thấy Phạm Tiến Duật về thăm và ôm lấy Phục như những ngày Phạm Tiến Duật cũng bị ung thư mà Nguyễn Khắc Phục cùng bạn bè thân thích của Duật luôn luôn có mặt bên anh ở Viện Quân y 108 trước khi Duật đi xa.
Nghĩ đến Nguyễn Khắc Phục, tôi lại nghĩ về một con người, một tính cách, một nhà văn, một nhà thơ, một nhà viết kịch và có lẽ là cả một họa sĩ nữa mà tôi và rất nhiều bạn bè quý mến. Những người bạn thân của Phục đều biết Phục có một tính cách mạnh mẽ, yêu ghét rõ ràng, không bao giờ biết nịnh nọt, luồn cúi và chạy chọt, cơ hội trong cuộc sống.
Tính cách của Phục mạnh mẽ, quyết đoán, nhiều khi tới mức cực đoan, có người thông cảm nhưng cũng có không ít người không thông cảm. Tôi biết có những người bạn Phục chơi khá thân nhưng chỉ vì một việc làm nào đó Phục thấy "chướng mắt" là Phục không còn gặp nữa. Trong một bài viết của nữ nhà thơ trẻ Bình Nguyên Trang về Nguyễn Khắc Phục gần mười năm trước, khi Bình Nguyên Trang hỏi tôi về Nguyễn Khắc Phục, tôi đã nói: Nguyễn Khắc Phục là một con người cực đoan đến mức khó hiểu!
Đối với tôi, một người mà Nguyễn Khắc Phục đã dành những tình cảm quý mến qua từng câu chữ trong bài viết "Một chút giật mình, một chút thảng thốt" khi giới thiệu tập thơ đầu tay "Một chút" của tôi in năm 2005 mà cũng đã có lần vì tôi không đồng tình với một "quan điểm yêu nước" của Phục nên Phục to tiếng, giận tôi đến mức bỏ cả cuộc vui cùng bạn bè ra về; bất chấp kế hoạch sau cuộc vui này Phục còn là khách mời để Đài Truyền hình Việt Nam phỏng vấn về một nhà văn bạn Phục cho một chương trình dành cho người Việt Nam xa Tổ quốc. Ấy thế mà khi nguôi giận, Phục lại đối xử với tôi như một ngoại lệ, coi như chẳng có chuyện gì xảy ra!
Nguyễn Khắc Phục còn là một con người vô cùng nhân hậu. Phục có thể móc tới đồng tiền lẻ cuối cùng trong túi để giúp đỡ một người bạn lâm vào hoàn cảnh khó khăn, túng quẫn hay một cụ già, một em nhỏ lang thang cơ nhỡ mà bất ngờ Phục gặp trên đường phố. Vào thăm một trung tâm nuôi dạy trẻ em lang thang đường phố ở Đà Nẵng, thấy các em chưa có tivi xem, Phục đến Đài Phát thanh Truyền hình Đà Nẵng ký ngay hợp đồng viết kịch bản phim truyện truyền hình nhiều tập "Câu chuyện cuối tuần", yêu cầu tạm ứng ngay nhuận bút để mua một chiếc tivi to vật vã mang cho bọn trẻ cơ nhỡ. Rồi quay về Hà Nội nói với nhà báo Đào Lê Bình, Tổng Biên tập Báo An ninh Thủ đô ứng trước cho Phục tiền nhuận bút viết cho báo đủ để gửi giúp một cháu nhỏ nhà nghèo mổ tim.
Rồi Phục còn đem toàn bộ nhuận bút kịch bản "Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam lần đầu tiên" (2009) tặng các cháu dân tộc Rơ-măm ở làng Le, Kon Tum (chiến trường Phục đã có mặt năm 1972). Rồi nhân kỷ niệm 245 năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du, Phục lại dành toàn bộ nhuận bút kịch bản của chương trình này cho các em bé bị hội chứng "chim xệ cánh" ở Hà Tĩnh. Nhưng vì quá bận, không thể đến tận nơi được, Phục nhờ nhà thơ Nguyễn Thanh Kim thay mặt mình trao cho các em... Và còn nhiều, nhiều chuyện như thế về tấm lòng nhân hậu của Phục nhưng nhiều bạn bè không biết vì chẳng bao giờ Phục nói ra!    
Hôm vào thăm Phục cùng Lê Đại Chúc, tôi hỏi Phục: "Ông còn những điều gì mong muốn mà chưa làm được?". Phục nói: Có ba điều Phục dự định chắc khó thực hiện kịp. Một là, in và phát hành tiểu thuyết "Hỗn độn", dày gần 1.000 trang khổ giấy A.4. Hai là hoàn tất công trình khảo cứu "Những bài học giữ nước", dự kiến cũng gần một nghìn trang nhưng mới viết được 300 trang thì lâm bệnh. Và ba là, in "Toàn tập Nguyễn Khắc Phục" với tiêu đề "NKP gửi lại", gồm 5 phần: "NKP gửi lại Tiểu thuyết"; "NKP gửi lại Kịch bản Sân khấu"; "NKP gửi lại Kịch bản Phim truyện và Phim truyện truyền hình"; "NKP gửi lại Thơ và Trường ca"; "NKP gửi lại truyện ngắn-tạp văn-suy ngẫm"... Phục bảo tất cả những gì Phục đã viết ra thì chứa hết vào "NKP GỬI LẠI", để lại cho con cháu, gia đình, bạn bè và bạn đọc. Nếu in hết chắc cũng đến 20 tập, mỗi tập khoảng 500 trang.
Nghe Phục nói vậy tôi không hề ngạc nhiên trước khối lượng các tác phẩm Phục đã viết và để lại. Nguyễn Khắc Phục là một người làm việc không biết mệt mỏi. Có ai đó dùng hình ảnh "khổ sai trên cánh đồng chữ" tôi nghĩ rất đúng đối với con người này. Tôi không nói đến hay dở trong những trang viết của Nguyễn Khắc Phục, bởi mỗi người đều có cách tiếp nhận và thưởng thức khác nhau, hơn nữa tôi không phải là một nhà phê bình văn học để bàn luận về vấn đề này, nhưng tôi cam đoan rằng chỉ tính đếm những trang viết của Nguyễn Khắc Phục thôi thì tôi và không ít bạn bè, người đọc đã phải ngả mũ kính chào về sức làm việc tận tụy và bền bỉ trong suốt 50 năm qua của một nhà văn Việt Nam hiện nay.
Cách đây hai ngày, nhà báo Lê Đức Hùng lại ra Hà Nội. Tôi và Lê Đức Hùng lại vào thăm Nguyễn Khắc Phục. Chúng tôi đến phòng bệnh Nguyễn Khắc Phục nằm thì Phục đang được các bác sĩ đưa đi chiếu chụp trên một phương tiện kiểm tra hình ảnh hiện đại nhất của Viện Quân y 103 để xem bệnh tình của Phục tiến triển thế nào, từ đó tìm phác đồ điều trị hiệu quả nhất cho Phục. Vợ Phục dẫn chúng tôi đến phòng Phục đang nằm sau khi được các bác sĩ chăm sóc và tiến hành các công đoạn chuẩn bị cho việc chiếu chụp. Từ cửa phòng, chúng tôi nhìn thấy Phục nằm bất động, mắt dường như đang nhìn thẳng lên trần nhà. Tôi và Đức Hùng khẽ gọi mong Phục quay ra nhìn chúng tôi, nhưng có lẽ Phục không nghe thấy, còn các bác sĩ yêu cầu chúng tôi để yên cho Phục nằm như vậy để một tiếng sau sẽ chiếu chụp, nếu không, kết quả sẽ thiếu chính xác. Rồi cửa phòng khép lại. Thanh tiễn chúng tôi ra cổng, nói với tôi:
- Anh Phục biết hết mọi chuyện sẽ đến với anh ấy. Anh ấy chỉ có một yêu cầu đối với em là em luôn luôn ở bên anh ấy, 24/24h mỗi ngày và tối nào cũng phải đưa anh ấy về nhà với cháu Gạo trong những ngày này!
Tôi biết vì sao Phục lại có mong ước tưởng chừng giản dị như thế... Thế mà, thật là trớ trêu...
Tôi ra về mà lòng nặng trĩu. Bất giác tôi lại nhớ tới buổi sáng đầu tiên vợ chồng tôi cùng nhà báo Lê Đức Hùng vào thăm Nguyễn Khắc Phục ở K.71 Viện Quân y 103. Sau khi vui vẻ, lạc quan nói chuyện với chúng tôi về bệnh tình của mình, như có một điều gì tiếc nuối, Phục hỏi tôi:
- Dạo này ông còn chơi tá lả không? Tôi bây giờ chỉ thèm được chơi tá lả như ngày nào còn ở ngõ Dã Tượng cùng ông và các bạn!
Nghe Phục nói mà tôi cứ nghèn nghẹn trong lòng. Ôi, một ước mơ nhỏ nhoi của một con người mà sao khó thực hiện đến thế!...
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tin buồn: THƯƠNG TIẾC VĨNH BIỆT NHÀ VĂN NGUYỄN KHẮC PHỤC


.
.
.
.


TIN BUỒN 
Chúng tôi vô cùng xúc động và kính tiếc báo tin:

  Nhà văn
NGUYỄN KHẮC PHỤC

sinh ngày 24-8-1947 tại Sài Gòn. 

Quê quán thôn Hương Cát, xã Trực Thành,
(nay là xã Cát Thành), huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. 

Sau gần 1 năm chống chọi với bệnh ung thư, mặc dù được các thày thuốc Viện Quân y 103 và gia đình hết sức cứu chữa, nhưng không qua khỏi, nhà văn đã từ trần hồi 3 giờ 45 phút ngày 20-5-2016 (tức ngày 14 tháng Tư Bính Thân) tại Viện Quân y 103. Hưởng thọ 70 tuổi.

Lễ khâm liệm hồi 7 giờ ngày 22-5-2016 (Chủ nhật)
Lễ viếng từ 9 giờ đến 11 giờ ngày 22-5-2016 
tại nhà tang lễ Viện Quân y 103, đường Phùng Hưng, 
quận Hà Đông, Hà Nội. 
Tiếp sau là lễ truy điệu và hóa thân về cõi vĩnh hằng
tại Đài hóa thân Hoàn Vũ.
An táng tại quê nhà, thôn Hương Cát, 
thị trấn Cát Thành, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
* * *
Trong niềm  tiếc thương vô hạn, gia đình chúng tôi thành kính dâng lời cầu nguyện anh linh Nhà văn Nguyễn Khắc Phục thanh thản về cõi vĩnh hằng trong muôn vàn thương nhớ của gia đình, thân hữu và bạn đọc.
Và nghiêng mình chia buồn cùng Bà quả phụ Trang Thanh cùng toàn thể tang quyến trước mất mát vô cùng lớn lao này!
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Năm, 19 tháng 5, 2016

Chệch hướng sang "CNTB thân hữu": Mối nguy có thật! ( NG Rút lại tít )

Tự ái dân tộc và áp lực vượt vũ môn
 "Vấn đề phát triển của Việt Nam hiện nay bao gồm trước hết là chống tụt hậu, tiếp theo là vươn lên thành một quốc gia tiên tiến, văn minh, một dân tộc có đẳng cấp cao.”- Vũ Ngọc Hoàng.
Tự ái dân tộc
Vấn đề phát triển của Việt Nam hiện nay bao gồm trước hết là chống tụt hậu, tiếp theo là vươn lên thành một quốc gia tiên tiến, văn minh, một dân tộc có đẳng cấp cao. Muốn vượt lên phía trước (để thành XHCN) thì trước nhất phải bằng người ta, lúc đầu là bằng mức trung bình, tiếp theo là bằng mức tiên tiến.
Nói cách khác, về kinh tế, trước mắt phải vượt qua thu nhập trung bình (hiện nay thế giới xác định khoảng hơn 12.000 USD/người/năm) và tiếp theo là vươn lên trong thu nhập cao để bằng (khoảng 40.000 USD) rồi vượt hơn các nước phát triển. Hiện nay một số nước phát triển đã đạt trên 60.000 USD/người/năm. Nước ta mới ở mức 2000USD/người/năm.
Để chống tụt hậu thì việc đầu tiên là phải thấy mình tụt hậu, biết mình tụt hậu, công khai sự tụt hậu để toàn Đảng, toàn dân biết. Cần thường xuyên so sánh mình với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới (chứ không phải chỉ so với chính mình ngày xưa). Không ngại nhân dân biết và cũng không được giấu nhân dân việc nước ta bị tụt hậu. Đảng và Nhà nước dám công khai sự tụt hậu của nước ta tức là Đảng mạnh, Nhà nước mạnh. Mạnh và có trách nhiệm. Đó là một Đảng chắc chắn như cách nói của Hồ Chí Minh. Công khai để chạm vào tự ái của dân tộc. Từ đó mà phát động tinh thần dân tộc – một sức mạnh vô cùng lớn lao và ẩn chứa.
Trong chiến tranh ta đã chiến thắng bằng tinh thần dân tộc và văn hóa giữ nước. Nay xây dựng hòa bình cũng phải nghĩ đến sự tiến lên với tinh thần dân tộc quật cường (không duy ý chí) và văn hóa phát triển. Thật sự khuyến khích mọi người tham gia ý kiến thẳng thắn về nguyên nhân tụt hậu, giải pháp để đổi mới và phát triển, đổi mới cho phát triển.
Trong đổi mới tư duy, không nặng nề việc phân chia thế giới thành hai nửa TBCN và XHCN, đối lập nhau, khác nhau căn bản, làm cái gì giống như các nước tư bản thì coi là “chệch hướng”, là “xét lại”, xóa nhòa ranh giới ấy là mất lập trường, là mơ hồ trong cách mạng. Tư duy ấy rất không đúng, đã xưa cũ, sai lầm và lạc hậu. Nó siêu hình và duy tâm, không phải biện chứng và duy vật, không đúng với cách tư duy của C.Mác, cũng không đúng với thế giới hội nhập mà Việt Nam đã và đang tham gia tích cực để trở thành của nó.
Việc phân chia quá trình phát triển của lịch sử nhân loại thành nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, TBCN và XHCN là cách phân chia theo hình thái kinh tế - xã hội. Trong đó, cho đến nay, chế độ XHCN vẫn chưa đạt được trong hiện thực, mà còn trong dự báo tương lai.
Từng sai lầm khi lập “hàng rào”, ngăn “chiến tuyến”
CNTB thân hữu, Đổi mới, Tự do ngôn luận, Phát triển bền vững, cơ chế chất lượng cao, tăng trưởng
Vấn đề phát triển của Việt Nam hiện nay bao gồm trước hết là chống tụt hậu, tiếp theo là vươn lên thành một quốc gia tiên tiến, văn minh, một dân tộc có đẳng cấp cao. Ảnh: Báo Đồng Nai.
Thực tiễn từ sau cách mạng tháng 10 Nga, năm 1917, cách phân chia nói trên (TBCN và XHCN) chủ yếu nặng về chính trị. “Loài người” có một thời kỳ khá dài đã tư duy và ứng xử rất sai lầm trong việc lập ra “hàng rào”, “chiến tuyến” ngăn đôi thế giới, trên cơ sở các hệ tư tưởng khác nhau, đằng sau “hàng rào” ấy thực chất là sự đối nghịch của hai cường quốc là Liên Xô và Mỹ, gây ra thù địch, đe dọa và chiến tranh, chạy đua vũ trang làm ra rất nhiều loại vũ khí có đủ khả năng giết cả nhân loại, kể cả bên này và bên kia đều phạm những sai lầm về tư tưởng và hành động. Thực tiễn đã cho thấy cuối cùng cũng phải hội nhập, cũng phải coi nhau là đối tác chiến lược đấy thôi.
Ngày nay, đồng thời với việc phân chia theo hình thái kinh tế - xã hội để tiếp tục nghiên cứu, chúng ta có thể và nên phân chia thế giới theo trình độ phát triển thành các loại nước: chưa phát triển, đang phát triển, phát triển và phát triển cao. Cách phân chia này sẽ có nhiều ý nghĩa trong chỉ đạo công việc thực tế. Trong đó, nước nào và khi nào đạt trình độ phát triển cao thì đó là nước XHCN.
Cho đến nay, như đã nói, CNXH chưa có trong hiện thực. Các nước tư bản phát triển là các nước gần nhất với CNXH. Còn nước ta đang ở giai đoạn đầu của nhóm thứ hai (các nước đang phát triển), còn rất xa để có thể đến được XHCN. Các nước tư bản phát triển dù ta vẫn gọi họ là tư bản (mà tư bản cũng không phải là xấu!) nhưng họ đã phát triển khác xa họ trước kia, họ không còn là họ như thời C.Mác đang sống.
Thậm chí chính họ (chứ không phải các nước XHCN) đang chứng minh trên thực tế những dự báo của C.Mác về xã hội tương lai [Tôi nói dự báo khoa học chứ không phải các ý kiến tư biện]. Thu nhập và phúc lợi xã hội cao hơn chúng ta rất nhiều lần. Vấn đề con người ngày càng chiếm vị trí trung tâm. Quyền con người được bảo đảm. Sở hữu xã hội xuất hiện ngày càng nhiều trong các hình thức kinh tế cổ phần, kinh tế hợp tác và các tổ chức phi lợi nhuận trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sự xuất hiện của sở hữu xã hội mặc dù có vai trò quan trọng của cơ chế quản lý do nhà nước ban hành, nhưng chủ yếu vẫn là kết quả tự nhiên của quá trình phát triển của kinh tế tư nhân, đến lúc nó tự vượt qua chính nó, vượt ra khỏi ranh giới của nó để thành sở hữu xã hội (trên cơ sở vẫn tôn trọng kinh tế tư nhân, không phủ nhận kinh tế tư nhân). Nhờ tự do cạnh tranh và chính các nhà tư bản cần phải có thị trường phát triển, cần nguồn nhân lực chất lượng cao, cộng với kiên trì đấu tranh xã hội, các nước tư bản đã thực hiện một quá trình dân chủ hóa, chuyển quyền lực từ tay các tập đoàn tư bản lớn (nhất là tư bản tài chính) về tay của đa số nhân dân.
Nói cách khác, các nước tư bản phát triển đang XHCN hóa, chính họ đang chứng minh tính “tất yếu” trong quá trình phát triển, còn các nước gọi là XHCN thì chưa hiểu hết về mình.
Không có tự do sẽ không có bền vững
Để có thể phát triển bền vững trên đường dài, vươn tới đỉnh cao của nền văn minh nhân loại, giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất là tự do tư tưởng. Và song song với tự do tư tưởng là tự do ngôn luận, tự do học thuật.
Cũng có không ít ý kiến thắc mắc không rõ tại sao không phải là các giải pháp kinh tế mà tự do tư tưởng mới là giải pháp đầu tiên quan trọng nhất đối với sự phát triển? Đó là điều chắc chắn! Bởi lẽ sức mạnh quan trọng nhất của một dân tộc là sức mạnh trí tuệ; phát triển là kết quả của sáng tạo – của hoạt động trí tuệ. Và trí tuệ của một dân tộc, của một Đảng chân chính chỉ có thể ngày càng giàu có và phong phú hơn lên nhờ quá trình tiếp cận liên tục, thường xuyên với các chân lý. Mà con đường đi đến chân lý (trong khoa học xã hội) chủ yếu là thông qua trao đổi, tiếp biến, thử nghiệm, tranh luận, phản biện và đối thoại bình đẳng, dân chủ giữa các ý kiến khác nhau; chứ không phải chân lý đã luôn có sẵn rồi, trong sách vở, do ai đó đã nghĩ ra tất cả rồi hoặc đã độc quyền nắm giữ và áp đặt, người khác không được quyền nghĩ khác.
Không có tự do tư tưởng cũng có nghĩa là chưa có con đường tiếp cận chân lý để nhanh chóng trưởng thành về “duy lý” mà còn dừng lại phổ biến trong “duy cảm”.
Thực tiễn của thế giới từ trước đến nay đã cho thấy, chưa có một nước nào không có tự do tư tưởng mà trở thành quốc gia phát triển. Ngày xưa Châu Á đã từng có thời kỳ đạt bước tiến đáng kể trong nền văn minh nhân loại, trong khi Châu Âu vẫn còn trong đêm dài lạc hậu bởi chế độ thần quyền. Vậy mà sau đó Châu Âu đã tiến vượt lên, bỏ Châu Á lại phía sau, nhờ các cuộc khai sáng và phục hưng đã khai phóng tư tưởng, mở đường cho tự do cá nhân và tiến bộ về dân chủ xã hội.
Tất nhiên, để phát triển được, không chỉ có tự do tư tưởng mà còn các vấn đề về cơ chế, thể chế, trình độ và năng lực quản trị quốc gia… nữa. Tuy nhiên, tự do tư tưởng vẫn là giải pháp đầu tiên quan trọng nhất, mà nếu không có nó thì chắc chắn dân tộc ấy sẽ tụt hậu về tư duy, từ đó mà dẫn đến tụt hậu toàn diện. Chính tự do tư tưởng sẽ giúp cho lãnh đạo và cộng đồng tiếp cận đúng hơn với chân lý, lựa chọn những quyết định đúng nhất có thể, và nếu sai thì điều chỉnh nhanh nhất; đồng thời thông qua đó mà nhanh chóng trưởng thành về duy lý.
Mới sẽ có sức sống, cũ sẽ mòn
Lâu nay, Đảng và Nhà nước ta đã không ít lần ghi vào văn bản về sự cần thiết của tự do tư tưởng. Trong thực tế xã hội cũng đã có nhiều tiến bộ so với vài ba chục năm trước. Tuy nhiên vẫn là rất chưa đủ! Cần phải tiếp tục giải quyết vấn đề nhận thức và điều chỉnh bổ sung, đổi mới các quy định pháp lý về vấn đề này, kể cả việc xem lại các điều luật về tội tuyên truyền chống nhà nước, sao cho nước ta có được một môi trường văn minh, lành mạnh về tự do tư tưởng và tự do ngôn luận, không để ai có thể lợi dụng những điểm chưa rõ để quy chụp, quy tội, gán tội một cách tùy tiện cho người khác, hoặc bằng hành vi bạo lực chống lại nhà nước của dân, hoặc lợi dụng tự do để bịa đặt vu cáo các tổ chức và cá nhân, xúc phạm và xâm phạm tự do của người khác.
Tiếp theo tự do tư tưởng, và nhờ tự do tư tưởng, cộng đồng nhân dân tiếp cận dễ dàng hơn với tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, cả cổ điển và hiện đại. Các giá trị ấy được chắc lọc từ trong đa dạng văn hóa và trở thành nền tảng cho sự phát triển, trước tiên là nền tảng tinh thần.
Trong sự đa dạng văn hóa ấy, có phần thuộc tinh hoa trong tư tưởng Hồ Chí Minh, C.Mác và Lê Nin… Đó là bộ phận rất quan trọng nhưng không phải là duy nhất. Trên nền tảng văn hóa ấy mà tiến hành đổi mới tư duy, đổi mới cơ chế, chính sách và lựa chọn giải pháp đột phá để thúc đẩy phát triển.
Bản thân Đảng cũng phải mới, không để cho Đảng ta bị cũ. Mới sẽ có sức sống. Cũ sẽ không còn hấp dẫn. Đảng đổi mới để đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo công cuộc đổi mới của đất nước, tham gia tích cực việc khai hóa văn minh cho dân tộc, để Việt Nam phù hợp với thế giới đang thay đổi rất nhanh chóng mà chúng ta không thể đứng ngoài hoặc tự cô lập mình, ngược lại phải là một thành viên chủ động hội nhập, một bộ phận hợp thành của thế giới đó.
Mặt khác, thông qua đổi mới phương thức, nội dung lãnh đạo của Đảng và thông qua lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ của đất nước mà Đảng thật sự nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, trong sạch và vững mạnh hơn./.
Vũ Ngọc Hoàng
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tác giả có bị điên không đấy?:

Xin chào đồng chí Obama!

image
Tôi biết nước Mỹ từ lúc còn bé tí khi đất nước còn chia đôi và tôi cùng gia đình sống ở nửa phần phía Bắc.

Thời ấy, tôi biết đến nước Mỹ, cụ thể hơn là người Mỹ, qua các bộ phim của Trung Cộng, Việt Nam hay Triều Tiên và qua cả những gì người lớn đang nói.

Thời chiến

image

Những ám ảnh ấy đưa tôi vào những cơn ác mộng. Nhiều đêm tôi khóc thét khi mơ thấy những tên lính Mỹ mặt mũi râu ria gian ác đứng ngay ngoài cửa sổ đầu giường đang cầm súng chĩa vào mặt mình.

image
Lớn lên chút nữa thì tôi còn biết thêm được là Mỹ có một "Tổng thống ngu xuẩn nhất nhì" qua câu thơ của nhà thơ cùng trang lứa Trần Đăng Khoa.

Và cũng thời gian ấy tôi biết đến Mỹ qua những chiếc máy bay đen sì gầm rú tít trên trời cao và tiếng bom đạn rào rào quanh cái hầm nơi mình cùng bố, mẹ và các anh chị mình đang trú ẩn. Có lần tôi và mẹ suýt chết vì bom Mỹ trên đường đi sơ tán.

image
Tôi cũng biết đến Mỹ qua hình ảnh những con phố Hà Nội, Hải Phòng bỗng chốc hóa thành những đống bùn đất hòa lẫn với máu sau những đợt bom được ném theo kiểu "rải thảm" từ những chiếc "pháo đài bay" của Mỹ và nhìn thấy cả cảnh người chết vì bom đạn Mỹ.

Tôi cũng biết được nước Mỹ có tên trung úy William Calley cùng với trung đội đao phủ của y đã tham gia giết hại hàng trăm người dân vô tội tại Sơn Mỹ, Quảng Ngãi.

image

Rồi tôi cũng biết có những người Mỹ khác tham gia biểu tình phản chiến, đòi chính quyền Mỹ chấm dứt chiến tranh và rút quân Mỹ khỏi Việt Nam, trong đó có những người rất nổi tiếng như nữ diễn viên điện ảnh nổi tiếng Jane Fonda.

image
Rồi đất nước hòa bình và thống nhất. Mỹ đã rút, “ngụy” đã nhào. Khi ấy tôi 16 tuổi và tiếc không còn cơ hội để đi bộ đội "đánh Mỹ" nữa.

Không còn tiếng gào rú của máy bay Mỹ hay tiếng nổ của bom đạn Mỹ nữa nhưng một thời gian dài sau đó nước Mỹ vẫn hiện lên trong tôi như một thứ gì đó xấu xa, như một cường quốc hung bạo, một xã hội "cá lớn nuốt cá bé", đầy rẫy bất công nơi chủ nghĩa tư bản đang đi vào giai đoạn "giãy chết".

Những điều ấy tôi biết được qua các khóa học tập chính trị giành cho sinh viên và cán bộ công chức hay qua sách báo chính thống trong nước.

Hậu chiến

image
Nhưng rồi không biết từ lúc nào, nước Mỹ cứ tự nhiên "diễn biến" và "chuyển hóa" dần trong đầu óc tôi.

Có lẽ sự "chuyển hóa" ấy bắt đầu từ câu chuyện của nhà văn Lê Lựu tôi nghe được qua băng ghi âm ông kể về chuyến thăm Mỹ và chuyến thăm Liên Xô của ông vào những năm 1980, trong đó tôi nhớ nhất câu ông nói đại ý khi sang Mỹ thì có cảm giác như đang ở "Liên Xô", còn khi sang Liên Xô thì cứ nghĩ như mình đang ở nước "Mỹ".

Người nghe tất nhiên ai cũng hiểu "Liên Xô" và "Mỹ" được bỏ trong ngoặc kép ở trên chỉ là "Liên Xô" và "Mỹ" theo cách mô tả của sách báo nhà nước thời ấy.

image
Rồi tôi còn biết được nước Mỹ không phải chỉ có những kẻ như viên trung úy William Calley gây tội ác với dân thường năm nào tại Sơn Mỹ mà còn có cả viên chuẩn úy phi công Hugh Thompson đã dũng cảm ngăn cản đồng đội của mình giết dân thường như thế nào. Hành động anh hùng ấy của anh cùng 2 đồng đội khác đã cứu được hàng chục người dân lương thiện và vì thế mà họ đã được quân đội Mỹ vinh danh bằng tấm huân chương "Chiến Sĩ".

image
Rồi tôi được biết nữ nghệ sĩ điện ảnh Jane Fonda không chỉ là người đã lên án các cuộc ném bom của máy bay Mỹ vào dân thường Việt Nam ngày xưa mà còn là người đã bày tỏ sự đồng cảm với những người Việt Nam phải chạy khỏi Tổ quốc cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ trước và lên án những điều mà bà cho là nguyên nhân gây ra thảm cảnh ấy.

Và tôi cũng được biết nước Mỹ không chỉ có ông tổng thống Nixon "ngu xuẩn nhất nhì" theo đánh giá của nhà thơ Trần Đăng Khoa ngày xưa mà còn có những vị tổng thống khác như cựu tài tử điện ảnh Ronald Reagan được thế giới bây giờ vinh danh là một trong những người có công lớn nhất trong việc thay đổi thế giới bằng việc chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh, như ông Bill Clinton hào hoa, đẹp trai đã từng được người Hà Nội chào đón nồng nhiệt trong chuyến thăm Việt Nam năm nào...

image
Và qua hồi ký của ông Bill Clinton, tôi lại cũng biết ông ta từng tham gia phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam năm xưa.

Tôi lại cũng biết không phải tất cả những người tham gia cuộc phản chiến ấy đều là những người "ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam" theo tiêu chuẩn đánh giá của Nhà nước Việt Nam mà đơn giản chỉ là vì ông ta coi cuộc chiến ấy chẳng mang lại điều gì cho nước Mỹ trong khi ông vẫn trung thành với "sự nghiệp chính nghĩa" theo tiêu chuẩn riêng của nước Mỹ.

Tôi cũng còn biết nước Mỹ là địa chỉ du học đáng mơ ước nhất của lớp trẻ Việt Nam hiện nay, cho dù họ là con em những người nông dân nghèo hay con em cán bộ cấp cao trong đảng.

Đối trọng

image
Còn rất nhiều điều khác nữa về nước Mỹ mà tôi đã và đang nhận ra. Nhưng có điều vô cùng quan trọng tôi đã nhận biết được là trong lịch sử hàng nghìn, hàng trăm năm trở lại đây, chưa bao giờ nước Mỹ có tham vọng về lãnh thổ đối với Việt Nam, chưa bao giờ xâm chiếm một tấc đất của Việt Nam.

Và điều quan trọng nhất hiện nay là chỉ nước Mỹ mới là đối trọng để cân bằng sức mạnh của Trung Cộng là kẻ trong thực tế đã và đang có những hành động bành trướng ở Biển Đông, xâm lấn lãnh hải của Việt Nam và các nước trong khu vực.

Tất nhiên, tôi cũng được biết sự khác biệt hiện nay giữa hai nước, nói chính xác hơn là giữa 2 thể chế Việt Nam và Mỹ.

image
Trung Cộng đẩy mạnh việc cải tạo đảo và xây đường băng phi cơ ở Biển Đông

Nhưng tôi lại cũng mới được biết hóa ra đó không phải là sự khác biệt về ý thức hệ giữa một bên là Chủ nghĩa xã hội (CNXH) và một bên là Chủ nghĩa tư bản (CNTB) như lâu nay sách báo đã đề cập - thì như chính một người "phe ta" là ông Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung Ương đã viết trong một bài báo gần đây rằng "chính các nước tư bản phát triển là các nước gần nhất với CNXH” còn “nước ta đang ở giai đoạn đầu của nhóm thứ hai…, còn rất xa để có thể đến được XHCN" đấy thôi!

Trong số các nước "tư bản chủ nghĩa phát triển" như ông Hoàng đề cập ấy, không ai có thể phủ nhận Mỹ đang ở vị trí số 1. Nếu vậy thì sự khác biệt giữa Việt Nam và Mỹ chỉ là sự khác biệt giữa CNXH đang còn là ước vọng cao xa ở Việt Nam và CNXH đã ở khoảng cách rất gần ở Mỹ mà thôi.

Phải chăng vì thế mà xét trên cả hai mục tiêu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và tiến lên CNXH như Cương lĩnh của đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ thì Mỹ mới xứng đáng là đồng minh số 1 hiện nay của cả Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

image
Và ai mà vẫn còn nói đi với Mỹ bây giờ thì mất CNXH thì xin hãy đọc bài báo gần đây của đồng chí Vũ Ngọc Hoàng (bài ‘ Tự ái dân tộc và áp lực vượt vũ môn' trên Tuần Việt Nam).

image
Vậy thì chẳng có lý do gì mà không đón chào Tổng thống Mỹ Barack Obama trong chuyến thăm sắp tới của ông tới Việt Nam bằng một khẩu hiệu thật trang trọng với dòng chữ: Xin chào đồng chí Obama!



Hà Hiển_SG

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Tư, 18 tháng 5, 2016

Nỗi đau giấu kín của "vua châm cứu" Nguyễn Tài Thu


"Minh Quân con trai tôi mất đột ngột nên đến giờ tôi vẫn khóc.... (im lặng). Tất nhiên những cái đó cũng phải bí mật, không thể biểu hiện trước mặt bác gái vì bà thấy lại khóc rồi chị gái của Quân nữa..." - GS Nguyễn Tài Thu.
https://mst.khampha.vn/upload/2-2016/images/2016-05-17/1463468471-vua-cham-cuu.jpg
GS Nguyễn Tài Thu.
Nhà báo Hà SơnNhững người làm ngành y thường cẩn thận, sạch sẽ đặc biệt rất quan tâm đến sức khỏe của mình. Bác có bí quyết gì để giữ gìn, bảo vệ sức khỏe?

GS Nguyễn Tài Thu: Cuộc sống có hạnh phúc, tình cảm thì cần phải có sức khỏe. Thứ nhất chúng ta phải ăn ở điều độ từ chơi bời, ăn uống đến quần áo. Người thầy thuốc phải biết rõ điều này. Không bác sĩ nào lại nghiện thuốc lá, thuốc lào khi biết nó không tốt cho sức khỏe. Quan trọng là ý thức mỗi người chứ dù là giáo sư, bác sĩ mà nghiện cũng giống mọi người thôi.

Nhà báo Hà Sơn: Bây giờ bác có thời gian tập thể dục không?

GS Nguyễn Tài Thu: Bây giờ tôi không tập thể dục. Nhưng cũng phải nói thật với bạn từ khi còn trong quân đội đến giờ tôi cũng tập thể dục bình thường thôi. Sức khỏe vẫn bình thường, chẳng bệnh tật gì cả.

Nhà báo Hà Sơn: Bác có thường xuyên châm cứu cho mình không?

GS Nguyễn Tài Thu: Có chứ. Như hôm qua, đi làm về không sao, tôi vẫn ăn uống bình thường nhưng nửa đêm tỉnh dậy thấy chân đau quá. Chắc do mấy hôm ăn uống nên bệnh gout tái phát. Nhưng rồi tôi tự châm cứu thì vẫn đi lại được. Tối qua tôi cũng lo chân đau thế thì không biết có trò chuyện với bạn hôm nay được không vì đã hẹn rồi. Nhưng cuối cùng vẫn đi được, tất nhiên đi vẫn còn hơi khập khiễng.

Nhà báo Hà Sơn: Nhiều bài báo đã ca ngợi về tài đức của bác. Nhưng ít người biết cuộc sống hiện tại của vị bác sĩ châm cứu giỏi nhất Việt Nam như thế nào?

GS Nguyễn Tài Thu: Nói thực với bạn tôi rất nghèo. Tôi vẫn hay bảo bạn bè nếu nhờ tôi châm cứu thì được, còn đến xin tiền ủng hộ này kia chắc không có đâu. Hồi còn làm Viện trưởng Viện Châm cứu, hàm giáo sư lương của tôi 12 triệu/tháng. Bây giờ về hưu chữa bệnh từ thiện. Lúc nào tôi cũng mua bánh kẹo phát cho các em nhỏ trước khi chữa bệnh.

Mấy bác sĩ trẻ học nghề cùng tôi không có tiền đâu. Ban đầu chúng tôi làm từ thiện cho cả trẻ em và người già nhưng sau đó các cụ nói: Giáo sư có tiền đâu mà nuôi 11 bác sĩ trẻ nên mách làm thùng giấy dán "thùng từ thiện 50 ngàn". Nhưng cũng nói thật với bạn có thùng như thế nhưng người ta đi chữa bệnh chẳng có tiền, sao bắt họ bỏ vào được. Chẳng giấu gì bạn mỗi tháng có cô cháu tổng kết lại tiền từ thùng từ thiện nhiều nhất cũng chỉ được 2 triệu.

Trước đây Hội Châm cứu VN một tháng được mười mấy triệu, lấy tiền đó chia cho các bác sĩ mỗi người cũng được 3, 4 triệu/tháng nhưng cách đây 3 năm khoản này bị cắt đi nên Hội châm cứu bây giờ không có tiền. Các bác sĩ trẻ nhiều khi nói rằng dựa vào giáo sư vì thi thoảng tôi đi giảng bài ở các nước và lấy tiền đó chia cho các cháu. Chứ chữa bệnh cho ai, người ta đưa tiền không bao giờ tôi lấy cả.

Nhà báo Hà Sơn: Một người đàn ông thành đạt trong sự nghiệp nếu không có người bạn đời là chỗ dựa tình thần để dành trọn niềm đam mê cho nghề nghiệp thì rất khó. Bác có thành công ngày hôm nay chắc hẳn bác gái đóng một phần rất quan trọng?

GS Nguyễn Tài Thu: Đúng đấy, bà ấy là giáo viên mà. Tôi từ lúc là Viện trưởng Viện Châm cứu lương chỉ có thế thôi. Các con biết bố mẹ chẳng có tiền cũng hay tụ tập cuối tuần cả nhà ăn uống vui vẻ.

Nhà báo Hà Sơn: Cháu rất xin lỗi nếu như câu hỏi tiếp sau chạm đến nỗi đau của bác. Cháu được biết bác có 3 người con, 2 người con gái theo ngành giáo dục, người con trai duy nhất lại qua đời khi còn rất còn trẻ. Bác có bao giờ tiếc nuối khi những người con không theo nghiệp của bố - chữa bệnh cho người?

GS Nguyễn Tài Thu: Tiếc chứ. Minh Quân học giỏi lắm, đỗ rất cao, nhưng chết một cách đột ngột quá. Đến giờ tôi vẫn thương. Còn 2 con gái, chị lớn cũng 50 tuổi rồi, lấy Phó viện trưởng Viện Châm cứu. Còn em Mai lấy một tiến sĩ ở Viện châm cứu. Nhà tôi cũng ít người, các con ở riêng. Ngày trước tôi đi làm có ít tiền tích lại xây được căn nhà đang ở, cũng nhỏ thôi.



Nhà báo Hà Sơn: Bác là người rất tình cảm, đặc biệt yêu anh Minh Quân. Trong ví bác cũng để ảnh của anh Minh Quân, trong căn phòng làm việc có rất nhiều ảnh của anh ấy, bác có thể chia sẻ thêm gì về người con trai duy nhất đã qua đời?

GS Nguyễn Tài Thu: Khổ lắm bạn ạ. Không quên được. Minh Quân nó lớn thế này cơ mà (GS Nguyễn Tài Thu chỉ tay vào tấm ảnh trong tủ phòng làm việc - PV), toàn ngủ với bố thôi nhưng đùng cái nó chết. Đến bây giờ tôi vẫn khóc.... (im lặng). Tất nhiên những cái đó cũng phải bí mật, không thể biểu hiện trước mặt bác gái vì bà ấy thấy lại khóc rồi chị gái của Quân nữa.

Đôi khi tôi chỉ dám buồn một mình thôi. Đấy, nước mắt nó chảy ra nhanh lắm!

Nói về đời sống, tôi chẳng khổ gì cả nhưng cũng phải vất vả. Đi làm được mọi người quý mến cũng vất vả chứ. Các bác sĩ trẻ ở đây nhiều em khổ lắm. Chúng ở tỉnh, bố mẹ nghèo không có tiền. Thỉnh thoảng tôi có viết báo, viết sách cho chúng thêm nhưng nhiều khi chúng chẳng lấy. Mình lấy cái mình làm ra cho chúng chứ bảo lấy của dân thì không bao giờ, vì tôi làm thế các bác sĩ trẻ họ cũng làm theo ngay.

Nhà báo Hà Sơn: 85 tuổi bác vẫn khỏe và làm những việc thiện nguyện, thiện ích cho đời sống. Ở bên kia dốc cuộc đời đến bây giờ bác thấy còn điều gì trăn trở, muốn làm?

GS Nguyễn Tài Thu: Bây giờ vẫn có một chuyện đó là chỗ nằm của em nó (con trai Minh Quân của GS Tài Thu - PV). Từ hồi em mất đưa về quê chôn đến nay cũng 28 năm. Nếu còn sống Quân hơn 50 tuổi. Bây giờ tôi vẫn đau đớn, vẫn khóc vì nói thật tôi lo mãi chuyện em nằm ở quê nhưng đất đai ở quê đang dần bán hết.

Mộ em Quân nằm ở quê tôi, ngay cạnh khoảng đất trống sau này sẽ là chỗ nằm của tôi và vợ khi mất đi. Nhưng gần đây họ cứ rập rình đòi chỗ đất ấy. Tôi bảo chả đòi được vì nghĩa trang của làng là nơi bố mẹ, ông bà tôi nằm ở đấy.

Tôi là anh hùng lao động nếu mất đi thì sẽ được đưa vào Nghĩa trang Mai Dịch nhưng tôi là người phong kiến. Quê hương là nơi có ông bà, bố mẹ mình nằm thì mình muốn nằm ở đó.

Nói thật với bạn tôi để dành hơn 20 năm mới được 5000 đô la mà không dám tiêu vì để ngộ nhỡ bây giờ họ bắt thì mình còn có tiền đưa con đi chỗ khác chứ biết làm thế nào?...

- Cảm ơn GS Nguyễn Tài Thu về cuộc trò chuyện!

Sơn Hà

(VNN)
Phần nhận xét hiển thị trên trang